Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cáp Treo Tình Yêu

Tác phẩm mới nhất đến từ nhà văn trinh thám hàng đầu Nhật Bản Keigo Higashino. Trong tuần đầu tiên xuất bản (01/11/2016), Cáp treo tình yêu đã nắm giữ vị trí đầu trong bảng doanh số hàng tuần. Và tiếp tục ở trong top 10 nhiều tuần sau đó. Một nữ nhân viên văn phòng bị hôn phu phản bội... Một chàng trai ôm mộng tìm được tình yêu đích thực sau năm lần bảy lượt thất bại tình trường... Một cô gái trẻ gặp phải gã đàn ông dối trá... Một cặp đôi mới cưới vướng vào rắc rối với bố mẹ vợ... Mỗi người họ đều ôm trong lòng nỗi phiền muộn riêng. Những cuộc đời tưởng chừng như không có điểm giao thoa ấy lại được gắn kết với nhau tại một khu trượt tuyết lạ kỳ, nơi có khả năng phơi bày sự thật và những điều thầm kín dù chúng ta có được con người ta che đậy kỹ càng tới đâu. Vậy, sự thật liệu có luôn là điều mà con người ta muốn biết? Đứng trước tình yêu, con người sẽ trở nên thảm hại, ích kỷ, hoặc nhiều dũng khí đến thế nào? Những tình tiết bất ngờ trong Cáp treo tình yêu sẽ khiến bạn phải bật cười và tự hỏi điều gì tiếp theo có thể xảy ra. --- Một số thành tích nổi bật: - Đứng đầu bảng xếp hạng tổng doanh số của các nhà sách Kinokuniya - Đứng đầu bảng xếp hạng tổng doanh số theo tuần của Nippan tháng 2 năm 2018, tác phẩm được mua bản quyền và xuất bản sang tiếng Hàn. Lập tức lọt top những tác phẩm bán chạy nhất Hàn Quốc. Cùng trong top 10 đó là tác phẩm “Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya” . - Được mua bản quyền dịch bởi Trung Quốc đại lục, Đài Loan và Hàn Quốc. *** Cáp treo tình yêu (Koi no gondora) cuốn tiểu thuyết như một thử nghiệm mới mẻ của Higashino Keigo trên mọi phương diện từ chủ đề, đề tài, kết cấu tác phẩm, xây dựng nhân vật, trong bối cảnh tên tuổi ông  đã quá nổi danh, đồng thời những đỉnh cao trong sự nghiệp của Keigo-sensei, phần lớn đã tập trung trong những năm cuối 9x, đầu 2000. Những thể nghiệm mới của Higashino Keigo ở cuốn sách xuất bản năm 2016. Trước hết, cần phải nói rằng, Koi no gondora – Cáp treo tình yêu, đúng như tựa đề, cuốn sách chỉ là những mẩu chuyện tình yêu đầy màu sắc, muôn hình muôn vẻ: hạnh phúc, trọn vẹn, viên mãn có; đau đớn, khổ đau, nghiệt ngã cũng có. Nhưng tuyệt nhiên, tác phẩm ấy không dính dáng chút gì đến thể loại trinh thám, điều tra, phá án. Vì thế, nếu bạn kiếm tìm ở Cáp treo tình yêu một câu chuyện chứa những cú twist liên tục, khiến bạn đi từ hết bất ngờ này tới bất ngờ khác như Phía sau nghi can X, Ác ý; hay một câu chuyện tạo nên bầu không khí đặc quánh đêm đen như Bạch dạ hành hay chứa đựng day dứt ám ảnh như Thư; hoặc ẩn chứa vấn đề vĩ mô như Thánh giá rỗng, Phương trình hạ chí… thì chắc chắn một điều, bạn sẽ phải thất vọng. Nói như thế để thấy, tiếp cận Cáp treo tình yêu, độc giả trước tiên cần giữ một thái độ không mang định kiến, trung lập hết sức và hãy tạm thời quên đi, cái danh mà trước nay vẫn thường gán cho Keigo tiên sinh: “tác giả viết truyện trinh thám”. Để thấy rằng, ở sáng tác này, Higashino Keigo đã có những thể nghiệm để làm mới bản thân trên hầu khắp mọi khía cạnh: từ chủ đề, đề tài đến cách thể hiện chủ đề, đề tài đó, cách tạo dựng nhân vật tới cách đặt điểm nhìn trần thuật của tác phẩm. Về đề tài, thật sự, rất hiếm thấy hay có thể nói là gần như không có một tác phẩm của Keigo-sensei lại chỉ gói gọn trong đề tài tình yêu như Koi no gondora. Đó là những câu chuyện tình yêu cá nhân hết sức vụn vặt, nhỏ nhặt gắn liền với một khu trượt tuyết: vùng núi suối nước nóng Satozawa; gắn liền với những chiếc cáp treo chuyên chở tình cảm, và cũng chở cả bao bí mật của những người đang yêu. Đó có thể là câu chuyện về tình cảm gia đình gắn liền với niềm yêu thích một bộ môn thể thao. Đó có thể là sự đơn phương của một chàng trai tốt bụng nhưng lại như luôn vô duyên với phụ nữ. Đó có thể là những phản bôi, tan vỡ, tái hợp của một cặp đôi khi người đàn ông đã từng phản bội người phụ nữ. Hay đó cũng có thể là sự tác hợp của bạn bè đến với cặp đôi khác, vẫn dùng dằng chưa quyết… Vẫn với kết cấu quen thuộc trong sáng tác của Higashino Keigo: kết cấu truyện lồng truyện, tạo cho tác phẩm một cấu trúc vòng cung, trùng điệp, đầu cuối tương ứng: hình ảnh cáp treo xuyên suốt tác phẩm, mở ra không gian sáng tác và cũng khép lại những câu chuyện nhỏ vụn vặt. Nhưng ở Cáp treo tình yêu, độc giả thấy được một Higashino Keigo, đang trên đường đổi mới chính mình. Ở đây, tác giả đã cố gắng tập trung vào một đề tài thường nhật hết mực. Không gian truyện gần như gói gọn ở một địa điểm; thời gian truyện, dẫu có nhắc tới quá khứ cũng là một quá khứ gần của nhân vật chứ không kéo dài quá xa. Nên có thể nói, chí ít, Cáp treo tình yêu vừa mang tới những cảm xúc khác nhau qua từng chương, từng câu chuyện của một nhân vật; song cũng vừa mang tới nét lạ lẫm về một Higashino Keigo đã gần gũi, đời thường trong một áng văn nhẹ dịu, ít bất ngờ đến thế. Chính vì đề tài, cách triển khai cốt truyện như vậy mà hệ thống nhân vật trong Cáp treo tình yêu cũng được thu hẹp lại. Và ở đó, đều là những cá nhân hết sức đời thường. Họ không gắn với bất kỳ một vụ án nào, họ chẳng phải nghi can, chẳng phải hung thủ hay nạn nhân của một án mạng nào đấy cần phải tìm lời giải đáp. Họ sống một cuộc sống đời thực, yêu ghét, hận thù, đơn phương, tin tưởng, hi vọng rồi thất vọng. Vì thế, mỗi cá nhân, mỗi con người xuất hiện trên trang văn của Higashino Keigo trong Cáp treo tình yêu, như trở nên gần gũi, đời thực hơn. Bởi một sự thật, con người chúng ta, trong nhịp chảy đời sống thường nhật, đâu dễ dàng để liên đới trực tiếp tới một vụ án mạng nào đấy. Cho nên, với truyện vụ án, ta có thể đồng cảm với nhân vật, cuốn hút theo hành trình truy tìm sự thật của một vụ án song lại rất khó để đặt bản thân vào vị trí một người trong cuộc. Nhưng ở Cáp treo tình yêu thì khác. Người đọc có thể rất dễ nhìn thấy bóng hình người cũ phụ bạc trong hình ảnh Kota, một người đàn ông “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo” trong hình ảnh Mizuki, một anh chàng ngờ nghệch trên mọi phương diện tình trường như Hida… Vì vậy, có thể không có một nhân vật đặc biệt nổi trội hẳn lên như các tác phẩm trước đấy, nhưng với Cáp treo tình yêu, Higashino Keigo đã ngày càng tiệm cận trong việc đi gần hơn tới đời sống cùng muôn mặt con người. Đổi mới không có nghĩa là hoàn toàn thành công. Thông thường, khi độc giả đã quá quen với phong cách sáng tác của một tác giả, hoặc khi mặc nhiên gắn tên tuổi tác giả đó với một thể loại riêng biệt, thì sẽ rất khó để dễ dàng tiếp nhận một tác phẩm mới, trái ngược hoàn toàn với phong cách trước giờ của con người ấy. Và chính bản thân tác giả đó, trong lần thử nghiệm đầu tiên, cũng chẳng thể đảm bảo sẽ tạo ra một tác phẩm hoàn thiện, thành công trên mọi phương diện. Trường hợp của Koi no gondora – Cáp treo tình yêu cũng như vậy. Để rồi, chúng ta – những độc giả khi đã giữ thái độ trung dung nhất đón đọc cuốn sách sẽ đủ khoan dung mà không phủ nhận sạch trơn mọi cố gắng, nỗ lực của Keigo-sensei trong việc đổi mới bản thân; song cũng vẫn đủ tỉnh táo để nhận ra những thiếu sót ở tác phẩm gần 300 này. Một điều dễ nhận thấy, Cáp treo tình yêu, dẫu đã kéo đề tài về gần với đời sống cùng tâm lý thực của con người nhất, thì đây vẫn như một dạng bình mới rượu cũ trong kho tàng sáng tác đồ sộ mang tên Higashino Keigo. Nói như thế không có nghĩa mâu thuẫn với những gì đã viết ở phía trên; bởi dẫu đã cố gắng đổi mới thì một cây viết gạo cội như Keigo-sensei hẳn từ lâu đã hình thành một phong cách sáng tác cố định cũng như một lối mòn ở tư duy nghệ thuật. Chính vì thế, ở Cáp treo tình yêu dù đề tài, không gian tác phẩm được thu hẹp lại thì vẫn có nét tương đồng rất lớn với những sáng tác khác của Higashino Keigo, đặc biệt là Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya. Vẫn là kết cấu: mỗi chương là một câu chuyện riêng biệt song mọi liên hệ cuối cùng lại quy về một địa điểm như mối cơ duyên tiền định của tạo hóa. Tuy nhiên, Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya sử dụng cách trần thuật như vậy và thành công, bởi Keigo-sensei đã xây dựng lên đủ muôn mặt kiếp người với những số phận khác nhau, trong những chiều không gian, thời gian khác nhau mà hình ảnh tiệm tạp hóa Namiya hiện lên chỉ mang ý nghĩa một địa điểm trung chuyển hiện tại – quá khứ – tương lai. Còn với trường hợp của Cáp treo tình yêu, Keigo-sensei sử dụng cách kể như thế với đề tài, không gian hẹp vô hình chung khiên cốt truyện bị xé nhỏ. Thêm việc tác giả vẫn giữ lối viết vừa muốn đi sâu vào đời sống nội tâm nhân vật, vừa muốn tạo khoảng trắng bất ngờ để độc giả liên tưởng lại càng làm cho tình tiết truyện tủn mủn, nát vụn. Đặc biệt, nếu chỉ viết riêng về tình yêu, không mở rộng đề tài, không gắn liền cốt truyện với một vụ án nào đấy; quả thực, bút lực của Higashino Keigo có phần khá yếu. Người đọc vẫn thấy trên trang sách những chi tiết mang đậm đặc trưng cảnh sắc, văn hóa, con người Nhật Bản. Song tình tiết truyện lại có phần nghèo nàn, cách triển khai tâm lý, tình cảm nhân vật có phần non nớt, muốn đào sâu vào nội tâm con người mà chẳng thể đi được tới tận đáy sâu những xúc cảm của một cô gái đang yêu, một anh chàng cục mịch nhút nhát, một anh chàng đào hoa hay xúc cảm một người phụ nữ bị phụ bạc… Có lẽ, đây chính là tác phẩm dễ khiến độc giả cảm thấy thất vọng nhất về cách Higashino Keigo khai thác, miêu tả tâm lý nhân vật. *** Sau khi trượt tuyết được một hiệp, Kota quay trở lại trạm lên cáp treo. Ở đây, người ta đang xếp thành một hàng dài, hơn cả những gì anh tưởng tượng. Vừa tháo đai trượt tuyết khỏi giày, Kota vừa tặc lưỡi. “Sao mà đột nhiên đông người thế không biết?” “Không phải bây giờ là lúc xe buýt chở khách du lịch đi theo đoàn đến sao?” Momomi đã tháo xong giày và đang ngồi trên tuyết. Cô ôm ván trượt, từ từ đứng dậy. Cô mặc một chiếc áo jacket kẻ trắng, hồng kết hợp cùng quần màu xanh lá cây. Theo như lời Momomi thì bộ quần áo này gợi cho ta liên tưởng tới một cây đào. “À, cũng có thể. Chẹp, đen quá. Đúng lúc anh lại đang có hứng.” “Anh vội gì chứ? Em thấy có sao đâu nhỉ. Ta cứ thong thả mà trượt thôi.” Kể ra thì Momomi nói cũng đúng. Bởi vì mục đích chuyến du lịch lần này của Kota không phải là việc tận hưởng những cú bay người tuyệt đẹp trên tuyết bột hay cú rẽ cắt ngang bề mặt lớp tuyết phủ dày bằng mép ván, mà quan trọng nhất vẫn là việc được trải qua quãng thời gian vui vẻ cùng với Momomi. “Anh có vội gì đâu. Nhưng anh không nghĩ Momomi lại trượt giỏi đến thế này nên anh đang thấy rất phấn khích.” “Ôi, cũng bình thường thôi mà. Anh Kota mới siêu ấy. Ban nãy, anh vừa trượt xoay ngược ván phải không? Cả xoay ván một trăm tám mươi độ nữa.” Kota phổng mũi vì những lời khen ngợi của Momomi. Hình như Momomi đã rất chăm chú dõi theo màn biểu diễn trổ tài kỹ thuật trượt ván của anh. “Mấy thứ đó có là gì đâu em.” “Ôi, vậy ư? Em thì lại nghĩ nó điêu luyện tới mức người thường không thể làm được đâu.” “Em cứ nói quá. Ai mà chẳng làm được. Ngay cả Momomi, chỉ cần luyện tập một chút cũng sẽ trượt được ngay thôi.” “Có thật thế không?” “Anh đã nói được là được. Lần tới, Momomi thử sức xem sao.” “Ối, em không làm được đâu.” “Không làm được là thế nào? Em nên biết thách thức bản thân mình. Ta sẽ không nghỉ cho tới khi thực hiện được nó.” “Ôi, chiến binh quả cảm!” Momomi nói với vẻ thích thú. Đương nhiên, Kota cũng thấy thú vị không kém. Hai người họ cùng ôm ván trượt và đứng xếp vào cuối hàng. Ngay lập tức, có một nhóm những cô gái từ đâu đến đứng nối ngay sau Kota và Momomi. Đám người đó khá là ồn ào nhưng nó khiến cho bầu không khí xung quanh trở nên sôi nổi hơn. Nghe nói hằng năm số lượng khách tới trượt tuyết ngày càng giảm đi, vậy mà riêng hôm nay có vẻ khu trượt tuyết lại náo nhiệt hơn thường lệ. Mặc dù khách đứng xếp hàng rất đông, nhưng mọi người vẫn tiến về phía trước, từng chút một. “Dù sao thì chúng ta cũng đã thật may mắn vì điều kiện khá thuận lợi.” Momomi nói. Kota nhìn thấy được nụ cười dịu nhẹ của Momomi hiện ra giữa kính trượt tuyết và lớp khăn quàng cổ giữ ấm rất dày. “Đúng thế nhỉ. Anh không nghĩ tuyết lại đẹp đến vậy. Thật tốt biết bao khi điều mà dự báo thời tiết nói đã không xảy ra, tại vì anh đã nghe người ta bảo là có thể có cả mưa nữa.” “Trời mưa sẽ chán lắm anh nhỉ?” “Thế thì thật khủng khiếp. Gì chứ đừng có mưa vì lần này, từ đầu đến chân anh toàn đồ mới hết.” “A, đúng rồi.” “Thực sự chúng ta quá may mắn.” Kota mặc chiếc áo jacket màu xanh thẫm và chiếc quần màu xám. Nói thật thì anh đã mua chúng để dành riêng cho ngày hôm nay, buổi hẹn hò trượt tuyết lần đầu tiên với Momomi. À, đâu chỉ có thế. Cả ván trượt, giày trượt, thậm chí đến cả chiếc mũ len màu vàng, anh cũng mua nó vì hôm nay. Dòng người vẫn chậm rãi tiến về phía trước. Cuối cùng họ cũng tới được chỗ có mấy bậc thang. Mọi người vừa phải để ý chân nhau, vừa tiến lên từng bậc. “Anh này, ở đây có tiệm mì tantanmen1 rất nổi tiếng phải không?” Momomi nói. “Chuẩn đó em. Có cả rau Nozawana2 trong bát mì nữa. Ngon khỏi phải nói. Lần nào anh cũng phải ăn một bát đó.” “Vậy ư? Em muốn ăn thử!” “OK. Vậy trưa nay chúng ta ăn ở đó nhé. Tiệm mì nằm ngay phía dưới của khu nghỉ dưỡng trượt tuyết Hinata.” “Anh giỏi quá. Anh Kota chắc rành về khu trượt tuyết này lắm nhỉ?” “Thì bởi vì năm nào anh cũng tới đây mà.” “Anh giỏi ghê!” Momomi nhắc lại thêm một lần nữa. “Tuyệt vời thật.” Kota nhâm nhi niềm sung sướng vì anh được tới đây để trượt tuyết - sở thích lớn nhất của mình, và được tận hưởng giây phút cùng với cô gái mình yêu trong không gian chỉ có hai người. Kể từ hôm nay, anh và Momomi sẽ ở bên nhau suốt hai ngày liền. Nơi nghỉ ngơi là một khách sạn nằm ngay cạnh khu trượt tuyết. Không biết mình và Momomi sẽ cùng nhau trải qua một đêm nồng cháy như thế nào đây? Trí tưởng tượng của Kota cứ bung nở không giới hạn. Chỉ có điều, nếu cứ thổi phồng lên những ý nghĩ đó thì chẳng còn gì là cái thú khi đi trượt tuyết nữa, thành thử Kota sẽ cố kìm nó lại. Cuối cùng, bọn họ cũng leo lên hết các bậc thang. Kota với tay ra lấy hai chiếc túi đựng ván trượt đã được để sẵn trong giỏ, một chiếc anh đưa cho Momomi và giúp cô cho chiếc ván vào túi đựng vì Momomi đang phải vất vả với nó. Mỗi lần leo lên cáp treo ở bất kỳ khu trượt tuyết nào, Kota vẫn luôn trăn trở rằng tại sao mấy chiếc túi đựng ván trượt lại khó dùng đến thế? Rằng người ta chẳng thể cải tiến để nó tốt hơn lên hay sao? Họ sắp đến được gần trạm lên cáp treo. “Xin lỗi, đề nghị quý khách ngồi ghép với các đoàn khác.” Cô nhân viên với tông giọng cao vút thông báo. Đó là tình huống chẳng mấy thú vị đối với Kota, người đang nung nấu ý định sẽ được ngồi riêng với Momomi trong một cabin cáp treo. Nhưng hành khách đông đến mức này thì anh cũng chẳng thể buông được lời phàn nàn nào cả, bởi vì cabin cáp treo ở đây thuộc loại to, chứa được tối đa mười hai người. Đã tới lượt của Kota và Momomi. Chiếc cabin trống từ từ tiến lại gần. Anh để Momomi lên trước rồi mới leo lên sau. Kota chọn vị trí đối diện với Momomi đang ngồi ở góc trong cùng. Và đương nhiên là nhóm những người họ không quen biết cũng lần lượt leo lên theo sau. Họ là một nhóm gồm bốn người phụ nữ, mặc dù vẫn chưa ổn định được chỗ ngồi nhưng đã bắt đầu mở miệng nói về những chuyện gì đó mà Kota chẳng thể hiểu nổi. Từ lúc đứng xếp hàng để đợi lên cáp treo, đám người đó đã nói liên hồi. Vẫn biết đây là chuyện ngoài ý muốn và vì thời gian ngồi trong cabin cũng chỉ hơn chục phút nên Kota chỉ còn cách bấm bụng chịu đựng cho qua. Cửa cabin đóng lại, cáp treo dần dần tăng tốc. Nhìn ra bên ngoài, Kota thấy quang cảnh trước mắt là một vùng tuyết trắng trải rộng mênh mông. Những vị khách tới đây để trượt tuyết, trượt ván được bao bọc bởi lớp quần áo dày, nhiều màu sắc. Khắp mọi nơi, tất cả bọn họ đều đang trình diễn những cú trượt ngập tràn cảm xúc tự do và ngẫu hứng. ”Chà, tớ thấy phấn khích quá, cũng lâu lắm rồi chứ ít đâu.” Một trong số bốn người phụ nữ hào hứng lên tiếng. Đó là người phụ nữ ngồi ngay cạnh bên trái Kota. “Chắc từ hồi sinh viên tới giờ tớ không trượt ván rồi. Ừm... cũng phải bảy năm rồi ấy.” “Erika, cậu biết trượt ván cơ à? Tớ thì hoàn toàn không có chút tự tin nào hết ấy.” Người mặc chiếc áo khoác màu xanh lá cây, ngồi phía đối diện chếch bên tay trái của Kota lên tiếng. Hình như người ngồi bên cạnh Kota tên là Erika. “Kiểu gì chẳng trượt được. Với lại bảy năm trước, nói thẳng ra thì lúc đó chẳng ai biết cậu có biết trượt ván hay không, nên kể cả bây giờ cậu có trượt kém hơn ngày ấy đi chăng nữa thì tớ nghĩ vẫn được gọi là biết trượt thôi.” Dứt lời, người phụ nữ ấy cười phá lên. Kota lẩm nhẩm tính trong đầu. Bảy năm rồi mới trượt kể từ thời sinh viên ư? Vậy lần cuối người này đi trượt tuyết hồi còn là sinh viên năm thứ mấy? Nếu là sinh viên năm nhất thì bây giờ người này hai mươi lăm tuổi. Không, với cách nói chuyện và thần thái thế này thì không thể có chuyện đó được, Kota đoán. Vậy nếu lần cuối trượt tuyết là thời điểm trước khi tốt nghiệp, tức là hồi hai mươi hai tuổi thì bây giờ người này hai mươi chín. Phải, chắc khoảng tầm đó thì chính xác hơn, Kota tự đưa ra câu trả lời của mình. “Vốn dĩ việc bốn người chúng ta cùng nhau đi du lịch như thế này cũng là cơ hội hiếm thấy mà.” Một người phụ nữ khác nói với giọng trầm tĩnh hơn. Từ hướng giọng nói phát ra, Kota đoán người này ngồi cách anh hai ghế. “Xin lỗi vì bắt các cậu phải cất công tới tận đây.” “Ơ hay, tại sao cậu lại phải xin lỗi? Nói thật thì tớ thấy chuyến đi này cực kỳ thú vị mà.” Người phụ nữ ban nãy ngồi cạnh Kota, người được gọi bằng cái tên Erika lên tiếng. “Phải đấy. Lâu lắm rồi chúng ta mới được đi chơi cùng nhau như thế này, cho nên Chiharu cũng phải tận hưởng đi.” Người mặc áo khoác xanh nói. Hình như người ngồi cách Kota hai ghế tên là Chiharu. “Nhưng mà thời tiết không lạnh như chúng ta đã nghĩ nhỉ? Tớ tưởng còn phải lạnh hơn ấy chứ.” Erika nói. “Ừ. Có khi chỉ nên mặc ba lớp áo trong thôi thì vừa.” Bất giác, Kota hướng mắt nhìn về phía người phụ nữ mặc áo khoác xanh. Mặc ba lớp thì vừa ư? Vậy lúc này cô ta đang mặc mấy lớp nhỉ? Chính là lúc đó. Người phụ nữ còn lại đang ngồi cạnh người mặc áo khoác xanh, im lặng mãi từ đầu cho đến tận lúc này mới lên tiếng: “Hình như tớ cũng mặc nhiều quá. Bộ quần áo trượt tuyết này ấm hơn tớ nghĩ.” Nói rồi, người đó nắm lấy tay chiếc áo khoác màu đỏ mình đang mặc. Kota thấy bất ngờ trước giọng nói ấy. Là bởi vì nó cực kỳ giống với giọng nói của một người mà anh biết rất rõ. Anh liếc nhìn sang ngang. Kính và khẩu trang che kín khiến Kota không thể nhận ra khuôn mặt đó là ai. “Cậu đã nói mua bộ quần áo này vì chuyến đi nhỉ?” Erika chỉ tay về phía người phụ nữ mặc áo đỏ. “Đúng thế. Tại bộ trước của tớ dùng cũng khá lâu rồi. Đúng lúc tớ cũng đang muốn mua một bộ mới.” Quả nhiên là giống. Ngữ điệu nói cũng giống y chang. Một dự cảm không mấy vui vẻ bỗng dâng lên trong lồng ngực của Kota. Nhìn vào ván trượt tuyết, Kota đoán hình như nó là đồ đi thuê. “Cậu đã mua cả bộ đấy à?” Người có tên Chiharu hỏi. “Tớ mua bộ quần áo và găng tay. Nhưng mà đúng ra nên mua thêm cả kính nữa. Kính này mau bị mờ lắm.” Dứt lời, người mặc áo đỏ đưa tay gỡ cặp kính. Chiếc khẩu trang trượt xuống trong sự hồi hộp của Kota, rồi gương mặt ấy dần hé lộ. Tim của Kota suýt chút nữa thì bắn ra ngoài. Người mặc bộ đồ trượt tuyết màu đỏ là Miyuki. Và Miyuki lại chính là người hiện đang chung sống với Kota. Mời các bạn đón đọc Cáp Treo Tình Yêu của tác giả Higashino Keigo & Nguyễn Hải Hà (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mặt Trái Thần Tượng
Ấn phẩm "Mặt trái của thần tượng" của tác giả John O'hara, sách do dịch giả Phan Thị Thanh chuyển sang Việt ngữ, được nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 1974. Ấn bản đang lưu giữ tại Quán Sách Mùa Thu có tình trạng rất đẹp, sách nguyên bìa gáy, ruột đẹp, lõi sách chắc chắn. Sách dày 84 trang. Nhìn chung, tác phẩm" Mặt trái của Thần Tượng'' là một thành công. Đó là câu chuyện tình tay ba giữa Charley, Mildred và Hubert. O'Hara đã sắp xếp rất khéo léo, nhất là hình ảnh một Charley giàu sang, cả thế giới biết danh, nhưng buồn nản thay, chính lúc thế giới đang đón tiếp ông, lại là lúc ông ra đi vĩnh viễn. Con người và cuộc đười của Hubert với những thay đổi, thăng trầm, cũng đã làm say mê độc giả không ít.  Người ta có thể thắc mắc về những nhân vật trong truyện: họ có thật ngoài đời không? Qủa là có, họ là hình ảnh trung thực của những người làm nghệ thuật chuyên nghiệp. O'Hara Ward để vạch trần những xấu xa của con người, để gửi gắm tâm sự của ông thời niên thiếu. Ông dùng một Martin Ruskin làm tiêu biểu cho sự xảo nguyệt của con người. Và nhân vật Charley được dựng lên để bộc lộ những lo âu, trắc ẩn, phập phồng dưới lớp vỏ giàu sang, phú quí bên ngoài. Trong" mặt trái của thần tượng O'Hara đã vạch trần những  tranh giành quyền lực, địa vị, những áp lực kinh tế, cùng sự phân chia giai cấp và lối sống đã khiến Holly wood tách rời và khác hẳn với những người khác. Ông cũng đã phân tách và tỏ ra thông cảm với nổi cô đơn, nhất là sự trống vắng về tình cảm mà những nghệ sĩ phải gánh chịu.  *** Người đời có thể biết lúc nào là lúc chúng ta đang cố gắng để biến đổi ta thành một con người khác. Sự biết trước này sẽ giúp ngăn chặn một số người chân chánh đang đi dần vào chỗ xấu xa ; nhưng đồng thời lại không thể lôi kéo những kẻ bất chánh trở nên lương thiện. Phải chờ đến lúc bốn mươi tuổi, mới biết được ta thuộc loại người nào, và sở dĩ ta biết được là nhờ ở nhận xét của những người chung quanh – của những người trong gia đình, bạn bè, kẻ thù và ngay cả những người chưa tiện quen biết. Đồng ý là họ có thể lầm lẫn khi nhận xét về ta, nhưng đó là ý kiến riêng của họ và là nhận xét cuối cùng khó thay đổi, vì họ không đủ kiên nhẫn để phán xét dựa trên những sự thật. Nhưng nếu ta là họ để nhận xét một cá nhân khác, ta cũng sẽ có những nhận xét hoàn toàn tuyệt đối và thiếu kiên nhẫn giống như họ vậy. Mời các bạn đón đọc Mặt Trái Thần Tượng của tác giả John O'Hara & Phan Thị Thanh (dịch).
Cánh Hoa Rực Lửa
Cánh Hoa Rực Lửa, nguyên tác THE INN OF THE SIXTH HAPPINESS của Alan Burgess, bản dịch của NGUYỄN NHƯỢC NGHIỄM, bìa NGUYỄN ĐỒNG, ấn phẩm thứ 43 của nhà xuất bản Trẻ, ấn hành lần thư nhứt 1000 bản tại nhà in riêng của nhà xuất bản, không có bản đặc biệt. Vào những năm 1930 hỗn loạn, cô hầu bàn người Anh Gladys Aylward theo ơn gọi của Thiên Chúa đã mưu cầu đến Trung Hoa để truyền giáo. Vượt qua khó khăn về tài chánh cùng những rối ren thời cuộc lúc bấy giờ, không màng đến hiểm nguy, cô đã đến một vùng đất hẻo lánh, nghèo nàn lạc hậu tại miền Hoa Bắc. Cùng với bà Jeannie Lawson - một nhà truyền giáo kỳ cựu - họ bèn mở một khách điếm tên Lục Phúc. Khách điếm ngoài mục đích dùng làm nơi tá túc cho tha nhân thì còn là nơi chốn để họ rao tin mừng cho mọi người sau bữa ăn chiều. Dần dà, với một đức tin mãnh liệt, cùng tấm lòng chân ái và nghị lực phi thường, Gladys đã được tất cả dân bản xứ đều hết lòng tin yêu. Đồng thời cũng nẩy sinh một mối tình giữa cô và Lân – một sĩ quan Hán lai Hà Lan rất lạnh lùng. Khi chiến tranh Trung-Nhật bùng nổ, cũng là lúc Gladys nhận ra đâu là mối phúc hạnh thứ sáu để cô phải hoàn thành một sứ mệnh vô cùng cam go mà Chúa ban. *** Alan Burgess (1 tháng 2 năm 1915 – 10 tháng 4 năm 1998) là một phi công và tác giả của Lực lượng Không quân Hoàng gia Anh , người đã viết một số cuốn sách tiểu sử và phi hư cấu giữa những năm 1950 và 1970. Ông đã viết tiểu sử của Gladys Aylward, và Flora Sandes, và đồng viết cuốn tự truyện của Ingrid Bergman . [3] Bergman đóng vai Gladys Aylward trong phim The Inn of the Sixth Happiness dựa trên tiểu sử của Burgess. Alan Burgess từng phục vụ trong Lực lượng Không quân Hoàng gia trong Thế chiến thứ hai, Burgess tiếp tục viết Đường hầm dài nhất: Câu chuyện có thật về cuộc đào tẩu vĩ đại trong Thế chiến thứ hai, câu chuyện về " Cuộc đào thoát vĩ đại ". Mời các bạn đón đọc Cánh Hoa Rực Lửa của tác giả Alan Burgess & Nguyễn Nhược Nghiêm (dịch).
Những Tham Vọng Sụp Đổ
Không có gì khiến cho Pietro Monatti gớm ghiếc bằng một thái độ sống bị chi phối bởi những tính toán cùng những động lực độc đoán của lòng vị kỷ. Chàng căm ghét những biểu hiện thường tình của tính ích kỷ, đó là do sự khinh miệt mang tính bản năng đối với những điều ti tiện nhỏ nhen của hạng người chỉ biết có mình, đó cũng là do lòng ngưỡng mộ cũng mang tính bản năng không kém đối với những hành vi và ý đồ cao cả, hơn thế nữa, đó cũng là một số kinh nghiệm khốn khổ buổi thiếu thời tạo nên. Quả thật những kinh nghiệm này đã giúp Pietro tin chắc rằng mình có một ý thức đầy trăn trở và nghiêm ngặt đến độ sẵn sàng từ chối một hành vi thuần túy tự tư tự lợi, và (khác hẳn với mọi người do bản tính ích kỷ tự nhiên chỉ biết xử sự tốt đẹp do tính toán hoặc sức mạnh của ý chí) chàng cũng tin chắc mình có xu hướng tự nhiên thiên về đức hy sinh, lòng trung hậu, tính vị tha cùng tất cả những đức hạnh cao cả của con người. Khám phá đó là kết quả của một cuộc khủng hoảng dai dẳng và điều đáng kể hơn, đó còn là nguyên tắc đem lại một loạt hạnh phúc. Bởi vì khi đã tạo cho mình một sự nhất quán và chỉnh đốn cuộc sống của mình theo những bình diện phù hợp với tính cách của mình Pietro cuối cùng đã tìm được một sự bình yên trong tinh thần giúp chàng đạt tới sự thành công trong công việc và tạo được những mối quan hệ tốt đẹp. *** Chung quanh ngôi nhà, trong vòng rào tối tăm và trần trụi như một nghĩa địa không có nấm mồ, ngọn gió đói khát vì thiếu bụi rậm và cây cối để lay động cứ quất vào các mô đất biến dạng của các bồn hoa. Andréa vừa rảo bước vừa ngước mắt nhìn bầu trời. Ngọn gió khô ran vẫn là là sát mặt đất. Những tia chớp lặng lẽ và ở tít trời xa thỉnh thoảng lóe lên cho thấy những lớp mây chồng chất lên nhau, bất động và lơ lửng trên các khu vườn và nhà cửa. Những bức màn màu nhựa thông, những bức màn làm nên từ những ngọn đồi trùng điệp, chúng toát ra một vẻ tĩnh lặng đến bi thảm giữa một cảnh trí xôn xao, dao động. Trái lại, cứ mỗi lần tia chớp lóe lên, người ta có thể nhận ra trên nền trời lấp lánh và vỡ vụn, những ngọn cây đen lay động, những chiếc lá quay cuồng, những cành cây vặn vẹo và gãy rời ra dưới sức mạnh hung hãn của gió. Ghì chặt túi xách vào người. Andréa băng qua khu vườn, vượt cổng rào và đi vào con đường dốc nhỏ. Trước khi đến nhà Marie-Louise, nàng đã quyết định sẽ trở về nhà ngay, nơi Pietro đang đợi nàng. Nàng tuân theo kế hoạch này, nhưng từ giờ phút này trở đi, đó là vì một sự trung thành máy móc hơn là một sự cần thiết, về nhà hay đến một nơi nào khác cũng thế thôi. Lâu đài của những kế hoạch trong đầu nàng đã sụp đổ, với nàng chỉ còn lại cơn điên đầy kiêu hãnh đã hoạch định nên nó, cơn điên đó giờ đây trở nên mãnh liệt và khốc liệt hơn bao giờ cả, nó dẫn nàng tới một sự nổi loạn tột cùng. Stefano sợ mình tự tử, nàng nghĩ thế, vì thế anh ta muốn đoạt lấy khẩu súng, nhưng anh ta lầm, anh ta lầm to. Nàng đi khoảng mươi mười hai thước thì một chiếc tắc xi vượt qua nàng và dừng lại cách đó mấy bước, dưới tán lá thấp của một cây to rì rào xao động trong gió, trước cổng một ngôi nhà. Andréa dồn bước để kịp thế chỗ người khách sắp bước xuống. Đó là một bà đứng tuổi, bà ta đội một cái khăn ngắn màu tía và mặc một chiếc áo dạ hội in hoa khá dài. Bà ta cao và gầy, với mái tóc hoa râm hơi ngả màu xanh do tác dụng của thuốc nhuộm, đôi mắt xanh nhớn nhác và có phần khó chịu, chìm khuất trong những nếp nhăn, mũi to, miệng rộng và cổ với những đường gân nổi rõ dưới làn da héo hon đầy phần sáp. Andréa đứng trên vỉa hè đợi bà ta trả tiền. Nàng thấy bà ta nghiêng người, chúi mũi vào đồng hồ tính tiền rồi rút ví ra và lấy ra một đồng tiền trao cho anh tài xế sau khi đã kiểm tra cẩn thận bên trong. Anh này nhìn đồng hồ tiền và bảo mình không đủ tiền thối. Bà ta đáp giọng chua lét rằng mình không thể để cho anh ta phần còn lại được. - Các người giống nhau cả, bà ta vừa nói vừa nhìn anh tài xế bằng ánh mắt lờ đờ và chăm chú. Mấy chú bao giờ cũng bảo không có tiền để tiện nhét túi những gì không phải của mình. Anh tài xế vội lộn tung các túi của mình và chìa ra trong lòng bàn tay mấy xu anh ta vừa nhặt nhạnh được. Bà ta không tin. - Không thể được. Nếu chú là người lương thiện thì chú phải hiểu rằng tôi không hề muốn cho chú hai lia tiền boa chứ! Bà ta lắc đầu. Mắt bà ta ánh lên niềm xác tín không gì lay chuyển nổi, đồng thời với niềm hi vọng là có thể đi tới chỗ thà không có tiền còn hơn chịu điều bất công là phải trả thừa tiền. Bây giờ Andréa hết kiên nhẫn nên can thiệp. Nàng lục túi xách lấy ra món tiền nhỏ ghi trên đồng hồ bước đến và dằn mạnh món tiền vào tay người tài xế. - Đây là số tiền bà này phải trả anh, nàng bảo. Còn bây giờ đẩy nhanh lên nào, đến đường Gracques. Và không buồn chú ý đến thái độ sững sờ giận dữ của bà ta, nàng leo lên xe và kéo cửa đánh sầm một tiếng. - Đường Gracques? Xong ngay! Anh tài xế nhanh nhẹn nói. Chiếc tắc xi bắt đầu chạy. Người đàn bà như hoàn hồn lại. Bà ta giơ tay. - Dừng lại, bà ta hét lên như tuân theo một ý nghĩ chợt nảy ra. Dừng lại, bằng không tôi ghi số xe đấy! Người đàn ông đáp lại mệnh lệnh này bằng cách đưa mấy ngón tay chạm vào mũi. Trong thời gian xe chạy, Andréa không nghĩ ngợi gì đến Marie-Louise, Stefano cũng không, càng không nghĩ đến chuyện gì sắp xảy ra, nhưng lại nghĩ đến bà già keo kiệt đã không giải quyết nổi hai lia tiẹn boa. Nàng ngạc nhiên về thái độ của chính mình, về cử chỉ đẹp đầy phù phiếm và mỉa mai sau bao biến cố mà nàng đã trải qua. Bởi lẽ, đương nhiên là nàng đã thực hiện một cử chỉ đẹp khi trả tiền tắc xi cho người đàn bà vận đồ dạ hội kia. Còn chuyện giết Marie-Louise thì sao? Đó cũng là một cử chỉ đẹp, cũng giá trị như cử chỉ vừa rồi. Rặt những cử chỉ đẹp! Dường như đó là những ý nghĩ buồn bã nhất mà nàng có được. Còn buồn hơn những ý nghĩ đã đẩy nàng tới chỗ giết Marie-Louise. Mặt khác cơn cuồng nộ của nàng rồi cũng dịu đi. Nàng chỉ cần gợi lên cái quá khứ gần đây nhất để vững tin rằng mình không chỉ thực hiện một cử chỉ đẹp mà còn cả một công trình chính nghĩa. Khi mở túi xách lấy tiền trả, nàng trông thấy khẩu súng của mình. Rồi ngước mắt lên cửa sổ phòng mình, nàng thấy bóng Pietro lay động một cách háo hức sau mấy thanh cửa lá sách rồi biến mất. Tất cả lòng thù hận cùng tình cảm vỡ mộng chợt tan biến, nhường chỗ cho lòng thương xót đối với chính mình. Đó không phải là lòng thương hại có giá trị an ủi, vỗ về. Đó là một lòng thương hại lạnh lùng, như ánh trăng soi rọi trên khung cảnh hoang tàn vì ngập lụt. Nàng nhìn lại trọn cuộc đời mình, và cả số phận đã dẫn dắt nàng đến hiện tại tai ương này, nhưng nàng lại không thoát khỏi điều ghi nhận vô bổ đó. Toàn bộ sự việc cùng một lúc vừa công bằng lại vừa bất công. Đầu cúi thấp, cổ họng khô ran, mắt ráo hoảnh, nàng băng qua khu vườn. Nàng chỉ ngẩng đầu lên khi trông thấy cửa nhà mình. Pietro đã ở ngưỡng cửa chào nàng với một cử chỉ hài lòng và ngay lúc nàng đến phòng ngoài, chàng đã âu yếm choàng tay qua người. - Thế nào? Chuyện đó diễn biến ra sao? Hết sức xúc động, chàng xiết chặt trong đôi tay, nhìn nàng không chán mắt với nụ cười thỏa mãn và kiêu hãnh... Nét mặt xanh nhợt, Andréa hơi né đầu ra sau. - Mọi chuyện tốt đẹp, nàng vừa nói vừa chăm chú nhìn chàng thanh niên. Nhưng còn chờ gì nữa? Hãy về phòng em đi! Hơi bối rối vì vẻ xanh xao và giọng nói đó, Pietro buông nàng ra và theo chân nàng về phòng. Đến nơi, Andréa bước tới tủ và đối diện tấm gương nghiêng, nàng chậm rãi cởi mũ. Pietro ngồi vào ghế bành gần cửa sổ, nhìn nàng đang sửa soạn lại mớ tóc, ngắm mình trong gương với một vẻ chăm chú đầy tư lự và đưa tay sờ lên khóe miệng: cuối cùng nàng quay lại và chậm rãi đến ngồi trên giường. - Em mệt, nàng bảo, em không muốn nói gì cả. Em đi nằm đây, anh hãy đến bên em và nói tất cả những gì anh muốn nói. Nàng giả bộ ngáp và nằm ngửa ra, một cánh tay kê đầu, mắt nhìn lên trần nhà. Càng lúc càng ngạc nhiên Pietro đến ngồi bên nàng. Mời các bạn đón đọc Những Tham Vọng Sụp Đổ của tác giả Alberto Moravia & Huỳnh Phan Anh (dịch).
Bùi Thị Xuân
Bùi Thị Xuân là con của Bùi Đắc Chí, gọi Bùi Đắc Tuyên bằng chú, người thôn Xuân Hòa, một thôn nằm về phía đông Phú Phong (nay thuộc thôn Phú Xuân, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, Bùi Thị Xuân sớm được học văn và học võ. Tương truyền bà vừa có sức mạnh vừa có sắc đẹp, nữ công khéo, chữ viết đẹp, nhưng thích làm con trai, thích múa kiếm đi quyền. Nghe kể chuyện bà Trưng bà Triệu cỡi voi đánh giặc, Bùi Thị Xuân náo nức muốn được theo gương bà Triệu bà Trưng. Còn những chuyện Tô Tiểu Muội cùng chồng xướng họa, chuyện bà Mạnh Quang cử án tề mi thì Bùi Thị Xuân cho là nhảm nhí. Lúc nhỏ đi học thường mặc áo con trai. Lớn lên tự chế kiểu áo các nữ hiệp vẽ trong sách mà mặc. Năm 12 tuổi, Bùi Thị Xuân đến trường học chữ. Bị đùa cợt, Bùi Thị Xuân cả thẹn, vung quyền đánh vào mặt hai người sanh sự rồi trở về nhà. Từ ấy bỏ học chữ, ở nhà chuyên học võ. Từ khi bỏ học văn thì đêm đêm có một lão bà đến dạy. Dạy từ đầu hôm đến gà gáy lần thứ nhất thì bà lão lui gót. Không ai hiểu lai lịch ra sao. Suốt ba năm trời, trừ những khi mưa gió, đêm nào bà lão cũng đến cũng đi đúng giờ giấc. Dạy quyền, dạy song kiếm. Rồi dạy cách nhảy cao nhảy xa. Nhảy cao thì cột hai bao cát nơi chân mà nhảy, ban đầu bao nhỏ rồi đổi bao to dần, cuối cùng mới nhảy chân không. Còn nhảy xa thì ban đầu dùng sào, sau dùng tre tươi ngoài bụi, níu đọt uốn cong xuống thấp rồi nương theo sức bung của cây mà nhảy. Đêm học ngày tập, đến 15 tuổi thì tài nghệ đã điêu luyện. Theo cụ Bùi Sơn Nhi ở Xuân Hòa thì đó là bà cao tổ của ông Hương mục Ngạc, một võ sư trứ danh ở An Vinh thời Pháp thuộc. Sau khi luyện tập võ nghệ thuần thục, Bùi Thị Xuân bèn rủ một số chị em khác trong vùng đến nhà mình luyện quyền múa kiếm. Đệ tử của bà ban đầu còn ít, dần dần lên đến vài chục người. Tài nghệ đã tinh mà cách đối xử, cách dạy dỗ lại đứng đắn nên Bùi Thị Xuân được chị em kính yêu, quý trọng. Trong số đệ tử xuất sắc có bà Bùi Thị Nhạn. Năm 1771, Bùi Thị Xuân lúc 20 tuổi đã dùng kiếm để giải nguy cho Trần Quang Diệu khi vị tráng sĩ này bị một con hổ dữ tấn công. Và cũng từ lần gặp này mà hai người trở thành vợ chồng khi ông Diệu đến ở nhà người con gái Xuân Hòa để trị thương, rồi cùng nhau về tòng quân dưới ngọn cờ Tây Sơn ở chiến khu Phú Lạc. *** Đào Trinh Nhất (1900-1951), tự Quán Chi, là nhà nhà văn, nhà báo Việt Nam giữa thế kỷ 20. Khi viết văn, viết báo, ông ký nhiều bút hiệu: Nam Chúc, Viên Nạp, Hậu Đình, Tinh Vệ, Bất Nghị, Vô Nhị, Hồng Phong, Anh Đào, XYZ.... Ông được người trong giới cầm bút đánh giá là người có cách làm việc nghiêm túc, thận trọng và là người đã biết dùng ngòi bút nghệ thuật làm sống lại nhiều tư liệu đã mai một trong lịch sử cận đại Việt Nam Đào Trinh Nhất sinh năm Canh Tý (1900) tại Huế. Nguyên quán tại xã Thượng Phán, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. Ông là con trưởng Đình nguyên nhị giáp Tiến sĩ (tức Hoàng giáp) Đào Nguyên Phổ. Vợ là Lương Thị Hòa, con gái Lương Ngọc Quyến và là cháu nội Lương Văn Can. Thuở nhỏ, Đào Trinh Nhất theo học chữ Hán ở quê nhà, sau lên Hà Nội học chữ Pháp và chữ quốc ngữ. *** Vốn là nhà báo viết văn, cho nên hầu hết các tác phẩm của Đào Trinh Nhất đều đăng từng kỳ trên báo rồi sau mới in thành sách. Theo thống kê chưa đầy đủ, sau 30 năm cầm bút (1921-1951), ông đã để lại khá nhiều tác phẩm như sau: Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ.(Thụy Ký - Hà Nội, 1924) Đông Châu liệt quốc (dịch, Sài Gòn, 1928) Thần tiên kinh (Dịch của A lan Kardec, 1930) Cái án Cao Đài (Sài Gòn, 1929) Việt sử giai thoại (Hà Nội, 1934) Nước Nhựt Bổn ba mươi năm duy tân (Đắc Lập, Huế, 1936) Phan Đình Phùng, một vị anh hùng có quan hệ đến lịch sử hiện thời (Cao Xuân Hữu, Hải Phòng, 1936; Đại La, Hà Nội, tái bản 1945; Tân Việt, Sài Gòn, tái bản 1957) Việt Nam Tây thuộc sử (Đỗ Phương Huế, Chợ Lớn, 1937) Ðông Kinh nghĩa thục (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1938) Ngục trung thư (Đời cách mạng Phan Bội Châu) (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1938; Tân Việt, Sài Gòn tái bản, 1950) Vương An Thạch (Hà Nội, 1943; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1960) Cô Tư Hồng (tiểu thuyết, Trung Bắc Tân Văn Chủ nhật, 1940; Trung Bắc Thư xã, Hà Nội, 1941) Chu Tần tinh hoa (dịch, Hà Nội, 1944) Lê Văn Khôi (1941-1945) Con trời ngã xuống đất đen (Hà Nội, 1944) Chu Tần tinh hoa (1944) Vương Dương Minh-Người xướng ra học thuyết lương tri và tri hành hợp nhất (Hà Nội, 1944; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1950) Kẻ bán trời Con quỷ phong lưu Bùi Thị Xuân Lương Ngọc Quyến và cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên 1917 (Quốc Dân thư xã, Hà Nội, 1946; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1957). Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, ông mới dịch được nửa bộ, đang đăng báo thì từ trần (Bốn Phương xuất bản, Sài Gòn, 1950) Đào Trinh Nhất Tác Phẩm gồm có: Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Lịch Sử Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Triết Học Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 1 Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 2 Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Triết Học gồm có: Vương Dương Minh Vương An Thạch Chu Tần Tinh Hoa Mời các bạn đón đọc Bùi Thị Xuân của tác giả Đào Trinh Nhất.