Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tấn Bi Kịch Y - Ellery Queen

Thám tử nghiệp dư Drury Lane - người nghệ sĩ già đã nghỉ hưu lại được mời tham dự vào một vụ án liên quan đến nhà Hatter Điên Loạn. Đầu tiên, thi thể của người chồng York Hatter được tìm thấy khi đang bị trôi dạt trên đại dương mênh mông. Nhưng ông ta không bị chết do đuối nước mà do trúng độc. Sau đó, hàng loạt những vụ hạ độc khác diễn ra trong ngôi biệt thự cũ của gia đình Hatter ở làng Greenwich của thành phố New York. Vụ hạ độc gần nhất có một nhân chứng, nhưng đó lại là một cô gái mù-câm-điếc, cái duy nhất cô có là cảm giác khi chạm tay vào mặt của hung thủ. Nhờ tài suy luận logic và là bậc thầy của ngụy trang, Drury Lane đã biết được hung thủ là ai, nhưng lần này ông lại không vạch trần hung thủ ngay trước mặt mọi người mà chỉ kể lại như một lời tâm sự với Công tố viên Bruno và Thanh tra Thumm. Có điều gì khiến Drury Lane phải làm điều đó? Ẩn số = Y!! Thi thể trôi dạt trên đại dương mênh mông nhưng không phải do đuối nước mà do bị đầu độc! Nhà hóa học York Hatter đã chết một cách bí ẩn. Sau đó, hàng loạt những vụ hạ độc khác diễn ra trong ngôi biệt thự cũ của gia đình Hatter ở làng Greenwich, thành phố New York. Một vụ hạ độc bất thành hay chỉ là mồi nhử cho vụ án cướp đi sinh mạng của bà Emily Hatter sau đó? Câu chuyện dường như đi vào bế tắc khi nhân chứng duy nhất của vụ án mạng lại là một cô gái mù - câm - điếc, khả năng duy nhất còn sót lại của cô là xúc giác. Nhưng đối với Drury Lane, manh mối duy nhất từ việc chạm vào khuôn mặt của hung thủ lại giúp ông tìm ra câu trả lời chính xác. Câu trả lời sẽ được tìm ra như thế nào trước ẩn số mang tên Y?   *** Chín năm về trước, hai chàng trai trẻ cộng tác dưới cùng một bút danh là Ellery Queen được người đọc cùng hoàn cảnh thuyết phục đã viết nên một loạt truyện trinh thám mới. Kết quả từ công sức đáp ứng theo yêu cầu đó là sự ra đời của nhân vật ngài Drury Lane, một nghệ sĩ diễn kịch Shakespeare tuổi đã về già có năng lực trinh thám tuyệt diệu khác người. Dễ hiểu rằng loạt truyện ca ngợi những kỳ công của ngài Drury Lane không thể công khai mang tên tác giả Ellery Queen; vì nếu truyện mang tên Ellery Queen thì đã tôn vinh những kỳ công của ngài Ellery Queen. Vậy nên hai chàng bèn nghĩ ra bút danh thứ hai; và “Tấn bi kịch của X”, tác phẩm đầu tiên trong loạt truyện bốn cuốn về Drury Lane, đã làm xao động thế giới văn chương bình lặng dưới tên người viết là “Barnaby Ross”. Giờ đây, mối liên hệ giữa (các) tác giả Ellery Queen và (các) tác giả Barnaby Ross trên thực tế đã hoàn toàn biến mất. Truyện của mỗi tác giả được phát hành qua một nhà xuất bản khác nhau; quanh mỗi cái tên đều được kỳ vọng thêu dệt bao điều mập mờ và bí ẩn; ở thời kỳ mang hai bút danh ấy trong đời sống công luận, quả thực đã có một giai đoạn mà hai cái tên này đã bực dọc nhìn nhau trước nhiều bục diễn đàn đầy đố kỵ, bên nào cũng mượn sự che chắn của chiếc mặt nạ giả trang để ẩn mình kỹ lưỡng… một làm bộ điệu Ellery Queen, một ra dáng là Barnaby Ross, và cả hai đều vờ vịt một cách hùng hồn ra điều là cặp đối thủ đáng gờm trong lĩnh vực sáng tác truyện trinh thám. Những gì họ nói về nhau trước sự lắng nghe đầy tò mò của thính giả diễn thuyết, từ Maplewood, New Jersey cho đến Chicago, Illinois, dù vẫn có lời khen tặng song cũng không thiếu lời công kích, vậy là bằng sự gạt gẫm này bảo vệ lấy ảo tưởng của tính cách cá nhân thô kệch. Thế nhưng, vẫn có một manh mối tinh vi luôn tồn tại mà, một khi bị thám tử ghế bành thận trọng phát hiện, sẽ lập tức xác lập rành rành mối quan hệ giữa Ellery Queen và Barnaby Ross, và tòi ra mánh lới lừa phỉnh xấu xa mà hai kẻ này đã bày ra trước công chúng cả tin trong suốt chín năm. Vì nếu bạn đọc ghé qua Lời tựa của “Chuyện bí ẩn về chiếc nón La Mã” (tác phẩm đầu tiên của Ellery Queen viết về Ellery Queen), bạn đọc sẽ tìm thấy từ dòng mười bảy đến dòng hai mươi hai trên trang X tiết lộ đáng chú ý sau đây: “Chẳng hạn, vào thời ông dành ra bao công sức trinh thám tài tình trong vụ án mạng Barnaby Ross giờ đã xưa cũ, người ta nói rằng: ‘Richard Queen bằng kỳ công này đã xác lập vững chắc tiếng tăm của mình bên cạnh những bậc thầy trinh thám hình sự như…’” Chính từ trích đoạn ngụy tác này mà “Barnaby Ross” đến lúc cần thiết đã được chọn để tạo thành bút danh mới - cốt sao cho Barnaby Ross quả thực ra đời vào năm 1928, tại thời điểm mà Lời tựa của cuốn Queen đầu tiên ấy được viết ra, dù mãi đến năm 1931 cậu ta mới được hai ông bố của mình làm lễ rửa tội và dọn vào ngôi nhà riêng của mình. Vậy nên, giờ ta có thể nói thế này: Barnaby Ross đã, đang và mãi mãi chính là… Ellery Queen; và ngược lại. *** Đôi lời về ngài Drury Lane Chúng ta luôn giữ một cảm giác nhẹ nhàng trong lòng về gã dở hơi này. Người này, bảo là nghệ sĩ quê mùa thì chưa hẳn mà gọi là con gà gô cũng không hoàn toàn … gọi là kẻ khoác lác cũng đúng nhưng bảo là thiên tài cũng chẳng sai, và cũng là một thám tử khác thường nhất từng sống trên đời (ngoại trừ là kẻ mà sẽ là không có tên tuổi, có lẽ vậy). Giống người anh em của mình (chẳng phải họ vốn cùng sinh ra bởi hai gã thanh niên xảo quyệt ấy sao?), ngài Drury Lane có gốc gác từ trường phái suy luận - theo nhánh đặc biệt mà chú trọng đến độ quá đáng vào tính chất khách quan để thỏa mãn yêu cầu độc giả; vì thế trong “Tấn bi kịch của X”, cũng như những Tấn bi kịch tiếp theo, bạn đọc sẽ thấy mọi manh mối đều đã sẵn đó để tự mình suy đoán trước khi đi vào phần kết của câu chuyện. Vì vậy trong giây phút hồi sinh trang nghiêm này … Drury Lane muôn năm! Kính chào, Ellery Queen Thứ sáu, ngày 13 tháng 9 năm 1940, New York *** Đôi điều về NGÀI DRURY LANE CÁC TRÍCH ĐOẠN ĐƯỢC BIÊN SOẠN CHO NHÀ XUẤT BẢN DO NGÀI CHARLES GLEN TUYỂN CHỌN TỪ NHỮNG GHI CHÉP SƠ BỘ VỀ TIỂU SỬ CHƯA HOÀN CHỈNH CỦA LANE Trích từ Ai là Ai trong nghệ thuật sân khấu, ấn bản năm 1930: DRURY LANE, diễn viên; sinh tại New Orleans, La, vào ngày 3/11/1871; con trai của Richard Lane, nam diễn viên bi kịch người Mỹ và Kitty Purcell, nữ diễn viên hài kịch nhà hát ca múa nhạc người Anh; không kết hôn. Học vấn: kèm cặp tại gia. Xuất hiện trên sân khấu lần đầu: năm 7 tuổi; vai diễn quan trọng đầu tiên: năm 13 tuổi, vở “Sự mê đắm” của Kiralfy, Nhà hát Boston; lần đầu thủ vai chính: năm 23 tuổi, vở “Hamlet,” Nhà hát Daly’s, N.Y; vào năm 1909, tại Nhà hát Drury Lane, Luân Đôn; đã biểu diễn liên tục vở “Hamlet” trong khoảng thời gian dài nhất tính đến thời điểm ấy - hơn 24 lượt so với kỷ lục trước đó của Edwin Booth. Tác phẩm đã biên soạn: Tuyển tập Shakespeare, Triết lý của Hamlet, Tiếng gọi sau bức màn nhung, v.v. và v.v.. Câu lạc bộ: Players, Lambs, Century, Franklin Inn, Coffee House. Thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Hoa kỳ. Hội viên danh dự, Bắc đẩu Bội tinh Pháp quốc. Nhà riêng: Lâu đài Hamlet, nhìn ra sông Hudson, N.Y. (ga đường sắt: Lanecliff, hạt Westchester). Giải nghệ sân khấu: năm 1928. Trích từ Thế giới New York, thông cáo về việc giải nghệ sân khấu của ngài Drury Lane (1928): “… Drury Lane sinh ở New Orleans, tại hậu trường một nhà hát tăm tiếng hạng nhì, Nhà hát Comus, phải thời kỳ gia đình nhà Lane lâm cảnh túng bấn, vào lúc mà Richard ‘có quyền đi đâu, làm gì tùy ý’ còn Kitty thì phải quay lại sân khấu để trang trải cuộc sống hai vợ chồng và chuẩn bị cho đứa con sắp chào đời… Cái chết bất hạnh lúc sinh nở của bà là hậu quả của sự gắng sức quá độ trước ánh đèn sàn diễn, đứa bé… bị sinh non trong phòng thay đồ khi bà vừa diễn xong màn thứ nhất … “… thế rồi Drury Lane gần như được nuôi nấng trên sân khấu, được mang đi từ nhà hát này sang nhà hát khác bởi người cha cố gượng nuôi con, sống khốn khó qua ngày trong những ngôi nhà thuê chung rẻ tiền. Tiếng nói đầu đời của cậu bé là ngôn ngữ kịch; thay nhau chăm sóc cậu là những diễn viên; học vấn của cậu là những gì thuộc về kịch…. Chập chững biết đi cậu bé đã sắm những vai diễn nhỏ… Năm 1887, Richard Lane qua đời vì chứng viêm màng phổi, lời cuối trước khi nhắm mắt là tiếng nhắn nhủ khàn khàn dành cho đứa con trai vừa tròn mười sáu tuổi: ‘Con hãy trở thành diễn viên kịch.’ Thế nhưng, dù khát vọng của Richard dành cho con trai có lớn lao thế nào, nó cũng kém xa so với đỉnh cao mà chàng trai trẻ Drury cuối cùng đã đạt được…. “… Cái tên đặc biệt, theo như ông cho biết gần đây, là do cha mẹ chủ ý đặt cho ông, dựa vào truyền thống sân khấu vĩ đại gắn liền với Nhà hát Drury Lane lâu đời…. “… nói rằng ông phải giã biệt sân khấu do bệnh điếc ngày càng nặng ở cả hai tai - và đến nay căn bệnh đã trầm trọng đến mức ông không còn phân biệt được một cách toàn vẹn giữa các chất giọng trầm bổng khác nhau của chính mình…. “… Ngoại lệ duy nhất trong quyết định từ bỏ những vai diễn ruột thịt của ngài Lane là cả một sự việc lạ lùng. Ông nói rằng, hàng năm vào ngày 23 tháng 4, ông sẽ diễn trọn vở ‘Hamlet’ tại nhà hát riêng ở trang viên Hudson của mình. Lý do ông trân trọng chọn đúng ngày này vì, theo sự chấp nhận rộng rãi của công chúng, đó là dịp kỷ niệm ngày sinh lẫn ngày mất của Shakespeare. Một điều rất thú vị là ngài Drury Lane đã diễn vai này trên năm trăm lần, chiếm kỷ lục về buổi diễn trên khắp các quốc gia cùng chung gốc rễ về văn hóa và lịch sử Anh.” Trích từ bài báo đăng trên tạp chí Điền trang thôn quê, mô tả trang viên của ngài Drury Lane, lâu đài Hamlet: “… Trang viên được thiết kế theo truyền thống kiến trúc Elizabeth* thuần nhất, gồm một tòa thành khổng lồ, và bao quanh là cả một ngôi làng thu nhỏ dành cho những người sống và làm việc cho ngài Lane. Trong ngôi làng này, mỗi ngôi nhà là một bản sao nguyên vẹn của túp lều thời Elizabeth với kiểu mái rạ đặc trưng, đầu hồi chóp nhọn, v.v. Tất cả đều được trang bị tiện nghi hiện đại, nhưng được che đậy khéo léo để không gây xáo trộn cảm giác về một thời đại trong quá khứ…. Cảnh quan vườn tược là cả một khung cảnh tuyệt đẹp; tỷ như, những hàng rào cây xanh là do đích thân chuyên gia của ngài Lane đưa về từ các vùng nông thôn Anh quốc.” Trích từ bài phê bình của Raoul Molyneux đăng trên tạp chí La Peinture, Paris, 1927, về Bức chân dung ngài Drury Lane, tranh sơn dầu, họa sỹ Paul Révissons: “… y như lần tiếp kiến ngài trong chuyến thăm vừa qua của tôi…. Vóc dáng cao lớn mảnh dẻ, trầm lặng nhưng mang vẻ sinh động khó tả, mái tóc trắng như cước lòa xòa dài tận cổ, đôi mắt màu lục xám tinh nhanh sắc sảo, nét mặt cân đối hoàn hảo gần như cổ điển, thoạt nhìn cho ta cảm giác bất động vô hồn song lại có khả năng đổi thay đột ngột…. Ông đứng thẳng người, sừng sững như Đại đế Carolus, cánh tay phải trong chiếc áo choàng thụng màu đen quen thuộc, bàn tay phải đặt trên quả nắm cây gậy gỗ mận gai trứ danh của ông, chiếc mũ dạ màu đen tròn vành thì để trên bàn cạnh bên…. Hiệu ứng kỳ quái của bóng tối càng nổi bật vì y phục u buồn của ông … nhưng được giảm nhẹ đi bằng cảm giác thật kỳ lạ rằng, người này chỉ cần nhấc ngón tay và thế là toàn bộ phục trang của thế giới hiện đại sẽ rơi tuột xuống chân, để lại nơi ông một dáng hình rực rỡ từ quá khứ….” Trích thư của ngài Drury Lane gởi ngài Bruno, công tố viên hạt New York, ngày 5 tháng 9 năm 193-: “Xin được thứ lỗi về việc đã mạo muội xen vào phận sự của văn phòng quý ngài khi đính kèm theo đây một bài phân tích khá dài dòng, hoàn toàn tự tay tôi biên soạn, liên quan đến vấn đề nan giải của cảnh sát về việc tìm ra kẻ giết John Cramer. “Các dữ liệu phân tích của tôi hoàn toàn dựa vào những gì tôi thu thập được từ những bài báo mà thông tin đôi lúc còn chưa thỏa đáng về vụ án này. Tuy vậy, thiết nghĩ rằng khi xem qua nội dung phân tích và đáp án, ngài sẽ đồng ý cùng tôi rằng cách sắp xếp giữa các sự việc với nhau như tôi trình bày chắc chắn sẽ dẫn đến một kết luận logic duy nhất. “Mong ngài đừng xem đây chỉ là giả định từ một người luống tuổi đã về hưu. Tôi vốn đặc biệt quan tâm đến tội ác hình sự, và sẵn sàng hỗ trợ khi có yêu cầu của ngài về bất cứ vụ án nào khác mà kết luận xem ra còn vô định hoặc bất khả thi.” Điện tín đã nhận tại lâu đài Hamlet, Ngày 7 tháng 9 năm 193-: LỜI THÚ TỘI ĐÃ XÁC NHẬN ĐÁP ÁN XUẤT SẮC CỦA NGÀI VỀ VỤ ÁN CRAMER - CHẤM - LIỆU THANH TRA THUMM VÀ TÔI ĐÂY CÓ THỂ GHÉ ĐẾN SÁNG MAI LÚC MƯỜI GIỜ BA MƯƠI ĐỂ TỎ LỜI CẢM ƠN ĐỒNG THỜI THAM VẤN Ý KIẾN NGÀI VỀ VỤ ÁN MẠNG LONGSTREET. WALTER BRUNO *** Vào một buổi chiều tháng Hai đáng nhớ, chiếc Lavinia D, một con tàu đánh cá xa bờ ương ngạnh xấu xí, đang cưỡi những con sóng Đại Tây Dương trở về đất liền. Nó đã đi qua Sandy Hook, hiện ở gần cảng Hancock, và đang hướng về vịnh Lower. Những bọt sóng bao quanh mũi tàu và tạo thành một vệt dài phía đằng đuôi. Một tấm lưới cũ mèm giăng trên thành tàu, boong tàu thì như một lò mổ hổ lốn bẩn thỉu, những ngọn gió rét buốt Đại Tây Dương khiến thân tàu rúng động, và thủy thủ đoàn đang thầm nguyền rủa tay thuyền trưởng, biển cả, lũ cá, bầu trời xám xịt, và cả bờ biển cằn cỗi đảo Staten bên mạn trái tàu. Một chai rượu được truyền từ tay người này sang người khác. Đám thủy thủ đang run lên dưới những tấm áo mưa màu vàng bay phần phật. Vẻ chán chường, một thủy thủ tựa người trên thanh vịn ngắm những con sóng cồn vẩn màu xanh lục, rồi anh chợt sững người lại, cặp mắt như lồi hẳn ra khỏi khuôn mặt đỏ gay, sau đó là một tiếng thét vang trời. Thủy thủ đoàn liền nhìn theo hướng chỉ tay của anh ta. Cách họ khoảng trăm mét là thứ gì đó nho nhỏ màu đen, một thứ không thể nhầm lẫn đi đâu được, chính là một xác người chết trôi trên vịnh. Cả toán thủy thủ nhảy dựng lên. “Rẽ trái!” người đang giữ bánh lái nghiêng người và chửi thề. Chiếc Lavinia D bắt đầu lượn thành một vòng cung nguệch ngoạc về bên trái, khiến cả đám mối ghép vang lên tiếng kẽo kẹt. Nó vòng quanh cái thứ chết trôi kia như một con vật đầy cảnh giác, từ từ vòng lại gần trong dáng vẻ của một kẻ săn mồi. Với vẻ hào hứng và khấp khởi, thủy thủ đoàn vung vẩy những cái móc sắt trong không trung mặn mòi, sẵn sàng để tóm lấy con cá lạ lùng nhất trong mẻ đánh bắt hôm nay. Chỉ mười lăm phút sau, yên vị trong vũng nước tanh ngòm trên phần boong tàu ướt nhoẹt là một thứ mềm oặt, tả tơi chẳng ra hình thù gì, nhưng vẫn đủ thấy đó là một con người. Từ hiện trạng đã bị phân hủy của cái xác, thì người này hẳn đã bị ngâm trong nước biển suốt nhiều tuần rồi. Thủy thủ đoàn chỉ còn biết đứng ngây ra đó trong lặng im. Tay chống hông, chân giạng ra, chẳng ai dám chạm vào cái xác cả. Thế rồi, với mùi cá tanh và gió mặn trong hai lỗ mũi, cái xác mang tên York Hatter bắt đầu chuyến hành trình cuối cùng của mình. Quan tài của ông ta chính là con tàu bẩn thỉu này, người đưa tiễn là một đám thủy thủ bặm trợn thô lỗ, quần áo thì bám đầy vảy cá, còn kinh cầu siêu là những tiếng nguyền rủa của thủy thủ và tiếng gió rít qua eo biển. Cái mũi ướt nhoẹt của con tàu lướt qua làn bọt trắng và neo lại tại một bến tàu gần Battery. Tàu cập bến với một kiện hàng chẳng báo trước từ biển cả. Mọi người nhảy vội xuống tàu, thuyền trưởng la hét đến lạc cả giọng, đám nhân viên bến tàu thì gật gù và ngó qua cái sàn trơn trượt, điện thoại reo lên trong những cơ quan hữu trách nho nhỏ khu Battery. Và York Hatter thì nằm lặng yên dưới một tấm bạt. Cũng chẳng lâu lắm. Một chiếc xe cứu thương lao vội tới. Nhân viên y tế đưa cái xác sũng nước đi. Buổi tang lễ giã từ biển cả, và khúc truy điệu là những tiếng còi tàu rền vang. York Hatter được đưa từ mạn dưới Broadway về nhà xác. Số kiếp của ông ta khá kỳ lạ, và đến giờ vẫn còn là bí ẩn. Vào ngày 21 tháng Mười hai, bốn ngày trước lễ Giáng sinh năm ngoái, người vợ già Emily Hatter đã báo rằng chồng bà ta vừa biến mất khỏi căn nhà riêng tọa lạc trên đường Washington Square North của thành phố New York. Ông ta chỉ đơn thuần là bước ra khỏi cái tòa gạch đỏ nằm trong khối tài sản kếch sù của nhà Hatter mà chẳng có ai đi kèm, cũng chẳng để lại lời nào với ai, rồi cứ thế lặn mất tăm. ... Mời các bạn đón đọc Tấn Bi Kịch Y của tác giả Ellery Queen.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ai Đó Dõi Theo Em
.. tại một nơi bạn thù không tài nào phân biệt. ... nơi sự thật trở thành thứ vũ khí khủng khiếp hơn hết thảy. ... nơi kết thúc lại chính là điểm khởi đầu... Micheal Valente, một tỷ phú đẹp trai, từng ngồi tù nhưng chưa bao giờ hết kiêu ngạo - một con mồi quyến rũ cứ lẩn tránh hoài cái lưới luôn giăng sẵn của giới cảnh sát, công tố viên liên bang Mỹ. Leigh Kendall, nữ diễn viên tài hoa xinh đẹp, huyền thoại sống của sân khấu Broadway, kẻ tình nghi số một trong vụ mất tích bí ẩn của người chồng thành đạt. Nhờ định mệnh, anh đã quen cô. Do định mệnh, anh đã nhường cơ hội tình yêu cho một kẻ hóa ra không hề xứng đáng. Anh đã tưởng, tình yêu của anh, chỉ cần là lặng lẽ đi sau một người, dõi theo từng bước chân của người ấy bằng cả trái tim. Cô vẫn nghĩ, hạnh phúc của cô, đơn giản là khi cô thất vọng, khi cô không đủ dũng khí tiến lên phía trước, thì chỉ cần ngoảnh đầu nhìn lại, sau lưng cô vẫn luôn có một người. Nhưng hóa ra, hạnh phúc không nằm ở sự hy sinh thầm lặng, tình yêu đích thực không thể thiếu đấu tranh. Chính là khi họ nhận ra rằng... NẾU THẬT SỰ YÊU, ĐỪNG BAO GIỜ TỪ BỎ *** Nhận định "Judith McNaught là một đẳng cấp riêng." - USA Today "Tác giả ăn khách bậc nhất New York Times đã khéo léo dệt nên một câu chuyện ly kỳ đắm chìm trong bầu không khí căng thẳng hồi hộp, đầy những nhân vật không thể quên và chằng chịt những mạch ngầm dữ dội của khát khao, tham vọng." - Amazon.com "Một câu chuyện tình yêu đích thực hòa trộn giữa sự hài hước, hồi hộp, bí ẩn và lãng mạn khôn cùng."- Regan *** JUDITH McNAUGHT (1944) được xem là một trong những tác giả được yêu thích nhất mọi thời đại với thể loại tiểu thuyết lãng mạn cổ điển. Trước khi bước vào sự nghiệp viết lách, McNaught đã thành công trong lĩnh vực phát thanh, điện ảnh và tài chính. Bà đã quyên góp và làm rất nhiều việc từ thiện. Judith McNaught hiện đang sống ở Houston, Texas. Tác phẩm: Hơn Cả Tuyệt Vời Như Cõi Thiên Đường 11 Năm chờ 11 Tuần yêu Ai Đó Dõi Theo Em Whitney Yêu Dấu Vương Quốc Của Những Giấc Mơ Em Có Để Ta Hôn Em Không? Hạnh Phúc Nhân Đôi Tender Triumph Trong Từng Hơi Thở Tiếng Sét Xanh Định Mệnh Yêu Em Cho Đến Hơi Thở Cuối Cùng Một Lần Và Mãi Mãi Điều Kỳ Diệu Remember When Thiên Đường ... *** Khi đoàn xe hộ tống rẽ vào Broadway thì trời đã nhập nhoạng, và O’Hara cho chiếc limousine chạy chậm lại. Khách bộ hành trên đường ngoái nhìn theo khi họ lướt qua, cố nhòm vào bên trong cánh cửa sổ tối màu của chiếc Mercedes dài. Từ ghế sau, Michael liếc ra ngoài cửa sổ, chờ dòng tên “Leigh Kendall” bật sáng trên mái rạp hát của Solomon. Đó là một thói quen của anh - chờ tên cô xuất hiện trên mái rạp hát. Anh vẫn làm thế nhiều năm rồi, cả vô thức lẫn chủ tâm, bất cứ khi nào anh có mặt ở Broadway. Lần nào cũng vậy, hễ nhìn thấy tên cô trên đó, trong lòng anh lại trào dâng nỗi hoài niệm, và ngay sau đó là ý thức về sự nghiệt ngã của số phận vì ngày xưa anh đã để lỡ cơ hội với cô. Nhưng số phận đã cho anh cơ hội thứ hai, Michael hân hoan thầm nghĩ, và lần này anh đã không bỏ lỡ, cũng không lãng phí thời gian. Ba tháng trước, Leigh còn là vợ của Logan Manning. Từ đó đến nay, Michael đã đưa cô từ một quả phụ trở thành một cô dâu - và trên đoạn đường đó là một điểm dừng dành cho thiên chức làm mẹ. Chỉ mới mười hai tuần trước, cô đứng trước mặt anh trong một buổi tiệc, mặc bộ váy đỏ và che giấu vẻ khinh thị đằng sau lớp mặt nạ lịch sự. Đêm nay, cô đang ngồi cạnh anh trong xe của anh, mặc bộ váy cưới lộng lẫy và nắm tay anh. Chưa đầy một tiếng đồng hồ nữa, cô sẽ đứng cạnh anh trước một vị thẩm phán tối cao và tự nguyện gắn kết cuộc đời cô với cuộc đời anh. Và sau bảy tháng rưỡi nữa, cô sẽ mang đến cho anh đứa con đầu lòng. Dĩ nhiên anh cũng được hỗ trợ bởi sức hút giữa hai người, một sức hút quá mạnh và quá trọng yếu đến nỗi ngay lập tức bừng tỉnh sau mười bốn năm ngủ yên. “Anh đang nghĩ gì vậy?” Leigh hỏi anh. “Cơ hội thứ hai,” anh mỉm cười nói, nhìn khuôn mặt đang ngước lên của cô. “Anh đang nghĩ về số phận và cơ hội thứ hai. Anh cũng đang nghĩ rằng nếu Solomon còn chưa sẵn sàng đợi chúng ta ở nhà hát, anh sẽ đích thân lôi anh ta vào trong xe bất kể anh ta đang mặc - hay không mặc gì - khi anh gặp anh ta.” Leigh bật cười trước lời dọa dẫm của anh và hất đầu ra ngoài cửa sổ xe. “Chúng ta sắp đến nơi, và em nhìn thấy Jason đang đứng trên vỉa hè rồi, nhưng có vẻ như anh ấy lại đang gặp rắc rối.” Michael nhìn ra cửa sổ và thấy tấm biển trên nhà hát của Solomon đang bật sáng dòng chữ BLIND SPOT, nhưng tên của Leigh thì tối thui. Solomon đang đứng trên vỉa hè trong bộ vest tuxedo, đầu ngửa ra sau nhìn về phía tấm biển, điện thoại di động áp sát tai. Eric Ingram đứng cách đó vài mét, cũng trong bộ vest tuxedo, nhìn lên tấm biển. Ở quầy bán vé, mọi người đang xếp hàng hy vọng vào giờ chót vẫn còn sót tấm vé xem kịch không có người nhận cho họ mua. “Tội nghiệp Jason,” Leigh giải thích, khẽ thở dài cảm thông. “Từ hôm công diễn đến nay anh ấy đã gặp không biết bao nhiêu phiền phức với vấn đề ánh sáng rồi.” Tâm trí Michael vẫn đang tập trung vào đám cưới, không phải tấm biển, vì vậy anh không nghe ra sắc thái dịu dàng khác thường trong giọng cô khi cô nói, “Chúng ta ra ngoài một phút được không? Nếu không, anh ấy sẽ đứng mãi ở đó mà bực bội với bản thân và la hét trên điện thoại với người phụ trách ánh sáng mất.” Anh gật đầu chịu thua, thích thú nhận ra với dân ca kịch, vấn đề ánh sáng rõ ràng được đặt trên mọi vấn đề khác, kể cả đám cưới sắp diễn ra. Hơi cao giọng lên, anh nói với O’Hara, “Dừng lại trước nhà hát nhé, càng gần vỉa hè càng tốt. Chúng tôi sẽ xuống xe. Solomon đang gặp vấn đề về ánh sáng.” “Anh đùa chắc!” O’Hara kêu lên, sửng sốt nhìn Michael qua kính chiếu hậu. “Hai người đang mặc quần áo cô dâu chú rể, còn tôi có bốn cảnh sát ngồi trên xe máy ở phía trước và bốn gã nữa ở đằng sau. Solomon không thể gọi thợ điện như người khác vẫn làm sao?” “Rõ là không,” Michael mỉa mai. .... Mời các bạn đón đọc Ai Đó Dõi Theo Em của tác giả Judith McNaught.
Velma (Từ Giã Cuộc Tình)
Thám tử Philip Marlowe là một cựu cảnh sát, người luôn nhúng mũi vào những chuyện được cảnh báo là nên tránh xa. Xuất hiện không đúng nơi, đúng lúc, Marlowe trở thành nhân chứng bất đắc dĩ của hai vụ giết người, bị cuốn vào vụ cướp nữ trang và một âm mưu tống tiền. Los Angeles một ngày ấm áp cuối tháng 3, trong một quán rượu ở Đại lộ Trung tâm, Marlowe vô tình trở thành nhân chứng bất đắc dĩ chứng kiến cảnh Malloy - một tên cướp nhà băng vừa mới ra tù giết người. Được cảnh sát nhờ kiếm tìm giúp tên tội phạm nguy hiểm, Marlowe tiếp tục bị cuốn vào vụ án cướp nữ trang và cái chết của Marriott – bạn của của phu nhân Grayle cũng là chủ nhân của chuỗi ngọc phỉ thúy bị cướp. Trong quá trình tìm kiếm tội phạm, Marlowe đã phát hiện ra Velma – cô ca sĩ tóc đỏ của quán rượu 8 năm về trước có thể là đầu mối và nút thắt duy nhất của vụ án? Nhưng phải làm thế nào khi cô gái ấy biến mất không dấu vết? Ai mới là chủ mưu thật sự sau tất cả? *** Raymond Chandler, là người đồng thời với Agatha Christie và Dashiell Hammett, hai đại diện lớn của tiểu thuyết trinh thám, có thể nói ông là người thứ ba có vị trí “ngang ngửa” so với hai tác giả này mặc dầu 45 tuổi mới được biết đến và tác phẩm để lại không nhiều như các đồng nghiệp khác.   Tên đầy đủ của ông là Raymond Thornton Chandler. Ông sinh ngày 23/7/1888 tại Chicago, bang Illinois. Năm 18 tuổi, ông sang Paris (Pháp), rồi sang Đức nghiên cứu ngôn ngữ và luật quốc tế. Mùa xuân năm 1907, ông nhập quốc tịch Anh. Trước khi trở thành một nhà văn chuyên nghiệp, Chandler làm đủ nghề: đầu tiên ông làm phóng viên cho tờ Tin nhanh hàng ngày ở London, rồi làm thơ, viết kịch ngắn, viết báo, dịch thuật cho các tạp chí. Năm 24 tuổi, ông về Hoa Kỳ, đi khắp Los Angeles làm những việc lặt vặt. 25 tuổi, qua một khóa học thủ thư, ông giữ chân thủ thư và kế toán cho một hãng bột sữa. Vào nửa cuối Thế chiến I (1917 – 1918), ông đăng lính trong lực lượng viễn chinh Canada, sang Pháp, rồi lại chuyển sang Không quân Hoàng gia. Sau khi giải ngũ, ông làm việc cho một ngân hàng Anh ở San Francisco. Ba năm sau, ông lại làm thủ thư và kiểm toán cho tập đoàn dầu mỏ Dabney, và nhanh chóng được thăng chức Phó chủ tịch. Thế nhưng 10 năm sau, ở tuổi 44, ông bị đuổi việc vì uống rượu và hay bỏ việc. Phải đến tuổi 45, sau khi công bố truyện trinh thám đầu tiên Vụ tống tiền không tiếng súng, ông mới chấm dứt giai đoạn lang thang làm đủ mọi nghề để chuyên tâm viết văn. Năm 31 tuổi, ông quan hệ với một người đàn bà đã có chồng, tên là Pearl Cecily Hurburt, và 5 năm sau, họ mới kết hôn. Lúc này Hurburt đã ở tuổi… 54, hơn ông 18 tuổi. Họ sống với nhau đúng 30 năm thì bà mất (1954). Các nhà viết tiểu sử Chandler sau này đều thừa nhận rằng cuộc đời ông còn rất nhiều khoảng trống bí ẩn, nhất là vì ông cứ nay đây mai đó, thay đổi chỗ ở liên tục. Hơn nữa, ông lại là người có hai quốc tịch, là dân Anh đến 49 năm, và chỉ ba năm trước khi mất (1956), ông mới trở lại quốc tịch Hoa Kỳ. Nhưng ai cũng thừa nhận rằng ông kiếm sống khá vất vả, nhất là trong những năm đầu trở thành nhà văn trinh thám chuyên nghiệp. Vì hai lý do: ông chưa bao giờ là một văn sĩ viết nhiều và thời gian đầu, khoảng năm sáu năm sau cuộc đại khủng hoảng kinh tế, nhuận bút cũng rất thấp. Những hóa đơn, chứng từ thanh toán của ông còn sót lại, cho thấy năm 1936, ông kiếm được 1.500USD nhuận bút từ 5 truyện ngắn. Mời các bạn đón đọc Velma (Từ Giã Cuộc Tình) của tác giả Raymond Chandler.
Vũ Điệu Quỷ
Trong thời gian học tập và nghiên cứu cũng nhưng làm công việc của một bác sĩ tâm lý trị liệu, tác giả tình cờ phát hiện thấy những tình trạng tâm lý kỳ quái và đáng ngại, đó là hội chứng Munchausen, trong đó những người bệnh mắc phải hội chứng này thường giả vờ ốm bằng cách nói dối về các triệu chứng, tự làm tổn thương họ hay uống thuốc độc. Nhu cầu nói dối của những bệnh nhân này lớn tới mức mà họ chấp nhận nằm viện dài ngày, chịu đựng các cuộc kiểm tra y tế bên trong cơ thể thậm chí cả phẫu thuật. Một biến thể nguy hiểm của hội chứng này là Munchaen thay thế, liên quan tới những bậc cha mẹ, chính họ đã tạo ra căn bệnh giả ở con cái mình. Việc này đã trở thành thách thức với các bác sĩ, y tá tài ba cũng như toàn hệ thống y tế. Không ai thật sự hiểu được là làm thế nào và tại sao mà những biểu hiện này lại tiến triển. Munchauen vẫn là một bí mật y học đáng sợ và cũng là phạm vi mà sự tò mò của tác giả không sao cưỡng lại được ở cả hai vị trí: một là nhà viết văn tiểu thuyết, và một là nhà khoa học nghiên cứu về hành vi. Cuốn "Vũ Điệu Quỷ", Alex Delaware đã được chứng kiến điều rùng rợn nhất và thách thức nhất trong nghề của ông, đó là một cô bé con liên tục bị ốm và không ai biết lý do tại sao. Các bác sĩ nghi ngờ rằng đó là hội chứng Munchausen thay thế, nhưng vẫn không thể chứng minh được. Việc tìm ra chân tướng sự việc đã trở thành nỗi ám ảnh của Alex và những gì mà ông phát hiện được vượt ra ngoài câu chuyện của một cô bé và một gia đình khốn khổ, sự việc còn làm sáng tỏ một số vấn đề lớn hơn mà ngày nay ngành y tế phải đối mặt. *** "Một bí ẩn y học ghê sợ hơn bất kỳ sự kịch tính nào ở phòng xử án!". Các bác sĩ gọi đó là hội chứng Munchausen. Đó là chứng rối loạn khiếp sợ khiến cho bố, mẹ tạo ra sự ốm đau cho chính con cái họ. Lúc này, trong vụ án đáng sợ nhất của mình, bác sĩ Alex Delaware cần phải chứng minh rằng chính bố, mẹ của đứa trẻ khiến cô bé bị ốm." (The New York times book review) "Cô bé Cassie Jones hai mốt tháng tuổi khoẻ mạnh và đáng yêu. Nhưng bố mẹ Cassie đã phải vội vã đưa cô bé vào phòng cấp cứu sau cái đêm cô bé xảy ra những triệu chứng bệnh lý mà không bác sĩ nào lý giải được. Bố mẹ của Cassie dường như vô cùng lo lắng. Người nữ y tá chăm sóc Cassie và được cô bé yêu quý là một điển hình về sự tận tuỵ. Nhưng khi bác sĩ tâm lý trẻ em Alex Delaware được yêu cầu tham gia vào cuộc điều tra, bản năng đã mách bảo cho ông rằng một người trong số họ là con ác quỷ "Tình tiết căng thẳng đến nghẹt thở." (Cosmopolitan) *** Tiểu thuyết gia Jonathan Kellerman sinh ngày 9-8-1949 tại Thành phố New York City, bang New York- Hoa Kỳ. Jonathan Kellerman xếp hạng nổi tiếng thứ 75314 trên thế giới và thứ 989 trong danh sách Tiểu thuyết gia nổi tiếng.  Jonathan Kellerman là một nhà tâm lý học người Mỹ, và tác giả đoạt giải Edgar và Anthony của nhiều tiểu thuyết hồi hộp bán chạy nhất. Tác phẩm của ông về tâm lý học bao gồm Savage Spawn: Những phản ánh về trẻ em bạo lực. Mời các bạn đón đọc Vũ Điệu Quỷ của tác giả Jonathan Kellerman.
Kế Hoạch Tự Sát
“Kẻ giết bố tôi… chính là mẹ! Cầu mong một ngày nào đó ông trời sẽ giáng sự trừng phạt xuống đầu cô ta.” Watanabe Ruri ---- Ruri vốn là một cô bé có cuộc sống bình dị, hạnh phúc như bao đứa trẻ cùng trang lứa khác. Thế nhưng đến một ngày… hiện thực tươi đẹp ấy bỗng vụt tắt. Mẹ cô qua đời. Căn nhà ấm áp, luôn tràn ngập tiếng cười bỗng trở nên trống trải đến đáng sợ, hai cha con cô phải nương tựa vào nhau, cùng vượt qua mất mát quá lớn kia. Những tưởng đau thương đã dần rời xa ngôi nhà nhỏ của Ruri, cho đến một ngày người phụ nữ tên Reiko xuất hiện, trở thành mẹ kế của cô và làm cuộc sống của cô hoàn toàn xáo trộn. Hai cha con Ruri dần trở nên xa cách, xích mích ngày một nhiều lên, cho đến khi… Vào một sáng thức dậy, Ruri định chụp lén cha mình một bức ảnh dùng để làm lành với ông, nhưng không ngờ… thứ cô chụp lại được chỉ là nỗi ám ảnh kinh hoàng. Cha của Ruri đã chết… Bức hình cuối cùng cô chụp được xuất hiện quá nhiều điểm đáng ngờ: Người mẹ kế bên cạnh cha? Lọ thuốc màu xanh kỳ lạ? Và cả cách sống của mẹ kế Reiko sau khi chồng mình qua đời… Thế nhưng tất cả những chi tiết đó không đủ để buộc tội cô ta. Cảnh sát cũng không thể tìm ra bất kỳ manh mối nào… Vậy chỉ còn cách… chính Ruri sẽ tự tử rồi để lại di thư, khiến cảnh sát có thể điều tra lại cái chết của cha mình. Và từ đây, kế hoạch Tự sát của cô chính thức bắt đầu. Số phận của Ruri rồi sẽ ra sao? Liệu Ruri có làm sáng tỏ được cái chết của cha mình? Sự thật kinh hoàng nào sẽ được vén rèm bí mật? Tất cả những ẩn số đó đều được giải đáp trong “Kế hoạch tự sát” - tác phẩm trinh thám gây được tiếng vang lớn năm 2016 của nhà văn tài năng Akiyoshi Rikako. Với cốt truyện gay cấn đến ngạt thở cùng những tình tiết đầy bất ngờ nhưng cũng không kém phần cảm động, cuốn sách đã tạo nên cơn sốt không nhỏ tại xứ sở hoa anh đào! *** uri đặt trên bàn một bức thư như vậy và toàn bộ tài sản của cô. Tuy rằng ngần ấy tiền để trả cho một đêm trọ là quá nhiều, nhưng cứ nghĩ đến những chuyện phiền lòng về sau, cô lại cảm thấy chừng đó vẫn không đủ. Vì thế, không chỉ tiền, cô còn để lại cả thẻ học sinh và điện thoại di động để cảnh sát địa phương và người của quán trọ không gặp khó khăn gì khi muốn tìm kiếm thân thế và người giám hộ hiện tại của cô. Sau khi đã đọc đi đọc lại bức di thư nhiều lần, cô rời khỏi phòng. Lúc nhận ra mình vô tình đi luôn đôi dép đi trong phòng của quán trọ, cô bối rối xỏ chân vào đôi giày của mình. 9 giờ 30 phút tối. Ngoài sảnh tĩnh mịch đến đáng sợ. Máy bán hàng tự động kêu lên một tiếng “bíp” nhỏ. Điện tắt, các kệ hàng bị phủ kín vải, quầy bán đặc sản và quà lưu niệm này tồn tại được đều nhờ vào lương tâm của khách trọ. Ghế sô-pha và bàn. Máy mát xa chạy bằng đồng xu. Cô đi qua những thứ đó, đặt chìa khóa lên bàn tiếp tân ở sảnh chính rồi nhẹ nhàng tiến ra ngoài. Vừa bước ra khỏi cửa, cô lập tức bị bao trùm bởi không khí ẩm thấp của mùa hè và tiếng kêu inh tai của lũ ếch. Ngay trước quán trọ là một con đường nhựa, chiều rộng chỉ vừa đủ cho một chiếc xe, hai bên đường cây cối xanh mướt um tùm. Ánh đèn đường le lói yếu ớt, bầu trời đầy sao còn sáng hơn thứ ánh sáng nhân tạo này. Hòa cùng với dàn hợp xướng của tiếng ếch, tiếng cú kêu vọng lại rõ ràng từ màn đêm đen phía trước. Đi được một đoạn, ngã ba hiện ra trước mắt Ruri. Cô lấy tấm bản đồ từ trong túi quần jeans ra. Gọi là bản đồ nhưng thực chất nó chỉ là bản in từ trên mạng. Trên đó có vẽ một đường màu đỏ bắt đầu từ quán trọ, đến chỗ ngã rẽ thì đường màu đỏ kéo dài tiếp về phía bên phải. Ruri chỉnh lại mắt kính rồi bắt đầu tiến vào đường nhánh bên phải. Con đường trải nhựa dần thu hẹp lại, cuối cùng thành con dốc toàn đất đá. Ánh đèn đường hoàn toàn biến mất, cô dùng chiếc đèn pin đã chuẩn bị từ trước soi rọi con đường đêm. Mật độ cây cối càng lúc càng dày, những lùm cây um tùm cản trở lối đi của Ruri. Dù vậy, cô vẫn cố gạt những cành cây ngáng đường mình và chăm chăm tiến về phía trước. Khoảng hai mươi phút sau, hơi thở của cô đã trở nên đứt quãng. Mái tóc dài đến eo như một chiếc áo măng tô bao phủ tấm lưng cô, khiến chiếc áo phông cô đang mặc thấm ướt mồ hôi. Vừa lau mồ hôi trên trán, Ruri vừa tiếp tục leo lên con dốc nhấp nhô đầy rễ cây lan ra. Lúc này, một quang cảnh hùng vĩ chợt hiện ra trước mắt. Chính là đây. Ruri lấy vạt áo lau lại mắt kính phủ đầy hơi nước rồi đeo lên mặt. Trông cô như một kẻ lữ hành mệt mỏi vừa phải trải qua một hành trình đằng đẵng không ngơi nghỉ. Giữa con dốc, một vùng đất bằng phẳng được ánh trăng chiếu rọi hiện ra. Trong không gian rộng lớn ấy, khoảng mười thân cây sừng sững vươn lên. Màu xanh của rêu bám đầy trên nền đất. Mùi đất ẩm phảng phất quanh mũi. Đứng từ đây có thể trông thấy ánh sao lấp ló giữa những ngọn cây cao vút và tán lá dày. Một khung cảnh huyền ảo biết bao. Ruri hít một hơi thật sâu, cắt đứt mạch suy nghĩ trong đầu. Cô cảm nhận rõ hơi thở ấm áp tĩnh mịch của thiên nhiên đang bao bọc quanh mình. Thật là một nơi tuyệt đẹp. Trái tim Ruri rung động. Được ở một nơi như thế này thật tuyệt. Tốt quá, trước khi chết còn có cơ hội nhìn thấy cảnh đẹp đến thế. Ý nghĩ sau cùng, quyết tâm bùng cháy trong đôi mắt cô. Hít một hơi thật sâu, Ruri đi về phía một cây đại thụ lớn nhất rồi đặt balo xuống. Mở khóa kéo balo, cô lôi ra một sợi dây thừng. Dùng miệng ngậm đèn pin để soi sáng, cô vòng sợi dây thừng, thắt lại. Độ rộng của vòng dây vừa đúng bằng đầu Ruri. Cô đã tìm hiểu cách thắt nút trên mạng và luyện tập nhiều lần. Sau khi thắt dây xong, Ruri tháo kính cất vào balo. Đoạn, cô đứng dậy, trèo lên cái ghế gấp đã mang theo ở cửa ra vào nhà trọ. Cô treo sợi dây lên cành cây rồi kéo thử. Tốt rồi, chắc sẽ không tuột được đâu. Hít sâu một lần nữa, Ruri liếm môi. Bố, mẹ, hãy chờ con. Ba người chúng ta sẽ lại hạnh phúc bên nhau ở thiên đường. Cô ngước lên ngắm vầng trăng lần cuối. Trăng tròn đẹp thật đấy... Ruri chầm chậm tròng sợi dây vào cổ, rồi cô đưa chân đá chiếc ghế gấp. ° ° ° Cửa đóng “cạch” một tiếng. Âm thanh giày cao gót vang lên chát chúa trên nền đá hoa, Ruri có thể nghe thấy tiếng bước chân tiến từ phía cửa đến hành lang. Cô Reiko đã về. Đang ngồi trước laptop trong phòng riêng trên tầng hai, Ruri gập màn hình lại rồi đứng lên. Cô đi xuống tầng, Reiko đang ở trong bếp cầm bình nước uống ừng ực. “A, Ruri đấy à. Cô về rồi đây.” Reiko vừa lau khóe miệng vừa mỉm cười. Khuôn mặt cô ta hơi đỏ, hơi thở phảng phất mùi ngòn ngọt đặc trưng của rượu. Reiko đặt cái bình lên bàn rồi đi ra ngoài phòng khách, cô ta ngã nhào xuống ghế sô-pha. Cái váy ngắn đỏ rực kéo lên làm lộ ra cả cặp đùi. Phòng kiểu Nhật bên cạnh phòng khách là nơi đặt bàn thờ, Ruri liếc mắt qua đó. Không biết người bố mỉm cười trong tấm ảnh trên bàn thờ kia đang nghĩ gì. Vẫn chưa đến 5 giờ chiều. Vì là mùa hè nên hiện tại bên ngoài trời vẫn sáng. Giờ này mà cô ta đã về nhà với bộ dạng say khướt như vậy. “Không sao. Cô đã nhờ người lái xe về...” Reiko nói với Ruri đang đứng đằng xa, “Cô có mang đồ ăn về đây, vừa hay đúng giờ ăn tối.” “Cháu không ăn đâu. Bây giờ cháu đi ra ngoài một chút... đi với bạn.” “Thế à...” “Chắc cháu sẽ ngủ nhà bạn luôn.” “À, cháu đang nghỉ hè mà nhỉ.” Ôm cái gối bông mềm mại trong lòng, Reiko nói với giọng điệu có chút ngờ vực. Nếu cô ta nhìn về phía Ruri, chắc cô ta sẽ nhận ra thực chất cô chẳng có bạn bè nào ở đây cả. “Nhưng mà... cháu không có tiền.” Dù Reiko đang say xỉn nhưng việc cô ta trở về vào giờ này đúng là may mắn với Ruri, cô không có đủ tiền. “Hả?” Tiếng Reiko chậm chạp vang lên. “Tuần trước cô chưa đưa cháu tiền tiêu vặt à?” “Cháu mua sách nấu ăn nên hết mất rồi.” “Ừm, ra thế.” Reiko không nghĩ ngợi với tay lấy túi xách đặt trên bàn. “Năm nghìn yên đủ không?” “Hai mươi nghìn... À, năm mươi nghìn đi ạ.” Nếu chỉ tính phí đi lại và tiền nhà trọ thì chắc hai mươi nghìn yên là đủ. Nhưng còn phải đề phòng những sự cố bất ngờ phát sinh như tàu chậm hoặc bị mất cắp hay đánh rơi đồ. Dù sao đi nữa, nhất định cô phải đến được nơi đó trong ngày Đại An, nên cần mang theo nhiều tiền hơn mới yên tâm được. “Cháu cần ngần ấy tiền làm gì vậy?” Đôi mắt đang mơ màng của cô ta đột nhiên mở lớn. “Cháu muốn đến USJ* ở Osaka.” “Ừ, được rồi.” Reiko chậm rãi rút ra năm tờ tiền mười nghìn yên đưa cho Ruri. “Của cháu đây.” Tiền vừa chạm vào đầu ngón tay, Ruri đã giật phắt lấy. Reiko cũng từ từ nhắm mắt lại, tay đặt trở lại sô-pha. “Còn gì nữa không?” Reiko hỏi bằng giọng ngái ngủ. Số tiền bảo hiểm ba trăm triệu yên của bố tôi đi đâu cả rồi? Tài sản của bố tôi thì sao? Tại sao bố tôi vừa mất mà mỗi ngày cô đều sống vui vẻ như thế? “Hết rồi ạ. Cháu đi đây.” Ruri quay trở lại căn phòng trên tầng hai. Cô ngồi trước máy tính, mở lại trang web vừa xem. Tusattoantap.com Trong danh sách những địa điểm tự sát, cô kích vào làng Sagamino rồi in bản đồ ra. Ruri kiểm tra những đồ vật cần mang đi lần cuối. Hôm nay cô đã đến cửa hàng DIY* mua dây thừng, đèn pin, ghế gấp, và cả một cái balo leo núi chuyên dụng cỡ lớn. Để chuẩn bị những thứ này, cô đã tiêu hết tiền tiêu vặt, không biết cô Reiko có nghi ngờ gì không. Ruri khoác chiếc balo to nặng lên vai và tắt máy tính. Cô đi xuống tầng dưới, liếc mắt về phía Reiko đang hoàn toàn ngủ say trên sô-pha rồi nhẹ nhàng tiến về phía hành lang. Hôm nay là ngày Chủ nhật đầu tiên của kỳ nghỉ hè nên ga Oshiage rất đông đúc, toàn những cặp bố mẹ đưa đón con. Ruri mua một vé đến làng Sagamino. Sau khi đến ga Tatebayashi, cô đổi sang tuyến tàu địa phương, đi khoảng hai tiếng nữa là đến nơi. Đứng cạnh Ruri là một nhóm học sinh tầm tuổi cô, bạn nữ nắm tay bạn nam chuyện trò rất vui vẻ. Ruri không có bạn gái, cũng không có bạn trai. Ruri mới mười sáu tuổi, là một nữ sinh bình thường... Không, còn tệ hơn cả bình thường. Trong không gian chật hẹp này, cô chợt hiểu ra. Dáng người cô cao gầy, ngực nhỏ, do cận nặng nên lúc nào cũng phải đeo đôi kính màu hồng nhạt, khuôn mặt ngoài làn da trắng thì chẳng có ưu điểm gì. Đúng là thật khó để kết bạn. Hơn nữa, bố mẹ ruột đều đã mất, họ hàng cũng không còn ai, đích thị là một kẻ cô độc giữa đất trời. Không, nói đúng ra thì vẫn còn một bà mẹ kế. Mẹ của cô, Nanami đã mất từ bốn năm trước, khi ấy Ruri vẫn còn là một cô bé lớp Sáu tiểu học*. Bà mắc bệnh xuất huyết dưới màng nhện. Trước đó bà vẫn rất khỏe mạnh, rồi một ngày đột nhiên bà ngã xuống, không bao giờ tỉnh lại nữa. Bà là một người rất dễ mến. Vì làm nghề tổ chức tiệc nên lúc nào bà cũng đem lại cảm giác ngọt ngào, dễ chịu như một chiếc bánh chiffon vậy, nơi đâu có bà nơi đó sẽ trở nên ấm áp. Nhà hàng chỗ bố làm đầu bếp và tiệm bánh ngọt nơi mẹ làm việc rất gần nhau, bố đã yêu mẹ ngay từ cái nhìn đầu tiên. Ông yêu vóc dáng nhỏ bé xinh đẹp khi bà đội chiếc mũ trắng, yêu vẻ nghiêm túc khi bà ngắm nhìn những chiếc bánh, tất cả đều rất đẹp. Bố đã kể, khoảnh khắc gặp mẹ, cảm giác giống như “có chú bướm nhỏ đậu vào trong ngực, rồi lưu lại mãi chẳng hề bay đi”. Đối với người có máu nghệ sĩ, nắm vững nghệ thuật nấu ăn truyền thống Nhật Bản, hiểu sâu sắc về nghệ thuật cắm hoa, trà đạo và thơ ca như bố, đây quả là một cách diễn tả độc đáo. Mời bạn đón đọc Kế Hoạch Tự Sát của tác giả Rikako Akiyoshi & Nguyễn Thu Hà (dịch).