Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Là Bóng Hay Là Hình - Fyodor Mikhailovich Dostoevsky

Trong một bức thư gởi cho Mikhail, một người anh, vào tháng 11.1845. Dostoievki đã viết: “Tôi tin là tiếng tăm của tôi đã lên đến tột đỉnh”. Lời ấy biểu lộ niềm kiêu hãnh của một nhân tài tự nhìn rõ vóc dáng lớn lao của mình đang vươn cao trên vòm trời văn hóa quê hương: nước Nga, vào lúc mà nền văn học già nua đang kỳ phát khởi lạ lùng của những công trình trường thiên bất hủ, thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ thứ 20: những công trình đã mô tả kiếp người khắc khoải trong đa mang tâm sự, lao đao trong xã hội trầm luân. Niềm kiêu hãnh của Dostoievski giá trị như một lời tiên tri, vì dù rằng khi vừa ra đời, tác phẩm “Là Bóng hay là Hình” đã không được giới phê bình niềm nỡ đón mừng, thì càng về sau, tác phẩm này, và nói chung văn nghiệp của Dostoievski, càng được văn giới Nga, Âu Châu, và cả thế giới ân cần ngưỡng mộ. Được xuất bản vào năm 1846, “là bóng hay là hình” vẫn là hình ảnh con người trong trong cái nhìn lạ lùng của Dostoiesvski, ném ánh mắt tinh tế vào tận nẻo thâm cùng của tâm hồn con người, những tâm hồn độc đáo, bất thường, bệnh hoạn. Golyadkin, nhân vật của câu chuyện, và “cái bóng sống thực” của y, cho ta thấy sự hoảng hốt ngỡ ngàng của con người về chính mình: rất gần mà rất xa, thân thiết mà hận thù, thật một mà quả hai, rất hai nhưng chỉ là một. Nhưng mỗi chàng Golyadkin là một mẫu người: Nếu Golyadkin là một tích lũy của những dồn nén ẩn ức, thì Golyadkin hai là sự giải tỏa những ẩn ức dồn nén đó: nếu Golyadkin một là con người trong sạch (theo cái nghĩa gần như sơ khai, nguyên thủy) thì Golyadkin hai là một người tạo ra bởi những giả dối của xã hội văn minh. Và tâm hồn què quặt của Golyadkin là bãi chiến, là sự giằng co giữa hai con người đó. Nhưng trong cuộc chiến này không bên nào có thể tiêu diệt hoàn toàn đối thủ của mình. Không phải chỉ Dostoievski là người duy nhất mô tả tâm lý bằng phường cách quái lạ này, trong câu chuyện chập chờn, không hề có một phân định giữa ảo tưởng và thực tế, chập chờn như những giấc ngủ mê sảng của Golyadkin, nhưng nhân vật của ông có một sắc thái riêng, vừa huyền hoặc, vừa triết lý. Nhân vật William Wilson của Poe chẳng hạn, không thể hòa hợp với cái “bóng sống” của mình như Golyadkin, đến như những nhân vật Jekyll và Hyde của Stevenson thì lại quá cách biệt, xa xôi. Giới thiệu tác phẩm “là bóng hay là hình” qua Việt ngữ, chúng tôi hy vọng đã mở được một cánh cửa theo một phương vị thích hợp, để từ đó độc giả Việt Nam có thể nhìn được một mẫu hương sắc và tiêu biểu nhất cho một cánh rừng bao la: văn nghiệp Dostoievski. Chúng tôi cũng tiếc là đã phải dịch tác phẩm này căn cứ trên bản Anh ngữ của Andrew R. Mac Andrew, do đó dầu đã cố gắng dịch sát vẫn khó có thể tránh được một khoảng cách với nguyên tác Nga ngữ, một ngôn ngữ mà người Nga vẫn tự hào là gồm đủ nét hùng vĩ của tiếng Anh, diễm lệ của tiếng Pháp, âm điệu của tiếng Ý và quý phái của tiếng Tây Ban Nha. *** Cũng đã ngót tám giờ sáng lúc Yakov Petrovich Golyadkin, một viên chức nhà nước cấp nhỏ thức giấc sau một giấc ngủ khá lâu. Chàng ngáp dài, duỗi mình rồi cuối cùng mở mắt ra. Chàng nằm bất động trên giường trong vài phút, như chưa biết là mình đã thức hay vẫn còn đang ngủ, và những gì chung quanh là thật hay chỉ là nhũng giấc mơ lộn xộn kéo dài. Tuy nhiên chàng cũng nhận ra ngay là chàng đang trở về với cái cảm giác hàng ngày rõ ràng minh bạch hơn. Chàng nhận ra bức tường xanh rêu dơ bẩn, đầy bồ hóng và bụi bậm trong căn phòng, những ngăn tủ và bàn ghế bằng gỗ đào hoa, chiếc ghế nệm dài phủ vải dầu đỏ có hoa xanh, và cuối cùng bộ đồ chàng đã vội vã cởi ra đêm trước nằm một đống nhàu nát trên ghế. Sau hết cái u ám ảm đạm của một ngày mùa thu qua khung cửa sổ xanh xao hắt vào trong phòng chàng khó chịu đến nỗi Golyadkin không thể không biết là chàng không còn ở trong một nơi huy hoàng đầy sữa và mật nữa, mà đang ở trong một phòng trên lầu tư của tòa nhà khá lớn trên đường Six Shop ở Petersburg. Nhận ra điều đó, chàng rùng mình nhắm mắt lại, như là tiếc nuối giấc mơ đã mất và đang cố tìm lại nó trong một thoáng. Nhưng một phút sau chàng nhảy ra khỏi giường, như vừa nghĩ ra được điều gì tự nãy giờ những tư tưởng rải rác, chưa kiểm soát được của chàng còn đang tìm kiếm. Đứng dậy rồi, chàng bước đến bên chiếc gương soi nhỏ trên ngăn tủ. Dầu vẻ mặt ngái ngủ với đôi lông mày thưa thớt của chàng phản chiếu trong gương không có gì quyến rũ, chàng vẫn có vẻ hài lòng. Chàng nói thầm: “Nếu hôm nay không phải là ngày tốt, hoặc có gì không đẹp xảy đến cho mình, chẳng hạn như bỗng nhiên nổi lên một cái nhọt, hay gì gì đó... ồ, mọi sự rồi sẽ tốt đẹp hết mà”. Bằng lòng với ý nghĩ đó, chàng đặt gương soi vào chỗ cũ. Và dầu đang mặc đồ ngủ, chàng cũng chồm ra khỏi cửa sổ, chăm chăm nhìn ra sân trước mặt. Hình như chàng đã tìm ra được điều gì đó, vì trông mặt chàng sáng lên với nét tự mãn. Rồi Golyadkin nhìn ra đằng sau bức tường ngăn, nơi phòng của Petrushka, tên giúp việc của chàng. Thấy Petrushka không có đấy, chàng nhón gót chạy đến bàn, mở hộc bàn, lục lọi và đem ra một chiếc túi màu xanh đã sờn nhét dưới một mớ giấy tờ đã ngã màu và vài thứ đồ lặt vặt khác. Chàng cẩn thận mở túi nhìn vào. Một mớ tiền xanh, đỏ đủ màu. Golyadkin mỉm cười, đặt chiếc túi mở trên bàn và xoa tay sung sướng. Rồi chàng đổ mớ tiền ra ngoài, và là lần thứ một trăm từ ngày hôm kia, chàng đếm tiền, trang trọng giữ từng tờ giữa ngón trỏ và ngón cái. “Bảy trăm năm chục roubles tiền giấy” chàng nói, nửa thì thầm “Một món tiền đáng kể” giọng chàng run lên vì sung sướng “Ai cũng muốn được chừng này tiền. Mình chưa gặp người nào cho là món tiền thế này là vô giá trị. Có tiền thế này... mua tiên cũng được... nhưng thằng Petrushka đâu rồi kìa?”. Chàng nhìn qua vách lần nữa. Petrushka vẫn không có đấy, nhưng ấm nước đang thở phì phò giận dữ trên sàn, như muốn nói gì đó với Golyadkin bằng cái ngôn ngữ phức tạp của nó, chẳng hạn: “Ông nhắc tôi ra đi, tôi sôi đây. Tôi sẵn sàng rồi đây”. “Thằng khốn Petrushka trốn đâu rồi?” - Golyadkin nghĩ - “Cái con vật lười biếng đó cũng đủ khiến người ta điên lên được”. Chàng giận dữ bước ra lối ra vào dẫn đến sân. Mở cánh cửa cuối lối đi, chàng thấy gã người làm đứng giữa một đám gia nhân khác. Petrushka đang hùng hồn gì đó, và cả bọn đang lắng tai nghe. Golyadkin tỏ vẻ không thích đề tài câu chuyện hay việc đang xảy ra. Chàng bực bội ra lệnh cho Petrushka trở vào. Bước vào phòng, chàng nghĩ: “Thằng cục súc đó có thể làm bất cứ việc gì với nửa kopeck, ngay cả bán chủ của nó đi. Dám chắc là nó cũng đã bán mình với giá không đầy một kopeck rồi...” Chàng hỏi. - Chuyện gì vậy? - Họ đang phát đồ cho người làm, thưa ông. - Mặc vào rồi đến đây. Petrushka mặc bộ đồ vào, cười ngu ngốc, bước vào trong phòng chủ. Trông nó thật kỳ cục: mặc bộ đồ xanh viền chỉ vàng, rõ ràng là cắt cho người cao hơn nó cả thước, trên tay cầm một cái nón cũng viền chỉ vàng với lông chim, bên sườn lủng lẳng một thanh gươm bao da, nhưng lại đi chân đất giống ở nhà. Golyadkin quan sát Petrushka, coi bộ vừa ý. Trông thì biết ngay là bộ đồ được mướn để dành cho một dịp nghiêm trọng đặc biệt nào đó. Trong khi đó Petrushka cũng nhìn chủ với vẻ chờ đợi khiến Golyadkin đâm ra bối rối. Chàng hỏi : - Sao, có xe chưa? - Xe có đây rồi, thưa ông. - Trọn ngày? - Vâng, và khoảng 25 roubles. - Còn giày? Họ mang tới chưa? - Thưa rồi. - Đồ ngốc! Mày không nói: “Thưa ông, họ đã đem đến rồi” được sao? Mang đến đây! Golyadkin hài lòng thấy đôi giày vừa vặn. Chàng sai Petrushka đem nước nóng để rửa mặt và cạo râu, cùng mang trà lại. Chàng cạo râu rất kỹ, nhắp vài ngụm trà, và mặc đồ. Chàng mặc chiếc quần mới vào, cùng một sơ-mi gắn nút đồng, thêm một áo chẽn có những bông sáng trông rất bắt mắt. Chàng thắt chiếc cà-vạt lụa đủ màu và sau cùng khoác bộ lễ phục mới, chải cẩn thận. Lúc mặc đồ, thỉnh thoảng chàng nhìn xuống đôi giày một cách trìu mến, và nhấc chân lên như chiêm ngưỡng kiểu giày, thì thầm gật gù tự tán thưởng mình. Sáng nay thật sự chàng không để ý đến điều gì khác, không cảm nhận thấy những cái nhăn mặt cùng nụ cười mỉa mai của Petrushka khi giúp chàng thay y phục. Khi đã mặc đồ xong và sẵn sàng rồi, Golyadkin bỏ bọc tiền vào túi nhìn Petrushka lúc đó cũng đã mang giày xong. Không còn gì khác, Golyadkin háo hức bước xuống lầu. Một cỗ xe màu xanh nhạt có tay bọc chạy đến bậc cửa trong tiếng leng keng. Petrushka nháy mắt với gã đánh xe, với những người đi đường rồi đỡ chủ lên xe, và như để khỏi phải phá lên cười một cách ngu ngốc, y la lớn “chạy” và nhảy lên bậc xe. Chiếc xe leng keng ồn ào chạy về hướng đại lộ Nevsky. Lúc xe chạy ra khỏi cổng, Golyadkin xoa hai tay mạnh vào nhau, bật cười giống như một tên ba trợn đang vui sướng vì vừa chơi khăm được ai. Nhưng cái bộ tịch vui vẻ đó mất ngay. Gương mặt Golyadkin có vẻ khác lạ. Không kể gì thời tiết xấu và ướt át, chàng hạ cửa xe xuống, quan sát người đi đường. Mỗi khi thấy ai nhìn chàng lại làm bộ nghiêm nghị. Khi xe rẽ từ đường Liteinaya đến đại lộ Nevsky, Golyadkin giật mình, có vẻ khó chịu như bị ai dẫm lên chân, và chàng chui vào trong xe coi bộ sợ hãi. Điều làm chàng khó chịu đó là chàng bắt gặp tia mắt của hai viên chức cùng làm một sở với chàng. Golyadkin thấy họ có vẻ ngạc nhiên khi thấy một đồng sự như vậy, có người còn chỉ vào chàng. Rồi Golyadkin tưởng như người kia gọi mình. Nhưng tiếng gọi loãng mất trên đường, nên chàng làm ngơ không trả lời. Chàng nghĩ : “Mấy thằng con nít ngu, đi xe này có gì lạ đâu? Cần xe thì thuê, đâu có gì vô lý? Bọn con nít bẩn thỉu đáng ăn roi. Chúng nó chỉ biết vừa lãnh lương vừa nghĩ đến các trò chơi thôi. Mình có thể cho chúng nó biết như vậy, nhưng có gì đâu mà phải...”. Tư tưởng của chàng bị ngắt ngang. Chàng há hốc mồm, sợ hãi. Một cặp song mã giống Kazan kéo một cỗ xe sáng loảng đang vượt qua chàng ở bên phải. Người ngồi trong xe tình cờ thấy được Golyadkin khi chàng vô ý thò mặt ra ngoài xe, và có vẻ ngạc nhiên, cố chồm ra ngoài để nhìn vào trong góc tối nơi người hùng của chúng ta đang co ro. Đó là Andrei Filipovich, trưởng phòng của Golyadkin, nơi chàng làm việc với chức phụ tá cho viên thư ký trưởng. Thấy Andrei Filipovich đã nhận ra mình, bắt gặp cặp mắt tròn xoe của ông ta, và hết chỗ trốn, Golyadkin vô cùng ngượng ngập. “Có nên cúi chào ông ta không? Có nên nhìn ông ta không? Nhận là mình, hay cứ giả vờ như ai khác giống hệt mình, rồi làm mặt lạ?”. Golyadkin tự hỏi với vẻ khổ sở khó tả: “Đúng rồi, không phải mình, thế là xong”. Chàng nghĩ như vậy, khi đôi mắt dán vào Andrei Filipovich và lấy tay dở nón chào ông ta. “Tôi... tôi... thưa ngài, không có gì...”. Chàng lắp bắp: “Thật thì... không phải tôi... vâng, như vậy đó”. Tuy nhiên cỗ xe đã vượt qua và đôi mắt của vị trưởng phòng không còn ám ảnh chàng nữa. Nhưng mặt Golyadkin vẫn còn đỏ. Chàng mỉm cười: “Mình đúng là thằng ngu mới không chào ông ta. Song mình phải có vẻ cứng cỏi hơn, nghiêm nghi hơn. Chỉ cần nói với ông ta: ‘Thưa ngài, tôi cũng được mời cơm tối’, như vậy thôi”. Rồi nhớ lại là mình đã không làm được như vậy, người hùng của chúng ta thấy máu nóng bốc lên. Chàng nhíu cặp lông mày, nhìn vào một góc xe với cái nhìn thách thức đe dọa như thể muốn đốt kẻ thù thành tro bụi. Rồi hứng quá chàng giật cương của người đánh xe, ra lệnh cho y quay trở về đường Liteinava. Chàng thấy cần phải gặp Christian Ivanovich, bác sĩ riêng của mình, cho ông ta biết vài chuyện lý thú, như vậy chắc là thích hơn, dầu chàng chưa quen biết vị bác sĩ này cho lắm. Chàng chỉ mới gặp ông ta một lần, khoảng đầu tuần trước, để hỏi ý kiến ông về việc này nọ - Hơn nữa, người ta thường nói là bác sĩ cũng như linh mục, đối với ông ta mà còn giấu diếm thì thật rõ ngu, vì bổn phận của ông ta là phải biết rõ bệnh nhân. Golyadkin bảo dừng trước một tòa nhà năm tầng trên đường Liteinaya và khi bước xuống, chàng nghĩ: “Có nên không? Có phải lúc không?” Nhưng khi chàng bước lên bậc thang, thở hổn hển và cố gắng làm dịu bớt quả tim đập thình thịch, một thói quen mỗi khi vào một thang lầu lạ, chàng quyết định: «Ồ có gì đâu, chuyện này là chuyện của ta, đâu có gì sái quấy. Nếu ta giấu diếm thì thật là ngu. Ta cứ giả vờ như tình cờ đi ngang và ghé vào đây. Bác sĩ sẽ không thấy gì là kỳ cục hết...». Golyadkin suy luận như vậy và lên đến tầng thứ nhì, đứng trước cửa phòng số 5, trên đó có tấm bảng với hàng chữ : CHRISTIAN IVANOVICH RUTENSPITZ Bác sĩ Y Khoa và Giải Phẫu Người hùng của chúng ta sửa bộ nghiêm nghị nhưng vẫn có một chút thân thiện, trước khi kéo chuông cửa. Trước khi thật sự kéo, chàng tự hỏi: “Mình có nên đến vào hôm khác không, vì dù sao cũng không có gì gấp gáp...” Nhưng khi nghe tiếng chân bước lên thang, chàng vội vã quyết định rằng một khi đã có mặt tại đây thì phải tiến tới. Và chàng quả quyết kéo chuông. ... Mời các bạn đón đọc Là Bóng Hay Là Hình của tác giả Fyodor Mikhailovich Dostoevsky.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cuộc sống và Thời đại của Michael K - John Maxwell Coetzee
Michael K, đó là tên của nhân vật chính trong tác phẩm đoạt giải Booker năm 1983. Mỗi cái tên thôi cũng đủ nói lên một thân phận mịt mờ. Nhưng sau K của Kafka, lịch sử văn học lại có thêm một nhân vật K kỳ diệu, K của người đoạt giải Nobel văn học 2003 J.M.Coetzee. K, với chiếc môi rách và thân hình mong manh như một đứa trẻ mồ côi, im lặng ngẫm nghĩ và sống trong thế giới của riêng mình - một thế giới may mắn còn màu xanh của bí ngô và mây trời. Nhưng chiến tranh như cái bóng theo đuổi anh đến tận mọi ngõ ngách, ở bất cứ nơi nào anh đến... Với một thân phận chiến tranh, mọi giá trị cuộc sống cũng bị hoán đổi. Thực phẩm, tình dục, sức khỏe, sự liên đới với đồng loại... đều không phải là nhu yếu của K. K hờ hững với tất cả. Trên tất cả là sự thèm muốn “cắn miếng bánh của Tự Do”. Cái tâm nguyên sơ của anh, cách anh tuyệt thực vì không ăn được “thức ăn của con người”, sự hoang mang và ngơ ngác của anh trước sự quan tâm của một người xa lạ... làm người đọc ứa nước mắt. Cuộc sống và thời đại của K đã tước đoạt mất ở anh cả ý niệm về tình thương và lòng trắc ẩn giữa con người với con người! Sự tàn nhẫn của chiến tranh được ẩn giấu khéo léo trong câu chuyện, nhưng tội ác chiến tranh không bao giờ che giấu được. Còn mong đợi nào hơn một thời đại mở ra một niềm tin nhân ái: chiến tranh không tiếp diễn, và không số phận nào có mặt ở cuộc đời này bị lãng quên? *** *** John Maxwell Coetzee (sinh ngày 9/2/1940) sinh trong gia đình gốc Đức tại miền Tây Nam Phi, từ nhỏ đã giỏi cả tiếng Anh và tiếng Đức; học các trường đại học tổng hợp Cape Town và Texas; dậy tiếng Anh và văn học; bắt đầu viết văn từ năm 1969 và ngay lập tức được dư luận chú ý từ cuốc sách đầu tiên, nổi tiếng thế giới với tiểu thuyết Giữa miền đất ấy (In the heart of the country, 1977) viết về tính bạo lực và thói ghẻ lạnh là bản chất của chính sách thuộc địa của người da trắng. “Ruồng bỏ” (Disgrace) của John Maxwell Coetzee – Một nhà văn hai lần đoạt giải Booker: Cuộc sống và thời đạicủa Michael K. (1983) và Ruồng bỏ (1999) – và đoạt giải Nobel Văn học năm 2003. Những tác phẩm của Coetzee được viết bằng giọng văn điềm đạm, ngắn gọn, ít phô diễn kĩ thuật, người mới đọc dễ nắm bắt được mạch tác phẩm của ông và hiểu được cốt truyện. Tất nhiên, để hiểu toàn bộ kĩ thuật hay dụng ý của Coetzee lại không đơn giản lắm. Các tác phẩm của ông thường đi sâu vào cuộc sống và suy nghĩ riêng của một người nào đó đặt trong một bối cảnh có biến động, phức tạp vì chính trị hoặc bị xô đẩy bởi chiến tranh, như trong Cuộc sống và thời đại của Michael K. thì là hành trình của K. Ruồng bỏ là hành trình của David Lurie, hay Tuổi sắt đá là về bà Curren, một giáo sư sống và chết dần vì bệnh ung thư. *** Ăn thêm chút nữa là anh có thể đi dạo được rồi - Tôi dỗ Michaels. Tuy nhiên, thứ anh ta thực sự cần là vật lý trị liệu thì chúng tôi lại không thể có. Anh ta thích một trong những đồ chơi Ịàm bằng cái que và hai sợi cao su. Anh ta cần một chế độ ăn kiêng từ từ, những bài tập nhẹ nhàng và vật lý trị liệu để sớm trở lại với sinh hoạt trại, có dịp diễu hành lên xuống qua trường đua, hô to các khẩu hiệu và chào cờ, rồi đào hố và lấp chúng lại. Tôi tình cờ nghe lỏm ở căngtin “Bọn trẻ thấy khó mà thích nghi với cuộc sống trong nhà. Chúng thực sự buồn nh ớ khu vườn rộng rãi và những con vật cưng của chúng. Chúng tôi phải sơ tán theo cách này: báo trước có ba ngày. Tôi có thể khóc khi nghĩ đến những thứ đã bỏ lại.” Người nói là một phụ nữ có gương mặt hồng hào, mặc bộ váy áo chấm tròn to, tôi cho là v ợ của một trong những NCO [ [4] ] . (Trong các giấc mơ về ngôi nhà bị từ bỏ của bà, một người đàn ông lạ đi cả giày nằm ườn ra trên tấm vải trải giường, hoặc mở tủ lạnh và nhổ bọt vào món kem). ... Mời các bạn đón đọc Cuộc sống và Thời đại của Michael K của tác giả John Maxwell Coetzee.
Những Người Đàn Bà Trong Gia Đình Kennedy - Pearl S. Buck
Những người đàn bà trong gia đình Kennedy (The Kennedy Women) mà các bạn đang cầm trên tay là quyển sách cuối cùng trong đời bà - Pearl S.Buck - hoàn tất vào khoảng tháng Giêng 1972, và ấn hành tháng Bảy cùng năm. Bà không viết gì nữa cho đến khi qua đời. Quyển sách của một trong những nhà văn lớn nhất thế giới, viết về một gia đình nổi tiếng nhất thế giới.Qua những nhận xét sắc bén và thâm trầm rất Đông phương, Pearl S.Buck không chỉ viết về những người đàn bà trong gia đình Kennedy, mà còn là một cái nhìn bao gồm những cá nhân sáng chói: những người đàn ông mang họ Kennedy.“Làm thế nào để trở thành một tổng thống Hoa Kỳ?” Hoặc “Làm cách nào để được như những người đàn ông mang họ Kennedy?” Tất cả sẽ được giải đáp trong quyển sách này. Và nhân đó, chúng ta sẽ hiểu vai trò của người đàn bà quan trọng như thế nào đối với sự thành công của người đàn ông trên cả hai phương diện: chính trị và tiền bạc.Tuy cuốn sách nhỏ này mang tựa đề là “Những người đàn bà trong gia đình Kennedy”, nhưng ở những chương cuối, bà cũng đã dày công nhận xét, phân tích, tình hình xã hội Mỹ, nhất là sau giai đoạn JFK bị ám sát, và đưa ra những lời giải thích cũng như tâm tư, mong muốn của giới trẻ Mỹ , mà đã từng bị coi là giới trẻ nổi loạn thời bấy giờ. *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Khi người con gái lên núi *** Gia đình Kennedy đã làm thay đổi quốc gia của chúng ta, và thay đổi chúng ta, hơn bất kỳ gia đình nào khác trong lịch sử Hoa Kỳ. Dĩ nhiên, thay đổi này cũng phải đơn độc mình họ, thay đổi của đời sống một quốc gia là một sự chuyển biến liên tục và gia đình Kennedy đã lộ diện, đã nhô lên đúng lúc trong lịch sử quốc gia chúng ta và trong lịch sử của thế giới. Chúng ta đang tiến tới gần một thời đại.   Hai cuộc thế chiến và cuộc chiến tiêu hao ở Triều Tiên đã cướp mất của chúng ta biết bao nhiêu nhân tài trẻ tuổi, có thể là những nhà lãnh đạo của quốc gia chúng ta và của thế giới. Sự mất mát lớn nhất trong chiến tranh không phải là tiền bạc. Sự mất mất luôn luôn và mãi mãi vẫn là sự mất mát những thanh niên sáng chói và tài ba trên phương diện lãnh đạo. Trong xứ sở và ở hải ngoại, thế hệ thứ hai hiện thời của chúng ta chỉ còn lại những nhà lãnh đạo hãng nhì .   Dưới thời đại Tống thống Truman và Eisenhower có thể nói là thời kỳ phục hồi. Dân chúng còn kiểm điểm bản thân và xem xét những lĩnh vực quanh đời sống của họ, họ chưa dám nhìn về tương lai xa hơn.   Họ mong muốn được dìu dắt bởi những người mà họ có thế đặt được tính nhiệm của họ.   Nhưng giai đoạn cầm quyền của Eisenhower có thể nói là giai đoạn gây ít nhiều thất vọng. Đồng ý là Eisenhower có nhiều kinh nghiệm và tài ba trên lĩnh vực quân sự, nhưng hiển nhiên, ông không có kinh nghiệm và tài ba trong lĩnh vực chính trị. Đức tính thanh khiết và thẳng thắn của ông phải được công nhận, nhưng sự tiên liệu và chuẩn bị, phải có, đối với một nhà lãnh đạo tài giỏi, ông gần như không có. Tuy vậy theo tôi nghĩ, qua những năm chậm chạp ấy, lại tào ra một môi trường tốt cho dân chúng, để họ có đủ thời giờ chuẩn bị, phản ánh và hiểu thêm các nhu cầu của họ, để họ sắp xếp, tìm kiếm một lối đi mới thích hợp trong đời sống. Việc tìm kiếm này đã dần dần kết tinh được một ước muốn sâu xa hơn, vững chãi hơn, trong tư tưởng non yếu lúc bấy giờ. Tóm lại, tất cả rất, cần thiết cho những kẻ can đảm và anh hùng dấn bước trên hướng đi mới mẻ của họ.   Đúng vào thời gian này, những người đàn ông mang họ Kennedy xuất hiện. Nếu Joseph Patrick Kenned Jr. người anh lớn của họ còn sống, thì sự xuất hiện có thể là quá sớm, và hấp lực của gia đình Kennedy cũng kém hẳn đi, nếu không nói là không có.   John Kennedy đã xuất hiện đúng lúc, đúng con đường cần thiết sự có mặt của ông.   Ông đã đến với sức mạnh truyền thống của Hoa Kỳ , của một giòng họ di trú ba đời ở quốc gia này , của sự giầu có, thành công và quyền thế, qua các hoạt động riêng của ông, ông đã lộ diện như là một vị anh hùng được mong mỏi.   "Những gì đã tạo nên người anh hùng ?" Chưa có ai tìm hiểu một cách rõ rệt. Theo tôi, một hành động liều lĩnh ngắn ngủi của một người, không có nghĩa người ấy là một vị anh hùng. Nhiều người có thể được gọi là anh hùng trong chốc lát, qua hành động can đảm nhất thời của họ. Tôi nghĩ: một vị anh hùng thật sự phải được nhìn qua các hành động liên tục của họ và chính bản thân họ gây ra sự tín nhiệm, lòng tin cậy và tối hậu là sự tôn kính.   Giải thích tốt nhất của hai tiếng anh hùng thường được sử dụng trong ngôn ngữ hiện đại là nên lấy nghĩa nguyên thủy của Hy Lạp: “thiên tài của cái đẹp”.   Trong một bữa ăn: tôi đã thảo luận với một người bạn có quan điểm chính trị độc lập, về hiện tượng Kennedy : "Vâng. đúng là nguy hiểm, ông ta tuyên bố. Một Kennedy này kế tiếp một Kennedy khác bước vào tòa Bạch ốc, chúng ta sẽ có một đế chế. Kennedy chỉ ở Bạch ốc hai nhiệm kỳ, không thể thêm hai nhiệm kỳ nữa. Không, không, tám năm là quá đủ. Tôi bỏ phiếu cho đảng Công hòa tám năm và rồi quay lại đảng Dân Chủ. Nhưng chắc bà công nhận, một Kennedy và tòa Bạch ốc với tất cả ma lực của ông, dân chúng đã bị mê hoặc và họ muốn ông ta ở lại mãi mãi."   Gia đình Kennedy có ma lực, mỗi người trong gia đình này đều có, nhưng John Kennedy và vợ ông, Jacqueline, có ma lực  vô song. Robert Kennedy cũng có ma lực và góp thêm vào ma lực của người anh, sau khi người anh này bị ám sát. Ma lực không luôn luôn có tính chất mời gọi sự yêu thương mà nó còn, thỉnh thoảng, mời gọi sự đố kỵ và bạo hành nữa.   Một chiều ở Arizona, khi tôi đến dự tiệc tại nhà một góa phụ giàu có, một người đàn bà sáu mươi tuổi, thành thật và giản dị, nhưng bà ta đã gây cho tôi sự kinh ngạc. Đó là lúc một thanh niên lên tiếng bàn về Robert Kennedy, và cuối cùng với giọng điệu mến mộ, anh ta cho rằng Robert có thể là vị Tống thống sắp đến của Hoa Kỳ. Khuôn mặt đáng mến của nữ chủ nhân biến đổi luôn luôn. Thật ra, phải nói là một khuôn mặt biểu lộ sự oán ghét vô tả. ... Mời các bạn đón đọc Những Người Đàn Bà Trong Gia Đình Kennedy của tác giả Pearl S. Buck.
Người Xa Lạ - Albert Camus
Người xa lạ (còn được dịch Kẻ xa lạ hay Người dưng; tiếng Pháp: L'Étranger) là một tiểu thuyết của Albert Camus được viết vào năm 1942. Đây là một tác phẩm lạ thường nói về một người đàn ông Pháp bị bệnh tâm thần, người mà cuối cùng đã bị tống giam vì tội giết người, và ngồi chờ bị hành hình. Trong thời gian đó, ông đã suy nghĩ rất nhiều về cuộc đời của ông cũng như nhìn ra được và ao ước có được một cuộc sống an lành trở lại. Đây là một trong những tác phẩm đầu tay của Albert Camus, cũng như những học thuyết cơ bản của ông về những điều phi lý và vô lý (tiếng Anh: absurdism) *** Albert Camus sinh ngày 7 tháng 11 năm 1913 tại Mondovi, một làng ở Constantinois, gần Bône, Algérie. Cha ông, Lucien Camus, một công nhân sản xuất rượu nho vùng Mondovi cho một thương gia thành phố Alger. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, Lucien Camus bị động viên vào tháng 9 năm 1914, bị thương trong trận chiến Marne và chết tại bệnh viện quân y Saint-Brieuc ngày 17 tháng 10 năm 1914. Về cha mình, Abert chỉ biết qua một bức ảnh duy nhất còn để lại. Albert đến Paris làm biên tập cho tờ Paris-Soir. Năm 1942, ông phát hành cuốn tiểu thuyết L'Étranger (Người xa lạ) và tiểu luận Le Mythe de Sisyphe (Huyền thoại Sisyphe), trong đó ông đã trình bày những tư tưởng triết học của mình. Sisyphe là một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp bị trừng phạt phải lăn một hòn đá lớn lên núi dốc, khi đến đỉnh hòn đá lại rơi trở xuống chân dốc, cứ thế Sisyphe tiếp tục lăn lên rồi rơi xuống theo một chu kỳ vĩnh cửu. Theo hệ sự phân loại của riêng Albert, các tác phẩm đó thuộc "thời kỳ phi lý" (cycle de l'absurde), cùng với các vở kịch Le Malentendu (Ngộ nhận, 1944) và Caligula (1945). Năm 1943, ông làm việc cho nhà xuất bản Gallimard rồi làm chủ biên tập báo Combat, cũng trong năm này ông gặp và làm quen với Jean-Paul Sartre. Những tác phẩm tiếp theo của Camus thuộc "thời kỳ nổi loạn" (cycle de la révolte), trong đó nổi tiếng hơn cả phải kể đến La Peste (Dịch hạch, 1947), kế đến L'État de siège (1948), Les Justes (1949) và L'Homme révolté (Người nổi loạn, 1951). Trong quyển tiểu luận triết học Người nổi loạn, ông đã trình bày tất cả các hình thức nổi loạn (siêu hình, chính trị và nghệ thuật...) qua mọi thời đại. Ông miêu tả con người cảm nhận sâu sắc sự phi lý của cuộc sống, luôn muốn nổi dậy, chống lại nỗi khốn khổ của kiếp người, nhưng cuối cùng vẫn không có lối thoát, mọi cố gắng đều hoàn toàn vô ích. Tình bạn giữa Albert Camus và Jean-Paul Sartre rạn nứt vào năm 1952, sau khi trên tạp chí Les Temps modernes của Sartre, Henri Jeanson đã chê trách sự nổi loạn của Camus là "có suy tính". Năm 1956, tại Alger, Albert công bố "Appel pour la trêve civile". Cũng trong năm đó, cuốn La Chute, tác phẩm quan trọng cuối cùng của Albert Camus được xuất bản. Ngày 4 tháng 1 năm 1960, tại Petit-Villeblevin vùng Yonne, Albert Camus mất trong một tai nạn giao thông. Trên chiếc xe Facel Véga khi đó còn có một người bạn của ông Michel Gallimard và người cháu Gaston. Albert Camus được chôn cất ở Lourmarin, vùng Vaucluse, nơi ông đã mua một căn nhà trước đó. *** Lần thứ ba tôi từ chối linh mục. Tôi không có gì để nói với ông ta, cũng không muốn nói, mà đằng nào thì cũng sắp gặp ông ta. Điều tôi quan tâm khi đó là làm sao thoát khỏi máy chém, liệu có thể có lối thoát nào hay không. Người ta đã chuyển tôi sang phòng giam khác. Tại đây, khi nằm duỗi dài, tôi nhìn thấy bầu trời và không gì khác. Ngày nào tôi cũng chỉ nhìn thấy trên đó những màu sắc tối dần khi ngày tàn và đêm đến. Khi chuẩn bị ngủ, tôi đưa hai tay xuống dưới gáy và nằm chờ. Tôi không nhớ đã bao lần tự hỏi liệu đã có trường hợp nào bị khép tội chết lại thoát được khỏi cỗ máy lạnh lùng sau khi giật đứt tung dây trói của cảnh sát và bỏ chạy hay chưa. Tôi tự trách mình đã không chú ý đến những câu chuyện về hành hình. Đáng lẽ phải quan tâm đến những vấn đề như vậy. Người ta đâu biết được điều gì sẽ đến. Cũng như mọi người, tôi đã đọc những chuyện viết trên báo chí. Nhưng chắc chắn có những tác phẩm đặc biệt mà tôi đã không tò mò xem đến. Ở đó có lẽ tôi đã tìm được những câu chuyện về những vụ tẩu thoát. Biết đâu tôi lại chả đọc được rằng ít nhất có một trường hợp bánh xe của cỗ máy đã dừng lại, và trong tiến trình bất khả kháng này đã xảy ra một sự tình cờ, chỉ một lần duy nhất, khi một cơ cấu gì đó bị trục trặc. Chỉ một lần! Không hiểu sao tôi nghĩ rằng thế là đủ. Trí tưởng tượng của tôi sẽ làm những việc còn lại. Báo chí hay nói về món nợ trước xã hội. Theo họ thì cần phải trả nợ. Nhưng cái đó chẳng liên quan gì đến trí tưởng tượng. Điều tôi quan tâm là khả năng thoát thân, một cú nhảy ra khỏi cái nghi lễ quái ác, một cuộc tháo chạy tạo ra mọi cơ hội để hy vọng. Tất nhiên, như thế cũng có nghĩa là hy vọng sẽ bị bắn chết ở một góc phố, khi đang cắm cổ chạy, và một viên đạn bay tới. Nhưng, nghĩ tới nghĩ lui, chẳng có gì có thể đem lại sự xa hoa đó, tất cả đều bế tắc, và cỗ máy chém sẽ tóm lấy tôi. Mặc dù rất có thiện chí, tôi vẫn không thể nào chấp nhận được phán quyết độc đoán này. Vì rõ ràng có một sự bất tương xứng nực cười giữa bản án và hệ quả không tránh khỏi của nó bắt đầu từ thời điểm tuyên án. Việc bản án được tuyên đọc vào lúc 20 giờ thay vì 17 giờ, việc nó có thể hoàn toàn khác đi, việc nó được quyết định bởi những người ba phải, và nó được đưa ra trên cơ sở một khái niệm mập mờ là “nhân dân Pháp” (là “Đức” hay “Trung Hoa” thì có khác chi?), tất cả làm tôi cảm thấy người ta đã nghiêm trọng hóa quá đáng khi đưa ra một quyết định như vậy. Tuy nhiên, tôi buộc phải thừa nhận rằng một giây sau khi nó được tuyên, các hiệu ứng của nó đã trở nên xác định, nghiêm trọng, và làm tôi cảm nhận được rõ ràng sự tồn tại của bức tường mà tôi đang nằm dài bên cạnh. ... Mời các bạn đón đọc Người Xa Lạ của tác giả Albert Camus.
Nàng Lika - Ivan Bunin
“Nàng Lika” là phần cuối (phần V) của bộ tự truyện Cuộc đời Arxênhép, tác phẩm chủ yếu mà nhờ đó Bunhin đã được tặng giải thưởng Nôben (1933). Sinh thời Bunhin cũng như sau này ở Liên Xô nhiều lần phần này của bộ tự truyện đã được in riêng như một tác phẩm độc lập bởi sự hoàn chỉnh về hình thức cũng như chủ đề. Gọi là “tự truyện” cũng chỉ là tương đối, vì ở đây cái thật cái hư xen lẫn nhau. Địa danh, tên người phần lớn đều được thay đổi. Hình mẫu của nàng Lika Vácvara Pasencô, người mà Bunhin đã cùng chung sống suốt mấy năm, khi ông mới bước vào đời. Trong truyện của Bunhin, so với Vácvara, Lika đẹp lên rất nhiều cả về nội tâm cũng như ngoại hình. Lika mất ngay sau khi chia tay, còn ngoài đời thật thì Vácvara đã kịp đi lấy Bibicốp, con một nhà buôn giàu có và sống với y hơn 20 năm. Lika của Bunhin là hiện thân của vẻ đẹp cổ điển Nga, – yếu đuối, chân thành, cả tin, hồn hậu mà cũng rất bạo liệt vào những khúc rẽ ngoặt của cuộc đời. Còn nhân vật “tôi” thì đã phải trả giá cho cách sống quá phóng đãng của mình. Anh yêu Lika, yêu tận cuối lòng, nhưng lại nhân danh “chất nghệ sĩ” tự cho mình cái quyền đón nhận mọi cảm giác mới lạ của những chuyến phiêu du. Lika không chấp nhận được bất cứ sự san xẻ tình cảm nào, nàng đã tự chọn con đường ra đi… Nhưng có lẽ cái kết thúc ấy đã giữ cho tình yêu của nàng trọn vẹn…” *** Ivan Bunin sinh ngày 22/10/1870 tại Voronezh, tốt nghiệp trường Đại học Moskva. Sau đó ông là một nhà báo, và thư ký. Ông xuất bản tập thơ đầu tiên của mình vào năm 1891. Đến năm 1903, ông được nhận giải thưởng Pushkin của học viện Nga về các tác phẩm thơ dịch của Anh và Mỹ. Sau khi cuộc cách mạng bolshevik nổ ra vào năm 1917, ông sang Paris sinh sống. Các tác phẩm chính của ông bao gồm, các tuyển tập truyện ngắn Gospodin iz San Frantsisko – Quý ngài đến từ San Francisco và Tyomnye Alley – Con đường u ám, các tiểu thuyết Derevnya – Ngôi làng và Mitina lyubov – Tình yêu của Mitia. Truyện ngắn của I.Bunin phần lớn thuộc loại truyện không có cốt truyện. Các truyện viết chủ yếu là thông qua sự hoài niệm, nhớ lại của tác giả về những gì đã qua. Vì thế, tính chất tự truyện cũng là một đặc điểm nghệ thuật của văn xuôi Bunin. Có thể là ký ức của chính tác giả, hoặc của nhân vật “tôi” trong truyện. Chính hình thức nhớ lại này đã giúp cho tác giả bộc lộ cảm xúc trữ tình của mình đối với con người và cảnh vật được mô tả. Trong các truyện ngắn của ông, chúng ta thường thấy các cụm từ "ngày ấy", “vào thời gian đó” hay "hình như ngày đó"... diễn tả khoảng thời gian xảy ra chuyện nhưng cũng chính là hoài niệm của tác giả. Với lối kết cấu này, mặc dù đang sống thời hiện tại nhưng nhà văn có thể trở lại với quá khứ một cách dễ dàng thông qua những hồi ức, kỷ niệm. Chính sự đam mê hội hoạ và âm nhạc từ nhỏ của nhà văn là yếu tố quan trọng tạo nên chất tạo hình và khắc họa chân dung trong sáng tác của ông. Nhân vật hầu như không có sự xung đột hoặc cãi cọ nhau ồn ã. Sự thất vọng được thể hiện thông qua tiếng thở dài (Lần gặp gỡ cuối cùng); cái lắc đầu và nhắm mắt thay cho sự day dứt, luyến tiếc (Những lối đi dưới hàng cây tăm tối). Nhà văn dành những năm cuối đời để viết quyển sách về Chekhov, nhưng không kịp hoàn thành. Đêm 8/11/1953, Ivan Bunin qua đời trong tay người vợ của mình. Ông được mai táng tại Sainte-Geneviève-des-Bois, nghĩa trang "người Nga" ở Paris. *** Về chiều nắng nực giảm đi. Mặt trời đã khuất phía sau nhà. Chúng tôi ngồi uống trà trong phòng kính, bên cạnh cửa sổ mở ra sân. Lúc này nàng đọc rất nhiề những giờ ấy nàng hay đặt nhiều câu hỏi với anh tôi, và anh tôi thích thú chỉ dẫn cho nàng cặn kẽ. Chiều thật yên ắng, lặng gió, – chỉ có mấy chú nhạn thoáng bay qua sân rồi bỗng vút lên cao, mất hút trong thinh không xa thẳm. Họ nói chuyện với nhau, còn tôi thì lắng nghe tiếng ai đang hát. Bài ca hát về mấy người dân quê đang gặt lúa trên mấy cánh đồng cao cao. Âm điệu bài ca phẳng lặng, ngân dài, thấm đượm nỗi buồn ly biệt, tiếp đó là những âm thanh rắn rỏi, hùng dũng về những đoàn quân.   Bài ca như buồn bã dõi theo đoàn quân kazắc đang chầm chậm tiến qua thung lũng, dẫn đầu là vị tướng Đôrôsencô vinh quang…   Tôi lắng nghe tiếng bài hát, trong lòng cảm thấy buồn buồn pha chút ghen tỵ ngọt ngào.  Vào lúc hoàng hôn chúng tôi di dạo chơi, thỉnh thoảng đi lên phố, có lúc tới vườn hoa nhỏ trên bờ đất thoai thoải gần nhà thờ, có khi ra cánh đồng ngoài thành phố. Trong thành phố có vài đường phố lát đá, – đó là khu buôn bán của người Do Thái với một số lượng nhiều đến khó hiểu những hiệu đồng hồ, thuốc tân dược và hiệu thuốc lá. Những đường phố này còn giữ nguyên cái nóng sau một ngày mặt trời thiêu đốt, trên những ngã tư có quầy giải khát, ở đó khách bộ hành có thể uống những cốc xirô đủ màu sắc. Điều này nhắc tôi nhớ tới niềm Nam, thúc giục tôi đi xa hơn về phía Nam, – tôi vẫn còn nhớ dạo ấy không hiểu sao tôi rất hay nghĩ tới miền Kerơsơ. Nhìn từ trên nhà thờ xuống thung lũng, tôi mường tượng ra mình đang đi đến Krêmemtrúc, đến Nhicôlép. Ra cánh đồng ngoài thành phố chúng tôi thường đi qua vùng đầu ô phía tây trông hệt như thôn quê. Những ngôi nhà, vườn cây, ruộng dưa hấu nằm sát bên con đường thẳng tắp dẫn đến Mirơgôrốt. Tít tận đằng xa trên con đường dọc theo hàng cột dây thép có chiếc xe do hai con bò kéo đang chầm chậm lăn bánh rồi dần dần mất hút đi trên biển thảo nguyên như hàng cột điện cũng dần dần trở nên bé như cái que rồi không còn thấy nữa. Đó là đường tới Ianốpsina, Iarexca, Sisaki…   Nhiều khi chúng tôi dạo chơi buổi tối trong công viên thành phố. Ở đấy có dàn nhạc chơi, hàng hiên sáng ánh đèn của nhà hàng nổi bật lên từ xa như một cái sân khấu. Anh tôi đi thẳng vào nhà hàng, còn tôi và nàng thỉnh thoảng đi về phía vườn giáp với bờ sông cao cao. Đêm tối đen, ấm áp. Trong bóng đêm phía dưới, đây đó thấp thoáng ánh đèn, những bài ca khi bổng khi trầm nghiêm trang vọng lại – đó là những đám thanh niên vùng ngoại ô đang hát. Bài ca như hoà lẫn vào bóng đêm yên tĩnh. Đoàn tàu với những ô cửa sáng rầm rập chạy qua, tiếng động của nó nhỏ dần, nhỏ dần – lúc đó tôi cảm thấy thật rõ cái thung lũng này xa, sâu đến thế nào, vệt sáng đoàn tàu dần mất hút trong đó như thể nó chui sâu xuống đất. Tiếng hát lại nghe rõ, cả vòng cung chân trời bên thung lũng như chìm trong tiếng ếch kêu mơ hồ không dứt.   Khi chúng tôi bước lên hàng hiên đông đúc người ở nhà hàng, ánh sáng ở đấy khiến chúng tôi ngỡ ngàng lóa mắt. Anh tôi lúc này đã ngà ngà say, vẻ mặt hiền hoà, ngay lập tức vẫy tay gọi chúng tôi lại bàn, nơi anh ngồi cùng Vaghin, Lêôntêvích, Xulima. Mọi người hồ hởi xếp chỗ ngồi cho chúng tôi, cho gọi thêm rượu vang trắng, đưa thêm cốc và đá. Lát sau tiếng nhạc đã ngừng, vườn cây quanh hiên đã vắng vẻ chìm trong bóng tối, thỉnh thoảng có làn gió nhẹ từ đâu thổi tới, mấy ngọn nến đặt trong chụp thủy tinh bám đầy côn trùng bé lấm tấm; nhưng mọi người vẫn tiếp tục nói chuyện, thời gian còn sớm sủa. Cuối cùng thì mọi người đều thấy rằng đã đến lúc phải ra về. Tuy nhiên chúng tôi cũng không chia tay ngay – chúng tôi kéo cả đoàn đi về nhà, vừa đi vừa nói to, nện gót giầy cồm cộp. Vườn cây đã yên lặng như tờ, che phủ một màn đen bí ẩn, trăng muộn màng nhô lên trên đường chân trời tỏa ánh sáng vàng mờ nhạt, ấm áp. Khi chỉ còn anh em tôi cùng nàng đi vào sân nhà mình, ánh trăng đã rọi xuống đấy, soi sáng gian nhà kính; có tiếng con chim chích chốn nào kêu khe khẽ; mỗi một cái lá cây dạ hợp mọc gần ngôi nhà nhỏ, mỗi cành cây đều in bóng rõ ràng mềm mại lên bức tường màu trắng. ... Mời các bạn đón đọc Nàng Lika của tác giả Ivan Bunin.