Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hai làng Tà Pình và Động Hía

“Hai làng Tả Phình và Động Hía” kể về tình bạn của một cậu bé người Mán và một cậu bé người Mèo ở vùng cao Tây Bắc vào những năm 1950. Hai làng có mối hiềm khích không sao hóa giải, nhưng tình bạn trong sáng của tuổi thơ đã kết nối tình thân giữa các gia đình, dân tộc anh em trong những năm tháng kháng chiến. Đây là tác phẩm nổi tiếng một thời được nhà văn Bắc Thôn viết trước ngày lên đường ra mặt trận. Đây cũng là tặng vật gửi tặng bạn độc nhỏ tuổi của người chiến sĩ – liệt sĩ, với ước muốn các em thêm hiểu, thêm yêu đất nước, quê hương. *** Hôm nay, tôi kể cho các bạn thân mến câu chuyện Tà Pình và Động Hía. Trước khi vào chuyện, tốt hơn hết là tôi kể ngay cho các bạn một đoạn cần thiết của câu chuyện. Trên các miền rừng núi, người Mèo và người Mán thường ở rất cao. Mãi tận đỉnh núi hay mãi tít mây xanh cũng được. Người ta gọi đó là những rẻo cao hẻo lánh của Tổ quốc chúng ta. Hồi nước ta chưa độc lập, giặc Pháp còn cai trị, nhân dân các bản ít giao thiệp với nhau. Phần vì đường xa lắm dốc, phần vì cũng chẳng có chợ búa, phố phường gì mà buôn bán, trao đổi. Người Mèo với người Mèo đã như vậy. Người Mèo và người Mán lại càng xa nhau hơn nữa. Thường có những chuyện thù hằn hàng mấy đời để lại. Có khi làm lễ ăn thề cúng ma rừng ma núi mà nguyền rủa lẫn nhau. Tà Pình và Động Hía cũng như vậy. Hai làng cách nhau nào có bao xa. Chỉ bốn khoảnh đồi cỏ là đến. Một con ngựa của người Tà Pình thả ra ăn cỏ thuận chân hoặc chú ngựa mải ăn một tí, chỉ một tí thôi là nhảng vó sang đất Động Hía của người Mán. Làng Mèo Tà Pình và làng Mán Động Hía cũng giống như các làng Mèo làng Mán khác, thường có những người cầm đầu. Người cầm đầu làng Mèo gọi là thống lý. Người cầm đầu động Mán thường là dòng họ Lý, họ Triệu, làm vua các người Mán khắp nơi. Trước khi xảy ra câu chuyện tôi sắp kể vào khoảng hai ba đời gì đó, có một con ngựa của nhà thống lý họ Hoàng. Con ngựa này đẹp thật. Trước kia nó không phải là giống ngựa nhà thống lý họ Hoàng. Nó là của một gia đình họ Vừ. Anh ta có con ngựa đẹp nhưng lại không phải là thống lý nên khó giữ ngựa ở trong nhà. Một hôm, ngựa của anh đi qua nhà thống lý họ Hoàng. Thống lý họ Hoàng đang đứng phanh bụng ở trước cửa. Chòm tóc của lão ta đã bạc nhưng người còn rất khoẻ. Lão ta đứng chống háng, ngậm cái tẩu thuốc bào dài dằng dặc, vừa hút thuốc vừa nheo mắt nhìn con ngựa. Thế là ngày mai, lão ta cho người sang “xin”. Anh họ Vừ bụng tiếc của nhưng miệng vẫn phải cười, dắt ngựa sang nhà thống lý họ Hoàng. Lão gật gật gù gù làm ra chiều đon đả, vui mừng. Thống lý trả cho chén tống muối đem về. Từ đó thống lý rất chăm chuốt con ngựa. Chú ngựa tốt số sang nhà thống lý ngày một khoẻ đẹp. Lông hồng mượt như nhung. Thống lý quý con ngựa như vàng. Một hôm con ngựa được thả ra ăn cỏ. Ngựa lững thững, vẫy đuôi. Đầu nó cúi xuống gặm cỏ soàn soạt. Dáng nó cũng đủng đỉnh như con nhà quan vậy. Ngựa ăn cỏ non ngon miệng đi quá cả gốc cây bứa làm ranh giới chia hai làng Tà Pình và Động Hía. Ngựa đạp bừa, nhai nát nương dưa của vua Mán họ Lý ở Động Hía. Cũng là lúc mẹ vua Mán họ Lý đi thăm nương, thấy vậy đỏ mắt lên. Cái mặt nhăn nheo của người già dúm lại. Con mắt quắc lên như nảy lửa. Mẹ vua Mán rút con dao rừng đeo ở cạnh sườn, chém liền hai nhát vào đầu gối vó ngựa sau. Con ngựa co một chân lọc xọc chạy về tàu. Đầu nó gác lên một gióng gỗ nhưng chân không hạ xuống được nữa, máu chảy ròng ròng. Con trai thống lý thấy ngựa bị người chém què, tiếc ngựa khóc lên hu hu. Hắn ta bảo vợ lấy cái nỏ và mũi tên thuốc độc, giắt lên mang tai lần theo vết máu ngựa mà tìm. Lúc bấy giờ mẹ vua Mán chém con ngựa xong cũng chẳng buồn dọn lại dưa, quay về. Chẳng may có chị con gái nhà thường dân ở Động Hía đi hái chè trong rừng vừa tới nơi thì gặp con trai thống lý bên kia cây bứa. Con trai thống lý tì nỏ vào bụng, dán dây và bật tách một cái trúng ngay ngực chị con gái Mán. Chị ta nghiến răng vừa chạy về vừa rút mũi tên ra. Thuốc độc ngấm trong máu, chạy vào tim. Tới khe nước đầu động, chị uống một hụm, rồi cố chạy được tới động thì lảo đảo ngã gục xuống, tay còn nắm chặt mũi tên của người Mèo. Thế là hai làng thù nhau từ đời này qua đời khác chỉ vì cái chuyện giữa nhà thống lý Mèo và nhà vua Mán mà thôi. Cây bứa lâu đời vẫn chưa đổ, giờ nó già cỗi cao chon von. Cho tới năm 1948. Giặc Pháp chiếm dưới chân núi, bắn súng cối lên nương người Mán, nương người Mèo. Có lần liền mấy nương dưa của người Mán bị đạn phá tung lên hỏng cả. Nương thuốc phiện của người Mèo đẹp như những cánh đồng hoa cũng bị nát. Cả hai làng Tà Pình và Động Hía đều không thích thằng Pháp. Mấy lần liền, cán bộ Cụ Hồ lên dạy người Mán đánh giặc giữ làng, tăng gia sản xuất. Thiếu niên Mán tổ chức thành một đội liên lạc. Cán bộ biết câu chuyện thù hằn giữa Tà Pình và Động Hía, đem ra giải thích, khuyên dân Mán nên đoàn kết với người Mèo. Người Mán mới đầu không nghe, sau dần dần cán bộ nói: Cụ Hồ bảo: Kinh, Thổ, Thái, Mán, Mèo, Mường là anh em một nhà. Câu chuyện thù hằn kia không tốt. Đáng lẽ là việc của hai nhà thống lý Mèo và vua Mán là chính, sao lại liên lụy đến dân hai làng. Chồng nghe được cho là phải, về nói với vợ, vợ về nói với con cái. Thiếu niên nghe được cũng đem ra nói với nhau. Ai cũng khen cán bộ nói phải. Làng Mán đã muốn làm lành với làng Mèo, nhưng họ nhà vua Mán không bằng lòng. Người Mán có người nghĩ rằng: Nếu cán bộ vào được làng Mèo mà nói, thì người Mèo cũng hiểu được như người Mán. Rồi sau đó, cán bộ từ làng Mán sang làng Mèo cũng làm như vậy. Nhưng thống lý dòng dõi họ Hoàng lắc đầu quầy quậy. Hắn hút cái tẩu thuốc lá dài, mắt lim dim, nói: - Mán Động Hía mang cán bộ về, sau này cán bộ đem bộ đội lên bênh nó giết người Mèo ta đó. Có lần hắn nói: - Cán bộ khinh người Mèo, đến với người Mán trước. Người ta bàn tán: - Không biết ông thống lý nói có thật không? Hắn nheo mắt, đập cái trôn chén xuống sàn. - Bảo sao? Bảo sao? Thế là mọi người lại im và quá tin lời thống lý, người Mèo lại đuổi cán bộ, chưa muốn làm lành với người Mán. Câu chuyện tôi bắt đầu sau đây, các bạn ạ, nó vào giữa lúc đó. Và, đây mới thật là câu chuyện mà các bạn cần biết kỹ, nó mới là câu chuyên chính mà tôi kể cho các bạn nghe. Mời các bạn đến Tà Pình trước. * * * Buổi sáng. Mặt trời lên ửng đỏ trên các ngọn núi trước mặt. Nhưng ngọn đồi cỏ lau ngút đầu và con đường đá dăm đất đỏ còn ẩm sương sớm. Vừ A Sình tỉnh dậy. Cậu bé mở hai con mất ra đã nghe thấy tiếng xay ngô ù ù. Cậu nhảy tót ra ngoài cửa, lấy tay hứng vòi nước đắp lên mặt. Bỗng nhiên một đàn chim từ mái nhà bay vù vù về phía Động Hía. Vừa bay vừa hót “Chà chích, chà chích”. Sình khoanh tay trước ngực, đứng phưỡn cái bụng phệ trắng hếu ra nhìn. Sình nói một mình: - Nhiều con chim. Sao nó không ở Tà Pình mà lại bay về phía Động Hía? Tao bắt được một con thì thích quá. Nói một mình như vậy, cậu nâng vạt áo lên lau mặt. Nghĩ một lát, cậu vò chỏm tóc như một chiếc áo búp đa nằm trên đầu, chạy thụt ngay vào trong nhà. Mẹ cậu đang xay ngô. Cái váy hàng trăm nếp của bà rung rinh. Bà thấy con đang xách cái lồng chim từ trên vách xuống. Đó là một cái lồng bẫy. Bên trong con chim mồi nhảy lách cách, lách cách. Bà hét lên cho to hơn tiếng cối xay: - Mày đi chơi à, lại bắt con chim à? Sình vừa sửa cái lồng vừa trả lời mẹ: - Tôi đi bắt con chim chứ! - Dề. Mày bắt chim, Tây nó lên mày chạy sao kịp, Sình à? - Tôi chạy kịp chứ. Nó đến Mán Động Hía trước chứ. - Ờ, mày đi cho gần cũng có con chim đấy. Mày đừng sang quá đất Tà Pình. Mán Động Hía nó giết chết đấy. Nó chém cho đấy. Sình chưa nghe hết lời mẹ, cậu xách cái lồng chạy ton ton về phía có đàn chim bay. Bà mẹ buông tay cối, lật đật ra cửa. Thấy con chạy về phía Động Hía, bà dang thẳng hai tay lên trời, cúi gập người xuống, chân giậm bành bạch, bà hét lên: - Sang phía rừng ăn măng này này. Mày sang Mán nó chém chết. Cậu bé nghe mẹ hét, lảng vảng, đi từ từ sang phía rừng măng. Bà mẹ thấy vậy mới yên tâm quay vào, lại xay ngô ù ù. Cậu bé thấy mẹ vào rồi thì len lén, co chân lên thật cao, rón rén quay lại rồi ù té chạy về phía Động Hía. Bà mẹ cứ tưởng con đi về phía rừng ăn măng nên không nhìn ra nữa. Sình chạy khuất một khoảnh đồi. Cậu yên trí đi từ từ. Miệng cậu chúm lại hót sáo theo tiếng chim. Con chim mồi trong lồng cành cạch nhảy hót theo. Đi được một quãng thì đã vắng tanh. Bờ cỏ lặng lẽ như một nơi bỏ hoang từ lâu đời. Con chim hú hò nào bỗng dưng kêu bạn giữa ban ngay làm cho cậu bắt đầu sợ. Cậu lẩm bẩm một mình: - Thằng Mán nó chém tao thì tao chết à? Tiếng chim trong lồng lại hót lên “chà chích, chà chích”. Tiếng chim trong vắt như khêu gợi làm cho cậu chúm mồm hót theo. Rồi cậu lẩm bẩm: - Tao thấy nó thì tao chạy chứ. Con chim nó bay về phía ấy mà. Nó chỉ ở gần vườn chè của thằng Mán thôi. Thế là Sình lại đi. Cây bứa đã sờ sờ trước mắt. Cây bứa từ mấy đời trước là cái mốc ngăn cách hai láng Tà Pình và Động Hía bây giờ vẫn còn. Cậu bé dừng ngay lại, nhìn quanh. Mấy cây thâm thấp ngay cạnh đường là chỗ Sình có thể treo lồng chim được rồi. Cậu chuẩn bị lạt và buộc lồng chim lên một cành cây. Cậu mở ngăn bẫy ra, rồi thử mấy cái. Cửa lồng vẫn tốt. Cậu liền ngồi núp vào một bụi cây dại. Mồm hót sáo theo tiếng chim. Con chim mồi cũng hót theo. Mấy con chim nghe thấy tiếng hót, từ trên cành cao nhảy dần xuống thấp. Trống ngực Sình đập thình thình. Nhưng lũ chim chẳng vào lồng cho. Chúng cứ nhảy loanh quanh. Bỗng dưng “cách” một cái. Không phải lũ chim dại dột đã mắc cạm của Sình mà chính con chim mồi đã nhoi ra từ lúc nào. Sợi dây buộc chân làm vướng cánh nên nó chỉ nhảy chứ không bay được. Con chim nhảy xuống mặt đường, cố vươn cánh lên mà bay. Cái chân nó chỉ bổng lên chút ít rồi lại sà xuống. Cậu bé Mèo hoảng hốt. Từ trong bụi cây, cậu nhảy xổ ra đuổi con chim. Mấy lần cậu lao cả thân cậu xuống bờ cỏ mà đuổi nhưng con chim chưa bị nắm trong tay cậu. Nó vẫn loạng choạng chưa cất nổi cánh. Cậu vừa đuổi vừa vồ, vừa nói một mình: - Mày bay à, tao bắt mày, tao bắt được mày. Con chim thoắt chốc bỗng lao sang bên kia cây bứa. Thôi thế là đất Động Hía rồi. Sình bỗng dưng thừ người ra. Cậu xoa xoa cái bụng: “Tao sang bắt chim à? Thằng Mán nó chém tao chết. Tao mất chim thì tao tiếc lắm.” Sình định bước bạo sang. Nhưng rồi cậu không dám: Con chim bay loạng choạng vài khúc nhỏ, rồi nằm nép mình trong một bụi cây. Mời các bạn đón đọc Hai làng Tà Pình và Động Hía của tác gải Bắc Thôn.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cạm Bẫy Hôn Nhân - Jennifer Probst
Tiếp nối thành công của cuốn Thương vụ hôn nhân, cuốn sách ghi tên Jennifer Probts vào danh sách các giả có sách bán chạy nhất trên tờ New York Tímes và USA Today, Jennifer tiếp tục cho ra mắt cuốn Cạm bẫy hôn nhân. Là một cây bút xuất sắc với văn phong tự nhiên, Jennifer xây dựng hình ảnh các nhân vật nữ trong tác phẩm của cô rất khác biệt so với các tác giả cùng thời. Không phải là những tiểu thư kiêu sa đài các hay những cô gái cam chịu số phận mà là những người phụ nữ mạnh mẽ. Họ luôn ngẩng cao đầu hướng về phía trước kể cả khi cảm thấy sợ hãi. Họ độc lập, biết thỏa hiệp và không ngững nỗ lực theo đuổi giấc mơ của mình. Họ đòi hỏi nhận được sự tôn trọng trong mối quan hệ của mình và trở thành hình mẫu lý tưởng cho các độc giả nữ. Vẫn theo phong cách quen thuộc, hình tượng nữ chính trong Cạm bẫy hôn nhân được xây dựng là cô nhiếp ảnh gia cá tính chụp ảnh đồ lót nam. Với nghề nghiệp cô đang làm, có lẽ khó có một gia đình nào sẽ chấp nhận cô làm con dâu. Nhưng không may, cô lại vướng vào một cuộc hôn nhân đầy rắc rối với một anh chồng hờ vốn bị cô ghét cay ghét đắng, bà mẹ chồng sắc sảo và ba cô em chồng nổi loạn. *** Jennifer Probst bắt đầu những sáng tác của mình từ năm mười hai tuổi, nhưng tới khi tác giả tham gia vào Hội nhà văn lãng mạn của Mỹ tên tuổi của cô mới được chú ý. Hai tờ thời báo New York Times và USA Today đã bình chọn nữ tác giả là một trong những cây bút xuất sắc về thể loại văn học lãng mạn và hiện đại.   Các tác phẩm của nhà văn Jennifer luôn chứa đựng một chút gì đó tinh nghịch nhưng cũng không kém phần tinh tế. Một trong số đó là cuốn tiểu thuyết ăn khách Thương vụ hôn nhân, trong series Marriage Billionare từng xếp vị trí thứ sáu trong số các tác phẩm lãng mạn được yêu thích nhất trên trang Amazon năm 2012. Mời các bạn đón đọc Cạm Bẫy Hôn Nhân của tác giả Jennifer Probst.
Bông Hoa Đá - Pavel Petrovich Bazhov
Nhà văn Pavel Petrovich Bazov (1879-1950) sinh trưởng tại Ural, vùng Đông Nga. Tuổi thơ của ông trôi qua ở thành phố Xưxerchi và nhà máy Polevxki trong vùng núi Yưxerchi - nơi cha ông làm công nhân. Mẹ ông là nghệ nhân thêu ren nổi tiếng. Bazov học tại trường dòng Ecaterina, sau đó là đạo viện Perma - nơi đào tạo các giáo sĩ, nhưng các nhà văn Nga nổi tiếng như Mamin Xibiriac, V.P. Biriucov cũng đã từng học ở đây. Năm 1899, tốt nghiệp đạo viện, ông muốn học tiếp tại trường tổng hợp nhưng vì đã tham gia vào phong trào học sinh phản đối cách đối xử thô bạo của giáo viên nên ông bị trường Tổng hợp Tomxki từ chối. Hai mươi tuổi ông bắt đầu công việc dạy học tại các làng nhỏ ở Saidurin và Ecaterinburg. Năm 1914, Bazov đến Camưxlova và tham gia hoạt động cách mạng. Năm 1921, ông trở về Ural làm chủ bút báo Con đường đỏ và viết văn. Cuốn tiểu thuyết tự sự đầu tay “Những người Ural là thế đấy” được xuất bản năm 1924 và tiếp theo là những truyện ngắn đều đặn đăng trên các tạp chí như “Tên quỷ già”, “Nữ Chúa Núi Đồng”, “Ông Pologi vĩ đại”,… và các tiểu thuyết “Con ngựa non”, “Tiến xa hơn nữa để gần hơn”,… Giai đoạn sung sức nhất của ngòi bút Bazov là những năm chiến tranh giữ nước vĩ đại. Ông đã dựng lại những hình ảnh lịch sử của cuộc kháng chiến anh dũng tại Ural trong các tác phẩm “Chiếc hộp”, “Chiếc nắp bằng sắt”, “Nhiệm vụ vàng”,… “Bông hoa đá” là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Bazov. Xuất bản lần đầu tại Xvedlov năm 1939 và Moxcva các năm 1942, 1944, xuất bản tại Anh, Pháp, Tiệp Khắc (cũ), Na Uy… Câu chuyện về những con người lao động tài năng, sáng tạo ngày càng được nhiều độc giả trên thế giới biết đến và yêu thích. Xin trân trọng giới thiệu với các bạn tập truyện này trong Tủ sách Văn học Nga. NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN Mời các bạn đón đọc Bông Hoa Đá của tác giả Pavel Petrovich Bazhov.
Thang Dây - Nigel Richardson
Truyện kể về cậu nhóc Mungo, khi cha qua đời, cậu phải theo mẹ dọn khỏi London, đến sống trong một căn nhà ở vùng quê.  Nơi đây trong nỗi nhớ quay cuồng về cuộc sống phố thị, Mungo đã tìm thấy một thung lũng. Nơi có một cái giếng hoang, giúp cậu tìm ra một câu chuyện khác về cuộc sống của cha mẹ và tìm ra một phiên bản mới của chính mình.  Truyện dành cho lứa tuổi  thiếu niên, mới lớn với những linh cảm nội tâm và hành vi phức tạp. *** Nigel Richardson là tác giả của ba cuốn sách đã xuất bản: Breakfast in Brighton (Điểm tâm ở Brighton); Dog days in Soho (Những ngày tồi tệ ở Soho) và The wrong hans (Bàn tay kỳ dị) rất được tán thưởng trong năm 2005. Ông là biên tập viên về du lịch của tờ The Daily Telegraph trong suốt mười ba năm và vẫn viết cho nhiều tờ báo. Ông cũng viết nhiều vở kịch, một phim bộ nhiều tập và một loạt phim tài liệu cho BBC radio 4. Thang dây là cuốn tiểu thuyết thứ hai của ông do nhà xuất bản Oxford University Press ấn hành. Mời các bạn đón đọc Thang Dây của tác giả Nigel Richardson.
Người Chồng Vĩnh Cửu - Fyodor Dostoyevsky
Người Chồng Vĩnh Cửu nằm trong khuôn khổ seri "Cuộc đổ bộ của chàng Dostoievski" trong hình dạng ba cuốn sách bìa giống hệt nhau, chỉ khác nhau tên sách, bao gồm: Con Bạc, Người Chồng Vĩnh Cửu, Chàng Ngốc Hữu Ích". Quyển sách viết về câu chuyện một người chồng bị “cắm sừng” và những hành vi của ông ta sau khi biết mình bị vợ và bạn phản bội. Về đề tài này Dostoievski đã từng có một truyện ngắn trước đó, nhan đề Vợ Người Khác Và Gã Chồng Dưới Gầm Giường (1848), trong đó, theo “gu” thịnh hành trong văn học đương thời, Dostoievski mô tả nhân vật người chồng bị lừa dối theo kiểu nửa hài kịch thông tục. Còn giờ đây, với Người Chồng Vĩnh Cửu, Dostoievski đã “nâng tầm” sáng tác của mình, tạo bước ngoặt phát triển nghệ thuật mô tả tâm lí phức tạp cho dạng đề tài này. Viết về đề tài ghen tuông và tính cách của người chồng bị phản bội Dostoievski có thể đã xuất phát từ một số tình huống cốt truyện và diễn biến tâm lí của hài kịch Molier - Trường học dạy làm vợ (1665) và Trường học dạy làm chồng (1667). Năm 1867, theo lời khuyên của Turghenev, Dostoievski đã đọc Bà Bovary của G.Flaubert. Cuốn tiểu thuyết của nhà văn Pháp đã gợi ý cho ông ý đồ mô tả và lí giải hình tượng người chồng bị cắm sừng theo hướng nghệ thuật - tâm lí mới. Ông tìm thấy trong cuốn tiểu thuyết này motip mà sau này ông sử dụng như điểm xuất phát cốt truyện cho tác phẩm của mình: Charles Bovary sau cái chết của vợ, qua những bức thư của bà với tình nhân, đã biết về sự phản bội của vợ mình, đâm ra rượu chè rồi chết. Trusotski sau cái chết của Natalia Vacilievna, vợ mình, và qua thư từ của bà biết mình bị phản bội, đồng thời phát hiện ra đứa con gái yêu không phải con đẻ của mình. *** Fyodor Mikhailovich Dostoevsky (1821- 1881), sinh ngày 11.11.1821, là nhà văn nổi tiếng người Nga. Cùng với Gogol, L. Toystol, ông được xem là một trong ba văn hào vĩ đại của Nga thế kỉ 19. Dostoevsky sinh tại thành phố Moscow, là con trai thứ hai trong 7 người con của ông Mikhail, một bác sĩ quân y được biệt phái qua phục vụ tại Bệnh Viện Maryinski chuyên chữa trị các người nghèo. Ông Mikhail là một con người cứng rắn, thẳng thắn trong khi bà mẹ lại có bản tính trái ngược, bà ta rất thụ động, tử tế và rộng lượng. Các sự kiện của gia đình quý tộc xa xưa này với cha mẹ có một vùng đất và hơn một trăm nông nô, đã là hình ảnh của các nhân vật với các bản tính thái cực trong các cuốn tiểu thuyết của Dostoevsky sau này. Trong thời gian Fyodor đi học xa nhà, ông Mikhail đã bị giết chết do các nông nô trong vùng nổi loạn và hình ảnh giết người bất ngờ và tàn bạo này luôn luôn ám ảnh Fyodor Dostoevsky khiến cho các tác phẩm của ông thường dùng đề tài là các tội ác. Và vào cuối cuộc đời, cái chết của người cha đã là căn bản cho tác phẩm danh tiếng Anh Em Nhà Karamazov. Fyodor Dostoevsky rất yêu thích văn chương. Vào tuổi 25, Fyodor đã cầm bút, sáng tác ra cuốn tiểu thuyết đầu tiên với tên là Những kẻ bần hàn xuất bản vào năm 1846. Đây là một câu chuyện tình cảm mô tả một cách bóng bẩy các cảnh tàn phá của kiếp nghèo. Cuốn truyện này đã được các nhà phê bình khen ngợi, đặc biệt là Vissarion Belinsky, và nhà văn trẻ tuổi Dostoevsky được gọi là một "Gogol mới", tác phẩm của ông trở nên bán chạy nhất, bởi vì từ xưa tới nay chưa có một nhà văn người Nga nào cứu xét một cách kỹ càng sự phức tạp tâm lý của các cảm xúc bên trong tâm hồn con người. Fyodor Dostoevsky đã dùng tới phương pháp phân tích tâm lý để tìm hiểu các hoạt động rất tinh tế của tâm lý mọi người. Sau tác phẩm Những kẻ bần hàn , Fyodor Dostoevsky sáng tác ra cuốn Con người kép đề cập tới sự phân đôi cá tính và đây là căn bản dùng cho nhân vật Raskolnikov của đại tác phẩm Tội Ác và Trừng Phạt. Qua tác phẩm này, Fyodor Dostoevsky được toàn thế giới công nhận là một trong các Đại Văn Hào của nước Nga, được xem là người sáng lập hay là người báo trước cho chủ nghĩa hiện sinh thế kỷ 20. Tác phẩm tiêu biểu: Những kẻ bần hàn (1846) Con người kép (1846) Đêm trắng (1848) Ghi chép từ Ngôi nhà chết (1862) Những kẻ tủi nhục (1861) Con bạc (1867) Hồi Ký Viết Dưới Hầm (1864) Tội ác và trừng phạt (1866) Gã Khờ (1868) Lũ người quỷ ám (1872) Anh em nhà Karamazov (1880) Là Bóng Hay Là Hình Chàng Thiếu Niên Người Chồng Vĩnh Cửu   Mời các bạn đón đọc Người Chồng Vĩnh Cửu của tác giả Fyodor Dostoyevsky.