Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sức Mạnh Của Sự Mơ Hồ Và Bí Ẩn

Như Jamie Holmes chỉ ra trong cuốn sách này, sự mơ hồ và bí ẩn, sự nhập nhằng,… khiến chúng ta không thoải mái, do đó chúng ta có xu hướng trốn tránh nó và thường bám riết lấy phương án giải quyết an toàn (nhưng không phải lúc nào cũng là tốt nhất), đặc biệt là trong những tình huống nguy hiểm. Nhưng cũng chính vì thế, chúng ta tước đi của chính mình cơ hội quan trọng để tìm hiểu cách giải quyết vấn đề theo hướng mới hoặc quan sát thế giới từ một góc độ khác. Bằng những hiểu biết về tâm lý học xã hội và khoa học nhận thức của tác giả và thông qua những câu chuyện thú vị - từ trò chơi gián điệp và các giáo phái ngày tận thế cho chiến dịch quảng cáo của Absolut Vodka hay sự sáng tạo của Mad Libs – cuốn sách của Jamie Holmes hứa hẹn sẽ làm thay đổi cách chúng ta tiến hành kinh doanh, giáo dục và đưa ra quyết định. Mọi khía cạnh tích cực của “sự mơ hồ và bí ẩn” và cách tận dụng nó đều nằm trong cuốn sách này! ***   N ăm 1996, Đại học City & Islington ở London tổ chức một khóa học tiếng Pháp cấp tốc cho những người mới học và sinh viên dưới trung bình. Paula, một cô bé thiếu niên nghiêm chỉnh đeo một cặp kính gọng mảnh, chưa bao giờ nói được một từ tiếng Pháp nào. Darminder, người có một bộ râu dê và đeo khuyên tai, không chỉ mới học tiếng Pháp mà còn thất bại trong kỳ thi chứng chỉ tiếng Tây Ban Nha tổng quát của bậc giáo dục trung học (GCSE). Abdul đã rớt kỳ thi GCSE tiếng Đức. Satvinder và Maria đều rớt kỳ thi GCSE tiếng Pháp và giáo viên tiếng Pháp của Emily khuyên cô nên bỏ ý định học thứ tiếng này. Tuy nhiên, thay vì từ bỏ tất cả hy vọng, những học viên này đã đăng ký tham gia một khóa học độc nhất vô nhị. Trong năm ngày học toàn thời gian, họ sẽ áp dụng phương pháp kỳ lạ của một nhà ngôn ngữ học tên là Michel Thomas. Trong chiếc áo khoác màu xanh và với mái tóc muối tiêu, trông Thomas toát lên vẻ nhã nhặn. Ông nói với những học viên mới rằng: “Tôi rất mong chờ buổi dạy ngày hôm nay nhưng dưới những điều kiện tốt hơn, vì tôi không nghĩ rằng các em đang ngồi thoải mái. Tôi muốn các em cảm thấy thoải mái, do đó chúng ta sẽ sắp xếp lại mọi thứ.” Trong một chiếc xe tải ở bên ngoài, Thomas đã chuẩn bị sẵn một số vật dụng thay thế không ai ngờ tới cho một lớp học tiêu chuẩn: ghế bành, gối, bàn cà phê, cây cối, thảm, một cái quạt và thậm chí là những tấm đệm gấp làm bằng liễu gai. Chỉ với chút ít thời gian và công sức, các học viên đã hoàn tất việc thay đổi căn phòng. Những chiếc ghế bành lưng cao bọc vải nhung xếp thành một nửa hình ô van, những chiếc rèm xanh được kéo lại, chỉ để lọt ánh sáng mờ trong căn phòng, và những tấm đệm liễu gai bao quanh những chiếc ghế bành mang lại một cảm giác ấm áp và thân mật hơn. Không có những bàn học, bảng đen, giấy, bút hay chì. Thomas không muốn các học viên viết hay đọc bất kỳ thứ gì. Ông không muốn họ nhớ bất cứ điều gì được học, kể cả việc xem lại chúng vào cuối ngày. Nếu trong thời gian học, các sinh viên không nhớ được điều gì đó, ông nói rằng đó không phải vấn đề của họ. Đó là vấn đề của ông. Emily tỏ vẻ hoài nghi. Darminder và Abdul thậm chí còn không giấu được nụ cười tinh quái. Nhưng không ai trong số những sinh viên này có thể ngăn nổi sự tò mò thực sự về người đàn ông đứng tuổi đang đứng trước mặt mình. Ông ta có nghiêm túc không? Không cố gắng nhớ những gì được dạy trên lớp ư? “Tôi muốn các em thoải mái.” Cảnh tượng này, phương pháp của Thomas và các kết quả sau năm ngày học xuất hiện trong một bộ phim phóng sự của đài BBC mang tên Chuyên gia Ngôn ngữ. Margaret Thompson, Trưởng khoa tiếng Pháp của trường được giao nhiệm vụ đánh giá kết quả của Thomas. Vào cuối tuần, bà theo dõi các sinh viên – trong đó rất nhiều người chưa từng nói được một từ tiếng Pháp nào trước đây – đã dịch được những câu hoàn chỉnh sử dụng các dạng ngữ pháp nâng cao. Emily đã có thể dịch được một cụm từ vốn thường mất nhiều tháng để giải quyết: “Tôi muốn biết liệu anh có muốn đến gặp tôi tối nay hay không?” Paula ca ngợi cách Thomas nhấn mạnh sự bình tĩnh và kiên nhẫn. Các sinh viên nói rằng họ cảm thấy như thể đã học được năm năm tiếng Pháp chỉ trong năm ngày. Khá kinh ngạc với kết quả, Thompson rụt rè chấp nhận đánh giá của những học viên này. Michel Thomas biết rằng việc khám phá một ngôn ngữ mới quả thực rất đáng sợ. Các học viên phải đối mặt với cách phát âm mới cho những từ ngữ quen thuộc, các từ vựng mang ý nghĩa kỳ lạ, những phần thiếu của lời nói hay những cấu trúc ngữ pháp lạ lẫm. Đó là lý do vì sao những sinh viên của Đại học City & Islington dù được học trong một môi trường thoải mái vẫn thể hiện sự bối rối: cười lớn căng thẳng, cười nhẹ ngượng ngùng, xin lỗi thầm, nói lắp, lưỡng lự và những cái liếc mắt lúng túng. Học một ngôn ngữ mới đòi hỏi bạn phải đi vào một vùng đất xa lạ. Thomas mô tả ngôn ngữ mới “là thứ xa lạ nhất” mà một người có thể học. Để bảo vệ bản thân trước sự xâm lấn “xa lạ” này, tâm trí sẽ dựng lên những rào cản theo bản năng, vì vậy thách thức đầu tiên và cũng là khó khăn nhất với giáo viên là giúp các học viên kéo đổ những rào cản này. Thomas đã thay đổi môi trường giảng dạy ở Đại học City & Islington từ đáng sợ, đầy căng thẳng thành tò mò, đầy bình tĩnh. Bằng cách nào đó, ông đã khiến tâm trí của các học viên cởi mở hơn. Các học viên vốn có thói quen gạt bỏ những gì chưa hiểu đột nhiên sẵn sàng dấn thân vào những lãnh thổ xa lạ hơn. Vào thời điểm BBC quay phóng sự này (sau đó được phát sóng năm 1997), Thomas đã là một huyền thoại. Ông thành thạo 11 ngôn ngữ, mở ra những trung tâm gia sư ở Los Angeles, New York và xây dựng một thứ gì đó như một “tôn giáo” nhờ vào một danh sách khách hàng bao gồm Grace Kelly, Bob Dylan, Alfred Hitchcock, Coca-Cola, Procter & Gamble và American Express. Nigel Levy, người đã tham gia lớp học của Thomas trước khi sản xuất ra bộ phim phóng sự của BBC, mô tả những bài học của ông là rất “đáng kinh ngạc”. Emma Thompson mô tả thời gian làm việc với ông là “một trải nghiệm học tập đặc biệt nhất trong đời”. Cựu đại sứ Israel ở Liên Hợp Quốc gọi ông là “người lao động thần kỳ”. Và Herbert Morris, cựu Trưởng khoa Nhân văn của UCLA, tiết lộ rằng ông đã học được cả năm tiếng Tây Ban Nha chỉ trong vài ngày học cùng Thomas và vẫn còn nhớ những kiến thức đó mãi tới chín tháng sau. Thomas cho rằng “điều quan trọng nhất là loại bỏ mọi căng thẳng và áp lực”. Ông đặc biệt quan tâm đến trạng thái tâm lý, thậm chí quan tâm đến cực độ. Ví dụ, ông thường bắt đầu dạy tiếng Pháp bằng cách nói với các học viên rằng tiếng Pháp và tiếng Anh có chung hàng nghìn từ vựng, chỉ là chúng nghe có hơi khác nhau một chút. Ông từng nói đùa: “Tiếng Anh chính là tiếng Pháp được phát âm sai.” Ông giải thích rằng những từ ngữ kết thúc với -ible như possible và -able như table đều có nguồn gốc từ tiếng Pháp. Nhờ việc biến những điều xa lạ thành thân quen, ngay từ đầu Thomas đã trao cho các sinh viên những nền tảng vững chắc. Các sinh viên ghép kiến thức mới vào kiến thức hiện hữu từng chút một, thể hiện tư duy riêng và không bao giờ lặp lại những cụm từ theo lối học vẹt. Thomas dạy họ cách tự học và hiếm khi phải uốn nắn các học viên một cách trực tiếp. Đến năm 2004, những đĩa CD, băng dạy tiếng Pháp, Đức, Ý và Tây Ban Nha của Thomas – ghi lại quá trình Thomas dạy từng loại ngôn ngữ cho các nhóm hai học viên – là những khóa học bán chạy nhất ở Anh. Nhưng Michel Thomas không đơn thuần là một nhà ngôn ngữ học. Ông cũng là một anh hùng thời chiến. Cùng năm đó, ông được vinh danh ở Lễ Tưởng niệm Thế chiến II tại Washington D.C, nơi ông nhận được Huy chương Sao Bạc. Ông mất năm 2005 ở New York, là một công dân Hoa Kỳ nhưng sinh ra ở thành phố công nghiệp Lodz, Ba Lan với tên gọi Moniek Kroskof. Ông sống sót qua những trại tập trung, trở thành chỉ huy quân đội, điệp viên và chuyên gia thẩm vấn của phe Đồng Minh. Sau cuộc chiến, ông đã bắt hơn 2.000 tội phạm chiến tranh Đảng Quốc Xã. “Michel Thomas” là nhân dạng giả thứ năm và cũng là bí danh của ông. Kinh nghiệm tuyên truyền chuyên chế và sự nghiệp nằm vùng sau chiến tranh không phải là những điểm đáng chú ý trong lý lịch của Thomas. Những khám phá của ông về cách tâm trí đóng sập cánh cửa hay mở khóa trước sự mơ hồ – trọng tâm chính của cuốn sách này – xuất phát từ những trải nghiệm của ông ở Đức. Ông đã chứng kiến việc Đảng Quốc Xã đã nuôi dưỡng một cách tiếp cận thô bạo, thậm chí khinh bỉ trước sự bất định và phức tạp về đạo đức trong những đảng viên nồng nhiệt nhất như thế nào. Và sau đó ông dành ra nhiều thập kỷ phát triển các phương pháp để nuôi dưỡng một thái độ đối lập tuyệt đối ở những người học ngôn ngữ. Trên thực tế, 50 năm trước khi bộ phim phóng sự của BBC được ghi hình, Thomas đã kiểm tra các ý tưởng đầu tiên của mình trong một phiên bản hoàn toàn đối lập với buổi trình diễn sư phạm của mình ở Đại học City & Islington. *** Năm 1946, Rudolf Schelkmann, cựu thiếu tá đơn vị tình báo SS của Hitler đang lẩn trốn tại Ulm, Đức, đã phối hợp với một mạng lưới những kẻ trung thành với âm mưu tái thiết sự thống trị của Đảng Quốc Xã. Tháng 11 năm đó, Schelkmann cùng ba cựu sĩ quan SS đã bị dẫn dụ vào cuộc gặp với một chỉ huy của lực lượng phản kháng Đảng Tân Quốc Xã hoạt động ngầm và quyền lực hơn. Thực tế, họ sẽ gặp Moniek Kroskof, chính là Michel Thomas, một đặc vụ chìm của Cơ quan Phản gián (CIC) của quân đội Hoa Kỳ. Với nhiệm vụ đem những tên tội phạm chiến tranh này ra trước công lý, Thomas đảm nhận sứ mệnh phát hiện, lần theo dấu vết và phá hủy mạng lưới của Schelkmann. Một nhân viên CIC khác sử dụng cái tên Hans Meyer cũng đã cẩn thận xây dựng quan hệ với những thành viên của mạng lưới, nhưng Schelkmann vẫn rất kiệm lời. Cựu nhân viên SS đã đồng ý chia sẻ các thông tin liên lạc và chi tiết hoạt động, nhưng chỉ sau khi được gặp mặt trực tiếp chỉ huy của Meyer. Thomas phải tránh để Schelkmann và nhóm người của hắn đánh hơi thấy điều gì đó khác thường. Để đạt mục đích này, ông đã tỉ mỉ sắp xếp để đám sĩ quan SS trải nghiệm một chuyến đi quanh co nhiều giờ liền trước khi đến buổi gặp quan trọng. Buổi tối hôm đó, những sĩ quan SS theo lệnh Meyer đã chờ sẵn trong một “ngôi nhà an toàn” ở phía tây nam Ulm. Không được thông báo trước, những chiếc xe mô tô đến đón họ đi. Thomas đã cẩn thận chờ trời đổ mưa; khi đám sĩ quan SS ngồi ở yên sau của những chiếc xe và gió mạnh thổi vào những bộ quần áo thấm đầy nước mưa của họ. Được thả xuống một con đường trống, nhóm sĩ quan bị bịt mắt và bị đẩy vào hai chiếc ô tô. Trong bóng đêm, họ nghe thấy tiếng người trao đổi mật khẩu khi đi qua nhiều trạm kiểm tra an ninh. Họ được kéo ra khỏi xe, dẫn đi qua một con đường đầy bùn lầy và những vũng nước sâu giá lạnh trong trạng thái bị bịt mắt. Chúng phải chờ dưới một hành lang lạnh lẽo và không được nói chuyện. Vẫn bị bịt mắt, chúng lắng nghe những mệnh lệnh ngắn gọn, những bước chân, những tiếng cửa đóng mở vội vã. Khi Schelkmann và nhóm của hắn được dẫn tới một căn phòng lớn bằng gỗ và được cởi bịt mắt, lúc đó đã qua nửa đêm. Thomas – hay Frundsberg với những sĩ quan SS – ngồi sau một chiếc bàn lớn, đối mặt với những kẻ âm mưu. Mặc quần áo thường dân, ngoại trừ chiếc áo sơ mi nâu theo phong cách quân đội, Frundsberg được giới thiệu với nhóm người trung thành với Đảng Quốc Xã là cựu sĩ quan cao cấp của RSHA, một nhóm điệp viên từng nằm dưới quyền giám sát của Himmler. Căn lều đi săn của Frundsberg là trụ sở của tổ chức phản kháng ngầm, được trang trí rất nghệ thuật với tranh chân dung của Hitler và những nhân vật quan trọng của Đảng Quốc Xã, kèm với những quả lựu đạn, súng máy, súng ngắn, súng phun lửa và cả bộc phá. Những xấp tiền mặt nằm trong một chiếc két sắt mở toang. Thomas gật đầu, ngồi xuống và những người đàn ông khác cũng ngồi xuống. Ông im lặng nghiên cứu một tập hồ sơ không rõ nội dung, sau đó nói rõ quan điểm của mình với Schelkmann: ông sẽ không chấp nhận bất kỳ nhóm phản kháng nhỏ lẻ nào. Những hành động quân sự thực hiện ngoài mệnh lệnh của ông sẽ được coi là hành động phản bội, đơn giản và rõ ràng. Với những cử chỉ dường như rất thoải mái, Thomas xem thường Schelkmann và nhóm nhỏ của hắn, và thường nhận những cú điện thoại để nhấn mạnh sự lãnh đạm với nhóm người này. Các cấp dưới của ông đến và đi với những thông cáo rõ ràng rất khẩn cấp. Trong cơn bối rối, vị thiếu tá Đảng Quốc Xã nói ra các chi tiết mà Thomas đang mong chờ: lý lịch của hắn và lý lịch của những sĩ quan SS khác trong phòng, tên của mạng lưới, điều lệ, phương thức, cấu trúc cũng như cách các thành viên được tuyển mộ. Những hoạt động của CIC đêm đó không phải hoàn hảo. Buổi diễn tưởng tượng và tỉ mỉ của Thomas cần khoảng 30 người tham gia đóng kịch, mỗi người đều có một kịch bản được phân công. Các sai lầm và sự thiếu sót nhỏ trong màn trình diễn là điều không tránh khỏi. Thành công của hoạt động phản gián thường nhờ vào việc phát giác ra các chi tiết vụn vặt như vậy, dù những khoảnh khắc lưỡng lự bất thường, phản ứng quái lạ hay những cái giật mình vô tình được hiểu là ác ý hay ôn hòa. Như nhà nhân loại học Margaret Mead từng nói, đó là lý do một số điệp viên Xô Viết thường dùng tẩu. Hành động đó giúp họ duy trì biểu cảm trên khuôn mặt. Những cái nút với khuyết áo đan chéo (chứ không may song song) có thể tiết lộ quốc tịch của điệp viên và làm hỏng cả một chiến dịch khai thác thông tin mật hoàn hảo. Ở Ai Cập, một điệp viên nước ngoài từng bị phát hiện vì tư thế đứng tiểu nơi công cộng. Thomas biết rằng trong hoạt động tình báo, tất cả các chi tiết đều quan trọng và Schelkmann có lý lịch rất đáng gờm trong ngành. Schelkmann có hai cơ hội lật mặt nạ buổi diễn tối hôm đó. Đầu tiên là khi hắn yêu cầu được bổ nhiệm làm giám đốc bộ phận tình báo của Thomas. Thomas sau đó nói với người viết hồi ký của mình, Christopher Robbins, “Tôi không lường trước được điều này. Tôi không thể đáp ứng yêu cầu đó của hắn nếu không tuyển mộ hắn vào tổ chức, một điều tất nhiên là hoàn toàn bất khả thi. Tôi đã chỉ ra các điểm yếu trong hoạt động của hắn, dù trong thực tế đó là điều tôi buộc phải thán phục hắn.” Theo kế hoạch, Thomas không chỉ phải bịa ra một âm mưu phản kháng giả mà còn phải tỏ ra khinh thường một mạng lưới tình báo được quản lý tốt. Schelkmann không phát hiện ra và không phản kháng. Khoảnh khắc thành bại thứ hai của tối hôm đó – theo Thomas là khoảnh khắc nguy hiểm nhất – là khi Schelkmann bất ngờ hỏi xin mệnh lệnh. “Und was befehlen Sie uns jetzt zu tun?” Và giờ ngài ra lệnh cho chúng tôi làm gì? Như Robbins nhớ lại, Thomas sợ rằng mặt nạ của ông bị lộ ra và ông đã bước ra khỏi vai diễn. Nhưng một lần nữa, những sĩ quan SS không để ý thấy điều đó. Thomas trấn tĩnh, ra lệnh cho những người Đức dừng bất kỳ hoạt động đang trì hoãn nào và chuẩn bị cho một cuộc kiểm tra. Màn trình diễn của ông đã sơ suất hai lần, nhưng Schelkmann cũng đã bỏ lỡ cả hai. Đây là lợi ích của những hành động bịt mắt, đổi xe, đi qua bùn đất, quần áo đẫm nước mưa và màn đối xử khinh miệt mà nhóm những kẻ âm mưu bị buộc phải chịu đựng: bỏ qua những manh mối, xem nhẹ các dấu hiệu. Thành công của hoạt động đêm hôm đó không dựa vào sự hoàn hảo trong triển khai. Ngược lại, Thomas biết rằng sẽ xuất hiện những sơ suất có thể làm hỏng buổi diễn và buộc ông phải bắt nhóm đảng viên Quốc Xã ngay lập tức. Tài năng của ông nằm ở khả năng thao túng tâm trạng và làm giảm đi nhu cầu kiểm soát mà nhờ đó, những người này sẽ ít lưu ý đến những sai lầm mang tính khoảnh khắc đó. Vài tháng sau, khi Thomas rời công việc với CIC ở Đức để về Mỹ, một điệp viên mới nhận nhiệm vụ giăng bẫy nhóm đảng viên Quốc Xã liều lĩnh này. Đóng vai phó của Frundsberg, điệp viên thay thế này sắp xếp một cuộc họp với Schelkmann và nhóm người của hắn ở một quán bia địa phương. Vợ và bạn gái được phép tham gia. Lần này, một khoảnh khắc căng thẳng ập đến và điệp viên ngầm này tỏ ra bối rối, khiến nhóm sĩ quan SS cảm thấy có gì đó không đúng. Chúng quyết liệt thẩm vấn anh ta. Điệp viên CIC này hoảng loạn rút ra một khẩu súng ngắn, và các sĩ quan CIC ngầm nấp trong quán bia chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc xông đến bắt đám người này, tóm được ít kẻ âm mưu hơn so với kỳ vọng. Schelkmann ngồi tù 12 năm. Ban đầu khi bị buộc tội, hắn và các đồng sự kịch liệt phủ nhận tuyên bố dường như khó hiểu của bên truy tố rằng Frundsberg cũng làm việc cho những người Mỹ. Cũng giống như những học viên của Thomas, những sĩ quan SS đã đóng tư duy của họ lại. *** Cuốn sách này nghiên cứu cách con người diễn giải thế giới. Nó viết về những gì xảy ra khi chúng ta bối rối và mọi thứ có vẻ không rõ ràng. Tất nhiên, hầu hết thách thức trong cuộc sống thường cực kỳ rõ ràng. Khi trời đổ tuyết, chúng ta biết mặc áo khoác trước khi ra ngoài. Khi điện thoại kêu, chúng ta nhấc điện thoại lên. Đèn đỏ có nghĩa là chúng ta phải dừng lại. Ở chiều ngược lại, nhiều phạm vi kiến thức hoàn toàn khiến chúng ta bối rối. Nếu giống tôi, bạn sẽ chẳng hiểu gì khi đọc chữ Ba Tư hay nghe một cuộc tranh luận của các chuyên gia vật lý hạt nhân. Chúng ta sẽ không thể bối rối nếu có ít nhiều hiểu biết nào đó trong đầu. Thay vì cảm thấy khó chịu vì chỉ hiểu một phần vấn đề, chúng ta nên cảm thấy bình tĩnh trước sự ngu ngơ của bản thân, giống như cách chúng ta an tâm tuân theo những trình tự thường nhật. Cuốn sách này nghiên cứu vùng đất chếnh choáng nằm giữa hai cực, khi chúng ta có vẻ đang thiếu những thông tin cần thiết để thấu hiểu một trải nghiệm hay những thông tin nào đó quá phức tạp. Sự mơ hồ sẽ xuất hiện trong những tình huống không hoàn toàn rõ nghĩa này. Trạng thái tâm trí bối rối vì sự mơ hồ được gọi là trạng thái bất định, và nó là một trạng thái khuếch đại cảm xúc. Nó khiến sự căng thẳng trở nên đau đớn hơn, và cảm giác thích thú trở nên thú vị hơn. Ví dụ, cảm giác thích thú với trò chơi ô chữ đến từ quá trình suy nghĩ và giải quyết các manh mối không rõ ràng. Những câu chuyện trinh thám tạo ra sự hồi hộp bằng cách duy trì trạng thái bất định về những manh mối và kẻ thủ ác. Nghệ thuật hiện đại đi theo hướng bẻ cong tư duy, tính đa dạng của thơ ca, những câu đố của Lewis Carroll, chủ nghĩa hiện thực thần kỳ của Marquez, văn châm biến hiện thực của Kafka – sự mơ hồ thấm đẫm tất cả những hình thái và tác phẩm nghệ thuật của loài người, hàm ý một bản chất cảm xúc sâu sắc. Goethe từng nói rằng: “Sự đồng thuận khiến chúng ta trở nên thụ động, nhưng mâu thuẫn sẽ khiến chúng ta trở nên hiệu quả hơn.” Sự mơ hồ cũng vậy. Những chuyến du lịch, các bảo tàng khoa học và những câu đố trí tuệ xác nhận tiềm năng tuyệt vời của sự mơ hồ trong vai trò quyến rũ trí tưởng tượng của chúng ta. Nhưng chúng cũng cho thấy mối quan hệ giữa chúng ta và sự thiếu trật tự mang tính nhận thức có thể biến đổi thế nào. Chúng ta thích sự bất định được đưa vào nề nếp cẩn thận như một buổi trưng bày nghệ thuật hiện đại. Chúng ta chỉ thích cảm giác mơ hồ trong những bối cảnh không mang tính đe dọa, như khi âm nhạc chơi đùa với những âm thanh chói tai hay một bộ phim kinh dị chơi đùa với sự điên khùng. Khi đối mặt với những trải nghiệm không rõ ràng vượt ra khỏi giới hạn này, chúng ta hiếm khi cảm thấy an toàn. Các tình huống bất định trong đời thực thể hiện ở những sự kiện không thể lý giải, các dự định không rõ ràng, hay những thông tin tài chính, y tế không mang tính kết luận. Có thể vợ hoặc chồng bạn không có được một công việc mà cô ấy/anh ấy hoàn toàn đủ năng lực. Hay bạn cảm thấy không khỏe nhưng các chẩn đoán của bác sĩ không thể lý giải được mọi triệu chứng của bạn. Có lẽ bạn đang thương lượng một vụ làm ăn với ai đó mà bạn không thực sự tin tưởng. Hay có thể bạn đang cố gắng viết một kế hoạch kinh doanh trong một thị trường thay đổi nhanh chóng và rất cạnh tranh. Những lần đưa ra quyết định quan trọng trong cuộc sống của chúng ta – từ chọn trường đại học đến quyết định nơi sinh sống – luôn liên quan đến hoạt động xử lý các thông tin mập mờ trong những tình huống đầy rủi ro. Tuy nhiên, ngày nay thế giới đang trở nên quá tải thông tin và hỗn độn hơn bao giờ hết. Nghịch lý của cuộc sống hiện đại là dù công nghệ phát triển – trong ngành giao thông, truyền thông và sản xuất – có thể mang lại nhiều thời gian hơn cho con người, nhưng các phát minh đó lại làm gia tăng số lượng các lựa chọn theo cấp số nhân. Thư điện tử nhanh hơn thư bưu điện rất nhiều và Internet cũng mang lại cả Twitter, YouTube, v.v... Như nhà xã hội học người Đức Hartmut Rosa mô tả: “Dù có gia tăng ‘tốc độ cuộc sống’ nhanh thế nào đi nữa, chúng ta cũng không thể bắt kịp trận đại hồng thủy các thông tin và lựa chọn.” Kết quả là “phần thế giới mà chúng ta tiếp cận” có vẻ như ngày càng nhỏ lại, thậm chí khi chúng ta tiếp cận nó một cách hiệu quả hơn. Ước tính rằng có 90% dữ liệu trên thế giới đã được tạo ra chỉ trong 5 năm gần đây. Tất cả chúng ta đều đang chết chìm trong cơn lũ thông tin, một thực tế khiến những quyết định đơn giản nhất – ăn ở đâu, đăng ký chương trình chăm sóc sức khỏe gì, mua cà phê từ nhà sản xuất nào – trở nên đầy rủi ro. Trong khi đó, chúng ta đối mặt với những căng thẳng xã hội đến từ sự bất bình đẳng gia tăng và một tương lai kinh tế bất định khi máy móc bắt đầu thay thế con người trong nhiều ngành công nghiệp. Quản lý trạng thái bất định ngày càng trở thành một kỹ năng thiết yếu. Nhà kinh tế học Noreena Hertz gần đây tranh luận rằng một trong những thách thức căn bản của thế giới hôm nay là “sự thiếu trật tự – một sự kết hợp của sự sụp đổ những trật tự cũ, vững chãi và bản chất cực kỳ bất định của thời đại chúng ta.” Tự động hóa và thuê ngoài sẽ đòi hỏi những người lao động trong tương lai phải cách tân và sáng tạo hơn. Như chuyên gia kinh tế Lawrence Katz đã nói, thành công hay thất bại sẽ chỉ dựa trên một câu hỏi: “Bạn giải quyết những vấn đề không cấu trúc như thế nào, và bạn xử lý những tình huống tốt ra sao?” Những công việc mà có thể “được biến thành một thuật toán”, theo cách gọi của ông, sẽ không quay trở lại. Katz nói với tôi: “Kỹ năng sẽ được coi trọng trong tương lai là năng lực học các kỹ năng mới mà vẫn thích nghi với môi trường và năng lực khám phá ra những giải pháp sáng tạo vượt ra khỏi những cách làm tiêu chuẩn.” Cũng như những người lao động ngày nay phải học cách thích nghi với những gì xa lạ, lực lượng lao động ngày mai phải chuẩn bị cho điều đó. Miguel Escotet, một nhà khoa học xã hội đã đưa ra một lập luận rất hay. Các trường học nên “giảng dạy kỹ năng xử lý sự bất định, đơn giản vì với rất nhiều sinh viên, hầu như họ không thể biết chuyện gì sẽ xảy ra vào thời điểm bước chân vào thị trường lao động”. Với Escotet, giảng dạy kỹ năng quản lý sự bất định nghĩa là giúp sinh viên trở nên linh hoạt, tự biện, tò mò và chấp nhận rủi ro – những năng lực có xu hướng biến mất khi sự căng thẳng chiếm lĩnh tâm trí chúng ta. Tương tự, các doanh nhân không thể cách tân nếu không có khả năng đi thong dong vào những vùng lãnh thổ xa lạ khác nhau. Năng lực xử lý sự mơ hồ và trạng thái bất định không phải là một chức năng của sự thông minh. Trên thực tế, khả năng này chẳng liên quan gì đến chỉ số IQ. Tuy nhiên, nó là một thách thức cảm xúc – một câu hỏi về tư duy – và là thứ mà tất cả chúng ta cần phải thành thạo. Vấn đề ngày nay là tìm ra cái phải làm – trong công việc, quan hệ và cuộc sống hằng ngày – khi chúng ta không biết phải làm gì. Sự quan tâm của giới khoa học đối với sự mơ hồ đã bùng nổ trong hơn một thập kỷ qua. Hầu hết đều tập trung vào việc tìm hiểu về một khái niệm mang tên nhu cầu kết thúc vấn đề. Được phát triển bởi nhà tâm lý học lỗi lạc Arie Kruglanski, nhu cầu kết thúc vấn đề của một người được đo lường bởi “một khao khát cụ thể nhằm tìm ra đáp án xác định cho chủ đề nào đó, miễn sao đáp án đó không rối rắm và mập mờ”. Cũng như phương pháp giảng dạy ngược đời của Michel Thomas, khái niệm của Kruglanski – và thực tế là một nghiên cứu tâm lý hiện đại về chủ đề sự mơ hồ – có thể truy ngược để thấu hiểu Chủ nghĩa Quốc Xã. Năm 1938, nhà tâm lý học nghiên cứu Chủ nghĩa Quốc Xã tên là Erich Jaensch đã xuất bản cuốn sách Der Gegentypus (tạm dịch: Vật tượng trưng), một cuốn sách đáng ghê tởm trong đó ông mô tả sự chắc chắn là dấu hiệu đáng ngại của sức khỏe tâm thần. Với Jaensch, hành động chịu đựng sự nghi ngờ là bằng chứng của bệnh tâm thần. Sau cuộc chiến, Else Frenkel-Brunswik, một nhà tâm lý học ở Đại học California, đã giới thiệu khái niệm không khoan dung sự mơ hồ. Trong một thí nghiệm, bà cho các đối tượng nghiên cứu xem một chuỗi các hình ảnh, bắt đầu bằng bản phác thảo hình một con chó. Các hình ảnh dần thay đổi hình dạng thành hình một con mèo. Các đối tượng không khoan dung sự mơ hồ – những người có xu hướng nhìn nhận thế giới theo các phạm trù cứng nhắc – khăng khăng một cách cố chấp rằng hình ảnh đó vẫn là con chó. Phát biểu ngược hoàn toàn với Jaensch, Frenkel-Brunswik cho rằng hành động không thể chịu đựng được những thông tin không rõ ràng cho thấy một trạng thái tâm thần không lành mạnh. Kruglanski đưa ra một luận điểm khiêm tốn và có phần nhiễu loạn hơn Frenkel-Brunswik. Ông hiểu rằng con người có nhu cầu giải quyết trạng thái bất định và diễn giải những gì vô nghĩa. Ông lý luận rằng con người sẽ mất đi tính thích nghi nếu chúng ta không có cơ chế thúc đẩy bản thân giải quyết những sự thiếu nhất quán và ra quyết định. Khi không có động lực giải quyết vấn đề, chúng ta sẽ chẳng bao giờ làm xong việc gì. Đó là nhu cầu kết thúc vấn đề. Nhưng Kruglanski cũng nghi ngờ rằng xu hướng bài xích sự bất định của chúng ta không bất động. Ông tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu khao khát tìm kiếm các đáp án rõ ràng của chúng ta trở nên quá mạnh? Chuyện gì xảy ra nếu Chủ nghĩa Quốc Xã một phần được châm ngòi bởi sự kết hợp nguy hiểm giữa một lý tưởng đầy căm hờn đi kèm với xu hướng ghét bỏ sự mơ hồ bị thổi phồng của những người ủng hộ? Thực tế, đó là điều mà Kruglanski và những nhà nghiên cứu khác đã khám phá ra. Như chúng ta sẽ thấy, nhu cầu “giải quyết những vấn đề còn dang dở” đóng vai trò thiết yếu đối với năng lực hành động của chúng ta ở thế giới này. Nhưng cũng giống như bất kỳ đặc điểm tâm lý nào khác, nhu cầu này có thể bị cường điệu hóa ở vài người và leo thang trong những tình huống nhất định. Như Kruglanski đã nói với tôi: “Tình huống, văn hóa, môi trường xã hội – nếu thay đổi bất kỳ yếu tố nào trong số đó, bạn sẽ thay đổi nhu cầu kết thúc vấn đề của ai đó.” Tâm lý e sợ sự bất định có thể mang tính lây truyền khi những người xung quanh chúng ta bị lây lan một cách vô thức. Trong các tình huống căng thẳng, chúng ta thường tin tưởng những cá nhân trong nhóm xã hội của chúng ta nhiều hơn và tin tưởng những người ngoài ít hơn. Sự mệt mỏi làm chúng ta ưu ái sự trật tự hơn. Áp lực thời gian cũng vậy. Khi nhu cầu kết thúc vấn đề tăng cao, chúng ta có xu hướng quay về những công thức có sẵn, nhảy thẳng đến các kết luận và từ chối những mâu thuẫn. Chúng ta có thể khăng khăng một cách cứng đầu như Rudolf Schelkmann, rằng con chó vẫn là con chó chứ không phải con mèo. Michel Thomas hiểu rõ sức mạnh của bối cảnh đối với việc mở hoặc đóng tư duy. Ông biết cách dùng sự mơ hồ để thao túng các đòn bẩy tình huống vốn kiểm soát sự thoải mái của chúng ta. Hãy suy nghĩ về việc bối cảnh của CIC ở Ulm đã biến đổi thành những bài học của Thomas ở City & Islington hoàn hảo như thế nào. Muốn khiến các sĩ quan SS chịu áp lực thời gian, ông trả lời nhiều cú điện thoại trong thời gian diễn ra cuộc gặp và bảo đảm rằng sẽ có những “trợ lý” luôn ngắt lời ông. Muốn đe dọa họ, ông trưng đầy vũ khí và các xấp tiền trong căn chòi đi săn. Để khiến các sĩ quan SS rơi vào trạng thái phòng thủ, ông nhốt họ vào một căn nhà an toàn xa lạ. Để khiến họ mệt mỏi và cảm thấy không thoải mái, ông bắt họ đi xe dưới trời mưa, đợi trong cái lạnh và đi qua những vũng nước băng giá. Ngược lại, ở London, Thomas khuyến khích các sinh viên kiên nhẫn. Để các sinh viên được thoải mái, ông nói với họ rằng nhiệm vụ của họ không phải là cố gắng ghi nhớ. Ông thậm chí còn yêu cầu họ khiêng những chiếc bàn học ra khỏi phòng và thay chúng bằng nội thất phòng khách cùng với những tấm rèm bằng liễu gai. Các sinh viên tự sắp xếp không gian học riêng. Để giúp họ kiểm soát bản thân tốt hơn, ông trấn an rằng họ đã quá quen với hàng nghìn từ tiếng Pháp. Thomas đã sử dụng những công cụ trấn áp cảm giác nghi ngờ của các đảng viên Quốc Xã để chống lại họ và sau đó áp dụng cách tiếp cận đối lập để giúp các học viên học tập hiệu quả. Sự đe dọa, cảm giác khó chịu, áp lực thời gian – những đồng minh của Thomas – cũng chính là kẻ thù của ông trong vai trò một giáo viên. Thomas biết cách gia tăng khả năng khiến Schelkmann và các sĩ quan của hắn bỏ qua những mâu thuẫn tiềm năng, ông cũng biết cách gia tăng sự thân thuộc giữa các học viên với một ngôn ngữ xa lạ. Thomas hiểu rằng nhu cầu kết thúc vấn đề không phải lúc nào cũng liên hệ trực tiếp đến một trường hợp mơ hồ cụ thể. Những chiếc ghế thoải mái chẳng liên quan gì đến đại từ tiếng Pháp, cũng như những vũng nước lạnh giá chẳng liên quan gì đến việc liệu có nên tin ai đó không. Ông thấy rằng phản ứng của chúng ta trước sự bất định (thậm chí với cả những căng thẳng không liên quan) là cực kì nhạy cảm. Như Kruglanski đã chỉ ra, chúng ta thường không nhận ra một tình huống làm gia tăng hay giảm bớt nhu cầu kết thúc vấn đề, hay việc này ảnh hưởng ra sao đến phản ứng của chúng ta trước sự mơ hồ. Đó là điều khiến phương pháp của Thomas trở nên quá ấn tượng. Chúng ta thường không nghĩ rằng việc đóng mở tư duy bị ảnh hưởng lớn bởi những tình huống xung quanh. Dù có thể nhận ra ai đó ít nhiều cảm thấy thoải mái với sự bất định, nhưng chúng ta có xu hướng xem đây là một đặc điểm bất biến. Tuy vậy, chúng ta không phụ thuộc vào yếu tố di truyền nhiều như chúng ta nghĩ. Cuốn sách này lập luận rằng chúng ta thường yếu kém trong việc quản lý sự mơ hồ và có thể làm tốt hơn. Vài năm trở lại đây, những khám phá mới trong ngành tâm lý xã hội và khoa học nhận thức đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về cách con người phản ứng trước sự mơ hồ theo hướng mà các nhà nghiên cứu của những năm 1950 không thể đo lường được. Những nghiên cứu đột phá tạo ra các cách tiếp cận mới và thông minh hơn để giải quyết sự mơ hồ trong công việc và các mối quan hệ trong gia đình. Những khám phá này sẽ chỉ ra con đường để sự mơ hồ giúp chúng ta học được những thứ mới mẻ, giải quyết một vấn đề khó khăn hay nhìn thế giới từ một góc nhìn khác. Phần I sẽ trình bày các vấn đề nền tảng liên quan đến sự mơ hồ. Chúng ta sẽ khám phá các lựa chọn tự nhiên trong cơ chế tâm lý của chúng ta và gặp một nhà tâm lý học trẻ tuổi ở Hà Lan, người đang lãnh đạo phong trào hướng đến một lý thuyết mới, thống nhất về cách chúng ta diễn giải thế giới. Phần II tập trung vào các rủi ro của việc chối bỏ sự mơ hồ. Chúng ta sẽ nhìn nhận sự khác biệt giữa “phản ứng thông minh” và “phản ứng vội vã” trước những sự kiện bất định, theo dõi một đàm phán viên lão luyện của FBI đối thoại với một nhà lãnh đạo giáo phái lưỡng lự, và quan sát một tình huống mà trong đó cảm giác thoải mái của một bệnh nhân ung thư đã giúp thay đổi cách đưa ra các quyết định y học. Chúng ta cũng sẽ tìm hiểu cách một doanh nghiệp chuẩn bị cho tương lai bằng việc nhận ra sự vô ích của hoạt động dự báo. Phần III nhấn mạnh vào lợi ích của sự mơ hồ trong những bối cảnh mang tính thách thức như: cách tân, học tập hay nghệ thuật. Sự bất định có những công dụng gì? Làm sao để giáo viên có thể chuẩn bị tốt hơn cho sinh viên trước các thách thức bất định? Liệu hành động ôm ấp sự bất định có giúp chúng ta phát minh hoặc tìm thấy đáp án trong những vùng đất mới, hoặc thậm chí là gia tăng sự cảm thông không? Tại phần này, chúng ta sẽ thấy cách phản ứng của một nhà sản xuất xe mô tô Grand Prix trước một mùa giải thất bại, sau đó chúng ta sẽ làm quen với một nhà sáng chế ở Massachussetts, người đã vượt qua những giới hạn ẩn giấu đằng sau ngôn ngữ. Ngoài ra, chúng ta sẽ xem xét lợi ích của việc sử dụng song ngữ và gặp một nhà sản xuất phim táo bạo ở Jerusalem. Bên cạnh đó, tôi cũng hy vọng rằng bạn sẽ tin vào một tuyên bố đơn giản: trong một thế giới ngày càng phức tạp, bất định, điều quan trọng nhất không phải là IQ, sức mạnh tâm trí hay sự tự tin vào những gì chúng ta biết, mà là cách chúng ta xử lý những gì chúng ta không biết. Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Của Sự Mơ Hồ Và Bí Ẩn của tác giả Jamie Holmes.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tôi Thích Bản Thân Nỗ Lực Hơn
“Một là không có bối cảnh, hai là không có tiền, ba là không có mối quan hệ, chỉ có thể trông cậy vào chính mình”. Nếu bạn đã từng có ý nghĩ như vậy, thì một cuốn sách như “Tôi thích bản thân nỗ lực hơn” chính là tiếng lòng dành cho bạn. Bạn có từng bị ngăn cấm, bị coi là gàn dở khi từ bỏ một công việc “ ổn định, nhàn hạ” để theo đuổi thứ gọi là “đam mê” mà bạn chấp nhận đánh đổi bằng bất cứ giá nào? Thất bại ư? Nhưng nếu bạn thực sự thành công như tác giả của cuốn sách này Liệu mẹ bạn sẽ nói “Trước đây mẹ cũng thấy con ngốc, không ngờ người ngốc cũng có phúc của người ngốc, số mạng cũng không tệ…” “Mẹ à, chớ tin vào số mạng, phải tin vào chính mình! Tôi vẫn luôn tin rằng con người mới là Đấng Cứu Thế của mình. Khi gặp khó khăn hay bế tắc, cầu xin thế lực bên ngoài giúp đỡ, dù là số mạng hay thần linh cũng thế, cũng chỉ vô ích và nực cười mà thôi. Người có thể tạo ra sự thay đổi không phải ai khác mà là chính bạn. Bạn chỉ cần cúi xuống nói với sự yếu đuối của chính mình: “Đứng dậy đi!” Khi bạn đứng dậy rồi sẽ thấy được đường đi.” Trong xã hội này, chúng ta dễ dàng nghe được những câu nói về sự buông thả, lười biếng, vô kỷ luật được tô vẽ thật đẹp để an ủi chính mình. Chúng ta sẽ nói, buông thả bản thân chính là đối xử tốt với chính mình. Chúng ta sẽ nói, làm gì cũng phải cẩn thận từng li từng tí thật sự quá bức bối, quá thất bại… Thật ra không hề.  Đừng tin vào những thứ hễ đưa tay ra là có được, nhanh chóng, xuất phát từ bản năng, tùy hứng, không rõ ràng. Hãy tin vào sự từ tốn, bình thản, sức mạnh tích tiểu thành đại, thiết thực, bình tĩnh. Đầu thai, chúng ta không có sự lựa chọn. Đây là số phận không thể khống chế. Nhưng có một cuộc sống như thế nào, chúng ta có thể tạo ra. Đây là vận mệnh có thể khống chế. Cha mẹ không thể cho bạn tất cả, nhưng bạn có thể cho mình mọi thứ mình muốn. Giống như một cơn gió, ảnh hưởng đến một cơn gió khác; Một đợt sóng, ảnh hưởng đến một đợt sóng khác; Một người chán ghét chính mình, tất nhiên sẽ chứa đầy bất mãn với thế giới nhưng nếu bạn chọn sống một cuộc đời “thú vị” thì hãy nỗ lực hơn bạn của ngày hôm qua! Cuốn sách là lời nhắn gửi của một tác giả Chu Xung đến các bạn trẻ đang loay hoay trên đường đời rằng: Đằng nào cũng “mất công sống một lần”, hãy sống sao cho xứng đáng với tuổi trẻ của chính mình! *** Phụ nữ càng tự biết kiểm soát, mức sống sẽ càng cao. ------ Dương Lệ Bình từng được phỏng vấn trong phòng tập của cô, có một người hỏi cô rằng: 'Chị gầy như thế, mỗi ngày phải ăn bao nhiêu?' Cô mở hộp cơm của mình ra: một lát nhỏ thịt bò, nửa trái táo, một quả trứng gà. Đây chính là bữa trưa của cô ấy. Hơn nữa, đây còn là bữa ăn dùng trong giai đoạn tập múa liên tục ở cường độ cao. Khi nhìn thấy bữa ăn của cô ấy, tôi tin rằng ai cũng sẽ cảm thấy mình không khác gì một con trâu. Một ngày từ sáng đến tối, chỉ cần ngồi yên một chỗ thôi chúng ta cũng đã nuốt vào hàng đống thực phẩm dầu mỡ giàu calo, không thể kiểm soát, hệt như một kẻ háu ăn, dẫn đến béo phì, mệt mỏi, rồi cứ trượt dốc không phanh, ngày càng xa rời trạng thái nhanh nhẹn nhẹ nhàng. Phóng viên hỏi tiếp: 'Cô có đói không?' Cô đáp: 'Thế này đã đủ năng lượng rồi. Anh thấy đấy, chẳng phải tôi vẫn nhảy múa đàng hoàng, chưa từng gục ngã trên sân khấu đó sao.' Xem đến đây, có một từ đột nhiên nảy lên trong đầu tôi: tự kiểm soát. Nhờ vào cách phân tích của lí trí, cô ấy đã đem ý thức tự kiểm soát của mình hoà trong mạch máu, trở thành một chiếc điều khiển từ xa, như một loại trình tự tâm lý, hễ đến giờ ăn sẽ tự động làm theo. Bất kì ai có thể tự kiểm soát như thế sẽ không có mức sống quá thấp. Thế nên Dương Lệ Bình tuy đã 58 tuổi nhưng vẫn xinh đẹp và có khí chất như một tâm hồn tươi trẻ thoát tục, có không ít người nếu đem ra so sánh với cô ấy thì đã phủ lên mình một lớp tục khí khá dày. Hơn 40 năm trước, giáo sư tâm lí học Walter Mischel đã làm một thí nghiệm kẹo bông rất nổi tiếng. Ông tìm hàng trăm đứa trẻ 4 tuổi, để chúng đợi ông trong một căn phòng có một viên kẹo bông hoặc bánh quy trên bàn. Ông nói với chúng: ông sẽ ra ngoài một lúc, bánh kẹo trên bàn có thể ăn, nhưng nếu đợi được đến khi ông quay lại mới ăn thì sẽ thưởng gấp đôi. Sau khi giáo sư ra ngoài, một vài đứa bé đợi chưa đến một phút đã ăn mất bánh kẹo, một số khác lại có thể đợi được hai mươi phút và nhận phần thưởng gấp đôi. Điểm thú vị của thí nghiệm này chính là ở biểu hiện của đứa trẻ sau khi chúng trưởng thành. Năm 1981, 653 bé từng tham gia thí nghiệm kẹo bông đều đã lên cấp ba, Walter Mischel đưa phiếu khảo sát cho cha mẹ và thầy cô của chúng. Kết quả cho thấy, dù ở trường học hay ở nhà, thì những bé không chờ đợi được phần lớn đều có nhiều vấn đề về hành vi. Thành tích thi SAT (kiểm tra đánh giá năng lực) của chúng khá kém, không giỏi ứng phó môi trường áp lực, thiếu tập trung, khó kết giao bạn bè. So với những bé chỉ đợi được ba mươi giây thì những bé đợi được hai mươi phút có điểm số thi SAT bình quân đạt hơn 210 điểm. Thí nghiệm vẫn đang tiếp tục tiến hành. Sau khi đám trẻ trưởng thành, chúng bắt đầu xuất hiện những biểu hiện khác nhau rõ rệt. Những đứa trẻ không giỏi chờ đợi sẽ sa vào con đường nghiện ngập. Còn những đứa trẻ chờ đợi được thường có thành tựu lớn, gia đình êm ấm hơn. Qua tuổi 30 tôi mới dần hiểu được tính quan trọng của việc tự kiểm soát bản thân. Tôi cũng từng nghĩ con người nên giữ một cách nhìn thoải mái về cuộc sống, muốn ăn thì ăn, muốn uống thì uống, dẫu sao đời người ngắn ngủi, vui vẻ tùy thích mới không uổng phí. Nhưng khi lớn dần, tôi mới nhận ra suy nghĩ này không đúng. Trong cuốn 'Sức mạnh của ý chí: Tâm lý học về sự tập trung, tự kiểm soát và hiệu suất' có một đoạn viết thế này: 'Cốt lõi của những vấn đề cá nhân và xã hội nằm ở chỗ thiếu khả năng tự kiểm soát: không tự làm chủ được mà tiêu tiền vay tiền, đánh người trong lúc kích động, thành tích học tập kém, làm việc chậm chạp rề rà, rượu chè nghiện ngập, ăn uống không lành mạnh, ít vận động, thường xuyên lo âu, tính tình nóng nảy...' Thiếu khả năng tự kiểm soát sẽ dẫn đến hàng loạt bi kịch trong cuộc sống: cơ thể biến dạng, đau khổ bệnh tật, đánh mất bạn bè, bị sa thải, ly hôn, vướng vào lao tù... Chẳng hạn, một người luôn ăn uống thả ga thì hiện tại có thể rất mập; một cô gái từ sáng đến tối chỉ muốn chơi bời, bữa nhậu nhẹt tụ tập nào cũng góp mặt, quán bar hay karaoke nào cũng từng đến, cứ nghĩ bản thân phóng khoáng quyến rũ lắm, nhưng không hay biết mỗi khi người khác nhắc đến cô ấy đa số đều tỏ ý khinh thường, chẳng mấy ai xem trọng; một người cuồng mua sắm, hễ thấy giảm giá là mua sắm điên cuồng, có thể đến bây giờ vẫn lôi thôi lếch thếch, không biếng, vô kỷ luật được tô vẽ thật đẹp để an ủi mình. Chúng ta sẽ nói, buông thả bản thân cũng là cách đối xử tốt với chính mình. Chúng ta sẽ nói, làm gì cũng phải cẩn thận từng li từng tí thật sự quá bức bối, quá thất bại... Thật ra không phải như vậy. Cho dù là trong học tập, công việc, hay trong cuộc sống cá nhân, tự kiểm soát chính là nhân tố quan trọng nhất dẫn đến thành công. Có một nghiên cứu tâm lý học điều tra những nhân tố ảnh hưởng đến thành tích học tập của các sinh viên đại học. Đầu tiên, người làm thí nghiệm liệt kê hết những phẩm chất có thể dùng được ra, có hơn 30 phẩm chất được liệt kê như tích cực, cởi mở, vui tính, nghiêm túc, cẩn thận, hoạt ngôn, hướng nội, thích đọc sách... Sau đó, họ tìm hàng trăm sinh viên để tiến hành thử nghiệm. Cuối cùng, họ phát hiện ra những phẩm chất này không hề ảnh hưởng trực tiếp gì đến thành tích học tập. Điểm duy nhất có thể ảnh hưởng đến thành tích là khả năng tự kiểm soát. Thậm chí sức ảnh hưởng của nó còn cao hơn cả chỉ số IQ. Có thể kiểm soát chính mình, khi nên học bài thì học bài, khi cần nghe giảng thì nghe giảng, khi phải làm bài tập thì làm bài tập, cứ thế người đó rất có khả năng sẽ đạt được thành tích hơn người. Trong đời sống cũng thế. Người có khả năng tự kiểm soát mạnh thường ít mắc bệnh tâm lý, hiệu suất làm việc cao, phần lớn có lòng đồng cảm, được người khác tin tưởng và dễ thành công hơn. Vì thế, ở phần đầu cuốn 'Sức mạnh của ý chí: Tâm lý học về sự tập trung, tự kiểm soát và hiệu suất', Roy Baumeister đã viết thế này: 'Dù bạn định nghĩa thành công thế nào đi nữa: gia đình êm ấm, có được tri kỷ, cuộc sống giàu sang, đảm bảo kinh tế, làm việc mình thích, tâm hồn khỏe mạnh, nội tâm phong phú... Tất cả đều cần chuẩn bị sẵn vài phẩm chất cho mình.' Khi các nhà tâm lý học đi tìm các phẩm chất ấy, họ đều phát hiện: Khả năng tự kiểm soát mới là phẩm chất quan trọng nhất trong số chúng. Tất nhiên, lực chọn cách sống thế nào là việc của mỗi cá nhân. Bất cứ một ai có ý chí, có thú vui, có phẩm chất đều muốn hướng đến điều tốt hơn, cố gắng thoát khỏi sự kém cỏi của chính mình để có được cuộc sống chân thiện mỹ. Chỉ có như thế chúng ta mới có thể cảm thán: Được sinh ra làm người thật tốt biết bao! Vậy, phải như thế nào mới có thể làm được điều đó! Kant từng nói, khả năng tự kiểm soát khiến chúng ta khác với mọi người. Tự kiểm soát giúp chúng ta có mức sống cao hơn, cũng giúp chúng ta có một cuộc sống tự do hơn. Ông đã suy luận thế này: Giả sử chúng ta giống các loài động vật, đi theo ham muốn của bản thân, né tránh khổ đau, khi đó chúng ta hoàn toàn không phải đang hành động một cách tự do thật sự. Vì sao không phải? Vì chúng ta đã trở thành một tên nô lệ cho ham muốn và sự kích động. Không phải chúng ta đang lựa chọn, mà chúng ta đang phụ tùng. Nhưng, sở dĩ con người là người, vì con người không phải do ham muốn mà là do chính mình làm chủ. Chỉ khi chính mình làm chủ mới thật sự có được tự do. Mấy hôm trước tôi đọc được một bài đăng rất hay của một người bạn. Bài viết như sau: 'Tôi không có lòng tin đối với những thứ hễ đưa tay ra là có được, những thứ cấp tốc, tùy hứng, không rõ ràng, xuất phát từ bản năng. Tôi tin vào sự từ tốn, bình thản, thiết thực, bình tĩnh, vào sức mạnh tích tiểu thành đại. Tôi không tin rằng thiếu tinh thần tự giác, không tự mình bồi đắp, không nỗ lực lại có thể giải phóng được một cá nhân hay tập thể nào. Khi bạn rút gươm chĩa về tứ phía đầy vẻ hoang mang, bạn sẽ bị vây hãm trong hoang mang của cuộc sống trong lồng giam của hiện thực, không biết đi đâu về đâu. Xin hãy ghi nhớ, con đường duy nhất để tìm đến tự do chính là: Dùng cách tự kiểm soát để tránh khỏi rắc rối, để thoát khỏi xiềng xích, tập trung tinh thần, dốc toàn lực để tiến về nơi mà bạn muốn đến. Dù có thể dùng cách này thì đến hết cuộc đời bạn cũng không thể đến được Utopia trong mơ ước, nhưng dọc đường đi chắc chắn bạn sẽ có rất nhiều niềm vui, rất nhiều hạnh phúc, gặp được chốn đào nguyên của mình, đến được vùng đất lí tưởng của lí chí. Ở trong thế giới đại đồng ấy, bạn sẽ lại yêu thương chính mình, sẽ nắm tay hòa thuận với người khác, đồng thời nói với thế giới rằng: 'Tôi được sống, tôi được yêu thương, tôi không hối tiếc!' Mời các bạn đón đọc Tôi Thích Bản Thân Nỗ Lực Hơn của tác giả Chu Xung.
Ngủ Ít Vẫn Khỏe - 5 Tiếng Là Đủ Sao Phải Là 8?
Gửi tới bạn – người đang vướng phải những phiền muộn sau: – Ngủ bao lâu cũng không hết cảm giác mệt mỏi – Luôn thức dậy buổi sáng trong trạng thái uể oải – Dễ bị tỉnh giấc, trằn trọc cho tới nửa đêm – Không đủ thời gian dành cho giấc ngủ – Trải qua mỗi ngày với quỹ thời gian eo hẹp Và bạn cũng nhận ra điều đó, bạn cũng biết những người thành công đều ngủ ít hơn bình thường nhưng năng suất công việc của họ vẫn luôn hiệu quả. Bạn cũng cố gắng rèn luyện bản thân mình nhưng có thể vì 2 lý do dưới đây sẽ làm bạn bỏ cuộc: – Không thể thức dậy sớm, dù cố gắng đến mấy cũng không duy trì được – Buồn ngủ trong suốt cả một ngày nếu như dậy sớm. Mức độ tốt và xấu của giấc ngủ không thể chỉ đo bằng “thời gian”. Chất lượng giấc ngủ = “Thời gian” x “Chất lượng”. Nếu có thể lĩnh hội “Phương pháp ngủ ngon trong 5 tiếng” được giới thiệu trong cuốn sách "Ngủ ít vẫn khỏe", cho dù thời gian dành cho giấc ngủ của bạn có ngắn đi chăng nữa, cũng sẽ không có chuyện bạn phải trải qua một buổi sáng khổ sở, không tỉnh táo, mệt mỏi vẫn còn chưa biến mất, và làm việc kém hiệu quả do cả ngày trong trạng thái buồn ngủ. “Phương pháp ngủ ngon trong 5 tiếng” của cuốn sách này truyền đạt tới bạn đọc kỹ thuật sở hữu tính hợp lý cả về y học lẫn sinh lý học để trở thành “người ngủ ngắn”. Phương pháp ngủ ngon trong 5 tiếng tức là, cho dù bạn chỉ ngủ trong một thời gian ngắn thôi, cả não bộ và cơ thể vẫn có cảm giác tràn đầy sinh khí, đôi mắt và tinh thần hoàn toàn trong trạng thái tỉnh táo. Nhờ đó, mọi hoạt động trong ngày đều đạt hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, kỹ thuật “Thức dậy lúc 5 giờ sáng” mà tác giả sẽ đề cập tới chính là phương pháp cải thiện giấc ngủ vô cùng hiệu quả dành cho những người thường ngủ khoảng 7 tiếng một ngày, giúp họ rút ngắn thời gian ngủ theo kiến thức y học đúng đắn và khoa học. Tuy nhiên, không phải chỉ đơn giản cắt giảm thời gian ngủ là được. Điều quan trọng là, cho dù chỉ ngủ ngắn, cơ thể vẫn khỏe mạnh, không những thế còn ngập tràn năng lượng để tập trung vào những việc khác. Mục đích của cuốn sách này chính là như vậy. Chỉ cần áp dụng triệt để những điều được ghi trong cuốn sách này, bạn hoàn toàn có thể trở thành người ngủ ngắn. *** ây là một cuốn sách thiên hướng về thực hành khá là dễ đọc nên mình đọc một vèo trong vòng 4 tiếng là xong, nhưng điều đó không có nghĩa là mình có thể thực hành ngay được. Mình muốn tổng kết lại kiến thức vừa đọc được cho bản thân khỏi quên. Môt chút về tác giả để mình có niềm tin là đây là những điều mình đọc từ một người có uy tín và mình hoàn toàn tin tưởng đây là những phương pháp đúng, khoa học, và tốt cho sức khỏe. Satoru Tsubota là tiến sĩ y học và có 20 năm kinh nghiệm điều trị và nghiên cứu về giấc ngủ. Với cương vị là một bác sĩ, ông muốn giúp mọi người loại bỏ những phiền muộn và lo lắng liên quan tới giấc ngủ, để tất cả có thể chào đón cuộc sống trong hạnh phúc và vui vẻ. Với công thức: Giấc ngủ = Thời gian x Chất lượng thì các phần trong sách cũng sẽ xoáy vào 2 yếu tố là giảm thời gian và tăng chất lượng để điểm cho một giấc ngủ vẫn được bảo toàn. Cuốn sách được chia thành 4 phần: Kĩ thuật nâng cao hiệu quả bằng: Ngủ ngay lập tức – Dậy ngay lập tức Những phương pháp nâng cao chất lượng giấc ngủ Năm phương pháp “ngủ tạm thời” để tỉnh táo cả ngày Biến thức dậy lúc 5h sáng thành thói quen trong 2 tháng Bước 1: Ngủ ngay lâp tức – Dậy ngay lập tức Để ngủ ngắn lại thì việc đầu tiên là cần cắt giảm quãng thời gian được xem là waste trên giường. Đầu tiên là khoảng thời gian từ lúc nằm xuống ngủ cho đến khi chìm vào giấc ngủ, khoảng thứ hai là thời gian từ lúc mở mắt tỉnh dậy cho đến khi ra khỏi giường. Có 7 kĩ thuật để ngủ ngay lập tức 1.Chỉ cần nhìn giường và chăn đệm là đã buồn ngủ bằng phương pháp “kiểm soát kích thích” Kĩ thuật này có nghĩa là tạo ra trong đầu mình những phản xạ có điều kiện bằng cách làm cho đầu óc mình quen với việc giường là nơi để ngủ, hoặc thời điểm duy nhất được phép nhìn thấy giường là lúc đi ngủ. Ngoài ra nếu không ngủ được thì không nên cứ nằm lăn lộn trên giường mà đi ra khỏi ngay lập tức vì không não bộ sẽ không thể set được phản xạ nhìn thấy giường là phải đi ngủ. Khi không ngủ được có thể uống một cốc sữa ấm, trà thảo mộc, nghe nhạc Mozart hoặc Bach để tăng cường sóng não Alpha và tập một vài bài kéo dãn cơ thể để cơ thể thư giãn. 2. Bốn loại mùi hương là đối thủ nặng ký của thuốc ngủ Hoa oải hương (Lavender) Cedrol Cà phê Hành tây Đây là những mùi đã được làm thí nghiệm và nó thực sự có hiệu quả kích thích giấc ngủ ngon. Có thể dùng tinh dầu và bình xông. Mình đã trải nghiệm việc này lúc mất ngủ, thật sự không rõ là có phải do có mùi này mà mình ngủ ngon hơn không nhưng mình đã ngủ lại được và anw thì có một mùi thơm trong phòng thì rất dễ chịu. 3. Chấm dứt tình trạng suy nghĩ khi nằm trên giường bằng cuốn sổ tay cáu giận Có nghĩa là não bộ bạn cần được xuất thông tin ra mỗi ngày. Hãy viết hết những gì bạn cảm giác hoặc suy nghĩ hoặc làm bạn cảm thấy căng thẳng ra hết một cuốn sổ và kết thúc bằng câu: “Ngày hôm nay của mình kết thúc rồi, đi ngủ thôi” hoặc những ý tưởng đại loại vậy để khiến bản thân mình yên tâm dừng suy nghĩ và đi ngủ. Tác giả khuyên tuyệt đối chỉ được dùng sổ giấy và viết tay, không được sử dụng thiết bị điện tử vì ánh sáng xanh sẽ gây khó ngủ nhưng cá nhân mình có vấn đề với việc handwriting nên thường mình sẽ dùng điện thoại để viết. Phương pháp này với mình khá gần với writing therapy mà mình đang thực hiện mỗi ngày. Cũng tùy mỗi người mà lựa chọn cho bản thân mình cách ứng dụng, nhưng viết ra thực sự có công dụng rất tốt về nhiều mặt. 4. Hiệu quả bất ngờ của “rời bỏ thực tại và đi ngủ” mà chỉ những người thành công mới thực hiện được Điều này có nghĩa là ngừng lại hết mọi suy nghĩ của thực tại và yên tâm đi ngủ. Trong phần này tác giả có đề cập tới chuyện tại sao có những khi chúng ta hay nói có những chuyện cả ngày làm không ra nhưng khi đi ngủ sáng hôm sau biết cách làm, đây cũng không phải magic gì ghê gớm mà là khoa học đã chứng minh trong giấc ngủ sâu REM não bộ đã rà soát, sắp xếp lại thông tin và tối ưu hóa chúng khiến cho những ý tưởng và giải pháp được hình thành. Nhưng điều này không có nghĩa là cứ ép bản thân đi ngủ vì đi ngủ mới suy nghĩ ra được là sẽ ra thật vì điều này có nghĩa là áp đặt và tạo áp lực lên não bộ khiến nó không thể chìm vào giấc ngủ sâu được. Cá nhân mình cảm thấy việc khi đang gặp căng thẳng và chìm đắm trong suy nghĩ thực rất khó để dứt ra và bảo nó dừng suy nghĩ là một việc không đơn giản. Mình đã ứng dụng một vài kĩ thuật thiền nhỏ nhỏ trước khi đi ngủ, nghe nhạc nhẹ, chú ý vào hơi thở, thư giãn và thả lỏng toàn thân. Có thể thiền nằm hoặc thiền ngồi, kĩ thuật body scanning có giúp cho đầu óc có thể ngừng suy nghĩ và nhẹ nhàng hơn. 5. Cách chuyển đổi từ “dây thần kinh ban ngày” sang “dây thần kinh buổi tối” Có 2 dây thần kinh tự trị điều hành các chức năng của cơ thể mà con người không thể điều khiển bằng ý thức. Dây thần kinh giao cảm (dây thần kinh ban ngày) và dây thần kinh giao cảm phụ (dây thần kinh ban đêm). Để ngủ được thì giao cảm phải chuyển giao thành giao cảm phụ để cơ thể thư giãn, có kĩ thuật hô hấp bằng bụng sẽ giúp cho việc chuyển giao được diễn ra nhanh hơn. 6. Tạo ra “nghi thức trước khi đi ngủ” của riêng mình Cá nhân mình thấy nghi thức này thực ra khá giống với cách 1 tức là tạo ra những phản xạ có điều kiện, tập dần quen cho não bộ chuyện nếu tao làm việc A hay nhìn thấy B có nghĩa là một signal để đi ngủ. Thì tác giả gợi ý có thể như là: thay đồ ngủ, đánh răng,.. 7. Ngừng thực hiện “hành động” có tác dụng tỉnh táo bằng hai cốc cà phê phin Đó là ánh sáng xanh phát ra từ laptop và điện thoại, đặc biệt là hành động “check email” trước khi đi ngủ. Đây là việc tối kị vì nó sẽ gây ra những căng thẳng mà bạn khó tập trung mà đi ngủ được. *** RÚT NGẮN THỜI GIAN NGỦ, TẬN HƯỞNG MỖI NGÀY TRONG THẢNH THƠI VÀ THONG THẢ Không thể cắt giảm thời gian ngủ nếu tự làm theo cách của mình Bạn có từng cảm thấy thời gian ngủ là "lãng phí" hay không? Thời gian ngủ trung bình của con người là 8 tiếng. Một ngày có 24 tiếng, tức là chúng ta dành một phần ba khoảng thời gian trong ngày để ngủ. Giả sử, bạn có thể sống đến 84 tuổi, vậy thì trong suốt cả cuộc đời, thời gian bạn dành cho giấc ngủ là 28 năm. Đời người chỉ đến một lần. Dành ra 28 năm để ngủ, bạn có cảm thấy lãng phí hay không? "Phương pháp ngủ ngon trong 5 tiếng" được đề cập đến trong cuốn sách này là phương pháp giúp bạn rút ngắn thời gian ngủ vốn dĩ chiếm một phần lớn thời gian trong cả cuộc đời. Đồng thời, phương pháp này sẽ giúp bạn có được một thể chất không biết đến mệt mỏi trong cả ngày, dù cho chỉ ngủ trong một thời gian ngắn. Ép chặt thời gian ngủ xuống chỉ còn "khoảng 5 tiếng" hay còn được gọi là người ngủ ngắn, bạn sẽ trải qua một ngày dư dả thời gian, sảng khoái và thong thả. Đó chính là mục đích của cuốn sách này. Hẳn rằng, bất cứ ai trong chúng ta cũng từng một lần mong muốn bản thân mình có thể làm được như thế. Trong số các bạn, những người đang đọc cuốn sách này, có lẽ cũng có người từng thử rút ngắn thời gian ngủ trong một ngày rồi đúng không? Khi công việc bận rộn, cắt giảm thời gian ngủ, tăng ca, đi làm sớm. Hoặc là, để tạo thói quen dậy sớm, cũng có người quyết định tham gia các hoạt động của câu lạc bộ hay hội đọc sách vào sáng sớm. Tuy nhiên, kết quả thì sao? Có lẽ, cơ thể sẽ trở nên mệt mỏi, kết cục là chấm dứt nỗ lực rút ngắn thời gian ngủ trong thất bại bằng cách dành cả ngày nghỉ để ngủ bù. Thực ra, nếu bạn đột nhiên cắt giảm thời gian ngủ một cách mông lung và không có kế hoạch, thì duy trì việc ngủ ít là rất khó. Việc này cũng giống như khi bạn ăn kiêng quá mức để giảm cân. Những cách làm như vậy, gần như 100% sẽ bị phản tác dụng, sự mệt mỏi tích tụ qua từng ngày sẽ quay trở lại tấn công bạn. Hệ lụy của việc giảm đi thời gian ngủ quá mức cơ thể chịu đựng được là cả một ngày bị mệt mỏi, cơn buồn ngủ bủa vây, năng lực tập trung suy giảm. Cho dù bạn có giảm thiếu thời gian ngủ đi và cố gắng làm việc tới tận đêm khuya, sự phản kháng của cơ thể sẽ xuất hiện vào ngày hôm sau, kết quả là bạn sẽ trải qua một ngày mới trong phờ phạc và mệt mỏi. Như vậy, đương nhiên về mặt hiệu suất làm việc, cố gắng của bạn chẳng có ý nghĩa gì cả. Giống như vậy, lý do khiến việc cắt giảm thời gian ngủ theo cách thức của bản thân nghĩ ra chẳng thể nào mang lại hiệu quả là bởi giấc ngủ là một thứ vô cùng phức tạp. Ví dụ như, sẽ có nhiều người thắc mắc, dù thời gian chúng ta có được trong một ngày là như nhau, nhưng tại sao tùy theo từng người, thời gian ngủ thích hợp lại khác nhau? Nếu như có người chỉ cần ngủ 4 tiếng một ngày vẫn cảm thấy khỏe mạnh, thì lại có người nếu không ngủ 9 tiếng thì không thể nào khiến cơ thể hồi phục sau một ngày làm việc và học tập miệt mài. Với trường hợp này, thời gian dành cho hoạt động trong ngày chênh lệch ở mức 5 tiếng. Thậm chí, một rắc rối nữa có thể xảy ra đó là, cho dù đã ngủ rất lâu nhưng khi tỉnh giấc, cảm giác mệt mỏi vẫn bám víu, bạn lưu luyến không muốn rời khỏi chiếc chăn đang đắp. Thực sự có nhiều trường hợp như vậy. Và cũng có nhiều người cảm thấy nghi ngờ và có chút khó hiểu khi đã ngủ rất nhiều nhưng thể lực lại chẳng thể hồi phục. Đối với một "giấc ngủ" khó hiểu đến như vậy, tôi đã có hơn 20 năm tìm hiểu và đối diện với nó. Trước hết, làm thế nào để con người có thể có một giấc ngủ ngon? Có thể giảm thời gian ngủ đi không? Liệu có thể chào đón một ngày mới vui vẻ hơn chỉ với thời gian ngủ ngắn hay không? Song hành với mong muốn và nghi vấn đó của bạn đọc, chính là phương pháp được đề cập đến trong cuốn sách này. Khi có thể sử dụng phương pháp trong cuốn sách này, phần lớn mọi người đều cảm thấy thỏa mãn dù chỉ ngủ trong một thời gian ngắn, thức dậy trong trạng thái tỉnh táo, có thể trải qua một ngày mới vui vẻ và thong dong. 90% NGƯỜI NHẬT CÓ THỂ TRỞ THÀNH "NGƯỜI NGỦ NGẮN" Trở thành Người ngủ ngắn - Người có thể, người không Ở trên, tôi vừa đề cập tới việc nếu có thể sử dụng phương pháp trong cuốn sách này, phần lớn mọi người đều có thể trở thành người ngủ ngắn. "Phần lớn mọi người", tức là cũng có người "không thể trở thành" người ngủ ngắn. Thật sự đáng tiếc nhưng có khoảng 10% người Nhật khó lòng có thể trở thành người ngủ ngắn. Trên thế giới này, có người tự tin khẳng định phương pháp của mình là cách làm mà nếu thực hiện, "bất cứ ai cũng có thể trở thành người ngủ ngắn". Nhưng, với cương vị là một bác sĩ chuyên môn về giấc ngủ, tôi muốn gửi gắm tới các bạn rằng hoàn toàn không phải vậy. Người không thể trở thành người ngủ ngắn, họ thuộc tip người bị gọi là "người ngủ dài". Có ba kiểu ngủ của con người đó là "người ngủ ngắn", "người ngủ dài", "người ngủ biến thiên". Người ngủ ngắn là những người mà cho dù thời gian ngủ chưa đến 6 tiếng một ngày nhưng vẫn có thể hoạt động rất năng nổ. Tại Nhật có khoảng 5-8% dân số thuộc tip người ngủ ngắn này. Người ngủ dài là tên gọi để chỉ những người ngủ trên 10 tiếng một ngày. Tỉ lệ người Nhật thuộc kiểu người này là từ 3-9%. Khả năng để những người như vậy trở thành người ngủ ngắn là vô cùng thấp. Và loại cuối cùng chính là tip người thuộc kiểu người ngủ biến thiên. Họ nằm ở vị trí chính giữa giữa người ngủ ngắn và người ngủ dài, có thời gian ngủ từ khoảng 6 đến 10 tiếng. Có 80-90% trên tống số người Nhật thuộc tip người ngủ biến thiên như vậy. Người ngủ biến thiên có thể dễ dàng rút ngắn cũng như kéo dài thời gian ngủ. Họ có thể chuyển từ người ngủ ngắn sang người ngủ dài. Chính bởi thế họ được đặt cho cái tên "người ngủ biến thiên". Bạn có thể trở thành Người ngủ ngắn không? Cuốn sách này sẽ giới thiệu tới bạn phương pháp để người ngủ biến thiên trở thành người ngủ ngắn. Tuy nhiên, có ai còn đang băn khoăn liệu bản thân có phải tip người ngủ biến thiên hay không? Nếu buổi tối ngủ từ 6-10 tiếng, trong suốt cả một ngày, trừ khoảng thời gian từ 2-4 giờ chiều đều không cảm thấy buồn ngủ (việc buồn ngủ trong khoảng từ 2-4 giờ chiều là phản ứng tự nhiên của đồng hồ sinh học cơ thể), có thể làm việc và hoạt động mà không có vấn đề gì, vậy thì có khả năng cao bạn là người ngủ biến thiên. Ngoài ra, với những người mà "Cho dù có ngủ từ 6-10 tiếng nhưng vẫn không thể tỉnh táo, trong ngày thường xuyên bị cơn buồn ngủ hành hạ" hay "Nếu như không ngủ trên 10 tiếng, sẽ không thể tỉnh táo, không thể ngừng buồn ngủ", hãy xem bản thân có ứng với một mục nào đó trong danh sách các mục kiểm tra bên dưới hay không. Có thể bạn không phải là típ người ngủ dài, mà chỉ đơn giản là bị ảnh hưởng mạnh bởi chất lượng giấc ngủ thông thường mà thôi. DANH SÁCH KIỂM TRA BẠN CÓ THỂ TRỞ THÀNH NGƯỜI NGỦ NGẮN HAY KHÔNG Dù cho bạn là người không thể cảm thấy thỏa mãn nếu như không ngủ trên 10 tiếng, nhưng nếu bạn tương ứng với 1 số mục dưới đây, có khả năng cao nguyên nhân nằm ở yếu tố “chất lượng” giấc ngủ không tốt. Khó chìm vào giấc ngủ Buổi tối thường thức giấc nhiều lần Cảm giác giấc ngủ không được sâu Ngày nghỉ ngủ đến tận trưa Thời gian đi ngủ và thời gian thức giấc lộn xộn không theo quy định Trải qua cả 1 ngày trên giường hoặc trong phòng ngủ Tích tụ quá nhiều căng thẳng Ngủ gật từ 3h chiều trở đi Sau khi ăn tối hấp thụ cafein Ăn quá nhiều khi trời đã về khuya Trước khi đi ngủ xem máy tính, điện thoại hay TV Uống rượu trước khi đi ngủ Hút thuốc trước khi đi ngủ Cứ thế ngủ trong khi mặc quần áo ở nhà Tư thế khi đi ngủ và tư thế khi thức giấc là giống nhau Chẳng hạn như, một sinh viên của tôi, vốn dĩ anh ấy nghĩ rằng “Nếu như không ngủ nhiều thì không thể hồi phục sức khỏe”, nhưng thực ra anh ấy lại chính là một người ngủ ngắn. Trường hợp của anh ấy, vào buổi tối, sau khi chui vào trong chăn, tới hơn 1 tiếng sau anh ấy cũng không thể nào chợp mắt, rồi sau đó chẳng thể ngủ say. Vì lý do đó, cho dù có ngủ 10 tiếng cũng không cảm thấy hết mệt mỏi... Tình trạng đó đã kéo dài liên tục. Tuy nhiên, sau khi cải thiện thói quen liên quan đến giấc ngủ, dù cho có rút ngắn triệt để thời gian ngủ, sức khỏe của anh ấy lại trở nên tốt hơn, những mệt mỏi trong một ngày cũng dần thuyên giảm. Đây chắc chắn không phải là một ví dụ gì hiếm gặp cả. Trong số những người ngủ dài, nếu thử nhìn vào chất lượng giấc ngủ của họ, có không ít người cho dù chui vào chăn rồi đi nữa, tới một tiếng đồng hồ sau vẫn không thể chìm vào giấc ngủ, hay là sau khi đã ngủ rồi nhưng nửa đêm lại choàng tỉnh. Thậm chí, cũng có khả năng chỉ đơn giản là ngủ dài một cách lãng phí, thực chất họ lại chính là người có nhịp sống của một người ngủ ngắn. Với người không có biểu hiện nào tương ứng với các nội dung được liệt kê ở trên, đồng thời nếu như không ngủ trên 10 tiếng thì mọi hoạt động trong ngày sẽ bị ảnh hưởng, và tình trạng này đã diễn ra từ lâu, thì tôi rất tiếc, khả năng rất cao đó là người ngủ dài. Thậm chí, cũng có khả năng bị căn bệnh gì đó liên quan đến giấc ngủ nên hãy thử kiểm tra lại bản thân có tương ứng với mục nào ở phần "Căn bệnh đáng ngờ về giấc ngủ khi không thể cải thiện dù đã thực hiện những kỹ thuật trên?" (Nội dung cuối cùng trong Bước 2) hay không nhé. Mời các bạn đón đọc Ngủ Ít Vẫn Khỏe - 5 Tiếng Là Đủ Sao Phải Là 8? của tác giả Satoru Tsubota.
Bảy Quy Luật Tinh Thần Của Thành Công
Mặc dù cuốn sách này được đặt tên Bảy Quy luật Tinh thần của Thành công, nhưng nó cũng có thể được gọi là Bảy Quy luật Tinh thần của Cuộc sống, bởi đây đều là những quy luật mà tự nhiên dùng để tạo ra mọi thứ tồn tại ở dạng vật chất - những thứ chúng ta có thể nhìn thấy, nghe, ngửi, nếm và chạm được vào. Trong cuốn Tạo ra sự Giàu có: Ý thức về sự Giàu có trong Trường Mọi Khả năng của mình, tôi đã vạch ra những bước đi hướng tới ý thức về sự giàu có dựa trên sự hiểu biết đúng đắn về cách thức vận hành của tự nhiên. Cuốn Bảy Quy luật Tinh thần của Thành công làm nên điều cốt tủy của bài học này. Khi hiểu biết này hòa nhập vào ý thức của bạn, nó sẽ giúp bạn có khả năng tạo ra sự giàu có vô biên mà không cần quá nhiều cô gắng, và trải nghiệm thành công trong mọi nỗ lực của bạn. Thành công trong cuộc sống có thể định nghĩa là niềm hạnh phúc không ngừng được tăng lên và những mục tiêu đáng trọng không ngừng được thực hiện. Thành công là khả năng hiện thực hóa những khát vọng của bạn mà không cần quá nhiều cố gắng. Thế mà thành công, bao gồm việc tạo ra sự giàu có, vẫn luôn được coi là một quá trình đòi hỏi sự lao lực, và người ta hay cho rằng để có được thành công thì phải đánh đổi những thứ khác. Chúng ta cần phải có cách tiếp cận mang tính tinh thần hơn đối với thành công và sự giàu có, những thứ sẽ mang lại vô số điều tốt lành cho bạn. Khi đã hiểu biết về các quy luật tinh thần và thực hành nó, chúng ta tự đặt chính mình trong mối liên hệ hài hòa với tự nhiên và tạo ra sự giàu có bằng sự thảnh thơi, niềm vui và tình yêu. Thành công có rất nhiều khía cạnh; giàu có về vật chất chỉ là một trong số đó. Hơn nữa, thành công là cuộc hành trình, chứ không phải là điểm đến. Do vậy, dư dả về vật chất, dù biểu hiện dưới hình thức nào chăng nữa, cũng lại là một trong những yếu tố khiến cuộc hành trình đó trở nên thú vị hơn. Tuy nhiên, nói đến thành công còn có nghĩa sức khỏe tốt, sinh lực tràn đầy và lòng nhiệt tình đối với cuộc sống, hoàn thiện các mối quan hệ, tự do sáng tạo, sự ổn định về tình cảm và tâm lý, hạnh phúc và thanh thản trong tâm hồn. Thậm chí khi trải nghiệm tất cả những điều đó, chúng ta vẫn có cảm giác chưa thực sự thỏa mãn nếu chúng ta không nuôi dưỡng hạt giống của sự thần thánh bên trong chúng ta. Trên thực tế, chúng ta chính là thần thánh ngụy trang, và Chúa Trời phôi thai trong chúng ta đang đòi hỏi được hiện nguyên hình. Do vậy, thành công đích thực là sự trải nghiệm điều kỳ diệu. Đó là sự bộc lộ tính thần thánh bên trong chúng ta. Đó là khả năng nhận thức được sự thần thánh ở bất cứ nơi đâu chúng ta đến, trong bất cứ điều gì chúng ta lĩnh hội - trong đôi mắt của trẻ thơ, trong vẻ đẹp của bông hoa, trong cái chao lượn của cánh chim. Khi chúng ta bắt đầu trải nghiệm cuộc sống như là biểu hiện diệu kỳ của sự thần thánh - không phải thỉnh thoảng, mà là luôn luôn - thì chúng ta sẽ hiểu được ý nghĩa thực sự của thành công. Trước khi đi vào định nghĩa Bảy Quy luật Tinh thần, chúng ta hãy cùng tìm hiểu khái niệm quy luật. Quy luật là quá trình mà qua đó những điều không hiển lộ trở nên hiển lộ; là quá trình người quan sát trở thành cái được quan sát; là quá trình người ngắm cảnh trở thành cảnh vật; là quá trình mà qua đó người mơ mộng, hiện thực hóa giác mơ. Mọi tạo vật, mọi thứ tồn tại trong thế giới vật chất này đều là kết quả của quá trình cái không hiển lộ tự chuyển đổi thành hiển lộ. Mọi thứ chúng ta nhìn thấy đều đến từ những thứ ta chưa từng biết. Cơ thể vật chất của chúng ta, vũ trụ vật chất - bất cứ thứ gì và tất cả những gì mà chúng ta nhận biết được thông qua các giác quan - đều là sự chuyển đổi từ cái không hiển lộ, chưa biết và vô hình sang cái hiển lộ, đã biết và hữu hình. Vũ trụ vật chất chẳng khác gì cái Tôi uốn ngược trở lại ngay bên trong Bản thân nó để được trải nghiệm chính Bản thân nó dưới dạng tinh thần, tâm trí và vật chất. Nói cách khác, mọi quá trình sáng tạo đều là những quá trình mà thông qua đó Cái Tôi hay tính thần thánh tự bộc lộ Bản thân nó. Ý thức trong sự vận động tự bộc lộ chính nó như những khách thể của vũ trụ trong vũ điệu vĩnh hằng của sự sống. Nguồn cảm hứng cho mọi sáng tạo chính là cái thần thánh (hay tinh thần); quá trình sáng tạo là cái thần thánh trong vận động (hay tâm trí); và đối tượng sáng tạo là vũ trụ vật chất (bao gồm cơ thể con người). Cả ba yếu tố này của thực tại - tinh thần, tâm trí và cơ thể, hay người quan sát, quá trình quan sát và đối tượng được quan sát - về bản chất là một. Tất cả đều đến từ cùng một nơi: trường tiềm năng thuần khiết vốn thuần túy không hiển lộ. Những quy luật vật chất của vũ trụ thực ra là toàn bộ quá trình cái thần thánh trong vận động, hay ý thức trong vận động. Khi hiểu được những quy luật này và áp dụng chúng vào cuộc sống, chúng ta có thể tạo ra bất cứ thứ gì chúng ta muốn, bởi chính những quy luật mà tự nhiên dùng để tạo ra cánh rừng, dải ngân hà, ngôi sao hay cơ thể con người cũng có thể giúp chúng ta thực hiện được những khát khao sâu kín nhất của mình. Vậy thì hãy cùng đến với Bảy Quy luật Tinh thần của Thành công để xem chúng ta có thể vận dụng chúng vào cuộc sống như thế nào.  *** Deepak Chopra sinh ngày 22 tháng Mười năm 1946 tại thủ đô New Delhi, Ấn Độ. Sau khi tốt nghiệp Viện Khoa học Y khoa Toàn quốc Ấn Độ năm 1969, Chopra di cư sang Mỹ năm 1970, làm bác sĩ thực tập nội trú tại bệnh viện ở New Jersey, rồi thực tập nhiều năm tại phòng khám Lahey Clinic, thị trấn Burlington, bang Massachusetrs và Bệnh viện của Đại học Virginia. Ông được công nhận rộng rãi trong y học nội khoa và khoa nội tiết. Chopra từng giảng dạy tại Đại học Tufts và Đại học Boston chuyên khoa Y, trở thành Viện trưởng Viện New England Memorial và thành lập một phòng khám tư lớn. Năm 1981, ông trở thành người tiên phong trong phong trào Thiền Thăng hoa (Transcendental Meditation), nhưng sau đó ông tách khỏi phong trào để theo đuổi những mục tiêu lớn hơn trong điều trị tâm-thể. Năm 1993, ông trở thành giám đốc điều hành Trung tâm Y khoa Tâm-Thể và Tiềm năng Con người tại San Diego. Năm 1996, Chopra cùng bác sĩ David Simon đồng sáng lập Trung tâm Chopra tại La Jolla. Năm 2002, Trung tâm Chopra chuyển trụ sở chính tới Khu nghỉ dưỡng La Costa tại Carlsbad, California, ông hiện giữ vai trò lãnh đạo trong Liên minh vì Nhân loại Mới. Bên cạnh đó, Chopra cũng là nhà văn chuyên viết về tâm linh và y khoa tâm-thể. Chopra cho biết, ông chịu ảnh hưởng từ giáo huấn của trường phái triết học Vedanta, văn bản cổ Bhagavad Cita viết bằng tiếng Phạn gồm 700 câu nằm trong bộ trường ca Mahabharata, từ Jiddu Krishnamurti, triết gia Ấn Độ, tác giả nhiều cuốn sách nổi tiếng về triết học và tâm linh, cũng như từ lý thuyết vật lý trường lượng tử. Năm 2004, Chopra được mời viết chung kịch bản với đạo diễn Shekhar Kapur cho một bộ phim về cuộc đời của Đức Phật Tất Đạt Đa cổ Đàm. Năm 2006, Chopra cùng con trai là Gotham Chopra và doanh nhân nổi tiếng Richard Branson mở công ty Virgin Comics LLC với mục đích quảng bá văn hóa Nam Á thông qua truyện tranh. Cũng trong năm đó, Deepak cùng Mike ‘Zappy’ Zapolin và Alys Yablon viết cuốn Ask the Kabala, một bộ gồm 22 thẻ, mỗi thẻ tượng trưng cho một câu chuyện hay nhân vật trong Kinh Cựu ước và một bài học cuộc sống dựa trên câu chuyện ấy xét từ góc độ huyền học Do thái giáo. Ông là tác giả những cuốn sách rất bán chạy như Quantum Healing (tạm dịch: Chữa bệnh bằng lượng tử), Ageless Body (tạm dịch: Cơ thể không già), Timeless Mind (tạm dịch: Tâm trí phi thời gian) và Creating Affluence (tạm dịch: Tạo lập sự giàu có); cũng như hơn 41 đầu sách và 100 chương trình ghi âm, thu hình và đìa CD-ROM nhằm nâng cao sức khỏe và hạnh phúc con người. Tác phẩm của ông đã được dịch ra hơn năm mươi ngôn ngữ, bản thân ông đi thỉnh giảng khắp nơi ở Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Ân Độ, châu Âu, Nhật Bản và Úc. Deepak Chopra được tạp chí Time bình chọn là một trong một trăm nhân vật của thế kỷ hai mươi.   Mời các bạn đón đọc Bảy Quy Luật Tinh Thần Của Thành Công của tác giả Deepak Chopra.