Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Di Chúc Pháp

Ký ức tuổi thơ trong một số tác phẩm được giải năm 1995 ở Pháp   (trích)      Đặng Thị Hạnh     Hầu hết các giải thưởng văn học lớn ở Pháp đều được trao vào cuối mùa thu hàng năm, còn được gọi là mùa khai diễn lại.   Năm nay, cuốn Di chúc Pháp của Andrei Makine, giải Goncourt, được giới báo chí khen ngợi nhiệt liệt: “Di chúc Pháp mùa thu năm nay sáng ngời lên với một ánh rạng rỡ đặc biệt. Một cuốn tiểu thuyết hay”. (Báo Le Figaro). “Một sự tráng lệ yên bình, chắc chắn đó là một trong những tiểu thuyết vào đời hay nhất của những năm gần đây. (Báo Le Croise). “Andrei Makine đã viết một kiệt tác. Một kỳ công về văn xuôi, một tiếng nhạc khiến ta sững sờ, như thể Tchékhov viết bằng tiếng Pháp” (Báo Elle).   *   Gần mười năm sau khi rời khỏi đất Nga sang Pháp, người kể chuyện hồi tưởng lại về thời thơ ấu và tuổi mới lớn của mình, sống chia sẻ giữa một thành phố lớn bên bờ sông Volga (nơi bố mẹ ở) và thị trấn Saranza ở vùng Ukraine là nơi người bà ngoại gốc Pháp ở.   Trong nhiều năm, theo một tập quán không thay đổi, trên một ban công giữa vườn, mỗi chiều hè, người bà lại kể cho hai chị em cậu bé những mẩu chuyện về nước Pháp, quê hương của bà, những mẩu chuyện rời rạc, có khi lặp đi lặp lại, điều mà cả người kể lẫn người nghe đều không mấy quan tâm, đối với đứa trẻ, mỗi chuyện kể hay đều có thể nghe đi nghe lại mà không biết chán. Cùng với an bom gia đình, những bài dân ca, thơ văn các nghệ sĩ nổi tiếng, rồi những kỷ vật, vài hòn cuội, một mẩu kim loại bí ẩn... các câu chuyện kể cứ làm hình thành dần trong đầu óc cậu bé, một hình ảnh về nước Pháp, giống như những mẩu trong một bức tranh ghép mảnh. Mở đầu của mọi chuyện, chắc chắn là chuyện kể về Paris vụ lụt mùa đông năm 1910: sông Seine biến thành biển, dân Paris lênh đênh trên những con đò, và nước Pháp của bà ngoại đi lên từ sóng nước như một hòn đảo Atlantide. Nhưng liền ngay sau đó lại là một Paris khác, rực rỡ ánh xuân, đang chờ đón Sa hoàng Nicolas đệ nhị và Hoàng hậu Alexandra. Cả hai xuất hiện trẻ măng, đẹp đẽ Nhiều năm sau, người kể chuyện (lúc ấy còn là người nghe chuyện) mới biết là sự kiện ngoại giao lớn, Paris đón Sa hoàng, là xảy ra vào năm 1896, trước vụ lụt hàng chục năm. Nhưng mọi sự sai niên đại đều chẳng quan trọng gì. Điều quan trọng là trên ban công ngôi nhà của Charlotte, tên người bà, mỗi chiều hè “giống như cái bình cầu cổ dài của một nhà luyện kim, trong đó diễn ra sự chuyển vi nguyên tố của quá khứ”: điện Elysée xuất hiện trong ánh lấp lánh những đèn chùm gương soi, nhà hát Opéra sáng rực vì những đôi vài trần phụ nữ, còn Nhà thờ Đức Bà lại khiến ta cảm thấy rợn người vì chất đá lạnh toát dưới bầu trời vẩn mây...   Cứ như vậy, cho dù các giấc mộng chiều hè đó mỗi năm một lần lại lùi ra xa, mờ đi sau đám sương thu và những cơn bão tuyết đầu tiên- cậu bé trở về với cuộc sống học sinh và thành phố - thì cái mà sau này cậu sẽ gọi là Francité (tính Pháp) vẫn cứ đọng lại như những “địa tầng” trong tâm hồn cậu, cùng với cái đó là những xung đột giữa hai bản ngã khó dung hòa. Cũng như chính tác giả, người kể chuyện cảm thấy “mình vừa là Pháp, lại vừa là Nga: và không ở đâu, tính đối nghịch đó lại biểu hiện rõ như trong ngôn ngữ: “Khi tôi đọc (từ Tsar) bằng tiếng ngan thì một tên bạo chúa tàn ác đứng sừng sững trước mặt tôi, trong khi đó từ “Tsar” trong tiếng Pháp lại tràn ngập ánh sáng, tiếng động, gió, ánh đèn chùm, những vai trần phụ nữ lấp lánh...” Ngôn ngữ, cái mầm ghép hoang đường… Rất lâu sau này, người kể chuyện mới có dịp thể nghiệm cái chất liệu bí ẩn này, nhưng chắc anh sẽ khó thành công nếu ngay từ thời thơ ấu, trong con người anh, trong ngôn ngữ anh, đã không mang tính kép, cái mà có lúc anh đã muốn rũ bỏ cho kì được. “Thói ủy mị Pháp đã ngăn trở không cho tôi sống”: lớn dần lên, cậu bé đã nhận ra như vậy, khi cảm thấy mình lạc lõng giữa cái xã hội mini là trường học, bạn và thầy. Vào một mùa hè, khi cậu đã 14 tuổi, cậu trở về Saranza với “ý định kết thúc với cái nước Pháp của Charlotte”, thì một lần nữa, cậu lại ra đi với bao nhiêu khám phá về bản thân mình, về ngôn ngữ, nhất là về người bà của mình, đơn giản chỉ vì bà xuất hiện dưới bầu trời Nga “như một con người- ngoài trái đất” nhưng lại đã “hội tụ được trong cuộc đời mình các thời điểm mấu chốt của lịch sử nước chúng tôi”.   *   Từ ngày ấy, gần hai mươi năm đã trôi qua. Bị cuốn theo những biến động xã hội người kể chuyện nay đã ở trên đất Pháp. Và điều gì đã xảy ra? Về những tháng dài nghèo khổ và lang thang trên đất Pháp, anh sẽ rất ít lời. Xuống đến tận cùng của tuyệt vọng, có lúc anh đã nghĩ đến cái chết, nhưng chính một hồi ức của tuổi thơ lại đã cứu anh. Vào một sáng tinh mơ, khi anh gần như quỵ xuống cạnh một bức tường: Lũ tháng giêng 1910, những dòng chữ trên xuất hiện như nhờ phép lạ trên một tấm kim loại đã gỉ, đen xì. Và ngay tức thì, cả một quá khứ ùa trở lại: “… Sức nóng của một thành cầu thang gỗ trên cái ban công treo giữa không trung vào một chiều hè. Những mùi hương cỏ, khô và cay cay. Tiếng kêu xa xôi và buồn bã của một đầu tàu… Tiếng giấy nhẹ sột soạt trên lòng người đàn bà đang ngồi giữa hoa. Mái tóc đã điểm bạc. Giọng nói của bà…”Đến đây điểm nhìn của người kể chuyện đã đảo ngược lại, thời ấy còn là nước Pháp nhìn từ nước Nga qua truyện kể của bà, bây giờ lại một hồi ức về đất Nga nhìn lại từ nước Pháp.   Cũng như vậy, trong hai mươi trang cuối chuyện, tình huống sẽ bị rạt lại. Trong hơn hai trăm chín mươi trên ba trăm linh bẩy trang của cuốn tiểu thuyết, người kể chuyện chỉ làm có một việc là vẽ lại cho chúng ta sự hình thành của tính Pháp trong con người anh. Vậy mà khi anh tưởng như đã có điều kiện để đưa người bà trở về thăm nước Pháp thì một bức thư của Charlotte viết trước khi và mất: Di chúc Pháp lại là để nói với anh về đời một người đàn bà Nga, mẹ của anh: bà đã đón từ tay của một phụ nữ Nga bị chết trong trại tập trung, và đã hứa với người đó chỉ báo cho anh biết điều này vào thời điểm chậm nhất. Vậy là tất cả những gì mà suốt thời gian qua anh coi như biểu hiện của tính Pháp di truyền trong anh đều không có, hoàn toàn không có.Nhưng đấy cũng là điều kiện để anh nghĩ tới sự hiện diện của người bà, “kín đáo và tự nhiên như chính cuộc sống vậy. Đối với tôi, duy nhất chỉ còn thiếu các từ để nói lên điều đó”.   Cũng giống như kiệt tác của Proust, khi chuyện kể đóng lại là lúc báo hiệu cuốn tiểu thuyết sẽ bắt đầu.   *   Trên đây chỉ là tóm tắt sơ lược của truyện kể và khó có thể hình dung một tác phẩm hay nếu không biết đến văn viết. Nhưng đấy là việc của người đọc, không ai có thể làm thay. “Mỗi độc giả trước tiên là độc giả của chính mình. Với văn phong trong sáng, dễ hiểu, với cốt truyện giản dị. Di chúc Pháp vẫn là một tác phẩm phức hợp, có thể được đọc ở nhiều tầng. Trong phạm vi bài này không thể nói tới các âm hưởng khác nhau có thể tìm thấy trong tác phẩm. Nhưng một điều có thể nhận thấy ngay, là người độc giả Việt Nam đã quen với tiểu thuyết Na và Xô viết trước đây (tuy bây giờ dường như chúng đã bị xếp xó) sẽ nhận thấy trong người đàn bà gốc Pháp nhiều nét gợi nhớ tới các nữ nhân vật trong tiểu thuyết cổ điển Nga, và cả trong các tác phẩm Xô viết họ đã đọc. Còn một số độc giả khác sẽ nhạy cảm với “tiếng nhạc nhỏ của các hồi ức Proustienm cứ đệm theo dòng chuyện kể, gợi nhớ “những giây lát không trôi qua”, cái sẽ còn lại mãi mãi phía trên dòng thời gian luôn chảy./.   “(…) tôi ghi lại đây tên thật những người ấy với một niềm thích thú trẻ nít cùng niềm xúc động sâu xa, trong khi không thể kể hết tên bao người khác nữa hẳn cũng đã từng hành động tương tự và nhờ họ mà nước Pháp vẫn tồn tại đến ngày nay (…)”      MARCEL PROUST      Thời gian tìm lại được     “Người dân Xibêri có bao giờ xin ông trời cây ôliu, hoặc người dân cứ Provence cây klukwa?”      JOSEPH DE MAISTRE     Những tối đàm luận ở Saint Petersbourg     “Tôi hỏi nhà văn Nga cách thức ông làm việc và lấy làm ngạc nhiên là ông không tự dịch bản viết, mặc dù ông nói một thức tiếng Pháp hết sức trong sáng, hơi chậm rãi tí chút do lối suy nghĩ tinh tế của ông.   Ông thú thật là Viện Hàn lâm với pho từ điển của nó khiến ông buốt cóng.      ALPHONSE DAUDET     Ba mươi băm ở Paris  *** Andreï Makine sinh ngày 10/9/1957 tại Krasnoyarsk, Xô Viết.   Năm 1987, ông sang Pháp là thành viên của chương trình trao đổi giáo viên và quyết định ở lại. Quyển tiểu thuyết đầu tiên của ông La fille d'un héros de l'Union soviétique (A Hero's Daughter) được xuất bản năm 1990, khi ông trình bày rằng nó đã được dịch từ tiếng Nga, vì không nhà xuất bản nào tin rằng ông có thể viết bằng tiếng Pháp. Với quyển tiểu thuyết thứ ba, Au temps du fleuve Amour (Once Upon Love River), ông mới được công nhận là một nhà văn Pháp. Và đến quyển tiểu thuyết thứ tư, Le Testament Français (Dreams of My Russian Summers), năm 1995, ông trở thành tác giả đầu tiên chiến thắng được cả hai giải thưởng văn học hàng đầu nước Pháp Prix Goncourt và Prix Médicis.   Năm 2001, Andreï Makine bắt đầu bí mật xuất bản dưới bút danh Gabriel Osmonde với tổng cộng 4 quyển tiểu thuyết trong hơn 10 năm. Đây là một bí ẩn của nền văn học Pháp. Mãi đến năm 2011, một học giả nhận thấy quyển Les 20 000 Femmes de la vie d'un homme của Osmonde được lấy cảm hứng từ Le Testament Français (Dreams of My Russian Summers) của Makine, sau đó sự việc mới được sáng tỏ. Khi được hỏi tại sao lại sử dụng bút danh, ông đã trả lời rằng: “Tôi muốn tạo ra một người sống xa sự ồn ào náo nhiệt của thế giới”.   Các tác phẩm:   - La fille d'un héros de l'Union soviétique , 1990 (A Hero's Daughter , 1996)   - Confession d'un porte-drapeau déchu , 1992 (Confessions of a Fallen Standard-Bearer , 1996)   - Au temps du fleuve Amour , 1994 (Once Upon the River Love , 1996)   - Le Testament français , 1995 (Dreams of My Russian Summers , 1997)   - Le Crime d'Olga Arbelina , 1998 (Crime of Olga Arbyelina , 2000)   - Requiem pour l'Est , 2000 (Requiem for a Lost Empire , 2001)   - La Musique d'une vie , 2001 (A Life's Music , 2004; also published as Music of a Life)   - La Terre et le ciel de Jacques Dorme , 2003 (The Earth and Sky of Jacques Dorme , 2005)   - La femme qui attendait , 2004 (The Woman Who Waited , 2005)   - L'Amour humain , 2006 (Human Love , 2008)   - Le Monde selon Gabriel , 2007   - La Vie d'un homme inconnu , 2009 (The Life of an Unknown Man , 2010)   - Cette France qu'on oublie d'aimer , 2010   - Le Livre des brèves amours éternelles , 2011   Dưới bút danh Gabriel Osmonde:   - Le Voyage d'une femme qui n'avait plus peur de vieillir, 2001   - Les 20 000 Femmes de la vie d'un homme, 2004   - L'Œuvre de l'amour, 2006   - Alternaissance, 2011   Mời các bạn đón đọc Di Chúc Pháp của tác giả Andrei Makine.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trăng 30 - Thụy Ý
-Thưa anh, Hồng Quỳnh có nhà không ạ? Người con trai ngước lên trả lời tôi: - Em nó vừa chạy qua nhà bên cạnh chắc về ngay bây giờ. Cô ngồi chơi đợi nó chút nhé. Tôi dạ. Ngồi vào ghế đối diện chiếc canapé của anh ta. Tôi nhìn cuốn sách trên tay với dòng chữ đề tặng Quỳnh “ Thương cho Hồng Quỳnh – Cô bé dễ thương nhất đệ nhị C3” dưới đó là hai chữ Hạ Mai được tôi ký thật bay bướm. Chắc Quỳnh sẽ vui lắm, nó không ngờ tôi mò xuống cái tỉnh lẽ buồn hiu này để thăm nó. - Hình như cô chưa đến đây lần nào phải không? Tôi giật mình nghe tiếng hỏi, gật đầu: - Vâng. Em học chung với Quỳnh ở Sàigòn. - Thảo nào nghe giọng nói cô là lạ. Tôi là anh Hồng Quỳnh – tên Nghiễm. Tôi reo lên: - Anh Nghiễm. Quỳnh nó nhắc anh với em hoài đó. Bây giờ em mới biết anh – Em tên Hạ Mai. - Hồng Quỳnh nó thương tôi lắm. Các cô bạn nó thỉnh thoảng cũng đến nhà chơi nên tôi nhận ra giọng. Chỉ có cô… - Em mới đến lần đầu. Bất chợt tôi im lại. Một dấu hỏi nẩy sinh. Tại sao anh Nghiễm lại không nói “thấy” cô là lạ mà lại là “nghe” giọng cô là lạ? Như thế?!…Có lẽ nào?! Ừ, có lẽ nào anh Nghiễm… mù?! Không, không thể được. Đôi mắt anh vẫn mở lớn… Ồ! Sự mở lớn bất động. Đôi mắt chết! Trời ơi! Tôi cắn môi, dằn tiếng kêu thương cảm. Anh Nghiễm tiếp: - Quỳnh nói về tôi sao cô? Một người anh mù lòa mà nó đã chịu khổ để lo lắng thật nhiều? Tôi bối rối: - Không ạ… Thưa anh, Quỳnh không bao giờ nói với em nỗi bất hạnh của anh. Nó chỉ nói nhà có ba anh em, anh Nghiễm lớn nhất, đến chị Xuân Quỳnh và Hồng Quỳnh là em út. Em út nên cả nhà đều cưng nhiều, nhất là anh Nghiễm. Nụ cười trên môi anh Nghiễm heo héo, thật dễ thương, làm tôi hình dung đến nụ cười của Bá Tước A Tố trong “Ba chàng ngự lâm pháo thủ”, nó làm cho gương mặt hơi dài của anh trở nên quý phái lạ lùng. Anh Nghiễm hỏi: - Xuân Quỳnh lập gia đình còn Hồng Quỳnh đi học xa. Hai năm nay má tôi phải mang mấy đứa cháu họ về ở trong nhà cho vui. - Sao bác và anh không để Hồng Quỳnh học ngay trường tỉnh cho gần? Ở đây cũng có đệ nhị cấp mà. - Con bé cứ nằng nặc đòi học Sàigòn. Nó bảo học ở đây rồi nó thành chị nhà quê, với lại nó lên ở với chị thì cũng được nên mà, tôi chìu ý. Anh chép miệng: - Chỉ có tôi, mang nỗi bất hạnh triền miên. Cuộc sống chỉ là bóng tối nên ở đâu thì cũng vậy. - Anh thử hy vọng ở sự tiến triển của khoa học. Em thấy… không đến nỗi nào. - Trường hợp tôi khó lắm Mai ạ. Vì dây thần kinh bị hỏng. Vả lại nếu ở các nước văn minh có đủ phương tiện chữa thì mình không đủ tài chánh để đi. Tôi nghe buồn cho anh. Dường như đoán được ý tôi, anh lảng qua chuyện khác: - Tên của Mai nghe hay quá hả. Hạ Mai, nghe vừa dễ thương vừa kiêu hãnh. Tôi muốn cám ơn Nghiễm về lời khen tế nhị đó nhưng Hồng Quỳnh đã về với tiếng reo hồn nhiên quen thuộc: - Hạ Mai! Mày đến bao giờ? ... Mời các bạn đón đọc Trăng 30 của tác giả Thụy Ý.
Lỗi Error 404 - Plaaastic
“Nếu bạn mong chờ một câu chuyện happy ending với nhân vật chính vùng dậy ở cuối và làm người hùng đứng ngắm mặt trời mọc trên nóc nhà, đây không phải là một câu chuyện như thế.” Đây đơn giản chỉ là câu chuyện chân thực nhất của Plaaastic – một hiện tượng fashion blogger trên Internet, một trong những fashionista Việt có sức ảnh hưởng ở toàn châu Á và thế giới từ khi còn rất trẻ với phong cách thời trang rất riêng, rất lạ lùng. Không phải là cuốn sách kể về ánh hào quang rực rỡ của một người nổi tiếng, Lỗi – Error 404 đưa đến cho bạn đọc hành trình thật nhất, trần trụi nhất của Plaaastic với bệnh trầm cảm, với những cảm xúc cô đơn, lạc lối của một người trẻ luôn khao khát đi tìm đáp án cho câu hỏi: Mình lỗi ở đâu? Cuốn sách viết về trầm cảm, về những nỗi buồn sâu kín nhất nhưng nó không nặng nề, tiêu cực hay mang màu sắc “muốn quay lưng với cuộc sống”. Plaaastic kể về hành trình trầm cảm của mình như thể đó là một điều rất đỗi bình thường, không hề bi lụy – và vì thế, đâu đó trong sách bạn vẫn thấy được những tia sáng và sự lạc quan, những khao khát sống hạnh phúc, và cả những hi vọng về một cuộc sống “bớt lỗi” hơn của cô gái trẻ ấy. “Có một thứ mọi người rất hay hiểu nhầm về tôi: Đấy là việc tôi ghét cuộc sống. Tôi ghét cuộc sống của tôi, đúng, nhưng tôi không ghét cuộc đời, trái đất này, vũ trụ này. Tôi không có một niềm tin nào vào ngày mai của mình, nhưng tôi luôn tràn đầy hi vọng vào những người xung quanh.” “Trái đất và con người Trái đất ơi, các bạn buồn cười lắm. Tôi, xuất phát điểm xấu, đần, đầu gấu, và trầm cảm và tôi đến được nơi tôi đến bây giờ. Thế thì các bạn của đủ mọi loại hình hài, mọi trí thông minh, tính cách và cảm xúc, các bạn cũng hoàn toàn có thể. Tôi là đáy của xã hội, và tôi vẫn còn đường đi lên, thì các bạn chắc chắn sẽ tìm được ít nhất một cách để làm các bạn khá hơn, ngay hôm nay. Cái gì cũng bắt đầu bằng bước một đó. Rồi bạn đến bước hai, bước ba, bước bốn. Đỉnh núi cao đến mấy cũng phải leo từ chân núi mà. Tôi còn leo lên từ hố tôi tự đào, bạn chỉ cần không muốn ói mỗi lần nhìn vào gương buổi sáng là bạn đã có khả năng thành công cao hơn tôi rất nhiều rồi.” “Và, điều kỳ diệu là, hạnh phúc là một thứ bạn có thể không có nhưng bạn vẫn có thể cho đi.” *** Bạn có cảm giác thế nào khi tác phẩm của mình đã được đón nhận một cách nhiệt liệt? Kế hoạch tiếp theo dành cho Error 404 là gì? Mình thật sự cũng khá bất ngờ vì sách ra mắt được ủng hộ tới thế. Mình viết ‘Lỗi’ cũng lâu rồi, từ cách đây 2 năm cơ, lúc đó mới về Việt Nam và tiếng Việt kiểu bài vở trường lớp vớ vẩn, vì thật sự chưa bao giờ có cơ hội viết cái gì dài hơn 200 trang mà vẫn có người đọc cả. Khi mình tự đọc lại, thấy đúng, nhưng hơi nguyên thuỷ. Nó giống như kiểu xăm hình gì từ hồi trẻ con, bây giờ mọi người nhìn vào đó để đánh giá, mình nhìn vào thấy mình đi được cả con đường dài. Mình cũng đang định viết ‘Lỗi - Error 404 (2)’, nhưng mà chưa gặp một cái kết đẹp khác thì chắc chưa viết đâu! Mình không muốn đến lúc viết ra các bạn lại kêu ca là ảnh hưởng xấu tới hẳn một bộ phận giới trẻ vì quá tiêu cực (review kiểu vậy mình nhận được cực nhiều), trong khi mình lại là một người sống rất tích cực. Tóm tắt cuốn sách của bạn trong 3 từ? Thật, thật và thật Bạn nói gì về những phần bị cắt bỏ? Rất nhiều chửi bậy. Mình tính hay toạc ra, nên là một câu nói vài từ châm vào, nhưng mà cũng không phải theo kiểu chửi bới ai, mà là kiểu cảm xúc dâng trào. Đầu tiên những phần này bị sửa thành “đm nó”, rồi “*éo”, rồi “bà nó”, rồi cắt luôn. Tiếp theo là có rất nhiều đoạn mình viết, mà từ trước khi cả nó bị cắt, thì chị biên tập của mình đã nói là nó trần trục quá, có lẽ là nên sửa. Rồi cũng có những đoạn tự thân mình không muốn cho vào, ví dụ như việc bị xâm hại tình dục. Nghe có vẻ khó hiểu, nhưng mà mình thật sự không phải viết quyển sách này để kể khổ, và những phần mà team của mình nghĩ là mình viết hơi lướt, thì mình thấy nó cũng chỉ ảnh hưởng mình ở mức vậy thôi. Cái gì mình cảm thấy dài, mình viết dài, cái gì mình cảm thấy ít, mình viết ngắn, phần nào người ta thấy khó, người ta bỏ qua. Bạn sẽ nói gì với mình vào lúc 16 tuổi? Đừng yêu. 22 tuổi rồi, 2 tháng vừa qua là thời gian duy nhất chúng ta độc thân từ lúc chúng ta 12 tuổi. hãy độc thân một tí đi. Plaaastic của 5 năm sau sẽ thế nào?   Ai mà biết được. Đoán ra chắc chắn không đúng. 5 tiếng nữa thôi đã không biết rồi, 5 ngày càng không, đừng nói 5 tháng, 5 năm. Đến đâu thì đến thôi, thế nào rồi cũng ổn thôi mà. Mời các bạn đón đọc Lỗi Error 404 của tác giả Plaaastic.
Khởi Đầu
Sherrilyn Kenyon là tác giả có sách bán chạy nhất trên bảng xếp hạng của tờ New York Times, Sherrilyn Kenyon rất tự hảo với nguồn gốc Cherokee (người bản địa châu Mỹ) pha trộn của mình và cuộc sống với những cuộc phiêu lưu đầy cảm hứng. Hiện bà sống cùng chồng và ba con trai, một đàn thú cưng và một bộ sưu tập kiếm. Trong những lúc rảnh rỗi, bà thường ngồi lì trước máy tính để chơi cùng những người bạn tưởng tượng của mình. Với hơn ba mươi triệu bản sách in đã bán tại hơn một trăm quốc gia, Sherrilyn chắc chắn có rất nhiều bạn bè khắp năm châu. Sách của bà thường chiếm vị trí số một các bảng xếp hạng. Tác giả đặc biệt ăn khách này tiếp tục thống trị các thể loại tiểu thuyết. Hiện tại bà đang theo đuổi các sê-ri: Thợ săn đêm, The League, Chronicles of Nick và Beladors. Từ năm 2004, bà đã đưa hơn 80 đầu tiểu thuyết lên vị trí top ten của tờ New York Times ở mọi thể loại, bao gồm cả truyện tranh. “Ngòi bút của Kenyon đầy sức sống, giàu sức châm biếm, gợi tả và khơi lên trí tưởng tượng đến bất tận.” - Trích tờ Boston Globe *** Trọn bộ series Thợ săn đêm (Dark Hunter): -  Sự Khởi Đầu (The Begining) -  Đêm khoái lạc (Night Pleasures) -  Gặp lại kiếp này (Night Embrace) -  Điệu múa với tử thần (Dance with the Devil) -  Nụ Hôn Tử Thần (Kiss of the night) -  Đêm Khoái Lạc (Night Play) ***   Ngươi là ai?” kẻ cao nhất hỏi ngay khi hắn thấy anh. Người đàn ông này không nghi ngờ gì là người Dorian với mái tóc dài màu đen. Cơ thể hắn cao ráo, cường tráng, được trùm trong bộ áo giáp chiến đấu đang rất cần ai đó chăm sóc và sửa chữa. Hai người đàn ông cùng với hắn là những người Hi Lạp tóc vàng. Áo giáp của họ cũng không khá hơn gì so với người đầu tiên. Người trẻ nhất trong số họ áo giáp chắn trước ngực còn có một lỗ nơi anh ta đã bị mũi giáo xuyên thủng. Những người đàn ông này không thể bước ra ngoài và trà trộn với những kẻ còn sống khi đang ăn mặc như thế này. Mỗi người họ cần được chăm sóc. Nghỉ ngơi. Hướng dẫn. Acheron hạ chiếc mũ trùm đầu của chiếc áo himation màu đen xuống, rồi nhìn họ từng người từng người một. Lúc họ chú ý đến sắc màu bạc đang cuộn sóng trong đôi mắt anh, mặt ba người đàn ông trắng bệch đi. “Ngài có phải là một vị thần?” người cao nhất hỏi. “Có người bảo chúng tôi những vị thần sẽ giết chúng tôi nếu chúng tôi xuất hiện trước mặt họ.” “Ta là Acheron Parthenopaeus,” anh khẽ nói. “Artemis gửi ta đến để huấn luyện các ngươi.” “Tôi là Callabrax ở vùng Likonos,” người cao nhất nói. Anh ta chỉ về người bên phải. “Kyros ở vùng Seklos.” Rồi người trẻ nhất trong nhóm bọn họ, “và Ias ở vùng Groesia.” Ias đứng tách biệt, đôi mắt đen của anh ta trống rỗng. Acheron có thể lắng nghe suy nghĩ của người đàn ông này rõ như thể chúng nằm chính trong tâm trí anh vậy. Sự đau đớn của anh ta chạm đến anh, khiến chính ruột gan anh quặn thắt trong đồng cảm. “Các ngươi được tạo ra đã bao lâu rồi?” Acheron hỏi họ. “Tôi được vài tuần rồi,” Kyros nói. Callabrax gật đầu. “Tôi cũng được tạo ra trong khoảng đó.” ... Mời các bạn đón đọc The Beginning của tác giả Sherrilyn Kenyon.