Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tình Yêu Trở Lại - Rachel Gibson

Một cuốn truyện tình yêu cảm động về những đấu tranh buông bỏ hay níu giữ tình yêu sau bao năm tưởng có thể quên lại dường như trở lại.... *** Anh ấy không yêu tôi Daisy Lee Monroe cho rằng mình đã dứt bỏ được Lovette, Texas từ nhiều năm về trước, nhưng khi trở lại quê nhà, cô nhận ra mọi thứ chẳng thay đổi gì mấy. Em gái cô vẫn suy nghĩ thiếu sáng suốt, sân trước nhà mẹ cô vẫn còn những con hồng hạc nhựa màu hồng. Và Jackson Lamott Parrish, anh chàng xấu xa mà cô từng bỏ lại sau lưng, vẫn quyến rũ đến chết người. Chẳng có gì làm cô thấy dễ chịu hơn là tránh xa người này, nhưng cô không thể. Daisy có chuyện muốn nói với Jackson, và cô sẽ chẳng đi đâu hết cho đến khi anh chịu lắng nghe cô nói. Jackson từng nhận được một bài học cay đắng về Daisy, và giờ đây từ duy nhất anh muốn nghe từ đôi môi đỏ mọng của Daisy là: tạm biệt. Nhưng cô xuất hiện ở khắp mọi nơi, và anh không tin đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Có vẻ như cách duy nhất để buộc cô im miệng là hôn cô, nhưng trước đây, việc hôn Daisy từng khiến anh thảm hại vô cùng. Hiện tại, liệu anh có đủ mạnh mẽ để cưỡng lại sức hút của cô không? Có đủ cứng rắn đứng nhìn cô bước ra khỏi đời mình một lần nữa không? Có đủ kiên quyết để cô giữ cô ở lại bên anh? Một cuốn truyện hấp dẫn những ai đang băn khoăn tìm hiểu những cảm xúc nằm ngoài lí trí của tình yêu. *** Bộ sách Lovett Texas, gồm có:  Daisy's Back in Town - Tình Yêu Trở Lại Crazy on you - Yêu Em Cuồng Si Rescue Me - Hãy Cứu Em I Do! *** Hơi nóng lượn lờ trên mặt bê tông khi chiếc ’63[1] Thunderbird lướt ra từ trong bóng tối của xưởng xe. Động cơ V8 và bộ chế hòa khí Holley hai ống xả rên lên như một người đàn bà thỏa mãn, đầy ấm áp, gợi cảm, với chất giọng khàn khàn. Ánh mặt trời Texas nóng rực tạo ra cả trăm đốm sáng nho nhỏ trong vành bánh xe, lướt dọc mạn xe làm từ crôm và rót ánh sáng xuống nước sơn đen bóng loáng. Chủ chiếc xe nhìn nó lăn bánh về phía mình và mỉm cười tán thưởng. Vài tháng trước, chiếc Sports Roadster này chẳng hơn gì nhà của lũ chuột. Giờ đây, khi đã được khôi phục trọn vẹn vẻ rực rỡ xưa kia, nó đẹp chói lọi – gợi nhớ lại quãng thời gian mà dân cư Detroit có hứng thú với khả năng đạt tốc độ chín mươi ki-lô-mét trong tám giây hơn là số ki-lô-mét đi được trên mỗi gallon, những tính năng bảo đảm an toàn, hay chỗ đặt đồ đựng cốc. Jackson Lamott Parrish ngồi trong chiếc T-bird[2] có đồ nội thất bằng da thuộc màu đỏ, một cổ tay vắt lên vô lăng màu đỏ. Ánh nắng chiếu vào mái tóc nâu dày và nếp nhăn hình thành trên hai khóe đôi mắt màu xanh lục khi anh hạ mi mắt xuống trước ánh nắng chói chang. Anh rồ máy lần cuối, rời tay khỏi vô lăng và kéo phanh xe. Anh đẩy cửa xe và đặt đế đôi bốt cao bồi xuống vỉa hè. Bằng một động tác uyển chuyển, anh đứng dậy và chủ của chiếc Roadster vừa được tân trang bước lên trước đưa anh một tấm séc. Jack liếc nhìn nó, để ý thấy mọi số không đã ở đúng chỗ, đoạn gấp đôi nó lại, nhét vào túi áo sơ mi trắng trước ngực. “Tận hưởng nhé,” anh nói, rồi xoay người đi vào cửa hàng. Anh đi qua một chiếc ‘Cuda 440-6 từ năm một chín bảy mươi, động cơ Hemi khổng lồ của nó treo lơ lửng trên một cái cần cẩu. Qua tiếng máy nén khí và các thiết bị có động cơ, em trai của Jack, Billy, gọi một thợ cơ khí từ dưới một chiếc ‘59 Dodge Custom Royal Lancer. Ngày mai, khoảng trống vừa được chiếc T-bird bỏ lại sẽ được anh lấp đầy bằng một chiếc Corvette một chín năm tư. Cỗ xe thể thao cổ điển ấy được tìm thấy trong một xưởng xe ọp ẹp ở Nam California, và ba ngày trước Jack đã bay tới đó để xem xét chiếc xe. Khi anh phát hiện ra là nó mới chỉ đi được sáu mươi tư nghìn ki-lô-mét và mọi con số đều phù hợp, anh mua nó với giá tám nghìn đô ngay tại chỗ. Một khi đã được khôi phục hoàn toàn, chiếc Vette này sẽ mang lại gấp mười lần con số đó. Về việc khôi phục xe ô-tô cổ, công ty xe Mỹ cổ Parrish là số một. Ai cũng biết điều đó. Những chiếc ô-tô “cơ bắp”[3] nổ đinh tai nhức óc, chạy rầm rầm trên đường đã ăn sâu trong máu đàn ông nhà Parrish. Từ khi bước những bước chân đầu tiên, Jack và Billy đã làm việc trong xưởng xe của cha mình. Họ đã tháo động cơ đầu tiên trước cả khi mọc lông vùng kín. Họ có thể phân biệt một chiếc 260 V8 với một chiếc 289 kể cả khi nhắm mắt và lắp lại máy phun xăng trong khi ngủ. Là những đứa con kiêu hãnh của Lovett, Texas, dân số mười chín nghìn ba trăm, các chàng trai nhà Parrish đã trưởng thành cùng tình yêu bóng đá, bia lạnh, và phá vỡ nhựa đường trên những con đường rộng bằng phẳng – thường là cùng lúc có một cô nàng tóc xù bông lả lơi nào đó tô lại son môi bằng gương chiếu hậu. Hai chàng trai được nuôi lớn trong một ngôi nhà ba phòng ngủ sau xưởng xe. Giờ thì cửa hàng ban đầu không còn nữa. Bị dỡ xuống và thay thế bằng một không gian lớn hơn, hiện đại hơn, chia làm tám khu nhà để xe. Khoảnh sân sau xưởng xe đã được dọn dẹp. Những cỗ xe cũ kỹ và những bộ phận bỏ đi bị kéo đi từ lâu lắm rồi. Dù vậy, căn nhà vẫn như xưa. Vẫn những khóm hoa hồng mà mẹ họ đã trồng, vẫn có những khoanh đất và cỏ dưới tán cây du cao chót vót. Vẫn hiên nhà bằng bê tông và cánh cửa kính cần kha khá WD-40[4]. Căn nhà mới được khoác một lớp sơn mới, cả trong lẫn ngoài. Vẫn màu trắng như trước. Sự khác biệt thật sự duy nhất là giờ Jack sống ở đây một mình. Bảy năm trước, Billy cưới Rhonda Valencia và vui vẻ từ bỏ lối sống phóng túng trước sự sung sướng của những người trong vùng. Trong trí nhớ của tất cả mọi người trong thị trấn, Jack chưa bao giờ nảy sinh ý muốn từ bỏ cái lối sống phóng túng ấy. Theo những gì họ biết, anh chưa từng gặp một người phụ nữ khiến anh muốn có cuộc sống một-một. Trọn đời. Nhưng họ không biết hết mọi chuyện. Jack đi vào văn phòng của mình ở cuối xưởng xe và đóng cửa lại. Anh nhét tấm séc vào một ngăn bàn và kéo ghế ra. Trước khi mua chiếc ’54 Corvette, anh đã tìm kiếm lịch sử của nó rồi bay tới California để kiểm tra nó nhằm bảo đảm rằng không có hư hỏng nghiêm trọng nào trong toàn bộ cấu trúc của cỗ xe. Việc tìm kiếm lịch sử một cỗ xe, tìm những bộ phận thay thế rồi khôi phục nó thôi thúc và thu hút anh cho tới khi cỗ xe hoàn hảo trở lại. Đã được sửa chữa. Tốt hơn. Hoàn thiện. Penny Kribs, thư ký của Jack, đi vào văn phòng và đưa anh thư từ trong ngày. “Em sắp về để đi làm tóc đấy nhé,” cô nhắc anh. Jack ngước lên nhìn mớ tóc đen lưa thưa trên đầu Penny. Anh đã học cả mười hai năm cùng Penny, và anh cũng chơi cùng đội bóng bầu dục với chồng cô, Leon. Anh đứng dậy và đặt thư lên bàn. “Em sắp làm đẹp vì anh à?” Cô đeo nhẫn ở hầu hết các ngón tay và có bộ móng dài màu hồng trông như móng vuốt. Anh thường tự hỏi làm sao cô gõ máy tính mà không ấn nhầm phím khác hay bôi được chừng ấy mascara mà không chọc mù con mắt nào. Anh thậm chí còn không muốn nghĩ đến cảnh cô ôm tay vào thằng bé của Leon nữa. Ý nghĩ ấy làm anh rợn sống lưng. “Tất nhiên,” cô nói với một nụ cười. “Anh biết là anh lúc nào cũng là mối tình đầu của em mà.” Phải rồi, anh biết. Năm lớp ba, Penny đã bảo anh rằng cô yêu anh rồi đá vào cẳng chân anh bằng đôi giày da màu đen của cô. Anh luôn thấy rằng mình không cần thứ yêu thương đó. “Đừng nói với Leon nhé.” “À, anh ấy biết mà.” Cô vẫy tay rồi đi ra cửa, mùi nước hoa vương vất lại sau lưng. “Anh ấy cũng biết là em sẽ chẳng bao giờ dính dáng gì đến anh.” Jack khoanh tay trên ngực và tựa người vào mép bàn. “Vì sao chứ?” “Bởi vì anh đối xử với phụ nữ như người mắc chứng biếng ăn đối xử với kẹo Whitman Sampler. Anh nhấm nháp chỗ này một chút, chỗ nọ một chút. Có lẽ anh sẽ cắn vài miếng, nhưng anh không bao giờ ăn toàn bộ.” Jack bật cười. “Anh nghĩ có vài phụ nữ có thể thay đổi suy nghĩ đó của em.” Penny không thấy thú vị. “Anh hiểu ý em mà,” cô nói qua vai khi bước ra khỏi cửa. Phải rồi, anh hiểu ý cô. Như đa số phụ nữ, Penny nghĩ anh nên kết hôn, nuôi dạy con cái và lái một chiếc SUV. Nhưng theo Jack, anh thấy em trai mình đã đảm trách nghĩa vụ đó hộ phần cả hai người họ rồi. Billy có ba cô con gái ở độ tuổi từ sáu tháng tới năm tuổi. Họ sống trong một con phố cụt với một cái xích đu ở sân sau, và Rhonda lái một chiếc Tahoe, một sự lựa chọn khác của các bà mẹ ưa thể thao ở mọi nơi. Với từng ấy cô cháu gái, Jack thấy mình không cần phải mang thêm một đứa Parrish khác vào thế giới này. Anh là “bác Jack,” và anh thấy ổn thỏa với điều đó. Anh quay lại ghế và mở khuy cổ tay áo ra. Anh xắn ống tay áo lên bắp tay, sau đó quay về làm việc. Hôm nay là thứ Sáu và anh có cả núi việc phải xử lý xong trên bàn trước khi có thể bắt đầu những ngày cuối tuần của mình. Lúc năm giờ, Billy mở cửa để bảo anh rằng cậu sắp về nhà. Jack liếc nhìn chiếc đồng hồ Buick Riviera đặt cạnh màn hình máy tính. Em trai anh mới ở chỗ làm có ba tiếng mười lăm phút. “Em sẽ đến trận T-ball[5] của Amy Lynn,” Billy nhắc đến cô con gái năm tuổi của mình. “Anh sẽ đến công viên chứ?” Amy Lynn là con gái lớn của Billy và Jack cố gắng đến trận đấu của con bé mỗi khi có thể. “Không phải tối nay,” anh trả lời và ném bút lên bàn. “Tối nay có bữa tiệc độc thân của Jimmy Calhoun ở quán The Road Kill,” anh nói. Mãi đến gần đây, Jimmy vẫn là một gã thích chè chén. Giờ đây cậu ta sắp sửa từ bỏ tự do của mình vì hai chiếc nhẫn đôi. “Anh đã bảo cậu ta là anh sẽ ghé qua một lát.” Billy mỉm cười. “Sẽ có vũ công thoát y chứ?” “Anh cho là có.” “Đừng nói với em là anh thích xem phụ nữ cởi truồng hơn là một trận T-ball nhé?” Nụ cười toe toét của Jack giống hệt em trai mình. “Phải rồi, đó là một lựa chọn khó khăn. Xem phụ nữ cởi đồ hay là nhìn lũ nhóc năm tuổi chạy quanh các gôn với mũ bảo hiểm đội ngược.” Billy bật cười, theo một kiểu đặc biệt của riêng cậu với đầu ngả ra sau và phát ra vài tiếng hơ-hơ-hơ. Điệu cười đó giống cha họ, Ray, đến mức Jack cho rằng nó phải do gen di truyền. “Đồ may mắn,” Billy nói, nhưng không mấy thật lòng. Cả hai người họ đều biết rằng Bill thích xem Amy Lynn chạy vòng vòng với mũ bảo hiểm đội ngược hơn. “Nếu anh cần người lái xe đưa anh về từ quán The Road Kill,” Bill nói thêm trên đường ra cửa, “thì hãy gọi em nhé.” “Tất nhiên.” Một người lái xe say xỉn đã cướp đi mạng sống của cha mẹ họ khi Jack mới mười tám tuổi. Hai anh em quyết tâm là họ sẽ không bao giờ lái xe khi say. Jack làm việc thêm một tiếng nữa trước khi tắt máy và ra khỏi xưởng xe qua lối các khu chứa xe. Những người khác đã ra về, và tiếng đế giày của anh vang lên trong bầu không khí tĩnh mịch. Anh khóa cửa, bật chuông báo động rồi nhảy vào chiếc Shelby Mustang. Trời bắt đầu mưa khi anh lái xe về phía ngoại ô Lovett. Vài hạt mưa lưa thưa hòa lẫn cùng bụi và gió, biến màu đen bóng loáng của chiếc xe thành một màu xám mờ xỉn. Quán The Road Kill rất giống các quán bar khác rải rác khắp vùng cán xoong Texas. Nhạc đồng quê phát ra từ máy hát tự động trong khi các khách quen nốc cạn những vại bia Lone Star. Một tấm bảng ĐỪNG GÂY SỰ VỚI DÂN TEXAS màu đỏ-trắng-và-xanh treo trên tấm gương sau quầy bar, trong khi các tấm biển báo giao thông cũ, tatu[6] và rắn chuông nhồi bông trang trí trên tường. Chủ quầy bar cũng đồng thời là một người nhồi bông thú, và nếu một vị khách quá tha thiết, hay đã đủ say, anh ta hoặc cô ta có thể mua một cái thắt lưng rắn chuông hoặc một cái túi bằng da tatu cực kỳ hấp dẫn với mức giá ưu đãi. Khi Jack đi vào quán bar, anh đẩy vành mũ Stetson của mình lên và dừng lại ở ngưỡng cửa đủ lâu để mắt kịp thích nghi trước khi tiến lại quầy bar. Anh chào hỏi vài câu với vài vị khách quen. Xen giữa tiếng Clint Black trong hộp nhạc tự động, anh có thể nghe thấy tiếng bữa tiệc độc thân của Jimmy đang lên đến cao trào ở phòng sau. “Một chai Lone Star,” anh gọi. Một chai bia xuất hiện trên quầy bar và anh đưa ra tờ năm đô. Anh cảm nhận được một bàn tay mềm mại đặt trên cánh tay mình và quay sang nhìn vào khuôn mặt của Gina Brown. “Chào Jack.” “Chào Gina.” Gina cùng tuổi với Jack và đã ly dị hai lần. Cô là một cô gái miền Texas cao ráo, mảnh dẻ thích cưỡi bò máy ở quán Slim Clem’s gần đường cao tốc 70. Cô ta mặc quần bò Wranglers thật bó, áo Justins thật ôm, và tóc nhuộm đỏ. Jack biết cô nhuộm tóc bởi vì cô ta cũng thích trèo lên người anh. Nhưng dạo gần đây có dấu hiệu cho thấy cô ta đang tính toán cưới anh làm chồng ba. Anh đã phải làm nguội mọi chuyện để cô ta bỏ ngay cái ý nghĩ ấy ra khỏi đầu. “Anh đến tham dự buổi tiệc độc thân ở phía sau kia à?” Cô chăm chú nhìn anh qua khóe đôi mắt xanh dương. Anh có mù mới không nhận thấy lời mời mọc đang uốn cong đôi môi cô ta. “Phải.” Jack đưa chai bia lên môi và hớp một ngụm lớn. Anh không có hứng thú hâm nóng lại mọi chuyện. Anh thích Gina, nhưng anh không thuộc tuýp làm chồng. Anh lấy tiền thừa từ quầy bar và nhét vào túi trước quần jeans. “Gặp em sau nhé,” anh nói và quay người bỏ đi. Câu hỏi tiếp theo của Gina làm anh dừng ngay lại. “Anh đã gặp Daisy Lee chưa?” Jack hạ chai bia xuống và đột nhiên thấy khó mà nuốt nốt chỗ bia trong miệng xuống được. Anh quay lại nhìn Gina. “Sáng nay em đã gặp cô ta ở trạm xăng Texaco. Đổ xăng cho chiếc Cadillac của mẹ cô ta.” Gina lắc đầu. “Em nghĩ đã bao lâu nhỉ, tầm mười hoặc mười hai năm kể từ lần cuối cô ta ở trong thị trấn phải không?” Là mười lăm năm. “Em nhận ra cô ta ngay lập tức. Daisy Lee Brooks không thay đổi nhiều lắm.” Chỉ là bây giờ Daisy Brooks là Daisy Monroe và đã là như vậy trong mười lăm năm qua. Và điều đó đã thay đổi tất cả. Gina bước lại gần một bước và đùa nghịch một khuy áo của anh. “Em rất buồn khi nghe chuyện của Steven. Em biết anh ấy là bạn anh.” Anh và Steven Monroe đã gần như không thể tách rời từ lúc lên năm khi họ ngồi cạnh nhau ở nhà thờ Tin Lành Baptist của Lovett, hét to “Phải, Chúa yêu con.” Nhưng điều đó cũng đã thay đổi. Lần cuối cùng anh gặp Steven là buổi tối hai bọn họ đánh nhau đến chảy máu, trong khi Daisy kinh hãi nhìn vào. Đó cũng là lần cuối cùng anh gặp Daisy. Như thể không nhận thấy Jack không hề mở miệng nói chuyện, Gina tiếp tục lải nhải, “Em không tưởng tượng nổi cảnh chết ở tuổi của chúng ta. Nó quá đỗi khủng khiếp.” “Thứ lỗi cho anh nhé, Gina,” anh nói và bỏ đi. Một cơn tức giận xưa cũ, cơn tức giận mà anh cứ nghĩ là mình đã chôn vùi, đang chực kéo anh vào quá khứ. Anh lại xô nó thật mạnh, đập mạnh nó xuống, và gạt bỏ nó. Sau đó anh chẳng cảm thấy gì nữa. Cầm chai bia trong tay, anh luồn lách qua quán bar đang nhanh chóng chật kín và đi tới căn phòng đông đúc ở cuối. Anh dựa vai vào khung cửa và chuyển toàn bộ sự chú ý vào Jimmy Calhound. Tiêu điểm của bữa tiệc đang ngồi trên một cái ghế ở giữa phòng, vây quanh bởi cả tá đàn ông, tất cả đang nhìn hai phụ nữ ăn mặc như nữ hoàng chăn bò ép chặt vào nhau trong khi Dixie Chicks hát về một cỗ xe tội lỗi. Đã thoát y đến tận cái quần lọt khe lấp lánh, hai cô gái mở khuy áo cánh lụa của mình ra. Áo họ đồng thời trượt xuống hai bả vai rám nắng và cơ thể hoàn hảo, để lộ hai bộ ngực bự nhồi trong áo bikini đính đá lấp lánh. Jack rời mắt khỏi bộ ngực đầy đặn, nhìn xuống hai chiếc quần lọt khe buộc dây ở hông họ. Marvin Ferrell dừng lại cạnh anh ở ngưỡng cửa để quan sát màn biểu diễn. “Cậu nghĩ hai bộ ngực kia có phải đồ thật không?” anh ta hỏi. Jack nhún một bên vai và đưa chai bia lên môi. Rõ ràng là Marvin đã kết hôn quá lâu, bởi vì giọng anh ta bắt đầu giống đàn bà rồi. “Ai quan tâm chứ?” “Đúng vậy.” Marvin cười. “Cậu đã nghe tin Daisy Brooks quay lại chưa?” Qua chai bia, anh nhìn xuống Marvin rồi hạ chai xuống. “Có, tớ đã nghe rồi.” Anh lại cảm nhận được cơn tức giận ngày xưa, và một lần nữa anh lại đập nó xuống cho tới khi không cảm thấy gì nữa. Anh tiếp tục chú ý vào các vũ công thoát y và nhìn họ kẹp Jimmy giữa hai cơ thể bán khỏa thân của mình trong khi hôn nhau trên đầu anh ta. Nụ hôn ướt át đó khiến cánh đàn ông hò reo đòi thêm. Jack nghiêng đầu sang một bên và mỉm cười. Trò này trở nên hay ho rồi đây. “Tớ đã gặp Daisy ở siêu thị Minute,” Marvin nói tiếp. “Chết tiệt, cô ấy vẫn nóng bỏng như hồi cấp ba.” Nụ cười của Jack tắt ngóm khi một ký ức không mời về đôi mắt nâu và đôi môi hồng mềm mại chực chờ kéo anh vào hố đen quá khứ. “Còn nhớ cô ấy trông thế nào trong bộ đồ cổ động cũn cỡn không?” Jack rời người khỏi cửa và đi sâu hơn vào phòng, nhưng anh không thể thoát được. Có vẻ như mọi người đều muốn một chuyến du hành trên con đường ký ức. Tất cả, trừ anh. Trong khi hai cô nàng vũ nữ thoát y cởi hai cái áo bikini nhỏ xíu của nhau, chủ đề của câu chuyện là về Daisy. Giữa những tiếng huýt sáo và reo hò, Cal Turner, Lester Crandall và Eddy Dean Jones đều hỏi anh đã gặp cô chưa. Chán ghét, Jack rời phòng và quay lại quầy bar. Thật quá mức khó chịu khi một người đàn ông không được phép tận hưởng hai cô nàng gần như chẳng mặc gì âu yếm nhau cách anh ta chỉ có hai mét. Anh không biết Daisy sẽ ở lại thị trấn trong bao lâu, nhưng anh cực kỳ hy vọng rằng đây chỉ là một chuyến đi ngắn ngủi. Sau đó có lẽ mọi người sẽ có chuyện gì khác hay ho hơn để bàn tán. Chủ yếu anh hy vọng cô biết điều mà tránh xa khỏi lối đi của anh. Anh đặt chai bia lên quầy bar và tìm đường ra khỏi The Road Kill, bỏ lại đằng sau những cuộc trò chuyện và nghi vấn về Daisy Monroe. Mưa trút xuống trên mũ và làm ướt đẫm vai khi anh đi qua bãi đỗ xe. Nhưng với mỗi bước chân, ký ức vẫn bám sát theo sau. Ký ức anh nhìn vào đôi mắt nâu xinh đẹp khi anh hôn lên đôi môi mềm mại. Tay anh lướt lên mặt sau phần đùi trơn mịn, trượt xuống dưới cái váy cổ động màu xanh và vàng của cô. Ký ức Daisy Lee đi một đôi bốt cao bồi màu đỏ có trái tim trắng hai bên và không mặc gì khác nữa. “Rời bữa tiệc sớm thế sao?” Gina hỏi khi cô ta đi về phía anh. Anh nhìn cô ta. “Bữa tiệc chán chết.” “Chúng ta có thể tự tổ chức tiệc của riêng mình.” Đúng là điển hình của Gina, cô ta không đợi anh chủ động. Thường thì điều đó khiến anh khó chịu. Tối nay thì không. Cô ta đưa miệng lên cho anh, và cô ta có vị của bia ấm cùng dục vọng. Jack hôn lại. Với hai bầu ngực săn chắc của đối phương ép chặt vào ngực, những đòi hỏi đầu tiên của dục vọng khuấy động bụng dưới anh. Anh kéo Gina vào lòng và đốt nóng mọi thứ cho tới khi tất cả những gì anh cảm thấy là dục vọng và nước mưa xối ướt da thịt qua lần áo sơ mi. Anh thay thế mọi ý nghĩ về đôi mắt nâu và váy cổ động bằng người phụ nữ đang ép chặt người vào khóa quần mình. Daisy Monroe giơ tay lên trước cửa kính rồi lại hạ tay xuống. Tim cô đập thình thịch trong lồng ngực và dạ dày xoắn lại thành một cục lớn. Mưa trút xuống hiên nhà quanh khắp người cô và nước mưa chảy từ ống xối xuống thảm hoa. Xưởng xe sau lưng cô còn để đèn, soi sáng mọi ngóc ngách quanh công ty xe Mỹ cổ Parrish. Nhưng nơi cô đứng tối đen như mực, như thể ánh sáng không dám bò sâu hơn vào sân. Xưởng xe mới toanh, được xây cất lại kể từ lần trước cô thấy nó. Khoảnh sân bao quanh xưởng xe được dọn dẹp. Các chiếc xe cũ đã bị kéo đi. Dù vậy, từ những gì cô quan sát được thì ngôi nhà vẫn hệt như cũ, mang theo ký ức về một làn gió hè tươi mát thổi qua mái tóc cô và đem đến mùi hoa hồng. Về vô số những tối cô ngồi trên hàng hiên mà giờ cô đang đứng, kẹp giữa Steven và Jack, bật cười trước những câu chuyện đùa của họ. Sấm chớp nổ đùng đoàng và rọi sáng cả bầu trời đêm, đập tan ký ức ấy. Một điềm báo cho thấy cô nên rời đi và quay lại vào lúc khác. Cô không giỏi đối đầu trực diện. Cô không thuộc tuýp người đương đầu trực tiếp với rắc rối. Giờ thì cô có giỏi làm thế hơn hồi trước, nhưng... có lẽ cô nên gọi trước. Xuất hiện bất thình lình trước cửa nhà ai đó lúc mười giờ tối không phải là lịch sự, và cô hẳn trông giống hệt một con mèo sũng nước. Trước khi rời khỏi nhà mẹ mình, cô đã bảo đảm tóc mình được chải mượt và dài chớm vai. Lớp trang điểm trông hoàn hảo, áo trắng tinh và quần kaki là phẳng phiu. Còn bây giờ, cô chắc chắn rằng tóc mình xù bông, mascara trôi mất biệt và quần thì dính đầy bùn từ cái vũng nước mà cô đã vô tình lao qua. Cô quay người bỏ đi, rồi ép mình quay lại. Vẻ ngoài của cô không thật sự quan trọng, và chẳng bao giờ có thời điểm nào là tốt đẹp cho việc cô phải làm hết. Cô đã ở trong thị trấn ba ngày rồi. Cô phải nói chuyện với Jack. Tối nay. Cô đã trì hoãn quá lâu. Cô phải kể cho anh những gì mình đã giấu giếm anh suốt mười lăm năm. Cô lại giơ tay lên và gần như đứng tim khi cánh cửa gỗ bật ra trước khi cô kịp gõ. Qua lớp cửa kính và không gian tối om bên trong, cô có thể trông thấy bóng dáng một người đàn ông. Anh ta không mặc áo, và một tia sáng từ sâu tít trong nhà tỏa ra một luồng sáng vàng ấp áp từ đằng sau, rót xuống cánh tay, bờ vai và nửa lồng ngực trần của anh ta. Rõ ràng là đáng ra cô nên gọi trước. “Xin chào,” cô mở lời trước khi có thể đầu hàng sự lo lắng của mình. “Tôi đang tìm Jackson Parrish.” “Trời trời,” giọng anh ta kéo dài trong bóng tối, “không phải Daisy Lee Brooks sao?” Đã mười lăm năm trôi qua và giọng anh đã thay đổi. Nó trầm hơn giọng chàng trai mà cô biết, nhưng cô vẫn sẽ nhận ra cái tông giọng xấu xa đó ở bất kỳ đâu. Không ai có thể đưa nhiều chất chế giễu vào giọng nói của mình như Jack. Cô đã từng một lần hiểu được nó. Từng biết điều gì ẩn sau giọng nói đó. Cô không dám đùa rằng mình vẫn còn biết rõ anh nữa. “Xin chào, Jack.” “Cô muốn gì, Daisy?” Cô nhìn anh chăm chú qua lớp cửa kính và bóng tối, nhìn những đường nét của người đàn ông mà một thời cô từng biết rất rõ. Cảm giác xoắn cục trong dạ dày cô sít chặt hơn. “Tôi muốn... tôi cần nói chuyện với anh. Và tôi – tôi đã nghĩ...” Cô hít một hơi thật sâu và ép mình ngừng lắp bắp. Cô đã ba mươi ba rồi. Cả anh cũng vậy. “Tôi muốn nói với anh rằng tôi ở trong thị trấn trước khi anh nghe được điều đó từ người khác.” “Muộn quá rồi.” Mưa trút xối xả xuống mái nhà và sự im lặng kéo dài ra giữa họ. Cô có thể cảm nhận được ánh mắt anh đặt trên người mình. Ánh nhìn ấy chạm vào mặt và ngực áo đi mưa màu vàng của cô, và đúng lúc cô nghĩ anh sẽ không nói gì nữa, anh cất lời, “Nếu đó là những gì cô đến để nói với tôi thì cô có thể đi được rồi.” Vẫn còn. Rất nhiều. Cô đã hứa với Steven rằng cô sẽ đưa cho Jack bức thư mà anh đã viết vài tháng trước khi mất. Bức thư nằm trong túi áo, bây giờ cô phải kể thật cho Jack nghe những gì đã xảy ra mười lăm năm trước, rồi chuyển bức thư. “Tôi nhất định phải nói chuyện với anh. Làm ơn đi.” Anh nhìn cô vài giây dài đằng đẵng rồi quay người và biến mất trong nhà. Anh không mở cửa cho cô, nhưng anh cũng không đóng sập cánh cửa gỗ vào mặt cô. Anh đã cho thấy rõ là anh sẽ tỏ ra khó khăn hết mức có thể. Nhưng rồi, anh đã bao giờ làm chuyện gì trở nên dễ dàng cơ chứ? Vẫn như mọi lần, cánh cửa kính kêu cọt kẹt khi cô mở nó ra. Cô đi theo anh qua phòng khách về hướng bếp. Dáng người cao ráo của anh biến mất ở góc rẽ, nhưng cô biết đường. Trong nhà có mùi sơn mới. Cô nhìn qua những đồ đạc màu tối và một cái tivi màn hình lớn, thoáng thấy chiếc đàn piano của bà Parrish đặt sát một bức tường và trong thoáng chốc cô tự hỏi, bao nhiêu thứ đã thay đổi kể từ lần cuối cô ghé qua ngôi nhà này. Đèn bật lên khi cô đi vào bếp, và cảm giác cứ như bước vào một vết lõm thời gian vậy. Cô ngờ ngợ mong chờ sẽ nhìn thấy bà Parrish đứng trước lò sưởi màu quả hạch, nướng bánh mì hoặc những cái bánh quy snickerdoodle mà Daisy thích nhất. Tấm vải sơn lót sàn nhà màu xanh lục đặt trước bồn rửa vẫn còn vết ố ngày xưa và kệ bếp vẫn có những đốm li ti màu xanh dương và xanh ngọc. Jack đang đứng trước tủ lạnh, nửa thân trên khuất sau cửa tủ đang mở. Những ngón tay rám nắng của anh cầm quanh tay cầm bằng crôm, và tất cả những gì cô có thể thấy rõ trên người anh là đường cong ở mông và đôi chân dài. Một túi trên chiếc quần Levi’s bó sát có một vết rách gần như đứt rời hẳn ra, và chỉ khâu trông xơ xác. Adrenaline chạy khắp mạch máu của cô, và cô nắm chặt tay lại để ngăn chúng khỏi run rẩy. Rồi anh đứng thẳng dậy, và mọi thứ dường như chậm lại, như thể có ai đó bật công tắc trên máy chiếu phim. Anh quay người lại khi đóng cửa tủ và cầm một hộp sữa trên bàn tay đặt cạnh đùi. Trong khoảnh khắc, sự chú ý của cô dính chặt vào đường lông mảnh chòi lên khỏi cạp quần Levi’s và uốn quanh rốn anh. Cô đưa ánh mắt lướt qua phần bụng phẳng lì và những cơ bắp rắn chắc trên ngực anh. Nếu cô mà còn bất kỳ nghi ngờ nào, thì nhìn thấy anh thế này cũng đủ để xua đuổi hết chúng đi. Đây không phải là chàng trai mà cô từng biết. Đây rõ ràng là một người đàn ông. Cô ép mình đưa mắt rời khỏi cái cằm nam tính, cánh cung sắc nét ở đôi môi màu nâu, và nhìn vào mắt anh. Cô cảm giác thấy cổ họng mình trở nên khô khốc. Jack Parrish xưa kia luôn là một chàng trai ưa nhìn, còn giờ anh đẹp chết người. Một lọn tóc dày rơi xuống trán và chạm vào chân mày anh. Đôi mắt màu xanh lục sáng mà cô vẫn nhớ, từng một thời nhìn cô đầy đam mê và sở hữu, nhìn trả cô như thể anh chẳng thích gặp cô hơn gặp một con chó hoang. “Cô đến đây để trố mắt ra nhìn thế à?” Cô đi sâu hơn vào bếp và đút tay vào túi áo mưa. “Không, tôi đến để nói với anh là tôi về thị trấn để thăm mẹ và em gái tôi.” Anh nâng hộp sữa lên và uống thẳng từ hộp giấy, chờ cô nói thêm. “Tôi nghĩ là anh nên biết.” Anh nhìn cô chằm chằm qua hộp giấy, rồi anh hạ nó xuống. Có vài thứ rốt cục chẳng hề thay đổi. Jack Parrish, chàng trai hư hỏng và thích làm loạn, vẫn luôn là một người thích uống sữa. “Điều gì khiến cô nghĩ là tôi thèm quan tâm?” anh hỏi và quệt mu bàn tay trên miệng. “Tôi không biết anh có quan tâm hay không. Ý tôi là, tôi có băn khoăn xem anh sẽ nghĩ gì, nhưng tôi không dám chắc.” Chuyện này khó khăn hơn nhiều những gì cô đã mường tượng. Và những gì mà cô tưởng tượng cũng đã khá là khó nhằn rồi. “Giờ thì cô không phải băn khoăn nữa nhé.” Anh dùng hộp sữa chỉ ra căn phòng khác. “Nếu đó là tất cả thì cửa kia.” “Không, đó không phải là tất cả.” Cô nhìn xuống mũi giày của mình, vải da màu đen đã bị mưa vấy bẩn. “Steven muốn tôi kể cho anh nghe một chuyện. Anh ấy muốn tôi nói với anh rằng anh ấy xin lỗi về tất cả mọi chuyện.” Cô lắc đầu và tự chữa lại. “Không... đã từng xin lỗi chứ, ý tôi là thế. Anh ấy đã mất bảy tháng trước và giờ tôi vẫn thấy khó lòng mà tưởng nhớ về anh ấy khi dùng thì quá khứ. Không hiểu sao điều ấy không đúng. Như thể nếu tôi làm vậy, anh ấy sẽ như chưa bao giờ tồn tại.” Cô nhìn Jack. Vẻ mặt anh không hề thay đổi. “Bó hoa anh gửi đến rất đẹp.” Anh nhún vai và đặt sữa lên kệ bếp. “Penny đã gửi chúng.” “Penny?” “Penny Colten. Đã cưới Leon Kribs. Giờ cô ấy làm việc cho tôi.” “Cảm ơn Penny hộ tôi nhé.” Nhưng Penny không gửi chúng và ký tên anh mà anh không biết. “Đừng xem nó là cái gì ghê gớm.” Cô biết Steven từng có ý nghĩa quan trọng đến thế nào với anh. “Đừng giả vờ anh không quan tâm việc anh ấy đã mất.” Anh nhướn một bên mày. “Cô quên là tôi từng cố giết cậu ta rồi.” “Anh hẳn sẽ không giết anh ấy, Jack.” “Đúng là không, cô nói đúng. Tôi cho là cô không đáng giá đến thế.” Câu chuyện đang đi nhầm hướng và cô phải lái nó quay lại. “Đừng tỏ ra xấu xa.” “Cô gọi thế này là xấu xa sao?” Anh bật cười, nhưng không có vẻ gì dễ chịu. “Thế này chẳng là gì, mao lương ạ. Cứ ở gần đi và tôi sẽ cho cô thấy tôi có thể trở nên xấu xa thế nào.” Cô đã biết Jack có khả năng trở nên xấu xa thế nào rồi, nhưng dù cô có thể là một kẻ hèn nhát, cô cũng bướng bỉnh như cỏ lưỡi chó. Cũng như Jack không còn là chàng trai mà cô từng quen biết, cô cũng không phải là cô gái ngày xưa anh biết nữa. Cô đã đến để kể với anh sự thật. Sau rốt thì cũng phải thế thôi. Trước khi đi tiếp được đường đời của mình, cô phải kể cho anh về Nathan. Cô đã mất mười lăm năm mới dám làm vậy, và anh có thể tỏ ra xấu xa hết mức anh muốn, nhưng anh sẽ phải lắng nghe cô. Một tia sáng trắng lọt vào khóe mắt Daisy trong tích tắc, trước khi một người phụ nữ mặc một cái áo sơ mi trắng của đàn ông bước vào bếp. “Chào,” cô ta nói khi đến đứng cạnh Jack. Anh nhìn xuống cô ta. “Anh đã bảo em ở yên trong giường mà.” “Em phán chán lên được vì không có anh.” Hơi nóng tràn qua cổ lên má Daisy, nhưng dường như cô là người duy nhất thấy xấu hổ trong phòng. Jack có bạn gái. Tất nhiên là vậy. Anh vẫn luôn có một hoặc hai cô bạn gái. Đã từng có thời điều ấy thật đau đớn. “Xin chào, Daisy. Tôi không biết cô còn nhớ tôi không. Tôi là Gina Brown.” Nó không còn đau đớn nữa, và Daisy hơi xấu hổ khi phải thú nhận với bản thân rằng chủ yếu cô chỉ thấy vô cùng nhẹ nhõm. Cô đã đi cả quãng đường dài từ Seattle để kể cho anh về Nathan, và giờ tất cả những gì cô cảm thấy là nhẹ nhõm. Như thể một cái rìu vừa được nhấc khỏi cổ cô. Cô cho là mình hèn nhát hơn cô nghĩ. Daisy mỉm cười và băng qua phòng để chìa tay ra bắt tay Gina. “Tất nhiên là có. Chúng ta đã ở cùng lớp Chính phủ Mỹ vào năm cuối.” “Thầy Simmons.” “Phải rồi.” “Có nhớ lúc thầy ấy vấp phải một cái tẩy trên sàn nhà không?” Gina hỏi như thể không phải cô ta đang đứng đó và chỉ mặc mỗi áo sơ mi của Jack, Daisy dám cá, mà không có gì khác. “Chuyện đó đúng là rất buồn cười. Tôi vừa...” “Cái quái gì thế này?” Jack xen ngang. “Họp mặt lớp cấp ba à?” Cả hai người phụ nữ cùng ngẩng lên nhìn anh và Gina nói, “Em chỉ đang tỏ ra lịch sự với khách của anh mà thôi.” “Cô ta không phải khách của anh và cô ta sắp đi rồi.” Anh ghim chặt mắt vào Daisy, vẫn lạnh lùng và kiên quyết hệt như lúc cô mới bước chân vào cửa. “Rất vui được gặp cô, Gina,” cô nói. “Tôi cũng vậy.” “Chúc buổi tối tốt lành, Jack.” Anh tựa hông vào kệ bếp và khoanh tay ngang ngực. “Gặp hai người sau nhé.” Cô quay người băng qua cả căn phòng tối om và bước ra khỏi cửa. Mưa đã ngừng và cô tránh các vũng nước mưa trên đường đến chỗ chiếc Caddie[7] của mẹ cô đỗ cạnh xưởng xe. Lần sau, cô nhất định sẽ gọi trước. Đúng lúc cô vươn tay ra mở cửa, cô cảm nhận được một bàn tay đặt trên cánh tay xoay người cô lại. Cô nhìn lên mặt Jack. Ánh đèn an ninh chiếu xuống người anh và tạo bóng đen trên quai hàm cứng lại vì giận dữ của anh. Mắt anh nhìn thẳng vào mắt cô – không còn lạnh lùng nữa, chúng chất đầy vẻ giận dữ rực lửa. “Tôi không biết cô đến đây để tìm kiếm gì, sự xá tội hay tha thứ,” giọng nói kéo dài của anh nhấn mạnh hơn lúc trước. “Nhưng cô sẽ không tìm được đâu.” Anh thả tay cô ra như thể anh không thể chịu nổi việc chạm vào cô. “Phải, tôi biết.” “Tốt. Cô hãy tránh xa tôi ra, Daisy Lee,” anh kéo dài các nguyên âm trong tên cô. “Cô tránh xa ra hoặc tôi sẽ khiến đời cô trở nên đau khổ.” Cô nhìn vào khuôn mặt tối om của anh, nhìn vào sự giận dữ không hề nguôi bớt trong mười lăm năm. “Hãy tránh xa tôi ra,” anh lặp lại lần cuối trước khi quay người trên gót chân trần và biến mất trong bóng tối. Cô biết mình nên khôn ngoan mà lưu ý đến lời cảnh báo của anh. Quá tệ là cô lại không có lựa chọn đó. Mặc dù anh vẫn chưa biết, nhưng cả anh cũng không. ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Trở Lại của tác giả Rachel Gibson.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phanny
Darkwater - tên đó đã được đặt cho ngôi nhà vì màu sắc tối tăm của những vũng nước còn đọng lại từ thế kỷ trước. Chiếc cầu treo đã mất, những hàng ống khói với hình dáng cong queo vẫn còn đó. Chỉ vào mùa hè nơi này mới có vẻ hiền hòa, những hình dáng khắc khổ của những cây dẻ ẩn hiện dưới hàng cây xanh rậm, những bông hoa dại màu vàng đong đưa bên bờ hồ và mặt nước in dấu những đám mây chạy trốn... Nhưng vào mùa đông thì cảnh vật hoàn toàn khác lạ. Những cái cây trong sân vườn trụi lá. Mây và sương mù giăng bay trên mặt đất…Gió xô mạnh vào cửa sổ làm những chiếc mành treo nặng nề căng lên kỳ quái... Bà Arabella với những câu chuyện khó tin mà bà hay kể. Bắt đầu bằng một chuyện cổ tích vô tư, nhưng khi những đứa bé bị hút hồn hoàn toàn, câu chuyện dần trở nên rùng rợn… Nhưng những cảnh sắc nặng nề, ảm đảm và câu chuyện bí ẩn của bà Arabella lại khiến Phanny thấy mê hoặc. Cô lớn lên với sự mạnh mẽ, kiên cường và lòng nhân hậu bao dung, dù cho bị chú thím cô đối xử như một người hầu gái, sự ganh tỵ của cô em và đặc biệt là tình yêu kỳ dị của người anh họ bệnh hoạn... Chuyện gì sẽ xảy đến trong cuộc đời cô? liệu Phanny có thoát được những mối đe dọa bủa vây và tìm thấy cho mình niềm hạnh phúc, sự bình yên và một tình yêu đích thực... *** Đánh giá về tác phẩm: ”Tiểu thuyết mới của Dorothy Eden diễn ra trong khung cảnh một gia đình giàu có, ngôi nhà được bao bọc xung quanh bởi một công viên râm mát một cách đáng lo ngại, một không khí nặng nề ảm đạm, gây cảm giác hồi hộp và bất ngờ đến phút cuối. Với không khí đậm chất Ăng-lê đặc trưng, Dorothy Eden một lần nữa chứng minh với chúng ta rằng bà là người rất thành thạo trong việc thêm thắt những yếu tố bất ngờ và cảm xúc với một quan điểm tâm lý khá cứng rắn và làm cho người đọc phải hồi hộp chờ đợi cho đến biến cố cuối cùng.” - bibliopoche.com ​ *** Dorothy Enid Eden (1912 - 1982) là một tiểu thuyết gia và nhà văn truyện ngắn. Bà sinh 03 Tháng 4 năm 1912 tại Canterbury Plains, New Zealand, nơi bà được học tập và làm việc như một thư ký pháp lý. Bà chuyển đến Anh vào năm 1954 để tập trung phát triển sự nghiệp văn chương của mình. Bà mất vì căn bệnh ung thư tại London vào ngày 4 tháng 3 năm 1982. Dorothy Eden được biết đến với những tác phẩm mang phong cách cổ điển với một giọng văn đầy bí ẩn và lãng mạn, gây cảm giác lo sợ và hoang mang cho người đọc. Ngoài việc viết tiểu thuyết, bà còn tham gia viết bài cho tạp chí, bao gồm Redbook và Good Housekeeping. *** Như vậy, đây là tiếng nói của cha nàng. Phanny đọc lại lá thư nhàu nát đã được giấu lâu ngày trong cái gối ghim kim của bà Arabella. “ Chú Leonard kính mến! Làm sao chứng tỏ sự biết ơn của con khi được chú cho biết sẽ để lại tất cả của cải của chú cho con! Tiếc thay! Con sợ rằng, chỉ được hưởng một thời gian ngắn, vì con sẽ không sống được quá hai năm nữa, có lẽ ! Nhưng chú không thể biết rằng quyết định của chú đã làm con yên tâm. Bây giờ, con có thể yên chí rằng con gái Francecca của con sẽ không thiếu thốn. Nó chỉ là một đứa bé rất giống mẹ nó, nhưng về đầu óc, đúng là một Davenport. Con đã nhờ người em họ Edgar của con, một người thật hoàn toàn, làm giám hộ cho nó… ” Nàng không thể ngủ được. Và giữa đêm, không biết mấy giờ, nàng ra khỏi phòng và rón rén đi về phía phòng bà Arabella. Như nàng đã đoán, đèn còn sáng trong phòng. Nàng gõ cửa và bước nhanh vào phòng. - Thưa bà, con nghĩ rằng bà còn thức… Bà Arabella đang ngồi trên giường, dựa lưng vào chồng gối và đang đọc sách thánh kinh. Bà đóng sách lại, nhưng cẩn thận giữ lại trang bà đang đọc dở bằng ngón tay. - Lẽ tất nhiên là bà không ngủ được. Giấc ngủ chỉ tốt cho những kẻ vô tội. Con muốn gì ? - Bà không thể là kẻ thù của con, bà nhé ? ... Mời các bạn đón đọc Phanny của tác giả Dorothy Eden.
Người Đàn Ông Mỹ Cuối Cùng
Thế nào là “người đàn ông Mỹ”? Cuốn sách kỳ lạ, lôi cuốn của Elizabeth Gilbert, tác giả của Ăn, cầu nguyện, yêu, dẫn ta đi sâu tìm lời đáp cho câu hỏi đó. Eustace Conway, “người đàn ông Mỹ”, có niềm tin quyết liệt rằng sứ mệnh của mình là làm mọi cách sao cho người dân Mỹ thấy lẽ ra họ có thể mạnh mẽ và đảm lược như cha ông họ ngày xưa - những người Mỹ thời lập quốc - ra sao, họ đã sa đọa và trở nên kém cỏi đến thế nào vì tiện nghi vật chất của cuộc sống hiện đại. Conway là “thần tượng” với nhiều người bởi ý chí kiên định đi theo con đường mình đã chọn, cho dẫu anh không phải không có những nhược điểm riêng khiến cho công cuộc xây chốn địa đàng theo tâm nguyện của anh thật không dễ dàng. Song cái lớn ở anh là những khiếm khuyết và bất thành đó không làm anh gục ngã; anh luôn luôn là anh, con người xứng đáng với cái danh xưng đẹp mà gây bứt rứt, “Người Đàn Ông Mỹ Cuối Cùng”. *** “Conway là một nhân vật đẹp đến nỗi khó tin là thật. Ở Gilbert, có lẽ anh đã tìm được nhà văn hoàn hảo để viết ra câu chuyện của anh… Từ cuộc đời Conway, Gilbert bàn rộng ra về bản chất của nam tính, sự hấp dẫn của các cộng đồng không tưởng chủ nghĩa, lịch sử vùng biên cương và huyền thoại dai dẳng về người đàn ông vùng biên cương. Chủ đề trở nên rộng lớn hơn nhiều so với một đời người. Cuốn sách cho ta thấy sự tiến bộ đã khiến ta đánh mất những gì và ta có thể phục hồi lại những gì.” - The Atlanta Journal-Constitution *** Elizabeth Gilbert thực sự “gây chấn động” giới văn chương với cuốn tự truyện Eat, Pray, Love: One Woman’s Search For Everything Across Italy, India And Indonesia (NXB Viking - 2006). Thành công của Eat, Pray, Love... là tác phẩm này gây ấn tượng với độc giả không phải bằng những thủ pháp thông thường như đánh vào cảm giác mạnh, khêu gợi những bản năng hay thú tính tầm thường. Vấn đề mà nó đặt ra đầy mới mẻ và thời sự... Cố gượng dậy sau vụ ly dị người chồng đầu tiên, Elizabeth Gilbert quyết định dành một năm đi qua Italia, Ấn Độ và Indonesia để tìm kiếm những trải nghiệm mới cho sự nghiệp sáng tác của mình, dù khi đó chị đã 34 tuổi... Ngay sau khi xuất hiện tại các hiệu sách, cuốn tự truyện này lập tức có tên trong danh sách các tác phẩm ăn khách thể loại không hư cấu trên tờ New York Times. Eat, Pray, Love... còn được hãng Paramount Pictures chọn chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh với diễn xuất của “Người đàn bà đẹp” Julia Roberts. Tác phẩm thứ tư này của chị được tạp chí Entertainment Weekly suy tôn là “1 trong 10 tác phẩm không hư cấu hay nhất năm 2006” và đã đến với khoảng 5 triệu độc giả ở 36 quốc gia, đa phần là độc giả nữ. Khi mới 18 tuổi, Elizabeth Gilbert đã bắt đầu gửi đăng các truyện ngắn của mình, với mục đích mà như chị nói là “phải đem đến cho công chúng một cái gì đó trước khi chết”. Nhưng đáp lại, mấy năm sau đó, chị chỉ nhận được những lá thư từ chối. Mãi đến năm 1993, tạp chí Esquire mới chọn đăng truyện ngắn Pilgrims của Elizabeth Gilbert với lời quảng cáo “Sự ra mắt của một nhà văn Mỹ” và ngay lập tức thu hút sự chú ý của công chúng yêu văn chương. Elizabeth Gilbert là nhà văn đầu tiên chưa có tác phẩm xuất bản xuất hiện trên Esquire kể từ sau Norman Mailer (1923 - 2007) hồi năm 1964. Pilgrims được nhà văn, nhà báo nổi tiếng người Mỹ Annie Proulx ca ngợi là “tác phẩm của một tài năng trẻ rực sáng”. Thành công của Pilgrims giúp Elizabeth Gilbert có công việc viết báo khá ổn định cho nhiều tạp chí có uy tín như SPIN, GQ, New York Times Magazine, Allure, Real Simple, Travel + Leisure. Elizabeth Gilbert sinh ngày 18/ 7/1969 trong một gia đình nông dân ở Connecticut (Mỹ). Năm 1991, chị tốt nghiệp ngành Khoa học chính trị tại Đại học Tổng hợp New York. Cho đến nay, Elizabeth Gilbert mới có 4 tác phẩm được xuất bản, nhưng khá đa dạng về thể loại, gồm tập truyện ngắn Pilgrims (1997), tiểu thuyết Stern Men (2000), cuốn tiểu sử The Last American Man (2002) và tác phẩm mới đây nhất là tự truyện Eat, Pray, Love... (2006). Là một người sở hữu cá tính mạnh, trong Elizabeth Gilbert luôn có sự giằng xé giữa ham muốn được tự do với việc phải tuân thủ một cách rập khuôn, đôi khi quá gò bó những nguyên tắc hoặc các ràng buộc xã hội. Elizabeth Gilbert từng sống như một “nhà văn lang thang” - trải nghiệm cuộc đời của một đầu bếp, người phục vụ quán bar, chân sai vặt ở một tạp chí... tại nhiều bang của Mỹ, rồi qua cả châu Âu, châu Phi... để viết về chính những con người, sự việc mà chị gặp thường ngày. Các ghi chép của Elizabeth Gilbert trong những ng ngày rong ruổi đã làm nên tập truyện ngắn đầu tay Pilgrims (NXB Houghton-Mifflin - 1997, đoạt giải văn học Pushcart và vào chung khảo giải PEN/Hemingway). Bài báo “The Muse Of The Coyote Ugly Saloon” của Elizabeth Gilbert trên tạp chí GQ năm 1997, một ký sự về quãng thời gian chị làm người phục vụ quán bar Coyote Ugly Saloon ở East Village (Manhattan, New York), được lấy làm cốt truyện cho phim Coyote Ugly (ra mắt năm 2000 và từng giành được một số giải thưởng điện ảnh). Elizabeth Gilbert sau đó còn chuyển thể bài báo “Eustace Conway Is Not Like Any Man You’ve Ever Met” trên GQ năm 1998 thành cuốn tiểu sử về nhà tự nhiên học đương đại người Mỹ Eustace Conway mang tên The Last American Man (NXB Viking - 2002, tác phẩm này vào chung khảo giải Sách quốc gia Mỹ ở thể loại Tác phẩm không hư cấu và Giải thưởng Hội phê bình Văn học quốc gia Mỹ). Elizabeth Gilbert ở Việt Nam hồi tháng 8/2006. *** Bạn không thể giải quyết nó. Bạn không thể vứt bỏ nó đi. Tôi chẳng biết bạn định làm gì với nó, nhưng tôi biết mình sẽ làm gì với nó. Đơn giản là tôi sẽ bỏ nó ra đi. Có thể một phần nhỏ của nó sẽ chết nếu tôi không ở bên chăm sóc cho nó nữa. - Lew Welch Tiểu sử của Eustace Conway chính là lịch sử phát triển của con người trên lục địa Bắc Mỹ này. Đầu tiên, anh ngủ trên mặt đất và mặc đồ da thú. Anh đánh lửa bằng que củi và ăn những gì có thể săn bắn hái lượm. Khi đói, anh ném đá vào chim chóc và phóng tên vào thỏ và đào rễ củ từ lòng đất, và thế là anh sống sót. Anh đan giỏ từ thân cây cối trong lãnh thổ của mình. Anh là dân du cư; anh chỉ đi bộ. Rồi anh chuyển vào sống trong lều vải và trở thành kẻ bẫy thú tinh vi hơn. Anh đánh lửa bằng đá lửa và thép. Khi thành thạo việc này rồi, anh dùng diêm. Anh bắt đầu mặc đồ len. Anh không ở lều vải nữa mà chuyển vào sống trong nhà gỗ đơn sơ. Anh trở thành nông dân, phát quang đất đai và trồng vườn. Anh kiếm được gia súc. Anh mở lối vào rừng, lối đi ấy trở thành đường mòn rồi thành đường cái. Anh hoàn thiện đường cái bằng những cây cầu. Anh mặc vải bò. Ban đầu anh là thổ dân da đỏ, sau đó trở thành nhà thám hiểm, rồi thành người khai hoang. Anh xây cho mình căn nhà gỗ và trở thành người định cư thực thụ. Là con người mang mộng tưởng về xã hội không tưởng, giờ đây anh duy trì cuộc đời mình với niềm hy vọng rằng những người có cùng chí hướng như anh sẽ mua đất quanh Đảo Rùa và nuôi nấng gia đình mình như anh sẽ nuôi nấng gia đình của chính anh một ngày nào đó. Những người hàng xóm ấy sẽ canh tác trên đất đai của họ với máy móc sử dụng sức kéo gia súc, đến giúp đỡ nhau vào đúng vụ mùa, tham gia bữa tiệc nhảy nhót vui vẻ của nhau, và họ sẽ cưỡi ngựa sang nhà nhau để trao đổi hàng hóa. Chừng nào tất cả điều này xảy ra, Eustace sẽ trở thành một người làng. Đó là điều anh muốn - xây dựng một thị trấn. Và khi tất cả đã đâu ra đó, anh sẽ xây ngôi nhà mơ ước của mình. Anh sẽ rời căn nhà gỗ mà chuyển vào sống trong một ngôi nhà xa hoa rộng thênh thang đầy các phòng thay đồ khổng lồ và trang thiết bị và con cái đề huề và đủ thứ. Và cuối cùng anh sẽ bắt kịp thời đại mình. Tới lúc đó, Eustace Conway sẽ là hình mẫu của một người Mỹ hiện đại. Anh biến đổi liên tục trước mắt chúng ta. Anh cải tiến và mở rộng rồi lại cải tiến và mở rộng bởi vì anh thông minh và tháo vát tới mức không dừng được. Anh không muốn nghỉ ngơi vui thú với những gì anh đã biết rõ cách làm; anh phải không ngừng tiến lên. Anh không dừng lại được. Và chúng ta cũng không dừng lại được. Con người chúng ta trên lục địa này xưa nay vẫn không dừng lại được. Tất cả chúng ta đều tiến lên, như de Tocqueville từng nhận xét, “giống như một dòng lũ người, cứ cuồn cuộn dâng lên không hề suy giảm, và tiến lên phía trước từng ngày dưới bàn tay điều khiển của Thượng đế.” Chúng ta vắt kiệt sức mình và mọi người khác. Chúng ta vắt kiệt nguồn lực - cả tự nhiên lẫn nội tâm - và Eustace chỉ là đại diện rõ ràng nhất cho tình trạng khẩn cấp của chúng ta. Tôi nhớ có một buổi cuối chiều, tôi cùng anh lái xe trở lại Đảo Rùa sau khi tới thăm Trại Sequoyah, đế chế cũ xưa của ông ngoại anh. Chúng tôi sắp về đến nhà, đang đi qua Boone, và dừng lại tại một đường giao. Bỗng nhiên Eustace quay ngoắt đầu lại hỏi, “Hai ngày trước, hôm chúng ta đi Asheville, tòa nhà kia đã ở đó chưa?” Anh chỉ vào khung của một tòa nhà văn phòng nhỏ mới. Chưa, hai ngày trước tôi không thấy nó ở đó. Nhưng trông có vẻ như nó sắp hoàn thiện rồi. Chỉ cần lắp cửa sổ vào nữa thôi. Một tốp thợ xây đang rời khỏi công trường vào cuối ngày. “Không thể thế được,” Eustace nói. “Chẳng lẽ họ xây được một ngôi nhà nhanh đến thế sao?” “Tôi không biết nữa,” tôi nói, thầm nghĩ anh phải biết rõ hơn ai hết. “Tôi nghĩ họ làm được đấy.” Anh thở dài. “Đất nước này…” anh than. Nhưng Eustace Conway là đất nước này. Và, từ thực tế đó, sẽ còn lại cái gì? Sẽ còn lại gì sau tất cả hoạt động này? Đó là câu hỏi Walt Whitman từng đặt ra. Ông nhìn khắp lượt nhịp độ thần tốc của đời sống Mỹ, sự phát triển công nghiệp, sự ồn ào gồng mình trong tham vọng của đồng bào mình, và tự hỏi, “Sau khi ta đã vắt kiệt những gì có trong buôn bán, chính trị, tiệc tùng... - nhận ra rằng rốt cuộc chẳng thứ gì trong số này làm ta thỏa mãn, hay tồn tại lâu bền vĩnh cửu - sẽ còn lại cái gì?” Và như mọi khi, nhà thơ già Walt đáng mến đưa ra cho chúng ta một câu trả lời: “Còn lại tự nhiên.” Đó cũng là thứ còn lại cho Eustace. Tuy nhiên, giống như tất cả chúng ta (và đây là điều trớ trêu nhất của anh), Eustace không có nhiều thời gian như anh ao ước để tụng ca thế giới Đúng như anh nói với tôi qua điện thoại vào một đêm đông, “Tuần này trên Đảo Rùa chúng tôi có một cơn bão tuyết. Một người bạn lên thăm có bảo, ‘Này Eustace, cậu đã làm việc vất vả quá đấy. Cậu nên nghỉ tay ra ngoài nặn người tuyết. Đã bao giờ nghĩ đến điều đó chưa?’ Ôi trời ơi, tất nhiên là tôi đã từng nghĩ đến điều đó chứ. Buổi sáng hôm ấy chỉ cần bước một bước chân ra khỏi cửa là tôi đã có thể thấy lớp tuyết tuyệt vời để làm người tuyết. Tôi đã tưởng tượng sẵn người tuyết mà tôi sẽ đắp, nếu thật sự phải đắp. Tôi nhanh chóng phân tích độ đặc của tuyết và quyết định chính xác chỗ đặt người tuyết để trưng bày đẹp nhất, chính xác nó to cỡ nào, và tôi có thể tìm mẩu than làm đôi mắt ở đâu trong xưởng rèn của mình. Tôi tưởng tượng ra mọi chi tiết của người tuyết đến tận cái mũi làm bằng củ cà rốt, với cái mũi này tôi phải nghĩ trong một giây: Bọn mình có còn đủ cà rốt dự trữ để mình có thể thửa một củ cho người tuyết này không? Sau khi thôi chơi người tuyết mình có thể lấy lại củ cà rốt để cho vào món hầm kẻo phí phạm không? Hay là một con thú nào đó sẽ chén mất củ cà rốt trước rồi? Tôi suy nghĩ lướt qua tất cả điều này trong khoảng năm giây, ước tính xem mình phải bỏ ra bao nhiêu thì giờ trong một ngày bận rộn để đắp người tuyết ấy, tôi cân nhắc thấy thời lượng đó tỉ lệ nghịch với mức độ niềm vui mà việc đắp người tuyết sẽ mang đến cho tôi - và quyết định không làm.” Thật quá đáng buồn, bởi vì anh thực sự thích được ở bên ngoài kia và biết đâu anh đã có được nhiều niềm vui từ người tuyết hơn bản thân anh có thể ước lượng một cách logic. Bởi vì anh thực sự yêu thiên nhiên, bất chấp mọi cam kết và nghĩa vụ của anh. Anh yêu mọi thứ thuộc về thiên nhiên - cái bao la của rừng; đốm nắng xuyên xuống qua một tấm mái thiên nhiên tươi tốt; vẻ đẹp của các từ bồ kết, bu lô, hoàng dương... Hơn cả tình yêu, anh cần thiên nhiên. Như ông ngoại của Eustace từng viết, “Khi trí óc mệt mỏi hay tâm thần bất an, chúng ta hãy đi vào rừng để hít vào đầy ắp phổi làn không khí được tắm gội trong mưa và thanh lọc trong nắng, để đong đầy trái tim ta vẻ đẹp của cây cối, hoa lá, pha lê, đá quý.” Người đàn ông tốt nhất mà Eustace có thể làm là người đàn ông mà anh trở thành khi một mình trong rừng thẳm. Đó là lý do tại sao lần nào lên Đảo Rùa tôi cũng lôi anh ra khỏi phòng làm việc và bắt anh đưa đi dạo. Mặc dù nói chung anh không có thời gian cho việc này, tôi buộc anh phải làm, bởi vì chưa đi được mười bước vào rừng là anh đã thao thao, “Đây là hương phong thảo. Cô có thể dùng cái thân rỗng của nó làm ống hút để uống nước ẩn nơi những viên đá cuội nằm trong lòng suối cạn quá nên có thể ta không dùng miệng uống được.” Hoặc, “Đây là hoa huệ đốm tím, loài hoa này rất giống hoa huệ đốm da cam, chỉ có điều trông lạ mắt hơn. Nó cực hiếm đấy. Tôi ngờ là chỉ có năm cây hoa này trên toàn bộ một nghìn mẫu đất Đảo Rùa.” Mời các bạn đón đọc Người Đàn Ông Mỹ Cuối Cùng của tác giả Elizabeth Gilbert.
Ngày Thứ Tám Trong Tuần
Ngày Thứ Tám Trong Tuần là tiểu thuyết đầu tay của Marek Hlasko (1934-1969) — “nhà văn nổi loạn” nổi tiếng nhất của Ba Lan vào thời hậu-Stalin. Xuất bản lần đầu tại Ba Lan cách đây đúng 50 năm, tác phẩm một thời vang bóng này nói lên cuộc sống đương thời ngột ngạt, quá khứ nặng nề và tương lai mờ mịt của đông đảo những người trẻ tuổi bị gạt bên lề xã hội. *** "Không được. Bây giờ không được," Agnieszka nói, nàng đẩy mạnh tay của chàng thanh niên và khép chặt lại chiếc váy của mình. "Em muốn sao cũng được," người con trai đáp. Chàng nằm cạnh nàng trên bãi cỏ, nhìn qua bên kia bờ dòng Vistula. Giữa sông, một chiếc tàu kéo cục mịch đang mệt nhọc kéo ba chiếc xà lan, đầu máy hổn hển như nhịp tim của người già. Đêm đang xuống dần. Khí lạnh đông lại như sữa. Cây cối chung quanh sẫm lại. Chàng nằm yên cho đến khi cảm thấy bàn tay của Agnieszka đặt trên đầu của mình. Cô gái nói nhỏ: "Pietrek, em không muốn chuyện tầm thường. Nếu không yêu anh, có lẽ em không bận tâm đâu. Nhỡ có ai đến thì sao. Em không muốn người ta chà đạp lên những gì mà em xem là quan trọng. Anh phải hiểu như thế. Nếu mình phải giữ gìn một điều gì, thì đó chính là điều này." ... Mời các bạn đón đọc Ngày Thứ Tám Trong Tuần của tác giả Marek Hlasko.
Một Kiếp Lênh Đênh
Bối cảnh truyện là Sài Gòn những năm trước giải phóng, đầy hoa lệ mà cũng cực kỳ phóng túng. Ở đó, sau những ánh đèn chớp nháy đầy xa hoa là bao mảnh đời, số phận vật vã, nổi trôi. Liên là một trong số đó, số kiếp cô lênh đênh hết biến cố này lại sóng gió khác. Từ một cô bé ngây thơ như bao cô gái khác, chỉ vì cảnh nhà túng bấn, bố mất sớm mẹ đi bước nữa. Đến năm mười bốn tuổi, sự thô bạo và dâm tục của bố dượng đã buộc Liên bước chân ra lề đường, chấp nhận kiếp sống bụi đời. Như thứ nọc độc, nó chiếm lĩnh cô dần dần bằng những nét phù hoa giả dối, những ảo mộng cuộc sống trong tiện nghi vật chất với lối sống an nhàn, vương giả. Qua bà mẹ nuôi và cô chị kết nghĩa, từ lúc nào Liên đã thành thạo với cách kiếm tiền từ kinh doanh thân xác con người. Và rồi, chính lối sống ấy đã buộc cô phải trả giá bằng sự trinh trắng của mình. Từ đó, phần vì kế sinh nhai, phần để trả thù đời, Liên đã điên cuồng lao vào các cuộc tình đỏ đen. Cứ vậy, Liên ngụp lặn trong dòng đời ngầu đục, bất kể những biến thiên thời cuộc… Tiểu thuyết Một Kiếp Lênh Đênh đã đề cập phần lớn về góc khuất trong xã hội tạp nham đương thời. Đồng thời cuốn sách này cũng sẽ chạm tới trái tim bạn đọc để kiếm tìm sự đồng cảm với những số phận nghiệt ngã, đắng cay. *** Lối đi quen thuộc chứa chấp nhiều mạo hiểm... NGUYỄN KHẮC PHỤC Đọc “Một kiếp lênh đênh” của Thu Trang, tôi bỗng miên man nghĩ ngợi. Và gợi ra khá nhiều điều về nghề tiểu thuyết. Mà cụ Tố Như bảo “nghề chơi cũng lắm công phu”, huống hồ cái nghề khó nhằn trên... Nghĩ cho cùng, văn chương, mà ráo riết nhất là tiểu thuyết, chỉ chăm bẵm vào việc mô tả, đào bới các khía cạnh của kiếp người. Vâng, cái kiếp người với tất cả những thăng trầm, biến cải, ái, ố, hỉ, nộ... chính là cốt liệu làm nên tác phẩm; chính là chất men gây hứng khởi (và cả buồn, vui, bi phẫn cùng hi vọng...) cho văn sĩ; chính là chỗ quy chiếu để ta xem nhà văn nhìn đời, nhìn người, nhìn thế sự xoay vần ra sao, yêu cái gì, ghét cái gì, muốn cái gì phải chết, phải bị diệt vọng, cái gì phải còn lại, phải phát triển và đơm hoa kết trái... Tóm lại, dù “tiểu thuyết là cỗ máy tri giác thực tại” (theo định nghĩa của nhà văn Pháp Lu-i A-ra-gông), hay là “tấm gương đặt trên một cỗ xe, kéo lê trên đường cái, phản chiếu mọi sinh hoạt của đời sống” (theo cách nghĩ của Phốc-nơ, tiểu thuyết gia Hoa Kỳ)..., hay tiểu thuyết là gì gì đi nữa, “kiếp người” vẫn cứ là lý do đầu tiên và mục đích cuối cùng, khiến các nhà văn cầm bút, canh cánh bên lòng trước những cảnh ngộ éo le, bi thiết, niềm vui sống, tình yêu, lòng căm hận, bài ca bất tận của lao động sáng tạo, tinh thần hướng thiện, lòng sùng bái Mẹ Thiên Nhiên và cuộc vật lộn mưu sinh, những xô xát, tranh chấp giữa tốt-xấu, hay-dở, đúng-sai..., hăm hở tạo dựng lại một “thế giới ảo” mang dấu ấn cá nhân của nhà văn, trên trang giấy, từ những mảnh vụn tưởng chừng rời rạc, ngẫu nhiên của hiện thực. Cái thế giới ảo ấy vừa bắt rễ, nảy mầm từ mảnh đất đời sống, vừa vươn cành lá xum xuê đón nhận ánh sáng mặt trời, tổng hợp nên chất “diệp lục tố” - cái chất huyền diệu biến “sự bịa đặt” (hư cấu) thành tác phẩm văn chương, “thật” hơn cả cái “thật” xuất phát điểm của nó... Trong cuốn sách của mình, Thu Trang quả là đã bắt ta theo dõi một “kiếp” lênh đênh trong tiểu thuyết thật hơn “kiếp lênh đênh” mà ta từng thấy trong đời. Mà lại lênh đênh trong trận cuồng phong những năm nửa sau thế kỷ 20 trên đất Nam Việt Nam. Liên, nhân vật chính, người đàn bà trong trại giam, sống lại trong hồi tưởng quá vãng, với bao ngậm ngùi, tủi hổ, trách móc và cũng không ít những lời biện hộ trắng trợn, đổ vấy cho “hoàn cảnh”... Ta hiểu, lắng nghe mà vẫn có thể cảm thông, thương xót và hy vọng một cái kết khả dĩ hơn, sẽ đến với con người có cái “kiếp lênh đênh” ấy. Mọi chuyện bắt đầu từ chuyến tàu thuỷ chạy ven biển, chở những người miền Bắc di cư vào Nam, sau hiệp định Giơ-ne-vơ 1954... Trong đó có gia đình của cô bé Liên. Rồi bố chết, mẹ đi bước nữa, gặp phải ông bố dượng chẳng ra gì, cô bé từ tổ ấm bước vào một cô nhi viện Công giáo và từ đó, bước thẳng vào giang hồ. Những gì xảy ra như một hậu quả lô-gich, Liên trở thành vũ nữ trong vũ trường, thành một thứ “gái bao” cho những ông Tây, ông Mẽo và khách làng chơi. Cứ thế trượt mãi xuống dưới đáy xã hội. Sau 1975, Liên cố gượng lại nhưng “hoàn cảnh xô đẩy” và cuối cùng, “nàng kiều nữ - sản phẩm kiêm nạn nhân của chủ nghĩa thực dân kiểu mới” tạm dừng chân trong một trại giam, trò chuyện, thổ lộ với tác giả về “cái kiếp lênh đênh” của mình... Giọng văn (qua lối tự thuật của nhân vật chính) giản dị, chân thật, gợi cảm u sầu, tiết tấu nhanh và ít khi bận tâm chẻ sợi tóc làm tư (gần gũi với lối ta thường bắt gặp ở một số cây bút di cư sau 1954). Nhưng có điều đáng ái ngại: chính trên những lối đi quen thuộc, nhà văn rất dễ gặp nhiều mạo hiểm khi độc giả dường như đã đoán biết trước những gì mà các nhân vật chính sẽ phải nếm trải và nhận lãnh... Nhưng Thu Trang đã không bắt đồng nghiệp và độc giả của mình phải thót tim lâu. Chị đã vượt qua những mạo hiểm trên một cách bản lĩnh mà vẫn hồn nhiên, tươi tắn chứ không đến nỗi phải gồng mình... Phường Quan Hoa - Cầu Giấy Một đêm chủ nhật N.K.P. Mời các bạn đón đọc Một Kiếp Lênh Đênh của tác giả Thu Trang.