Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đêm Núm Sen

  “Ba giờ đêm, dưới phố, lại lào xào một cuộc hành binh dài dặc, về làng… Tôi tỉnh giấc. Sứa nằm thiêm thiếp bên vai tôi. Tôi nghe tiếng Sứa thở. Tôi vuốt nhẹ, dọc cái lưng trần. Vuốt nhẹ. Tôi nhớ cặp đùi. Khi nãy, nó giãy. Nó giãy cuống quýt. Tôi đưa tay vuốt. Sứa vẫn thiêm thiếp. Tôi vuốt. Căn buồng đỏ mênh mông. Tôi vuốt sự ngây thơ rơm rớm. Con nai nằm nghiêng đùi hơi co. Tôi vuốt… Dưới phố, những ki lô mét hành quân… Tôi vuốt. Sứa tỉnh dậy. Sứa thẹn. Sứa co người lại. Tôi vuốt. Con nai ngây thơ của tôi ơi! Tôi vuốt con nai bị thương của tôi. Rơm rớm… Rơm rớm…” Khi kiến Gầy phải lòng một cô gái vú vểnh, và sục sạo đến tận nhà của cô nàng, tức biệt thự Đá Đỏ, để tìm hiểu và tỏ tình, anh chàng không sao ngờ được cuộc chinh phục của mình lại có thể gian nan đến thế và nhất là, có thể bị chia cắt đến như vậy. Bởi cuộc chiến. Tình yêu của kiến Gầy, như của bao nhiêu người-kiến kiến-người khác, đã bị chiến tranh tràn qua, như một cơn hồng thủy. Đêm núm sen, hơn cả một cuộc phiêu lưu vào một thế giới giả tưởng, nơi mà cuộc sống cá nhân, bị nghiền nát và cuốn đi bởi chiến tranh, bởi đời sống tập thể, trước hết, là một cuộc trình diễn ngôn ngữ của một tác giả mà từ vựng là của thi ca và cảm xúc là của thi sĩ. Ai có thể tả những phấp phỏng, thẹn thùng, nhớ nhung, đay khổ, say đắm như Trần Dần? Ai có thể tả đêm núm sen phập phồng cảm xúc và sexy như Trần Dần? Với Đêm núm sen, sự viết của Trần Dần một lần nữa khẳng định rằng tiếng Việt đẹp thế nào và vì sao ông vẫn là một thành lũy vời vợ Chẳng phải vậy ư, khi những trang bản thảo ố vàng, tìm được đường trở lại sau hơn nửa thế kỷ bị cất giấu, bị gián nhấm và thất lạc, vẫn tỏa nguyên một “quyền lực man mác” lên chúng ta hôm nay. *** Tác giả Trần Dần lựa chọn hình thức ngụ ngôn để viết Đêm núm sen, thay vì chọn bối cảnh thực như Những ngã tư những cột đèn. Hình thức ngụ ngôn khiến cho tiểu thuyết xa rời quy chiếu có tính hiện thực, tạo ra một không gian có tính ước lệ, biểu tượng. Câu chuyện làng Mận, cuộc chiến ở đây gần như là phản chiếu của rất nhiều cuộc chiến, của rất nhiều thân phận con người. Nhà văn Trần Dần thường vượt qua cái khung một thể loại văn chương ở nhiều điểm. Với Đêm núm sen, Dương Tường gọi là một ngụ ngôn đen, giống như những ngụ ngôn đen của Gunter Grass thể hiện gương mặt bị lãng quên của lịch sử. Tác phẩm là một ngụ ngôn đen kể chuyện con vật, nhưng câu chuyện đi rất xa so với tác phẩm đồng thoại. Ở đây, loài kiến không chỉ gợi ra ý niệm nhỏ bé, mà nó sống theo bầy. Khi nhìn kiến, ta chỉ có thể nhìn nó khi cúi thật thấp. Quan hệ của loài kiến là mối quan hệ giữa cá nhân và bầy đàn, mà cá nhân thường bị đẩy ra bên lề lịch sử. Tác phẩm được viết với nhịp độ nhanh, mạnh, gấp gáp, mang hơi thở trên từng bề mặt câu chữ. Tác giả Trần Dần trong những nhật ký có nói ý chiến tranh không cho phép người ta nghĩ được nhiều. Trong cuộc chiến, mọi thứ diễn ra quá nhanh, tất cả câu chuyện dù lớn lao hay nhỏ bé, chiến tranh không làm cho người ta nghĩ. Đêm núm sen dưới lớp vỏ nhanh, gấp gáp, các sự kiện liên tục diễn ra, các nhân vật liên tục xuất hiện, nhưng trong cái cách hối hả đó là sự suy nghĩ thật chậm, thật sâu vào chiến tranh. Tất cả những câu đối thoại ngắn gọn, những nhịp đi gấp gáp trong sách được nhà văn tính toán kỹ lưỡng để người đọc buộc phải suy nghĩ. Nhà phê bình văn học Mai Anh Tuấn thừa nhận “Tôi không đủ sức để đuổi theo hết ý tưởng của Trần Dần. Cuốn sách này làm cho ta ngỡ ngàng về tính hiện đại. Đọc nó, cho tôi những cặp tri nhận khác nhau: chiến đấu – lao động, tình yêu – sự thù oán, đau khổ – hèn nhát, mộng tưởng – tuyệt vọng…" Những cặp cảm giác mà Mai Anh Tuấn nêu ra trong sách không chỉ đúng với con người ở một thời đại, mà đúng với chúng ta ở thời đại ngày hôm nay. Chính vì thế, độc giả hôm nay khi chạm đến cặp cảm giác đó có vẫn có thể tìm được tiếng nói chung ở tác phẩm. Và cũng vì thế, mà tác phẩm dẫu được viết ra từ hơn nửa thế kỷ trước, tới nay vẫn phù hợp và mới mẻ.  *** TRẦN DẦN sinh ngày 23.8.1926 trong một gia đình khá giả tại phố Năng Tĩnh, thành phố Nam Định. Ông học trung học tại Hà Nội, đậu tú tài Pháp và bắt đầu làm thơ. Năm 1946, Trần Dần lập nhóm thi sĩ tượng trưng cùng Trần Mai Châu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương... Cũng trong năm này, tạp chí Dạ Đài ra số 1, đăng bản tuyên ngôn của phái Tượng trưng do Trần Dần chấp bút. Năm 1954, Trần Dần viết Người người lớp lớp, cuốn tiểu thuyết duy nhất của văn học Việt Nam thời kỳ đó về Điện Biên Phủ. Sau đó Trần Dần viết Nhất định thắng (thơ, 1955); Đi! Đây Việt Bắc (trường ca, 1957), Cổng tỉnh (thơ, 1960); Đêm núm sen (tiểu thuyết, 1961), Jờ Joạcx (thơ, 1963), Mùa sạch (thơ, 1964) Những ngã tư và những cột đèn (tiểu thuyết, 1964)... Năm 1976, Trần Dần và Dương Tường thử nghiệm Thơ thị giác. Năm 1980, Trần Dần viết bộ tam 36 thở dài - Tư Mã dâng sao, năm 1987 viết Thơ mini... Trần Dần mất ngày 17 tháng 1 năm 1997 tại Hà Nội. Năm 2007, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật. Một số tác phẩm khác của Trần Dần được Nhã Nam xuất bản: — Trần Dần thơ — Đi! Đây Việt Bắc — Những ngã tư và những cột đèn   *** "Mỗi lần đứt tay... lại đau một lần.” Mỗi lần đau, lại một lần thấy có "nhiều im-lặng biết nói”, cùng “nhiều câu nói không-nói-gì”. Đấy là những nỗi đau lặp lại. Đấy là thân phận của một nhân vật kiến, của nhiều nhân vật kiến của cả loài kiến. Đấy là ngôn từ, chẳng thể chỉ dành riêng cho một người, cho nhiều người hoặc cho cả loài người. Đêm núm sen là cuốn sách như thế về một xã hội côn trùng khép mình trong lịch sử của chính nó, một xã hội có thừa đau thương đến nỗi chỉ có thể an bình mà chịu kiếp cô lập, bởi vì mọi lối ra bên ngoài lại chính là những lối vào của nguy hiểm và chiến tranh. Một xã hội mà ở đấy lũ kiến yêu thích giả buồn để mua vui, để sau đó lại “không nên đùa với cái buồn”. Đêm núm sen là cuốn tiểu thuyết về một cộng đồng nhân loại mà ở đấy có “sáng tác tập thể”, có “những tác giả nặc danh của chiến thắng”, có “quá nhiều nước mắt”, có những bữa tiệc mà mỗi lần “đi dự tiệc, cứ phải ngâm thơ”, có diễn thuyết, có những thở dài vì “ai có thể cãi được với tin đồn?” Đêm núm sen cũng là một bài trí sân khấu khổng lồ để đưa khán giả vào những “ki lô mét nhớ”, vào “những ngã tư, cột điện lằng nhằng”, vào phố Bồ Đào, phố Gầm Cầu, phố Xu Xê, phố Hoa Mười Giờ, đại lộ Mùa Thu, chẳng hề tồn tại ở bất cứ nơi nào... rồi vào những phố Hy Lạp, những xóm La Tinh... rồi tới phố Hàng Gà và phòng tuyến Chèm là những địa danh có thật ở Hà Nội. Nhưng trên hết, Đêm núm sen chính là tình yêu, là cuộc đi tìm tình yêu. Và bởi vì tình yêu mà lũ kiến có thể hóa thân thành người hoặc ngược lại con người sẵn sàng mang kiếp của kiến. Nhưng thực ra kiếp người hay kiếp côn trùng, đâu có khác gì nhau. Những loại chủng này bao giờ cũng lủng củng yêu thương, ngay cả khi chiến tranh ập đến, ngay cả khi chúng bị cuốn vào đau thương và mất mát. Cái còn lại chỉ là tình yêu. Và quan niệm về tình yêu thì làm sao thay được. Đấy là khi anh kiến Gầy thổ lộ lời yêu với nàng kiến: “Sứa có tin là tôi yêu Sứa thế này, tức là tôi chỉ yêu độc có mình tôi thôi không?” Đấy cũng là lúc mà kiến Gầy trong những khổ sở vì tình yêu, bất chợt quên cả tổ tiên và nguồn gốc mà than thở, rằng ở nơi mà lũ kiến đang sống “mỗi người là một tiểu thuyết”. Ngôn từ này của anh kiến Gầy, kéo dài trong những độc thoại cùng đối thoại, có đôi chút ngây ngô cụt lủn và kém văn học của loài kiến, có không ít nhạy cảm và phức tạp của loài người, để không thể không nhắc tới chàng trai trẻ của Cổng tỉnh năm 1960, và Trần Dần trong những bài thơ lẻ 1963. Chàng trai tỉnh lẻ, nhà thơ, và anh kiến, cả ba chia nhau cùng những từ vựng, cùng một tình yêu phố phường, cùng một cảm thụ một cảm xúc thẩm mỹ. Chính vì vậy mà đâu đó trong suốt chiều dài lời kể chuyện vụng dại của kiến, thể nào cũng lấp lánh những ngôn từ thô tục mà chỉ Trần Dần mới chắp lại được thành thơ. Viết năm 1961, Đêm núm sen cũng như nhiều tác phẩm khác của cùng tác giả, phải đợi nhiều thập niên mới đến được với công chúng. “Có cần kể nữa không?” câu hỏi chẳng biết trả lời ra sao của anh kiến Gầy, khi mà 56 năm đã qua kể từ khi Trần Dần hoàn thành bản thảo, khi mà Đêm núm sen đã được gấp rút biên soạn trong những ngày đầu năm 2017. Vào đúng lúc mà 20 năm về trước nhà thơ đã vội vã ra đi. Một lần cho mãi mãi. 1 TRẦN TRỌNG VŨ   Mời các bạn đón đọc Đêm Núm Sen của tác giả Trần Dần.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nỗi Buồn Chiến Tranh - Bảo Ninh
Bất cứ một nền văn học nào trong sự vận động và phát triển của nó đều nhằm đề cập và giải quyết ở mức độ nhất định những vấn đề mà thời đại đó đặt ra và nó có thể dự báo những vấn đề chủ yếu của con người và thời đại trong bước tiến của lịch sử. Văn học cách mạng, văn học thời kỳ chiến tranh của chúng ta là sự phát triển tiếp nối của truyền thống yêu nước trong văn học dân tộc. Âm hưởng chung của văn học giai đoạn này là cái anh hùng, cái hào hùng. Ý thức chung của nền văn học đó là hướng tới sự phản ánh cái cao đẹp của chiến tranh nhân dân, vì vậy mang đậm giai điệu sử thi. Và nếu cái chất sử thi ấy có lấn cái đau thương, cái đời thường thì cũng là lẽ đương nhiên và cũng dễ hiểu trong sự cảm nhận của người đọc hôm qua, hôm nay và cả mai sau. Sau ngày miền Nam giải phóng (1975), đặc biệt là từ sau Đổi mới (1986), đời sống văn học Việt Nam đã có những thay đổi quan trọng trong nhận thức và tiếp nhận nghệ thuật. Việc phản ánh cuộc sống và con người trong văn học được suy ngẫm và phân tích một cách sâu sắc những đối cực giữa thiện và ác, cao cả và thấp hèn, chân thực, giả tạo… Từ góc độ khám phá hiện thực khác nhau, nhà văn đã cố gắng thể hiên số phận con người với những chiến công và chiến bại, những niềm vui lẫn day dứt đau thương, có khi rất riêng tư rong sâu thẩm của tâm hồn, có khi lại hòa đồng với những lo toan, trăn trở đi lên của dân tộc. Có thể xem tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của nhà văn Bảo Ninh - một thành tựu đặc sắc của văn học thời kỳ đổi mới ở mảng đề tài viết về chiến tranh sau chiến tranh, là một ví dụ. Mời các bạn đón đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh của tác giả Bảo Ninh.
Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 1 - Joseph Delaney
CẢNH BÁO: KHÔNG ĐƯỢC ĐỌC SAU KHI TRỜI TỐI "Một người nào đó sẽ phải đứng lên để chống lại bóng tối. Và con là người duy nhất có thể." Trong nhiều năm qua, Thầy Trừ Tà Gregory đã giữ cho Hạt an toàn khỏi ma quỷ. Giờ thời gian của ông đã kết thúc, nhưng ai sẽ là người tiếp quản chuyện đó? Hai mươi chín người học việc đã đến thử - một vài người không đạt tiêu chuẩn, một vài người đã bỏ trốn, một vài người đã chết. Chỉ còn lại duy nhất Thomas Ward. Cậu là niềm hy vọng cuối cùng; cậu bé học việc cuối cùng. Liệu Thomas có thành công? Liệu cậu có học được sự khác nhau giữa phù thủy loại lành và phù thủy loại độc? Liệu lời cảnh báo của Thầy Trừ Tà về những cô gái đi giày mũi nhọn có bao gồm cả Alice không? Và điều gì sẽ xảy ra nếu Thomas vô tình giải thoát Mẹ Malkin, phù thủy độc ác nhất ở Hạt…? Câu chuyện đáng sợ đầu tiên trong series Cậu Bé Học Việc và Thầy Trừ Tà. Tác giả: Joseph Delaney từng dạy truyền thông và phim ảnh ở một trường trung học tại Blackpool, Anh. Ông sống cùng gia đình ở Lancashire, giữa trung tâm lãnh thổ của ông kẹ. Sự Báo Thù Của Phù Thủy là cuốn tiểu thuyết đầu tay. Truyện được hãng Warner Bros. Pictures mua bản quyền và chuyển thể thành phim với tên Người con trai thứ bảy (The Seventh Son, đạo diễn: Sergei Bodrov). Phim sẽ được phát hành trong đầu năm 2013, có sự tham gia của nam diễn viên Ben Barnes (vai Thomas Ward), Julianne Moore (vai Mẹ Malkin), nam diễn viên Jeff Bridges (vai Thầy Trừ Tà Gregory)… Series Cậu Bé Học Việc và Thầy Trừ Tà do Chibooks xuất bản 2012-2013: Phần 1: Sự Báo Thù Của Phù Thủy (The Spook’s Apprentice) Phần 2: Lời nguyền của Quỷ độc (Spook's Curse) Phần 3: Đêm của Kẻ Đánh Cắp Hồn (The Spook’s Secrect) Phần 4: Đòn Tấn Công của Quỷ Vương (The Spook’s Battle) Phần 5: Cơn Thịnh Nộ của Huyết Nhân (The Spook’s Mistake) Phần 6: Sự Hi Sinh của Thầy Trừ Tà (The Spook’s Sacrifice) Phần 7: The Spook’s Nightmare Phần 8: The Spook’s Destiny Phần 9: The Spook’s I am Grimalkin Phần 10: The Spook’s Stories: Witches Phần 11: The Spook’s Bestiary Mời các bạn đón đọc Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 1: Sự Báo Thù của Phù Thủy của tác giả Joseph Delaney.
Trảm Long Tập 4: Thiên Địa Phong Thủy - Hồng Trần
Cùng với sự lớn mạnh của Thái bình thiên quốc, Lục Kiều Kiều ngày càng nhận ra sự khắc nghiệt và tàn phá khủng khiếp của mỗi cuộc thay triều đổi đại. Cô không khỏi tự vấn, liệu dưới mỗi long mạch thiên tử đều nuôi dưỡng một minh chúa chân chính có thể đem lại thái bình cho nhân dân? Mang trên mình sứ mệnh định đoạt chân long, An Long Nhi đã hạ quyết tâm đứng về phía bách tính lầm than dù có phải san bằng trời đất đánh đổi tính mạng. Cuộc đấu trí giữa các đại phong thuỷ sư Lục Kiều Kiều, An Long Nhi và An Thanh Nguyên đã đến hồi quyết liệt nhất. Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, tuyệt kỹ trảm long xuất hiện làm rung chuyển càn khôn, là khoảnh khắc kì diệu làm thay đổi đại cục phong thuỷ Trung Hoa, từ đó mở ra một thời đại mới. Mời các bạn đón đọc tập 4 của bộ truyện Trảm Long.
Thần Hổ - Đái Đức Tuấn
Tác giả: Tchya ( 1908 - 8.VIII.1968 ). Tên thật là Đái Đức Tuấn. Bút hiệu khác là Mai Nguyệt. Ông là người xã Quảng Chính, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá. Đỗ bằng tú tài, Trước 1945 đã từng nhiều năm làm Tham tá ở Nha học chính Đông Dương. Viết cho các báo Đông Tây, Nhật Tân, Tiểu thuyết thứ bảy. 1946 tham gia Việt Nam Quốc dân đảng, sau đó bỏ sang Trung Quốc. Từ 1947 - 1968, sống ở Hà Nội, rồi vào Sài Gòn, dạy học và viết báo. Từng tham gia Trung tâm văn bút Sài Gòn và đi dự hội nghị Trung tâm văn bút thế giới ở Tôkyô, 1957. Thần hổ là tập truyện dài gồm 3 chương, có tính cách 3 truyện ngắn tương đối biệt lập: Biệt cố hương, Ma trành, Báo phục. Tác phẩm được đăng trên Phổ thông bán nguyệt san, số 10, ra ngày 1 tháng 9 năm 1937. Tác giả tiếp thu những cốt truyện truyền kỳ trong sách cũ, phối hợp với nhiều mẩu chuyện ly kỳ được lưu truyền trong nhân dân các huyện miền núi Thanh Hoá khoảng ba bốn thập kỷ đầu thế kỷ XX, tạo nên một câu chuyện rùng rợn với không ít tình tiết thần bí hoang đường. Có thể coi Thần Hổ là kiểu truyện phỏng truyền kỳ tiếp sau Trại Bồ Tùng Linh, Vàng và máu... của Thế Lữ. Mời các bạn đón đọc Thần Hổ của tác giả Đái Đức Tuấn.