Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Dòng Đời Nổi Trôi

.. "Cúi đầu thủ thế... Tay không rời mặt... Vào góc... Thoát ra... Thọc, thêm lực hơn nữa... Thân trên linh hoạt... Móc ngang... Chân di chuyển nhanh hơn nữa... " - Tiếng thầy võ sư quát dồn dập hướng dẫn khi tôi đang tập thực chiến trên sàn Boxing cùng một đàn anh khác. Đến với cái môn thể thao nhồi thể lực này chỉ vỏn vẹn có gần 2 năm nhưng cũng đủ biến tôi từ một thằng hs cấp 3 yếu ớt, trầm cảm. Trở nên rắn rỏi và cứng cáp hơn cả về cơ thể lẫn tâm lý. Nói về cuộc sống của tôi đến thời điểm hiện tại có thể miêu tả bằng những từ như "Buồn", "Khổ, "Bất Hạnh", "Thiệt thòi"... Hajzzz, tự bản thân tôi thì thấy hợp với 2 chữ "Vô cảm" hơn. Từng có một gia đình hạnh phúc, tròn đầy như bao gia đình khác với bố mẹ và một thằng em trai kháu khỉnh. Nhưng tất cả đã chấm dứt với tôi bởi một tai nạn giao thông khi tôi vừa đỗ vào trường chuyên cấp 3. Cả gia đình vui mừng đón tin vui và tưởng thưởng cho tôi một chuyến du lịch xa nhà mà trước khi thi tôi đã đòi hỏi nếu đỗ. Cuộc đời đã cướp mất gia đình của tôi hay là chính bản thân tôi đã làm hại những người thân yêu ruột thịt của mình. Nhiều đêm tỉnh dậy trong cơn ác mộng, nhìn vào vết sẹo dài gớm ghiếc trên ngực. Tôi lại tự dằn vặt tại sao kẻ chết đi không phải là mình mà lại là bố mẹ và em trai. Khóc rất nhiều, trầm cảm có, ù lỳ có. Từ một hs cấp 2 năng động và hoạt bát, tôi trở thành một hs cấp 3 hoàn toàn khác, vô cảm và băng giá... với mọi thứ xung quanh. Cuộc đời đã ném vào tôi những nỗi mất mát đau đớn nhất. Thì hà cớ gì tôi lại phải cởi mở đón nhận cái cuộc đời ấy. Tôi còn tồn tại và phát triển trong cái cuộc đời này, hoàn toàn chỉ là bởi nghĩa vụ và trách nhiệm với lời hứa mà tôi đã hứa với cha mẹ trước giờ lâm tử. Rằng phải cố sống và sống tốt. Tôi sẽ cố sống, còn để sống tốt... tôi chưa thể cảm nhận, vì tôi vô cảm, hay có khi cố sống cũng là một dạng thù hình của sống tốt rồi cũng nên. 3 năm cấp 3 trôi qua nhạt nhẽo, chẳng có ấn tượng gì đọng lại trong tôi ở cái tập thể này và ngược lại cũng vậy... không bạn bè, không người yêu. Thay vào đó những dấu ấn và bạn bè của tôi lại được hình thành rõ nét ở cái clb boxing này. Nơi mà có lẽ chỉ vài tháng nữa tôi sẽ phải xa nó... nếu tôi đỗ đại học. - Lên Hà Nội nhớ đừng đua đòi, cố gắng làm thêm để trang trải nhé. Rảnh thì về chơi với cô - Cô ruột tôi cất tiếng. Tôi cười khẩy, chào cô rồi quay lưng ra đi mà không có lấy một chút lưu luyến gì cái ngôi nhà này, gia đình của cô tôi. 3 năm sống trong ghẻ lạnh và cô độc, tôi cũng không dám trách móc gì vì ít nhất cũng đã phải sống nhờ nhà họ trong một thời gian dài. Dù tiền sinh hoạt hàng tháng thì vẫn trích từ tài khoản trong ngân hàng mà bố mẹ tôi để lại cho tôí khi nào tới 18t mới được toàn quyền sử dụng. Cơ mà tôi có cái quyền để không yêu quý cái ngôi nhà ấy. Ngày biết tin đỗ đh cũng là ngày mà tôi lên sẵn phương án cho một cuộc sống tự do, tự lập, riêng một cá thể hoàn toàn. - "Con chào bố mẹ, anh chào em trai nhé. Tạm biệt gia đình thân yêu... Con đi đây" - Chờ cho nén nhang cuối cùng tắt hẳn tôi khoác balo rời nghĩa trang thành phố để bắt xe khách lên HN. Ngoảnh mặt nhìn qua ô kính nơi chôn rau cắt rốn của mình, nơi mà gia đình mình mãi mãi ở lại đến khi xa dần, khuất dần... Con đang bước tiếp hành trình của con đây, con sẽ cố gắng thực hiện toàn vẹn lời hứa với gia đình mình... Con hứa... Chiếc xe bon bon trên đường quốc lộ ngày một xa dần, bên trong nó là một con người cô độc với những hành trình chông gai của cuộc đời đang chờ đợi trước mắt... *** Địa ngục tinh thần - sẽ là đao to búa lớn khi nói vậy nhưng quả thực với riêng bản thân tôi chuỗi ngày vừa qua tựu chung 1 phần có thể ví von như vậy. Trống rỗng trong cả suy nghĩ lẫn tâm trí. Đáng sợ nhất là mớ bòng bong tỉnh trong mơ, mơ trong tỉnh cứ bu bám đầu óc khiến tôi nhiều lúc trở nên si mê ko biết đâu là thực tại. Có lần đi bộ còn suýt bị xe đâm chỉ vì ko nghĩ là mình đang sang đường. Nhiều sáng thức dậy tôi vô thức vồ lấy đt, nt chúc ngày mới theo thói quen rồi giật mình, lại xóa đi khi chợt nhớ ra 1 điều. Để rồi sau đó chỉ biết vò đầu lắc lắc, mong sao những gì xảy ra chỉ là 1 cơn ác mộng. Rượu say, đòn tỉnh - chính trong thời điểm luẩn quẩn ấy, 1 người đã xuất hiện khiến tôi tỉnh lại với thực tại. Ko ai khác chính là KN... 1 trận đòn nhừ tử từ đám tay chân và từ chính anh ta. - Dám làm nhiều việc sau lưng tôi như vậy, kể cũng xem như cậu lớn mật đấy. Nể mặt cậu từng là bạn cái Ngọc, cũng từng là nv thân cận của tôi, xem như gặp gỡ hn thay cho lời cảnh cáo. Chuyện giữa cậu và nó từ giờ chính thức chấm dứt. Tôi ko muốn gặp cậu trong hoàn cảnh này lần nào nữa vì lần tới chắc chắn cậu ko còn người ngợm nguyên vẹn như thế này đâu. KN trước giờ đã nói là làm nên tôi hiểu anh ta ko nói suông. Chuyện này đến tai anh ấy hẳn là từ miệng Hoa chứ bản thân Ngọc chắn chắn chẳng bao giờ chịu nói ra. Chỉ là chính tôi trong giây phút đau đớn, bê bết ngồi góc đường, tự vấn lòng mình đã đến lúc phải chấp nhận sự thật. Trận đòn của KN đau đớn về thể xác nhưng 1 phần cũng nhờ nó mà tôi thoát khỏi đám mây mù u mê đã vây quanh mình suốt 1 khoảng tg. Tôi mặt dày chủ động hẹn gặp Hoa xem như là lần cuối muốn hỏi thăm tin tức về Ngọc. - Đang có 1 người rất tốt quan tâm đến nó rồi. Chỉ cần anh biến khỏi cuộc đời nó nữa thôi là ổn. Tôi cười khổ cam chịu lời sỉ vả từ Hoa, thực ra cô ấy chịu hẹn gặp tôi thế này đã xem như nể nang lắm rồi. Qua 1 hồi hỏi han tôi cũng chứng thực đc "người tử tế" ấy ko ai khác chính là T.Hoàng. Rốt cuộc vẫn là linh cảm của mình chính xác - T.Hoàng thực sự có tình cảm với Ngọc. Anh ta rõ ràng có xuất thân lẫn thân thế rất tốt. Chưa kể thâm tình hiện tại khi X và Z vẫn đang trong giai đoạn đầu của sự hợp tác. Ấy là còn chưa nói đến cảm tình có sẵn của bà Liên cũng như KN giành cho anh ta. Nếu T.Hoàng thực sự tốt như vậy hẳn Ngọc sẽ có đc hạnh phúc, ko còn phải gồng mình, ko còn phải chịu đựng nữa... Điều này lẽ ra tôi phải lấy làm vui, vậy mà cớ sao sống mũi cứ cay xè đến ê ẩm thế này. Đã thực sự tỉnh rồi đấy nhưng phải quên đi nữa... Quên đi những chuyện cũ... quên đi Ngọc... quên đi mối tình đầu, cũng là duy nhất... Hà Nội, có lẽ cũng đã đến lúc phải xa nơi này rồi... ---- Suy nghĩ trên tôi từng cố trốn tránh nhưng cũng đến lúc phải quyết định. Tôi đến thăm anh họ, vừa hỏi han tình hình cty hiện tại, vừa tiện thể tâm sự chuyện tôi tính rời HN. Anh cũng ko có ý kiến gì về chuyên tôi muốn vào Nam lập nghiệp, dù sao nhà cửa dưới quê tôi cũng bán hết rồi. Mối liên kết duy nhất còn lại chỉ là mộ phần gđ và họ hàng mà thôi. - Tình hình cty anh dạo này thế nào rồi, đã giải quyết xong quyết toán với mấy chủ đầu tư kia chưa? - Hajzz... Anh họ thở dài ảo não khi nghe tôi hỏi chuyện làm ăn, kiếp làm cai, thầu phụ. Ăn rơi ăn vãi công trình từ các chủ đầu tư lớn. Làm chưa xong thì bị ép tiến độ, xong rồi lại bị chậm nghiệm thu quyết toán. Bị ngang nhiên chiếm dụng vốn mà vẫn phải niềm nở để đòi tiền. Lương nhân công nhiều khi còn nợ mà vẫn phải chạy vạy vay mượn để xin dự án. Đơn giản làm nghề này mà ko có dự án quay vòng là cầm chắc "chết". - Dự án bên... cty X vẫn chưa đến hạn hả anh? - Uhm, mà sao đang dưng mày lại nghỉ ở đó, thấy nó bắt đầu khó khăn ah? Nghe anh họ nói vậy tôi chỉ biết lắc đầu cười trừ, cty của anh lẽ ra còn có thể kiếm đc nhiều công trình hơn nếu X giành đc mấy khu đất kia. Chỉ tiếc vì tôi mà... Thời gian chuẩn bị cho sự chuyển đổi tương đối thảnh thơi nên dạo này tôi hay đi lại quê - HN để thăm họ hàng và thắp hương mộ phần gđ. Tôi cũng thường qua thăm mộ ct Đặng mỗi khi từ quê trở lại HN. Dù gặp nhau ko nhiều nhưng những ấn tượng trong qk khiến tôi có cảm tình rất tốt với ông ấy. Đã có lúc tôi từng nghĩ tương lai sẽ được làm con rể, được hàng ngày gọi ông là "Bố" trên cty cũng như ở nhà, được.. . Vài bông cúc tươi thay cho những bông đã hơi héo. - "Sau này vào Nam rồi, chắc con ko còn đến thăm bố thường xuyên đc nữa. Thông cảm cho con bố nhé!!!" ---- Bụng của My lộ hẳn rồi con bé mới chịu làm đám cưới, đám cưới vui như hội ấy vì con bé đông bạn đông bè mà. Đợi tiệc mừng này kết thúc tôi mới chia sẻ quyết định vào SG sống với a.Mạnh và đám bạn của mình. Khỏi phải nói tất cả bất ngờ thế nào khi nghe tin ấy, với Trà, My và Xuân chóa còn có thêm vài phần sốc nữa. Thời điểm chính thức rời HN vào SG sau nhiều lần nấn ná cuối cùng cũng đc tôi lên lịch cụ thể. T.Dương cho đến hn mới biết tin sau khi nghe tôi nói chuyện trả phòng vào cuối tháng. Từ sau chuyện đổ vỡ của tôi, cũng tội cho T.Dương khi đến giờ cô ấy vẫn ko thôi cảm thấy có lỗi. - Vẫn còn áy náy hả, áy náy nhiều thì đem mồi lên phòng tôi. Sang làm thêm 1 trận say nữa trước khi tôi bái bai HN đc chứ, haha. Tôi lại cười khích bác T.Dương nhưng cô ấy chẳng 1 tia hưởng ứng. Chuyện say mèm với T.Dương giờ đã trở thành vô cùng nhạy cảm rồi. Nhìn T.Dương cứ cắm mặt vô Lap chat chit với bạn bè, tôi đâm nhàm chán. Vừa quay qua quay lại định chào cô ấy thì trước mắt lướt qua 2 hình ảnh khá quen thuộc. Bức ảnh trên face 1 người bạn của T.Dương, chụp khá nhiều người kiểu cách học sinh - sv, có thể là 1 nhóm bạn. Hầu hết là người ngoại quốc, khung cảnh xung quanh cũng là ở nc ngoài. Nếu chỉ có vậy thì chẳng có gì đặc biệt nhưng điều đặc biệt làm tôi phải chú ý, xen giữa đám sv ngoại quốc đó chính là hình ảnh T.Hoàng và Vinh thân mật bóp cổ nhau tạo hình vui nhộn, cả 2 đều cười rất tươi. Bức ảnh chụp bằng dslr nên chất ảnh rõ nét, zoom hình lên tôi có thể khẳng định là mình nhìn ko nhầm. Từng mảnh ghép trí nhớ lướt nhanh qua đầu, T.Hoàng từng 1 lần đến X tìm Ngọc nhưng ko gặp, khi đó anh ta trực tiếp giáp mặt Vinh nhưng cả 2 đều tỏ ra lạ lẫm ko quen biết. Tại sao lại vậy chứ??? T.Hoàng vừa du học về, Vinh qua lời tay Trường kể cũng từng tốt nghiệp bên nước ngoài, thậm chí còn từng làm cho cty đối thủ của X. Băn khoăn là vậy nhưng ko biết phải cắt nghĩa ra sao. Suy nghĩ 1 hồi tôi mới tỉnh ngộ giờ mình chẳng còn chút nào liên quan gì đến X và gđ Ngọc. Vậy có nghĩ cũng chẳng để làm gì, có thể T.Hoàng và Vinh khi đó gặp nhau chỉ là lần gặp gỡ duy nhất. Sau vài năm có quên cũng là bình thường. Còn chưa kể nếu là người giống người, dù điều này rất khó xảy ra. Nhưng nếu họ thực sự quen nhau, thậm chí là bạn của nhau thì sao? Nếu thật thì tại sao lại phải "đóng kịch"? Phân vân trước nhiều quyết định thì cứ nên chọn những quyết định sao cho sau này khỏi phải hối tiếc nhiều nhất "tại sao ngày xưa mình lại ko làm vậy". Nghĩ vậy tôi bèn lấy máy gọi cho KN, màn hình đt vẫn hiện lên dòng chữ "a.Nguyên" quen thuộc. ---- Đến SG vào 1 ngày mưa lớn, ngày trước cùng KN ra vào thường xuyên nên tôi cũng đã quen với thời tiết trong này. Mấy ngày đầu ăn uống có phần hơi kém vì chưa quen khẩu vị. Sau lọ mọ, tự đi tìm tòi quanh TP rồi lượn lờ sang hẳn vài tỉnh thành lân cận. Mỗi lần đều đi tới mệt lả, đói meo mới ăn uống nên dần dà cũng quen dần khẩu vị. Người dân trong này thân thiện và nhiệt tình hơn nên tôi "khoái" họ lắm. Sau hơn tháng làm quen và cảm nhận dần nhịp sống trong này thì tôi cũng tìm đc cv mới. 1 cty về xnk mà Trà giới thiệu, ban đầu tôi cũng ko nghĩ là mình sẽ làm cv này đâu nhưng hơn 1 tháng sống trong này, tư tưởng thoải mái dần nên tôi cũng có chút hứng khởi với cv mới mẻ này. Dù sao thì cuộc sống vốn đc tạo thành từ vô vàn những trải nghiệm. Thay mới những điều đã cũ cũng giúp bản thân có những góc nhìn mới mẻ hơn. Cv mới yêu cầu đi lại nhiều từ cty cho tới thực địa xuống hiện trường. Hàng ngày tiếp xúc với giấy tờ, chứng từ, invoice... các loại thủ tục, luật định... Nói chung cũng đủ để cả ngày bận rộn, dù vậy tôi vẫn chưa quên đc cảm giác làm việc ở X... và Ngọc... ---- 1 ngày, thằng ku Hải (thằng em ngày xưa cùng học boxing, giờ làm cho cty anh họ tôi) vào SG ăn cưới tiện thể thăm tôi, nghe nó nói chuyện mới biết cty anh họ tôi đang gặp khó khăn về tiền vốn. Nợ quyết toán từ các chủ đầu tư chưa đòi đc nên đã đến nc phải vay lãi cao để trả lương và các chi phí. Tôi gọi điện trách ông ấy vì sao ko chia sẻ rồi lập tức xin nghỉ, cùng Hải bay ra HN. Ae bàn bạc thống nhất rút hết tiền bán nhà của tôi hỗ trợ anh họ trả nợ. Mặt khác tôi quyết định gọi điện hẹn gặp KN. Định trực tiếp đến X nhưng anh ta dời điểm hẹn sang quán bar mà ngày trước cả 2 vẫn hay đến. - Là cty của anh họ cậu??? Lý do tôi hẹn gặp KN chỉ đơn giản là về việc thanh quyết toán cho công trình của anh họ. Từ đầu đến cuối cuộc gặp chỉ có vài phút mà ko nói thêm bất cứ 1 chuyện gì khác. - Thôi đc rồi, về khoản quyết toán cho cty anh cậu tôi sẽ có quyết định sớm nhất. Còn có điều này... tôi vốn vẫn thắc mắc... tại sao hồi đó cậu lại nói với tôi về chuyện giữa Vinh và T.Hoàng. Tôi nhớ lúc đó tôi đối xử với cậu khá tệ mà. -À cái này... thực ra em làm ko vì gì cả. Em nói với anh chỉ vì ko muốn sau này phải cảm thấy tiếc nếu có chuyện gì đó xảy ra thôi. Cám ơn anh vì cuộc gặp hn, hy vọng vấn đề quyết toán của anh em sớm đc giải quyết. KN nghe tôi nói vậy chỉ nhẹ gật đầu, đoạn tiếp tục ngồi lại uống rượu mặc cho tôi rời đi ---- 3 tuần sau cuộc gặp KN, tôi nhận đc tin từ anh họ thông báo công trình bên X đã đc duyệt quyết toán 100%. Vấn đề tài chính cty tạm thời đc giải quyết dù vẫn còn vài chủ đầu tư khác nấn ná trì hoãn. Tôi hài lòng với lời hứa của KN, vừa suy nghĩ chuyện cảm ơn anh ta thì U.Nhi gọi tới. Hơi bất ngờ vì con bé tự dưng lại liên lạc nhưng sau khi nghe điện tôi còn sốc hơn vì loạt sự việc vừa xảy ra. Là tin đồn về việc Y lôi kéo thành công vài nhà đầu tư đột ngột rút vốn khỏi dự án đang triển khai của Q trên nền 4 khu đất đấu giá cùng 1 vài dự án khác. Điều tương tự cũng đc X giành cho Z với tổ hợp dự án mà cả 2 đang hợp tác. Bất ngờ bị thoái vốn đồng loạt như rút dao găm khỏi vùng động mạch chủ. Cả Q và Z đồng thời thiệt hại nhưng Q thê thảm hơn nhiều vì phương thức kd "trèo cao nhờ phụ thuộc nguồn vốn liên kết". Đến giờ khi các nguồn vốn này đồng loạt rút khỏi, liền khiến Q hoàn toàn đổ sập. Người ngoài nhìn vào thì tha hồ đặt giả thiết và phân tích, về phần tôi chẳng mất công cũng đc U.Nhi bật mí sự thật. Số là bắt nguồn từ việc KN cho it kiểm tra Lap của U.Nhi, phát hiện máy con bé bị dính phần mềm gián điệp sao chép các nội dung. Truy ngược theo các dữ kiện, bức ảnh của Vinh - T.Hoàng và mqh ngày 1 thân mật giữa Vinh và Nhi thì kẻ "gián điệp" ko ai khác chính là anh ta. KN sau đó thực hiện 1 cuộc trao đổi q.trọng với G.Huy. Biết đc biên bản ghi nhớ giá ngày trước với W đc 1 người ko tên gửi đến cho G.Huy. Sau khi xâu chuỗi các mối hợp tác liền nghi ngờ Z giả quỷ giả thần tài chính của chính mình. Nhún nhường ký giao kết cùng X nhưng sự thật sau lưng lại ngấm ngầm lên kế hoạch thao túng. Tranh thủ ô.Luân tan giã với X và tình hình rối ren khi ct Đặng qua đời. Z đứng sau lôi kéo hùn 1 phần vốn giúp Q qua mặt X mua lại 4 khu đất đấu giá. 1 mặt lại giật dây Q hợp tác với Y, lợi dụng mqh đối thủ cạnh tranh giữa X và Y để mượn 1 phần tay Y "đánh" cho X mệt mỏi. Lúc bấy giờ Z mới ra mặt huy động nguồn vốn góp giúp X với lòng tin là 1 đối tác quen thuộc. Mặt khác tận dụng sức ảnh hưởng hối thúc hôn gia của Ngọc với T.Hoàng. Theo di chúc của ct Đặng thì Ngọc đc thừa hưởng 1 số cổ phần ko hề nhỏ. Chỉ cần T.Hoàng khôn khéo dùng tình cảm lay động đc Ngọc là hoàn toàn có thể khống chế số cổ phần đó để ngày càng tiến sâu hơn vào trong lòng X. Đối tác quen thuộc, bạn thân lâu năm tất cả cũng ko bằng 1 chữ Tiền, cả 3 bố con họ Trần này quả thực quá độc. G.Huy sau khi phán đoán người gửi biên bản kia có thể chính là Vinh - 1 người bạn, người thân của T.Hoàng đc cài vào X - mới đinh ninh cty Y của mình bị lợi dụng trắng vốn. Tất nhiên anh ta khá giận dữ nhưng đề nghị sau đó của KN cũng giúp anh ta giãn ra phần nào. 1 vài cổ đông trong Q vốn đã bị KN lôi kéo thành công trước đó. "Giá trị lôi kéo" này hiện tại vẫn còn khi KN huy động 1 lượng tiền dựa trên sự hợp tác với gđ Trà. Chỉ cần thêm 1 cú sốc lớn đủ khiến Q sảy chân là X lập tức có thể thâu tóm số cổ phần này, sau đó nhượng quyền lại cho Y. Lôi kéo đủ đến mức quá bán thì việc thâu tóm sát nhập cty Q, tất cả đều nằm trong tay G.Huy. Chính nhờ đề nghị hấp dẫn đó mà Y chấp nhận bắt tay X, "tiêu diệt" Q và "đánh" tả tơi Z như diễn biến tài chính trong suốt những ngày vừa qua. Nghe tin này xong tôi cũng chỉ cảm thấy phần nào an ủi vì nỗi oan ức của mình đc minh bạch. Dù vậy, tất cả mọi cảm xúc cũng chỉ dừng lại ở đó mà thôi vì hiện tại tôi đã ko còn là người của X nữa. ---- Chiều hn, lúc ra bãi lấy xe để xuống hiện trường thì tôi bất ngờ bị 1 cơn đau quằn quại nhói lên ở vùng bụng. Đau đến phải cúi gập người xuống vì khó thở. Đáng nói cơn đau này ko phải là lần đầu tiên, nó đã xuất hiện suốt nửa tháng nay, lúc đau nhiều đau ít biểu hiện rất thất thường. Nhiều lần định đi khám nhưng ngại vì lý do cv nên tôi đều khất lần. Dùng thuốc giảm đau có đỡ nhưng cơn đau vẫn ko dứt điểm. Sau nhiều trì hoãn, cuối cùng vẫn phải lê thân đến bv. Tưởng chỉ là đau bụng bình thường nhưng hóa ra nó lại phức tạp hơn tôi nghĩ. Phải qua 2 lần khám tại 2 bv khác nhau mới phát hiện đc nguyên nhân cơn đau là do 1 khối u nằm ở phúc mạc (nếu bạn nào đọc từ những ngày đầu hẳn vẫn nhớ có lần mình nhắc về bệnh này và thỉnh thoảng vẫn bị đau bụng, phải dùng thuốc). Bác sĩ trấn an chưa có kết quả xét nghiệm chưa cần quá lo lắng nhưng tôi biết bệnh này ko hề đơn giản như ông ta nói. "- Gen nhà mình có mầm ung thư thì phải, trong họ có 2 chú bác đều mất vì "thằng" này. Mày cũng phải cẩn thận đấy, đi làm ăn uống tiếp khách chừng mực thôi. Tiền nhiều hay ít cũng ko q.trọng bằng sức khỏe đâu." Lời anh họ cảnh báo hồi tôi mới ra trường văng vẳng vang lên trong đầu. Bác và chú tôi đều mất vì K, đặc biệt chú tôi cũng bị chính căn bệnh K phúc mạc này hành hạ. Cơn gió nhẹ sau cơn mưa thổi qua mát mẻ nơi hành lang bv. Bước ra khỏi phòng khám, tôi thoải mái hít hà trọn vẹn từng luồng khí mát. Thấy lòng mình nhẹ tênh 1 cảm giác thanh thản ko lo sợ, ko vướng bận. Tâm lý buông lơi bản thân, sẵn sàng chấp nhận mọi an bài của số phận. Chỉ 1 quãng đường từ bv về cty mà rất nhiều suy nghĩ, hình dung ko ngừng hiện lên trong đầu tôi. Nếu là u lành tôi sẽ tiếp tục sống, tiếp tục 1 cuộc đời với nhiều trải nghiệm đang chờ đợi. Còn là u ác... thì sao chứ, tôi sẽ ko mất tg vào việc nằm 1 chỗ để điều trị. Thay vào đó sẽ là những chuyến du lịch, đi nhiều nơi nhất có thể cho đến lúc chết. Khi ấy chết cũng là chuyến đi cuối cùng đưa tôi đoàn tụ cùng bố mẹ và đứa em trai bé bỏng. Hầu hết mọi thứ đều đc tôi lạc quan hóa, duy chỉ có Ngọc là vẫn còn đó sự băn khoăn. Nếu tôi chết đi, sẽ ko còn đc cùng cô ấy hít thở chung 1 bầu trời nữa. Ngọc vẫn chưa yêu ai khác kể từ khi chúng tôi c.tay, mặc cho T.Hoàng trong tg đó ra sức tấn công, bày tỏ thiện chí. Biết đc những điều này đều do Trà tâm sự. Cô ấy dạo này thường qua lại với KN và gđ bên đó nên có thể chứng thực việc Ngọc vẫn chưa quên đc tôi. Nếu còn nặng tình vậy, hẳn cô ấy sẽ đau lòng lắm nếu bệnh tình của tôi xấu đi. Xuân chóa tiện công tác ghé qua thăm, tình cờ nhìn thấy đống hồ sơ bệnh án liền trách móc tôi rất nhiều vì ko thông báo gì cho mn, chỉ biết "ích kỷ" âm thầm chịu đựng 1m. Tôi biết nó mắng đúng nên chi đành cười gượng nhờ nó giữ bí mật cho đến khi có kết quả xét nghiệm chính thức. ---- Nghĩa trang quê tôi... đêm qua mưa to mà sáng nay trời cứ phủ 1 làn sương mỏng se lạnh. Không gian trở nên tĩnh lặng nơi những lối đi ngăn cách những nấm mồ. Tôi hơi co người lại vì lạnh, lững thức bước từng bước men theo con đường đất, nơi trông ra 1 khuôn viên với những cây bằng lăng xòe tán rộng. Tiếng xào xạc mỗi lúc một rõ rệt... tựa tay lên những nấm mồ thở dốc. Bây giờ, nhiều lúc tôi thấy mình thật giống 1 ông lão 80, chỉ lê mình đi cũng đã mệt phờ vì cơn đau quặn nơi thành bụng ... Cái sức sống của tuổi 25 biến đi đâu mất sạch rồi? Tôi bặm môi, bước tiếp, có lẽ liều thuốc hq vẫn còn tác dụng... Cố đi đến đầu hồi, tôi ngồi xuống ngẩng mặt lên nhìn bầu trời nhưng ko thấy gì cả ngoài 1 tán lá dày đen thẫm, xuất hiện lỗ chỗ những vệt sáng của ánh nắng nhạt mờ mờ phía trên. Để tâm trí trôi đi lặng lẽ... gió hình như cũng thổi mạnh hơn. Chợt phát hiện bên thân cây trước mặt đâm ra 1 chồi non nho nhỏ, đứng cô đơn trơ trọi 1m. Nhìn chồi xanh ấy sao cô đơn giống cuộc đời tôi thế. Gục mặt xuống cánh tay, chơi vơi trong 1 mớ tâm trạng không định hình nổi. Lặn sâu trong đó là nỗi nhớ vẫn thường bị tôi cố tình chôn lấp. ...Đã nửa năm rồi! Thế là anh cũng đã sống mà ko có em 1 cách đúng nghĩa trong từng ấy tg. T.gian đi qua trước cửa, giống như là t.gian chết...vô hồ. Ko biết giờ này cô ấy ra sao? Đang vui hay buồn? Tôi ko kìm lòng nổi, thốt lên 1 tiếng thở dài xen lẫn tiếng gió da diết lẫn trong những tán lá... - Ngọc ơi... anh nhớ lắm... anh yêu em!!! - Em cũng yêu anh!!! Tôi ngẩng mặt lên vì giọng nói quen thuộc, chỉ 1s sau nc mắt như muốn trào ra. Buông rơi hết mọi suy nghĩ trước đó, tôi giang rộng 2 tay ôm bóng dáng đang đứng trước mặt mình vào lòng. Ngọc cũng ôm chặt lấy tôi, nức nở như một đứa trẻ... thì thầm giữa những tiếng nấc. _ Sao lại bắt em chờ lâu thế? Sao lại thế hả? Anh vẫn yêu em mà, phải ko? _ Anh xin lỗi! Tôi đẩy đầu Ngọc ra xa hơn một chút để có thể nhìn rõ hơn, niềm hạnh phúc ánh lên trong mắt sau nhiều ngày xa cách. - Em lạnh ko? - Ko, có anh ôm em rồi mà. - Ừm... mà sao sớm thế này em đã ở đây làm gì vậy? - Mộ "bố mẹ và em trai"... đầu tháng và rằm ngày nào em cũng về thắp hương mà. - Thật thế ư? - giờ tôi mới hiểu vì sao mấy ngôi mộ của gđ dạo gần đây lúc nào cũng tươm tất và thay hoa liên tục. - Có gì ko thật chứ, cũng như anh hay đến thắp hương bố em thôi mà. - Ơ, sao em biết... em nhìn thấy ah? - Từ hồi anh còn chưa vào SG cơ, nhìn anh loay hoay cắm đám cúc vào lọ em thương lắm nhưng vì ghét nên chỉ đứng từ xa nhìn vậy thôi. - Anh xin lỗi nhưng anh thề là chưa làm gì có lỗi với em cả. Chuyện hôm đó với T.Dương chỉ là... - Ko cần nói nữa, em tin anh mà - Ngọc đưa tay lên miết lấy môi tôi. - ... Xa nhau rồi em mới biết là mình chỉ cần đc yêu anh thôi... - Uhm, nhưng mà... anh hiện tại.. anh hiện tại đang bị... - Xuân kể với em rồi, là bệnh thì sao chứ, sống chết thì đã sao. Chỉ cần biết mình yêu nhau trọn vẹn như lúc này thôi là em thấy mãn nguyện rồi. Nghe Ngọc nói vậy, tôi cúi xuống hôn nhẹ lên viền môi hồng hồng của cô ấy. Bầu trời hình như đã tan bớt mây mù, nắng đã có màu vàng rám hơn rồi. Tình yêu chân thành vượt qua những lo âu, những hy sinh riêng lẻ, những hiểu lầm, những khổ đau... cuối cùng trở về nơi chúng xứng đáng đc trân trọng. Mãi mãi ko mất đi hạnh phúc. P/s: 2 ngày sau Ngọc theo tôi bay vào SG nhận kết quả xét nghiệm. Cả 2 đều xác định trước tâm lý và "lịch trình" riêng cho mỗi tình huống tốt hoặc xấu. Ngọc nắm chặt tay tôi trên suốt quãng đường đến bv. Tôi trấn an cô ấy ko phải nghĩ nhiều nhưng bản thân giờ phút ấy chính là tột cùng căng thẳng. Kết quả xét nghiệm: âm tính, ko phát hiện có tế bào ung thư. Mời các bạn đón đọc Dòng Đời Nổi Trôi của tác giả Lê Vũ Trọng Nghĩa.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sau Bữa Tiệc
Tuyết Sinh dịch YUKIO MISHIMA (1925-1970)Yukio Mishima (三島 由紀夫; phiên âm: (Tam Đảo Do Kỷ Phu), tên thật Hiraoka Kimitake (平岡 公威; phiên âm: Bình Cương Công Uy) (14 tháng 1 1925 - 25 tháng 11 1970) là một nhà văn và nhà biên kịch Nhật Bản, nổi tiếng với các tác phẩm như Kinkakuji (1956), bộ bốn tác phẩm "豐饒の海" (Hōjō no Umi, Biển cả muôn màu, 1965-70). Mishima sinh ra tại quận Yotsuya ở Tokyo (ngày nay là một phần của Shinjuku). Cha ông là Azusa Hiraoka, một nhân viên chính phủ, trong khi mẹ ông Shizue, là con một hiệu trưởng tại Tokyo. Ông bà nội của Mashima là Jotarō và Natsuko Hiraoka. Ông có một người em trai tên là Chiyuki và một em gái tên Mitsuko, người qua đời sớm do sốt ban. Tuổi thơ của Mishima bị phủ bóng bởi người bà Natsu, người đã nuôi và cách ly ông khỏi gia đình trong vài năm. Natsu là cháu nuôi của Matsudaira Yoritaka, một daimyo của Shishido tại tỉnh Hitachi và lớn lên trong gia đình công chúa Arisugawa Taruhito; bà vẫn duy trì lễ giáo quý tộc ngay cả sau khi kết hôn với ông của Mishama. Natsu là một người cục cằn và dễ nổi nóng, điều này thường xuyên được ám chỉ trong các tác phẩm của Mishima. Chính qua tìm hiểu Natsu mà một số người đã phát hiện nỗi ám ảnh với cái chết của Mishima. Natsu thường không cho Mishima ra ngoài ánh nắng hay tham gia vào bất hoạt động thể thao nào với các cậu bé khác; điều này khiến ông phải dành phần lớn thời gian một mình hoặc chơi đồ chơi con gái. Mishima trở lại gia đình năm 12 tuổi. Cha ông, một con người của kỉ luật quân đội, đã áp dụng kỉ luật sắt với cậu bé Mishima bằng cách bồng cậu bé lên thành của một con tàu cao tốc; cha của Mishima cũng thường xuyên lùng sục phòng của ông và phát hiện những sở thích "ẻo lả" về văn chương của Mishima và xé các bản thảo đó của ông. Ở tuổi 12, Mishima viết những câu chuyện đầu tiên của ông. Ông đọc ất nhiều các tác phẩm của Oscar Wilde, Rainer Maria Rilke và vô số những tác gia kinh điển Nhật Bản khác. Ông nhập học một trường dành cho tầng lớp quý tộc ở Nhật. Sau sáu năm học, Mishima trở thành thành viên trẻ nhất trong ban biên tập văn học của trường, ông bị cuốn hút bởi các tác phẩm của Tachihara Michizō. Những tác phẩm xuất bản đầu tiên của ông bao gồm thơ Waka, trước khi chuyển hướng sang thể loại văn xuôi. Mishima được mời viết chuyện ngắn văn xuôi cho tạp chí văn học của trường và gửi bản Hanazakari no Mori (花ざかりの森 The Forest in Full Bloom), một câu chuyện trong đó người kể mô tả cảm xúc về những người tổ tiên còn sống trong nội tâm nhân vật. Giáo viên của Mishima rất ấn tượng với câu chuyện và họ giới thiệu nó cho tạp chí văn học uy tín, Bungei-Bunka (文芸文化 Literary Culture). Câu chuyện với ngôn ngữ ẩn dụ và cách ngôn, đã được xuất bản năm 1944, giới hạn trong 4000 bản do việc thiếu nguyên liệu giấy thời chiến tranh. Để bảo vệ ông khỏi phản ừng từ các bạn đồng môn, các giáo viên của Mishima đã đặt cho ông bút danh "Yukio Mishima". Chuyện Tabako (煙草, tạm dịch: Thuốc lá), xuất bản năm 1946, mô tả sự khinh miệt và đối xử mà Mishima gặp phải ở trường khi ông thổ lộ với những thành viên của CLB Rugby trường rằng ông gắn bó với nghề văn chương. Những kí ức này cũng là nguồn tư liệu cho tác phẩm Shi o Kaku Shōnen (詩を書く少年, tạm dịch: Cậu bé làm thơ) sau này, xuất bản năm 1954. Mishima bị gọi kiểm tra sức khỏe quân ngũ trong thế chiến II. Nhưng khi kiểm tra sức khỏe, ông bị cảm lạnh và đã nói dối với bác sĩ quân đội rằng mình bị lao, vì vậy Mishima đã được tuyên bố là không đủ tiêu chuẩn sức khỏe nhập ngũ. Dù cho người cha cấm ông không được viết truyện nữa, nhưng Mishima vẫn tiếp tục bí mật viết vào buổi đêm, dưới sự ủng hộ và bảo vệ của mẹ ông, bà luôn là người đầu tiên đọc một chuyện mới của Mishima. Tham dự các buổi thuyết giảng ban ngày và viết chuyện ban đêm, Mishima tốt nghiệp trường Đại học Tokyo năm 1947. Sau đó ông dành được một vị trí nhân viên bộ tài chính trong chính phủ, một tương lai sáng lạn đang chờ đón. Tuy nhiên, Mishima lại cảm thấy kiệt sức và cha ông đồng ý cho ông từ chức trong năm đầu tiên để tập trung thời gian cho viết lách. Mishima bắt đầu viết chuyện ngắn Misaki nite no Monogatari (岬にての物語 A Story at the Cape) năm 1945 và tiếp tục viết cho đến cuối thế chiến thứ 2. Vào tháng 1 năm 1946, ông tới thăm nhà văn Yasunari Kawabata tại Kamakura và mang theo bản thảo chuyện Chūsei (中世 The Middle Ages) và Tabako, nhằm xin lời khuyên và sự giúp đỡ của Kawabata. Tháng 6 năm 1946, nhờ lời khuyên của Kawabata, Tabako được tạp chí văn chương mới Ningen (人間 Humanity) xuất bản. Cũng trong năm 1946, Mishima bắt đầu viết tiểu thuyết đầu tay, Tōzoku (盗賊 Thieves), trong đó câu chuyện kể về hai thành viên trẻ trong gia đình quý tộc luôn muốn được tự vẫn. Tiểu thuyết này xuất bản năm 1948, nhờ nó mà Mishima đã được xếp vào hàng ngũ thế hệ thứ hai của những nhà văn thời hậu chiến. Sau đó, ông cho ra đời Confessions of a Mask, một tác phẩm bán tự truyện kể về người đồng tình luôn phải lấp sau mặt nạ để hòa nhập vào xã hội. Cuốn tiểu thuyết đã rất thành công và biến Mishima trở thành một nhân vật nổi tiếng ở tuổi 24. Vào khoảng năm 1949, Mishima cho xuất bạn một serie tiểu luận trong Kindai Bungaku về Kawabata Yasunari, người mà ông dành cho một sự ngưỡng mộ sâu sắc. Mishima là một nhà văn đa tài, ông không chỉ viết tiểu thuyết, tiểu thuyết ngắn, chuyện ngắn, tiểu luận mà còn là một nhà biên kịch có tiếng cho sân khấu kịch Kabuki và những phiên bản hiện đại của thể loại kịch Nō. Các tác phẩm của ông đã dành được tiếng vang quốc tế và rất nhiều trong số đó đã được dịch sang tiếng Anh. Mishima đã đi tới rất nhiều nơi; năm 1952, ông tới thăm Hy Lạp, đất nước đã từng làm say đắm ông từ thời thơ ấu. Những kinh nghiệm thu được từ chuyến thăm đã xuất hiện trong Shiosai (Sound of the Waves), xuất bản năm 1954, câu chuyện lấy cảm hứng từ thần thoại Daphnis và Chloe của Hy Lạp. Mishima cũng khắc họa những sự kiện đương thời trong các tác phẩm của mình. The Temple of the Golden Pavilion xuất bản năm 1956, là một câu chuyện tiểu thuyết hóa về vụ cháy ngôi chùa nổi tiếng ở Kyoto. Utage no Ato (After the Banquet), xuất bản năm 1960, bám sát những sự kiện xung quanh chiến dịch tranh cử thị trưởng Tokyo của chính trị gia Hachirō Arita, vì tác phẩm này mà Mishima đã bị kiện vị tội xâm phạm cá nhân. Năm 1962, tác phẩm Utsukushii Hoshi (Beautiful Star), một tác phẩm gần với thể loại khoa học viễn tưởng thời đó, được xuất bản và nhận được những phản ứng trái ngược. Mishima từng ba lần được đề cử giải Nobel và là một nhà văn yêu thích của rất nhiều nhà xuất bản quốc tế. Tuy nhiên, năm 1968, người thầy đầu tiên của ông Kawabata dành được giải Nobel và Mishima hiểu rằng cơ hội nhận được giải thưởng cho người Nhật Bản trong tương lai gần là rất nhỏ. Cũng có tin đồn rằng Mishima muốn chuyển giải thưởng cho bậc lão thành Kawabata, người đã giới thiệu ông tới văn đàn Tokyo trong thập niên 1940. Năm 1955, Mishima tham gia lớp tập thể thao và chế độ dinh dưỡng cho tập luyện ba buổi một tuần được ông tuân thủ trong suốt 15 năm cuối đời. Trong bài tiểu luận xuất bản năm 1968, Sun and Steel, Mishima phàn nàn về việc những nhà trí thức coi trọng đầu óc hơn thân thể. Mishima sau đó đã trở nên rất điêu luyện với môn kendō. Dù cho đã từng thăm các quan bar dành cho gay ở Nhật Bản, vấn đề định hướng giới tính của Mishima hiện vẫn là một chủ đề bàn thảo ở Nhật. Mishima kết hôn với Yoko Sugiyama ngày 11 tháng 6 năm 1958 và có hai con là Noriko (1959) và Lichiro (1962). Năm 1967, Mishima gia nhập Lực lượng phòng vệ đất liền Nhật Bản và trải qua việc tập luyện cơ bản. Một năm sau đó, ông thành lập Tatenokai (Hội lá chắn) nhằm tập hợp các thanh niên trai tráng có võ và thề sẽ bảo vệ Nhật Hoàng. Trong 10 năm cuối cuộc đời, Mishima viết một vài vở kịch và tham gia đóng trong vài bộ phim cũng như đồng chỉ đạo một bộ phim chuyển thể từ một trong những chuyện của ông, Patriotism, the Rite of Love and Death. Ông cũng tiếp tục viết bộ bốn tác phẩm , Hōjō no Umi (Sea of Fertility), những tác phẩm xuất bản theo khổ định kỳ từ tháng 9 năm 1965. Ngày 25 tháng 11 năm 1970, Mishima và bốn thành viên của Hội lá chắn, tới thăm sĩ quan chỉ huy doanh trại Ichigaya, một trụ sở ở Tokyo của Lực lượng phòng vệ Nhật Bản. Bên trong trụ sở, họ dựng chướng ngại vật và trói vị chỉ huy trên ghế. Với một bản tuyên ngôn và khẩu hiệu chuẩn bị sẵn nêu rõ các yêu cầu, Mishima bước ra ban công để hô hào các binh sĩ tụ tập phía dưới và xúi dục họ đảo chính để thiết lập lại sức mạnh của hoàng đế. Tuy nhiên, những lời nói của Mishima chỉ khiến chọc giận các binh sĩ và bản thân ông thì bị chế giễu. Ông hoàn thành bài diễn văn đã chuẩn bị sẵn, trở lại phòng chỉ huy và tự sát theo nghi thức seppuku, nhiệm vụ sau cùng truyền thống của nghi thức này được giao cho thành viên Masakatsu Morita của Hội lá chắn thực hiện, tuy nhiên Morita không đủ khả năng thực hiện điều này và cuối cùng Mishima cho phép một thành viên khác của Hội lá chắn, là Hiroyasu Koga ,chặt đầu ông. Những nghi vấn được đặt ra xung quanh sự tự vẫn của Mishima. Vào thời điểm Mishima qua đời, ông đã hoàn thành tác phẩm cuối cùng The Sea of Fertility. Ông được công nhận là một trong những nhà văn hậu chiến phong cách nhất trong văn học ngôn ngữ Nhật. Mishima viết 40 tiểu thuyết, 18 vở kịch, 20 sách về chuyện ngắn, khoảng 20 sách về tiểu luận cũng như một kịch bản. Phần lớn các tác phẩm này bao gồm những cuốn sách được viết nhanh nhằm thu lợi nhuận, dù chúng bị coi nhẹ nhưng những phần quan trọng của các cuốn sách này vẫn được lưu giữ. Vào cuối đời, Mishima là một người tán dương chủ nghĩa dân tộc. Các nhân vật cánh tả không ưa gì ông, đặc biệt là vì ý tưởng chấn hưng tinh thần võ sĩ đạo (bushidō) của Mishima, ông cũng bị rất nhiều những người theo chủ nghĩa dân tộc chỉ trích vì luận điểm nêu ra trong Bunka Bōeiron (文化防衛論 A Defense of Culture), cho rằng Hirohito nên thoái vị và phải nhận trách nhiệm cho sự chết chóc trong chiến tranh. ∙ Giải Shincho của Nhà xuất bản Shinchosha, 1954, cho The Sound of Waves. ∙ Giải Kishida của Nhà xuát bản Shinchosha cho các tác phẩm kịch, 1955. ∙ Giải Yomiuri của Báo Yomiuri Newspaper Co., cho tiểu thuyết xuất sắc nhất, 1957, The Temple of the Golden Pavilion. ∙ Giải Yomiuri của Báo Yomiuri Newspaper Co., cho vở kịch xuất sắc nhất, 1961, Toka no Kiku. LỜI NGƯỜI DỊCH Từ thế kỷ 15, nước Nhật có một loại nghệ thuật sân khấu giống tương tự như hát bội ở Việt Nam. Những đề tài được bộ môn này đưa lên diễn tả trên sân khấu phần nhiều bắt nguồn từ những chuyện cổ tích Nhật. Nghệ thuật sân khấu này tiếng Nhật gọi là Noh. Sau đây là quang cảnh của một sân khấu hát Noh. Những nhân vật chánh đeo mặt nạ, mặc quần áo đặc biệt tượng trưng cho những vai liên hệ tới đề tài diễn tả. Một ban hợp ca đề xướng lên những bài hát được dùng làm âm thanh phụ hoạ cho những lời nói của nhân vật chánh. Ngoài ra còn có tiếng sáo và tiếng trống đệm. Sau đây là thí dụ về tuồng tích của một tuồng Noh. Chuyện cổ tích có kể rằng: ngày xưa có một chàng trai thuộc dòng dõi nho phong, thanh lịch. Anh ta yêu một thiếu nữ và nàng đặt điều kiện là anh ta phải tới hầu hạ tại nhà nàng trong chín mươi chín đêm liền, để rồi tới đêm thứ 100 thì nàng sẽ ban tình yêu cho. Anh ta đã kiên nhẫn tới nhà nàng liên tiếp trong 99 đêm liền để rồi sau đó lại ra về không. Tới đêm thứ 100, khi sắp sửa tới lúc được quyền yêu nàng, thì anh ta lại chỉ tới để tự tìm cái chết ngay trước mặt nàng. Tên người con trai đó là Fuka-kusa-no- Shosho và người con gái: Kayoi Komachi. Trên đây là đoạn chuyện cổ tích, và tuồng Noh chỉ bắt đầu diễn tả từ khúc nối tiếp vào câu chuyện đó như sau: Khi màn kéo lên, trên sân khấu khán giả thấy một bóng ma đàn bà mặc quần áo đỏ, có hoa sặc sỡ tượng trưng cho gia đình giàu có, đang thơ thẩn hái những hạt đậu. bóng ma đeo mặt nạ đó chính là hồn của Komachi hiện lên. Tiếng sáo và trống dạo đầu rồi ban hợp ca đồng xướng lên những câu hát: “Hỡi nàng con gái kia, nhặt những hạt đậu gì vậy?...” Sau đó xuất hiện một nhà sư đi qua, nhìn thấy biết nàng là hồn ma hiện về, nên đến hỏi han. Nàng liền thú thật mọi chuyện tiền oan, nghiệp chướng đã lỡ gây ra nên bây giờ mặc dầu chết rồi hồn vẫn còn lẩn quẩn với mối tình chốn dương gian. Nghe xong, nhà sư liền niệm Phật, tụng kinh và dùng triết lý khuyên giải để đưa hồn người đàn bà bất hạnh về Tây Trúc. Nhờ đó, hồn nàng mới siêu thoát được và không còn hiện về nữa. Mishima rất thích loại tuồng Noh này, tháng nào cũng đi coi một lần. Và từ đó ông rút ra một quan niệm triết lý về cái Đẹp của nghệ thuật như sau: “Đẹp là cái gì tàn bạo, dũng mãnh để đi tới chỗ tự huỷ hoại.” Theo Mishima, loại văn chương mô tả tâm lý quằn quại đau khổ của con người như văn của Shakespeare chỉ là những món ăn tinh thần của giới trưởng giả “bourgeois”. Loại văn chương đó không thể hiện được cái Đẹp tuyệt đối của sự vật. Cái Đẹp âm thầm, cuối cùng, vĩnh cửu chỉ có thể tìm thấy trong sự bạo động và nhất là trong sự chết. Chính cái Đẹp đó đã được thể hiện trong văn thơ của Thomas Mann với cuốn truyện “Death in Venice” (Bản dịch của Nguyễn Tử Lộc, Trẻ xuất bản) hay Edga Allan Poe trong tập thơ “Con Quạ.” Năm 1970, Mishima có viết một bài nguyên văn bằng Anh ngữ, đăng trong Đặc san “This is Japan” dưới nhan đề Japan Within (Bề trong Nhật Bản) để diễn tả triết lý về cái Đẹp của sự Chết như sau: “Nếu những sự bành trướng, kỹ nghệ và tân tiến hoá, với một đời sống xô bồ gần như điên dại của đám dân thành thị là “bộ mặt bề ngoài” của nước Nhật thì tôi tự cảm thấy cần phải cương quyết bảo vệ và tái lập nội dung “Nhật Bản bên trong”. Tuồng Noh chính là một tiêu chuẩn để tạo ra sự thanh tịnh của tâm hồn. Chính vẻ Đẹp của sự thanh tịnh đó đã lôi kéo tôi rời bỏ đời sống xô bồ hời hợt của nước Nhật bề ngoài hiện nay. Một cái xô bồ bề ngoài đã huỷ hoại những giá trị bên trong –và thúc đẩy tôi tạo ra một bộ mặt mới khác cho Nhật Bản. Và chính sự Chết đã nằm dưới cái Đẹp đó. Một ngày nào đó rất có thể, tôi sẽ đi theo sức lôi cuốn của vẻ đẹp này để tìm tới cái chết trong sự huỷ hoại, im lặng.” Bốn năm sau khi viết câu chuyện này, Mishima đã tự tử theo nghi lễ võ sĩ đạo. Ông sống tất cả 48 năm, kể từ lúc mở mắt chào đời tại Tokyo năm 1925. VÀI ĐIỀU GHI NHẬN VỀ CUỐN TIỂU THUYẾT “SAU BỮA TIỆC” Đây là một cuốn tiểu thuyết luận đề tương tự như loại tiểu thuyết luận đề Đoạn Tuyệt của Nhất Linh. Những luận đề được lồng vào Sau Bữa Tiệc là: Vấn đề đạo đức: Có ba khuôn mặt điển hình, tượng trưng cho 3 quan niệm đạo đức khác nhau: Noguchi. Tượng trưng cho quan niệm Đạo Đức Bổn phận theo kiểu Đạo Đức của Kant. Phải tuân theo những nguyên tắc tối thượng, bất di bất dịch của Đạo Đức. Đây là những nguyên tắc phổ quát chi phối mọi hoạt động của con người. Kazu. Đại diện cho quan niệm đạo đức cởi mở, đạo đức sáng tạo của Bergson. Quan niệm đạo đức này cho rằng phải tuỳ hoàn cảnh mà áp dụng những quy luật đạo đức một cách uyển chuyển, luôn sáng tạo ra những lề luật mới, những cách áp dụng mới. Nagayama. Đại diện cho khuynh hướng đạo đức cá nhân. Câu châm ngôn phát biểu cho quan niệm đạo đức này như ông ta đã nói với Kazu là “Tôi làm việc tôi làm.” Vấn đề Chánh trị. Ông đưa ra hai loại chánh khách: loại chánh khách lý tưởng (Noguchi) và loại chánh khách theo chủ nghĩa Hiện thực – Realism (Yamazaki). Mishima chứng minh sự thất bại của các chánh khách lý tưởng và ca tụng cái đẹp của những chánh khách theo thuyết Hiện thực với nỗ lực tạo ra những “phép lạ chánh trị” và chấp nhận đường lối ma giáo của đối thủ. Đã lao mình vào chánh trường thì phải chấp nhận sự phản bội, tàn bạo của đối phương. Chấp nhận không phải để đi theo, nhưng để nỗ lực bằng đường lối chân chánh ngõ hầu lật ngược thế cờ. Điều đó gọi là những phép lạ chánh trị. Những người chủ trương đường lối đó được gọi là theo Hiện thực chủ nghĩa. Chúng ta thấy Hiện thực có nhiều điểm giống với chủ thuyết Machiavelli nhưng hoàn toàn khác hẳn về căn bản. Vấn đề Gia đình. Tác giả Sau bữa tiệc chủ trương con người cần có một gia đình. Nhưng nếu vợ chồng lấy nhau mà không hợp tánh tình, quan điểm thì nên ly dị. Theo ông nếu không tìm thấy hạnh phúc khi sống chung với nhau thì “chim nào nên trở về tổ nấy”. Như thế là hay hơn cả. Tiếc rằng trong cuốn tiểu thuyết này, vợ chồng Noguchi không có con, nên vấn đề ly dị dễ dàng. Nhưng nếu trong trường hợp có con, không biết tác giả sẽ giải quyết thế nào cho êm đẹp cả. Trong khi đang dịch cuốn truyện này, một người bạn có bảo tôi: “Tiểu thuyết đã hết thời. Bây giờ người ta có phương tiện đi du lịch rộng rãi, nên không cần đọc truyện. Cuộc sống thực tế có phần còn sôi động, gay cấn hơn tiểu thuyết.” Khi đọc xong cuốn truyện của Mishima, chúng tôi thấy tiểu thuyết vẫn là thế giới riêng biệt khác hẳn cuộc sống thực tế. Cuộc sống hàng ngày ví như địa hình, địa vật bên ngoài, và tiểu thuyết là tấm hoạ đồ của địa hình, địa vật đó. Nhiều khi nhờ có bản đồ mà ta tìm ra lối đi bên ngoài. Tiểu thuyết vẫn là một phương tiện suy tư và giáo dục, là một công trình căn bản của truyền thông trong lúc hai phạm vi âm thanh và hình ảnh chỉ là những phương tiện phụ thuộc rút ra từ tiểu thuyết. Không tin, các bạn cứthửđọc cuốn truyện này xem. Saigon, ngày 25 tháng 4 năm 1974 Dịch giả Mời các bạn đón đọc Sau Bữa Tiệc của tác giả Yukio Mishima & Tuyết Sinh (dịch).
Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich
Bản dịch của Thạch Chương và Trần Lương Ngọc LỜI GIỚI THIỆU (của Max Hayward và Leopold Labedz) Cuốn Một ngày trong Đời Ivan Đênixôvitch của Alêkxanđr Xôlgiênitxyn quả nhiên là tác phẩm làm kinh hoàng nhất xưa nay từng được xuất bản tại Liên Xô. Ngoài sự kiện là một kiệt tác văn chương, nó còn là một tài liệu cách mạng sẽ ảnh hưởng đến khí hậu đời sống bên trong Liên Xô. Nó là một câu truyện không thương xót và được kể một cách tàn nhẫn về những trại lao công cưỡng bách dưới thời Xtalin. Xôlgiênitxyn đã vạch trần cả một thế giới mới. Trong một phần tư thế kỷ, cái hệ thống trại tập truung to lớn được Xtalin tạo nên đã, trực tiếp hay gián tiếp, là một phần của đời sống hàng ngày của mọi người dân Xô-viết. Chẳng có một gia đình nào mà đã không có một người con, một người chồng, một người anh, hay thân nhân nào khác ở trong một trại, và sự thật về những gì Xôlgiênitxyn nói ra đã được biết đdến từ lâu, nhưng chẳng phải lúc nào cũng được tin, bên ngoài Liên Xô. Nhưng cuốn sách của Xôlgiênitxyn, bởi cái phẩm chất nghệ thuật tột đỉnh của nó, tạo ra một ấn tượng hãi hùng và ghê tởm tại ngoại quốc bởi ngay đến cả những nạn nhân xót hận nhất của các trại tập trung Xô-viết. Đã nhiều năm nay rồi, người ta đã có thể nhắc đến sự hiện hữu của những trại tập trung dưới thời Xtalin trong văn chương Xô-viết, và, quả vậy, hình ảnh của người tù được trở về đã trở thành một điều nhàm chán, nhưng sự thật đời sống trong cái địa ngục nhân tạo này ra sao thì chưa hề bao giờ được tiết lộ trong sách vở cho người đọc Xô-viết. Tấm màn yên lặng phủ kín cái vũ trụ lao trại đã dày đặc như tấm màn tuyết che phủ khoảng đất lớn nhất thế giới, kéo dài từ bán đảo Kôla đến Magađan, từ Vorkuta đến Kôlyma. Trong cuộc đấu tranh để vùng dậy từ những vực sâu băng hoại do Xtalin xô họ xuống, các nhà văn Xô-viết sớm hay muộn đã phải thỏa hiệp với sự ông ta phản bội tính nhân bản sâu sắc đã có hồi làm cho văn chương Nga thật là to lớn trước mắt thế giới đó. Sự việc đã xảy đến cho Alêkxanđr Xôlgiênitxyn là phục hồi những giá trị văn chương và nhân bản của quá khứ. Quả là điều thích hợp khi ông đã chọn làm như thế bằng cách phơi bày một cách tàn nhẫn cái thể chế ô nhục đã có hồi vừa là công cụ vừa là hiện thân của một nền bạo quyền vô cùng đáng khinh miệt. Xôlgiênitxyn nhờ đó đã làm yên ổn lương tri bị hành hạ của vô số những người Nga đã phải sống quá lâu trong yên lặng với ý thức về niềm ô nhục này. Như Alekxanđr Tvarđôsky nói trong phần tựa của ông: “Tác dụng của cuốn tiểu thuyết này, cuốn tiểu thuyết vô cùng khác thường về sự thẳng thắn và sự thật đau thương của nó, là làm trí ta vơi nhẹ đi những gì từ trước đến nay chưa hề được nói tới, nhưng đã phải được nói tới. Do đó mà nó làm ta vững mạnh hơn và cao thượng hơn”. Sức mạnh của cuốn tiểu thuyết to lớn đến độ ta cũng có thể chia sẻ cái cảm tưởng này nữa. Lương tri của một dân tộc chẳng thể nào được thỏa mãn bởi một công thức tự kiêu tự đại, ghê tởm trong cái giả đạo đức của nó, theo đó, kể từ những năm của Đại hội thứ hai mươi của Đảng Cộng Sản Liên Xô, những “lỗi lầm” của Stalin đã được gán ghép cho “một số hiện tượng liên kết với sự tôn thờ cá nhân”. Cuốn tiểu thuyết của Xôlgiênitxyn vượt qua hẳn cái mặc ước này. Trong các cung cách khác nữa, Xôlgiênitxyn cũng vượt qua giới hạn của những gì từ trước đến nay đã được phép trong những cuộc thảo luận công khai về quá khứ. Ông chứng minh rằng những trại tập trung chẳng phải là một đặc điểm cô lập trong một xã hội chính ra đáng ngợi khen- kế quả không may của một sự “vi phạm luật pháp xã hội chủ nghĩa”- mà, thật ra, chúng đã là những tiểu vũ trụ của cả xã hội đó nói chung. Cuốn tiểu thuyết vạch một đường song song mặc thị giữa “bên trong” và “bên ngoài” trại: Một ngày trong đời của một công dân Xô-viết tầm thường đã có nhiều điểm chung với đời sống của những người đồng bào với ông đằng sau hàng rào kẽm gai. Bây giờ ta thấy rằng ở cả hai phía hàng rào, đó là cùng một câu truyện về nỗi thống khổ vật chất và tinh thần, về sự băng hoại, niềm uẩn ức và nỗi king hoàng. Khi chọn một công dân rất tầm thường làm nhân vật chính của câu truyện mình, Xôlgiênitxyn đã bẻ gẫy một mặc ước khác. Ivan Đênixôvitch chẳng phải là anh hùng lao động tiêu chuẩn nâng cao lá cờ xã hội chủ nghĩa thắng lợi và bước những bước dài tin tưởng đi vào tương lai Cộng sản chủ nghĩa huy hoàng. Hắn là một con người hèn mọn, chất phác, rất ư là bối rối, chẳng muốn gì hơn là sống hết một kiếp cần lao cách nào tốt nhất mà hắn có thể. Hắn tranh đấu một cách thảm thương để giữ lại được lòng thẳng thắn, tự trọng, và kiêu hãnh trong một cuộc chiến vô vọng với những lực huyền bí mà chúng dường như nhất quyết- vì những lý do vượt tầm hiểu biết của hắn- phá hủy phẩm cách con người của hắn, chối bỏ cái quyền yêu thương quê hương của hắn, và khiến cho công lao của đôi bàn tay hắn trở thành vô nghĩa. Cho đến giờ ta mới chỉ nghe nói đến những nạn nhân được tán tụng nhiều hơn của “thời kỳ tôn thờ cá nhân”. Trong chiến dịch phục hồi được phát động bởi những kẻ thừa kế Xtalin, người ta đã nhấn mạnh vào “những người Cộng sản chính trực bị kết án một cách bất công”. Bây giờ thì, lần đầu tiên, ta học biết được từ Xôlgiênitxyn cái cách lối theo đó hàng triệu người không tên đã trả bằng tự do của họ và bằng chính cuộc đời cho công cuộc “xây dựng xã hội chủ nghĩa”. Xôlgiênitxyn đã phá hủy cho muôn đời cái màng lưới dối trá nó đã từng bao phủ những trại tập trung Xô-viết từ trên ba chục năm nay- ấy là không kể đến những huyễn tượng đã từng được lan truyền đi với niềm tin tưởng nhường ấy và với vẻ ngạo mạn nhường ấy, mà mọi bằng chứng đều trỏ đến tác dụng trái ngược, bởi những kẻ tự cho mình là “những người bạn của Liên Xô”, mà giờ đây đã bị phát lộ là những kẻ bội phản nước Nga đích thực và bội phản tất cả nhân loại. Mong được như thế trên lương tri của họ. Quả sẽ nhầm lẫn, tuy nhiên, nếu chỉ xét cuốn tiểu thuyết của Xôlgiênitxyn trong những quan hệ lịch sử và chính trị thô lỗ. Như mọi tác phẩm lớn của nghệ thuật, nó ở ngoài nơi chốn và thời gian. Khi trình bày một con người, trong một thời gian và nơi chốn đặc thù, trong cái cảnh trí nhớp nhúa nhất có thể tưởng tưởng nổi, Xôlgiênitxyn đã thành công trong việc làm vững mạnh đức tin của ta vào thắng lợi tối hậu của những giá trị văn minh đối với sự ác. Cuốn tiểu thuyết của ông là một vở kịch đạo đức trong đó chàng thợ mộc Ivan Đênixôvitch Sukhôv là Kẻ Bình Phàm vậy. MAX HAYWARD LEOPOLD LABEDZ Nữu Ước, Tháng Giêng, 1963 THAY LỜI TỰA Chủ đề cuốn tiểu thuyết của Alêkxanđr Xôlgiênitxyn thật là khác thường trong văn chương Xô-viết. Nó phản hưởng lại những hiện tượng thiếu lành mạnh trong đời sống chúng ta liên kết với thời kỳ tôn thờ cá nhân, hiện đã được Đảng phơi trần và loại bỏ. Mặc dù những biến cố này thật là gần gũi xét về thời gian, nhưng chúng dường như rất xa vời đối với chúng ta. Nhưng cho dù quá khứ có thế nào, thì ta, trong hiện tại, không được phép lạnh nhạt với nó. Chỉ có cách khảo sát những hậu quả của nó đầy đủ, can đảm và thành thực, ta mới có thể đảm bảo được một sự đoạn tuyệt hoàn toàn và vĩnh viễn với tất cả những sự việc đã đổ một bóng tối trên vùng quá khứ. Đó chính là điều N.S. Khrushchev đã muốn nói khi ông tuyên bố trong bài diễn văn bế mạc đáng ghi nhớ tại Hội nghị thứ hai mươi: “Nhiệm vụ của chúng ta là phải khảo sát kỹ lưỡng mọi khía cạnh của mọi vấn đề liên quan đến sự lạm dụng quyền hành. Đến thời thì rồi ta phải chết, bởi chúng ta tất cả sẽ phải chết, nhưng chừng nào chúng ta còn tiếp tục làm việc thì chúng ta có thể và phải làm sáng tỏ nhiều điều và nói sự thật với Đảng và nhân dân... Việc này phải được thi hành để ngăn ngừa những sự việc như thể khỏi xảy ra trong tương lai”. Một ngày trong Đời Ivan Đênixôvitch chẳng phải là một cuốn hồi ký trong cái nghĩa thông thường của từ ngữ. Nó không chỉ chứa đựng những ghi chép về kinh nghiệm cá nhân của tác giả và ký ức của ông ta về chúng mà thôi, tuy rằng chỉ có kinh nghiệm cá nhân mới có thể mang lại cho cuốn tiểu thuyết một phẩm chất đích thực như thế. Nó là một tác phẩm nghệ thuật. Và chính cái cung cách theo đó chất liệu được sử dụng đã mang lại cho nó cái giá trị nổi bật như một chứng ngôn và làm nó trở thành một tài liệu nghệ thuật, mà khả tính của nó từ trước đến nay dường như không thể có được trên căn bản “chất liệu cụ thể”. Trong Xôlgiênitxyn người đọc sẽ không tìm thấy được một bản trần thuật hoàn toàn đầy đủ về cái thời kỳ lịch sử được đánh dấu đặc biệt bởi năm 1937 đó, thời kỳ thật là đau xót trong tất cả những kỷ niệm của chúng ta. Chủ đề của Một Ngày nhất thiết được giới hạn bởi thời gian và nơi chốn của động tác và bởi những hạn định của thế giới trong đó nhân vật chính bị giam hãm. Một ngày của Ivan Đênixôvitch Sukhôv, một tù nhân trong một trại lao động cưỡng bách, như là Alêkxanđr Xôlgiênitxyn đã mô tả (đây là lần đầu tiên tác giả xuất hiện trên bản in), diễn ra như một bức tranh linh hoạt và xác thực phi thường về bản chất con người. Đây chính là điều trên hết đã mang lại cho tác phẩm cái xung kích độc nhất của nó. Người đọc có thể tưởng tượng ra dễ dàng nhiều người trong số những người được trình bày tại đây, trong các tình huống bi thảm này, như đang chiến đấu nơi tiền tuyến hay làm việc tại các công trình tái thiết hậu chiến. Họ cùng là một loại người, nhưng họ chưa hề bị định mệnh phơi bày trước nỗi nguy khốn hung bạo chẳng những thể xác mà cả tinh thần nữa. Tác giả cuốn tiểu thuyết này không cầu kỳ để cố tình nhấn mạnh cái tính thô bạo chuyên chế nó là hậu quả của sợ đổ vỡ trong luật pháp Xô-viết. Ông đã lấy một ngày rất tầm thường từ lúc thức dậy đến lúc tắt đèn trong đời một tù nhân. Nhưng cái ngày tầm thường này không thể không chất chứa trong tim người đọc những chua xót đau thương cho số phận của những con người này; họ sống động trước mắt người đọc và có vẻ như thật gần gũi với hắn trong những trang cuốn sách này. Thành quả lớn nhất của tác giả, tuy nhiên, là cái chua xót và đau thương đó chẳng hề truyền đạt một cảm giác hoàn toàn vô vọng. Ngược hẳn lại. Tác dụng của cuốn tiểu thuyết này, cuốn tiểu thuyết thật là khác thường về sự thẳng thắn và sự thật đau thương của nó, là làm trí ta vơi nhẹ đi những gì từ trước đến nay chưa hề được nói tới, nhưng đã phải được nói tới. Do đó mà nó làm ta vững mạnh hơn và cao thượng hơn. Câu truyện cay nghiệt này chứng tỏ một lần nữa rằng ngày nay chẳng có khía cạnh nào trong đời sống chúng ta mà không thể được đề cập tới và mô tả trung thực trong văn chương Xô-viết. Bây giờ chỉ còn là vấn đề nhà văn mang lại cho nó bao nhiêu tài năng mà thôi. Còn có một bài học rất đơn giản khác nữa để học được từ cuốn tiểu thuyết này. Nếu chủ đề của một tác phẩm mà thật sự có ý nghĩa, nếu nó trung thành với những sự thật to lớn của đời sống, nếu nó có tính người sâu sắc trong sự trình bày ngay đến cả những đề tài đau đớn nhất, thì nó không thể không tìm thấy được hình thức phát biểu thích hợp. Bút pháp của Một Ngày rất là linh hoạt và độc đáo trong sự khiêm tốn và bình dị phàm trần của nó. Nó hết sức hồn nhiên và do đó có được cái sức mạnh và phẩm cách lớn lao bên trong. Tôi không muốn đoán trước lời phê phán của người đọc về tác phẩm ngắn này, nhưng riêng tôi không còn một nghi ngờ nhỏ nhoi nào hết rằng nó đánh dấu sự xuất hiện trên văn đàn của một tài năng mới, độc đáo, và trưởng thành. Rất có thể rằng sự tác tác sử dụng- cho dù có hiếm hoi và thích đáng đến mấy- một số từ ngữ và phát biểu điển hình cho cái khung cảnh trong đó nhân vật chính đã sống và đã làm việc có thể làm phật lòng một thị hiếu đặc biệt khó tính. Nhưng xét chung tất cả, thì Một Ngày là một tác phẩm mà ta cảm thấy được một niềm tri ân tác giả đến cái độ mà ước vọng lớn nhất của ta là lòng tri ân này nên được những người đọc khác cùng chia sẻ. ALÊKXANĐR TVARĐÔVSKY ° ° ° Cũng như mọi lần, hiệu đánh thức nổi lên lúc 5 giờ sáng- tiếng một chiếc búa gõ vào một thanh sắt bên ngoài Bộ chỉ huy trại. Tiếng kêu ròn rã vẳng lại yếu ớt từng hồi lọt qua các khung cửa kính phủ đầy băng dày có đến ba phân, và tắt dần đi mau chóng. Trời rét, và người giám thị chẳng buồn gõ tiếp làm gì. Âm thanh im bặt và phía bên kia cửa sổ tối đen như mực, cứ như là nửa đêm ấy, lúc Sukhôv phải dậy để đi ra nhà vệ sinh, duy có điều bây giờ ba luồng sáng vàng khè hắt vào cửa sổ từ hai ngọn đèn ở chỗ ngoại vi và một ngọn bên trong trại. Anh không hiểu tại sao mà chả có ai đến mở trại xá cả. Và người ta cũng chả nghe thấy bọn cần vụ kéo thùng vệ sinh lên đòn gánh để khiêng ra ngoài nữa. Sukhôv không bao giờ ngủ quá hiệu đánh thức mà bao giờ cũng nhổm dậy ngay. Như thế anh có được một tiếng rưỡi trước khi điểm danh buổi sáng, một khoảng thời giờ mà bất cứ ai biết được thế nào là đời sống trong trại bao giờ cũng có thể kiếm chác tí tỉnh gì đó. Có thể khâu cho ai đó một lớp vải bọc đôi bao tay từ một miếng vải lót cũ. Có thể mang đến cho một công khu trưởng một đôi giày bốt nỉ đã khô của anh ta trong khi anh ta còn ở trong giường, để tránh cho anh ta khỏi mất công đi chân không lượn đi lượn lại quanh đống giày tìm đôi của mình. Hay có thể chạy đến một trong mấy phòng tiếp tế xem có tí việc gì làm không, quét dọn hay khuân vác gì đó. Hay có thể đi sang nhà ăn dọn chén bát khỏi các bàn và bưng hàng đống đến cho mấy người rửa chén. Đó cũng là một cách đi kiếm đồ ăn, nhưng bao giờ cũng có quá nhiều người khác với cùng một ý nghĩ. Và cái sự tệ nhất là nếu có chút gì còn thừa lại trong một cái bát và bạn lại thè lưỡi ra mà liếm. Bạn không đừng được. Và Sukhôv vẫn còn nghe văng vẳng bên tai những lời nói của tên công khu trưởng đầu tiên của anh, Kuzyômin- một tay tù lâu năm mà hồi 1943 đã ở trong trại được đến mười hai năm rồi. Một lần, bên một đống lửa đốt trong lúc dọn rừng, hắn đã nói với toán người mới được mạng tới từ tiền tuyến như thế này: “Mấy bạn, ở đây là luật rừng đấy ạ. Nhưng dù là ở đây cũng vẫn sống được. Đi đoong trước tiên là tên nào liếm sạch bát, tin tưởng vào trạm xá, hay làm ăng-ten cho bọn coi tù”. Hắn nói quả là đúng quá- dù rằng không lúc nào cũng hẳn là như vậy đối với những tên làm ăng-ten cho bọn coi tù. Chúng biết cách giữ thân lắm. Chúng vẫn sống nhơn nhơn, và chỉ có các tên khác là lãnh đủ mà thôi. Sukhôv bao giờ cũng tỉnh dậy lúc có hiệu đánh thức, nhưng hôm nay anh lại không. Anh cảm thấy khó chịu trong người từ đêm hôm trước- nhức nhối và đau đớn và ớn lạnh, và anh chẳng biết làm cách nào cho ấm được đêm đó. Trong giấc ngủ anh cảm thấy bịnh lắm và rồi đỡ hơn một chút. Suốt đêm anh cứ phát khiếp cái buổi sáng. Nhưng rồi buổi sáng cứ đến, như bao giờ. Với lại ai mà có cách làm cho ấm được, nào là lớp băng chất đống trên cửa sổ như thế kia, nào là một màng lưới sương muối giăng khắp trại xá, nơi mà các bức tường nối với trần nhà? Mà cái trại xá khốn nạn ấy nữa. Sukhôv cứ nằm nguyên trên giường. Anh nằm ở tầng trên cùng, chăn và áo măng-tô chùm kín trên đầu, và cả hai chân nhét vào ống tay áo trấn thủ. Anh chả nhìn thấy gì hết, nhưng anh có thể nghe các tiếng động mà biết được những sự việc gì đang diễn ra trong trại xá và tại chính nơi anh đang nằm. Anh có thể nghe tiếng bọn cần vụ đang chạy huỳnh huỵch khiêng xuống hành lang một trong những thùng vệ sinh chứa có đến gần một trăm lít. Đây được coi là việc nhẹ dành cho những người có tên trong danh sách bệnh nhân- nhưng khiêng được nó ra mà không làm sóng sánh xuống sàn thì chẳng phải là trò đùa! Rồi một người nào trong Công khu 75 đổ một đống giày bốt dạ từ phòng sấy xuống sàn nhà. Và bây giờ một người nào trong công khu của anh cũng làm như thế (hôm nay cũng đến lượt họ dùng phòng sấy). Hai anh công khu trưởng và phó hấp tấp xỏ chân vào bốt, và giường của họ kêu cót két, ọp ẹp. Tên công phu phó bây giờ chắc là sẽ đi lấy khẩu phần bánh mì. Rồi thì anh khu trưởng chắc có lẽ sẽ lên Ban kế hoạch sản xuất (BKHSX) trên Bộ chỉ huy. Nhưng, Sukhôv chợt nhớ, hôm nay đâu có phải là dịp lên thăm mấy ông thư ký BKHSX như mọi ngày thường đâu. Hôm nay là ngày lớn của anh em mà. Anh em đã nghe nói nhiều đến việc công khu mình- 104- đổi từ công việc cất xưởng sang một công việc mới, xây dựng một “Phát Triển Cộng Đồng Xã Hội Chủ Nghĩa” mới. Nhưng cho đến giờ chưa có gì hơn là các khoảng đồng trống phủ đầy những đống tuyết, và trước khi làm được cái gì, thì phải đào hố đã, cắm cọc vào đó đã, rồi giăng dây kẽm gai lên đã- tù làm cho tù hưởng, để khỏi thoát được ra ngoài. Và rồi thì mới bắt đầu xây dựng được chứ. Dám cá mạng là trong một tháng sẽ chẳng có chỗ nào có thể ấm được- ngay đến một cái lỗ dưới đất. Và cũng chẳng đốt lửa lên được nữa- lấy gì làm nhiên liệu mà đốt? Cho nên chỉ còn mỗi hy vọng là làm việc như trâu. Anh công khu trưởng lo lắm và đang nghĩ cách giải quyết, đang nghĩ cách đùn công việc đó cho một công khu nào khác, công khu nào hơi tối dạ một chút. Tất nhiên đâu có thể đi tay không được. Chắc phải đút nửa ký thịt mỡ heo cho ông thư ký trưởng. Hay một ký ấy chứ lại. Có lẽ Sukhôv nên tìm cách có tên trong danh sách bệnh nhân để nghỉ được một ngày. Cứ thử đâu có sao. Cả người anh nhức nhối như giần. Rồi anh tự hỏi viên giám thị nào trực hôm nay? Anh nhớ lại là Ivan Cồ, một tên trung sĩ cao, ốm nhách, mắt đen. Lần đầu tiên nom thấy hắn thì khiếp đến tụt cả quần ra được, nhưng khi biết hắn rồi thì hắn là người dễ dãi nhất trong số giám thị trực- chẳng hề bao giờ nhốt ai vô nhà đá hay kéo ai lên sĩ quan kỷ luật. Thế là Sukhôv có thể nằm nguyên cho đến lúc nào tới giờ Trại xá 9 lên nhà ăn. Cả bộ giường rung chuyển khi hai người cùng nhỏm dậy một lúc- giường trên là láng giềng của Sukhôv, anh chàng đạo Báp-tít Aliêushka, và giường dưới là Buinôvsky, trước kia là đại úy trong hải quân. Khi khiêng hai thùng vệ sinh ra, hai anh cần vụ bắt đầu cãi lộn nhau về việc ai sẽ đi lấy nước nóng. Lời qua tiếng lại chí chóe cứ như hai mụ già. Anh thợ hàn điện ở Công khu 20 bèn rống lên với chúng: “Ê, mấy thằng khốn nạn!”. Và hắn ném một chiếc giày bốt vào chúng. “Tao sẽ làm cho chúng mày câm họng lại cho mà xem”. Chiếc giày bốt văng đến ầm một cái vào cái cột. Mấy tên cần vụ câm họng. Anh phó công phu kế bên lẩm bẩm than phiền: “Này, Vaxili Phiêuđôrôvitch! Mấy thằng khốn nàn ở phòng tiếp tế chơi đểu tao mày ạ. Mình bao giờ cũng được bốn chiếc bánh một ký, mà hôm nay được có ba. Thế là sẽ có tên bị thiếu phần rồi”. Hắn nói nhỏ, nhưng tất nhiên cả công khu đều nghe thấy hết, và tất cả đều nín thở. Ai sẽ bị thiếu phần chiều nay đây? Sukhôv vẫn cứ nằm y nguyên một chỗ, trên tấm nệm nhét đầy cứng mạt cưa. Giá mà nó ra làm sao hẳn một cái đi- hoặc là nóng hung lên hoặc là hết đau đi. Chứ cứ làng nhàng thế này thì anh chả biết ra thế nào hết. Trong lúc anh chàng đạo Báp-tít đang lẩm nhẩm đọc kinh, thì ông đại úy ở nhà vệ sinh quay trở về và nói, không hẳn là với một ai đặc biệt, mà có vẻ khoái trá lắm: “Liệu mà sẵn sàng gân cốt đi, mấy bạn! Ít nhất là hai mươi độ dưới không đấy”. Sukhôv quyết định đi bệnh xá. Và rồi có một bàn tay chắc mạnh nào lột phăng chiếc áo trấn thủ và chăn của anh ra. Sukhôv hất chiếc măng-tô nhồi bông khỏi mặt và nhỏm lên một chút. Đứng phía dưới, đầu ngang tầm giường tầng trên, là tên Thát-đát 1 Ốm. A, ra thằng khốn nạn này đã đến trực và lẻn đến rình anh em từ bao giờ. “S-854!” tên Thát-đát đọc ở miếng mục trắng khâu trên lưng chiếc áo đen. “Ba ngày nhà đá và làm việc như thường!”. Vừa mới nghe thấy cái tiếng nói khan khan tức cười của hắn là tất cả mọi người trong cả khu trại xá- lúc ấy rất là tối (không phải tất cả các đèn đều đã bật) và là nơi có hai trăm người ngủ trên năm mươi bộ giường xếp đầy rệp- thức thì có sinh khí hẳn lên. Những ai chưa tỉnh dậy vội vàng bận quần áo. “Dạ, thưa Công Dân Giám Thị 2 vì tội gì ạ?”. Sukhôv hỏi, và anh lấy cái giọng nghe thảm thương hơn là anh thực sự cảm thấy. Nằm nhà đá mà được làm việc như thường thì không đđến nỗi gì lắm. Bạn có đồ ăn nóng và không có thời giờ nghĩ ngợi lung tung. Không được thả ra đi làm mới thực là hình phạt. “Sao giờ này chưa dậy? Lên văn phòng Chỉ huy trưởng!” tên người Thát-đát dài giọng ra nói- cả hắn lẫn Sukhôv và tất cả mọi người khác đều biết tại sao anh ta phải vô nhà đá. Khuôn mặt nhẵn nhụi, nhăm nhúm của tên Thát-đát không tỏ lộ một tình cảm nào hết. Hắn ngó quanh để tìm bắt thêm một người nào khác, nhưng tất cả mọi người- dù là trong bóng tối hay dưới một ngọn đèn, dù là nằm giường dưới hay nằm giường trên- đều đang xỏ hai chân vào chiếc quần đen, vải đụp, có ghi số ở đầu gối chân trái. Hoặc là họ đã mặc quần áo và đang thu thu vén vén vào người và chạy vội ra của đứng chờ bên ngoài cho đến khi nào tên Thát-đát đi khỏi. Giá như Sukhôv bị vào nhà đá vì quả thực có tội tình gì thì chắc anh đã không cáu sườn đến thế. Cái điều làm cho anh cáu là bao giờ anh cũng là một trong những người thức dậy trước nhất. Nhưng đâu có dịp nào phân bua, giải thích với cái tên Thát-đát này. Cho nên anh vẫn cứ xin tha, kệ mẹ nó, nhưng đồng thời cũng vẫn kéo chiếc quần đụp lên (chiếc quần cũng có một miếng mụn đã sờn và bẩn khâu phía trên đầu gối trái với con số S-854 sơn trên đó bằng màu đen và cũng đã phai rồi), khoác chiếc áo trấn thủ vào người (chiếc này có những hai con số, một trên ngực và một đằng sau lưng), lấy đôi giày bốt ở đống giày trên sàn, đội mũ lên đầu (có cùng một con số đằng trước), và đi theo sau tên Thát đát. Tất cả Công khu 104 trông thấy Sukhôv đang bị dẫn đi, nhưng không ai nói lấy một lời. Cũng vô ích, mà biết nói gì? Giá có công khu trưởng ở đó thì hắn có thể nói đỡ anh một chút, nhưng hắn đã đi mất rồi. Còn Sukhôv thì chẳng nói gì với ai cả. Anh không muốn chọc giận thêm tên Thát-đát. Chẳng cần dặn, anh em cũng sẽ giữ phần ăn sáng cho anh. Hai người bước ra ngoài. Trời rét như cắt, lại thêm sương mù đến ngộp thở. Hai ngọn đèn rọi từ trên các tháp canh ở các góc phía xa đang chiếu bắt tréo vào nhau khắp khu doanh trại. Các ngọn đèn ở khu ngoại vi và các ngọn trong doanh trại hãy còn sáng chưng. Đèn nhiều đến nỗi làm cho những ngôi sao bị xóa mờ hẳn đi. Tiếng giày nhai râu rấu trên tuyết, các tù nhân đang hối hả bận rộn việc này việc nọ- đến nhà vệ sinh, các phòng tiếp tế, phòng gói đồ, hay mang lúa mạch đến nhà bếp nấu. Vai so ro, áo cài cúc thật kín, họ thảy đều cảm thấy lạnh, không hẳn bởi tiết trời băng giá mà đúng ra là bởi họ biết rằng họ sẽ phải ở trong thời tiết đó suốt ngày. Nhưng tên Thát-đát kia, trong chiếc áo măng-tô cũ với những dây nẹp màu xanh đã tả tơi, vẫn bước tới đều đặn, vững vàng, và dường như cái rét không hề quấy quả hắn chút nào hết. Hai người đi qua hàng rào cao bằng gỗ bao quanh khu trừng giới (tức nhà lao bằng đá bên trong trại), qua hàng rào kẽm gai ngăn lò bánh khỏi tay tù nhân, qua góc Bộ chủ huy nơi có một khúc đường rầy phủ đầy sương muối treo lên một cái cột bằng dây kẽm cỡ lớn, rồi lại đi qua một cái cột nữa trên đó- trong một chỗ khuất để giữ cho thủy ngân không xuống quá thấp- có treo hàn thử biểu, băng tuyết phủ dày cộm. Sukhôv liếc nhìn chiếc ống màu trắng sữa mà trong lòng khấp khởi. Nếu nó xuống quá bốn mươi hai độ dưới số không thì anh em sẽ khỏi phải ra ngoài làm việc. Nhưng hôm nay hàn thử biểu chả có xuống đến bốn mươi bốn miếc gì cả. Hai người bước vào BCH- thẳng đến phòng giám thị. Hóa ra- như Sukhôv đã hơi nghi lúc ở trên đường rồi- là họ chẳng bao giờ muốn đẩy anh vô nhà đá làm gì đâu mà chỉ có điều cái sàn trong phòng giám thị cần đôi chút kỳ cọ đó thôi. Quả nhiên, tên người Thát-đát bảo Sukhôv là tha phạt cho và ra lệnh cho anh lau sàn. Lau sàn căn phòng giám thị là công việc của một tù nhân đặc biệt- người cần vụ của BCH, chẳng bao giờ phải làm việc bên ngoài trại. Nhưng trước đây đã lâu tên này đã tự đưa được mình vào chỗ quan trọng trong BCH và rồi tự do ra vô các phòng làm việc của ông thiếu tá, của sĩ quan kỷ luật, và của ông trưởng ban an ninh. Hắn hầu hạ họ tối ngày và đôi khi còn nghe lỏm được những chuyện mà ngay đến các giám thị còn không biết. Thế rồi một hồi hắn còn cho là cọ sàn cho mấy tên giám thị tầm thường là dưới phẩm cách của hắn nữa. Họ cho gọi hắn lên một hay hai lần, rồi mới sáng mắt ra và bắt đầu kéo tù nhân thường vào làm công việc đó. Cái bếp lò trong phòng giám thị đang cháy phừng phừng. Hai tên giám thị áo lột ra hết chỉ còn có sơ-mình bẩn thỉu đang chơi cờ đam, còn một tên thứ ba để nguyên cả chiếc áo lông cừu thắt lưng và để nguyên cả giày bốt đang nằm ngủ trên một chiếc ghế dài hẹp. Có một cái sô và miếng giẻ rách trong góc phòng. Sukhôv quả là sung sướng quá và cám ơn tên Thát-đát đã tha cho anh: “Cám ơn Ông Giám thị . Lần sau em thôi không dậy trễ nữa”. Luật lệ ở đây rất là giản dị- làm hết việc rồi đi ra. Bây giờ đã có việc làm, Sukhôv cảm thấy như hết cả đau nhức. Anh xách cái sô ra giếng, hai bàn tay không đeo bao vì lúc đi vội anh đã quên không mang theo và bỏ chúng ở dưới gối. Các công khu trưởng đi trình diện tại BKHSX đã tụ tập gần cái cột, và một trong số người ít tuổi, trước kia có lần là một Anh Hùng Liên Xô, trèo lên lau hàn thử biểu. Những người kia đứng ở dưới vội la lên: “Chớ có thở vào nó đấy, không nó lên bây giờ!”. “Lên lên gì... mặc kệ mẹ nó... còn ăn thua cái đéo gì nữa đâu”. Tyurin- công khu trưởng của Sukhôv- không có ở đó. Sukhôv đặt sô xuống và đút hai tay vào hai ống tay áo. Anh muốn xem xem là cái gì. Anh chàng ở trên cột nói bằng một giọng khản đặc: “Mười bảy độ rưỡi dưới không- con cặc!” Và ngó lại một lần nữa cho chắc ăn, anh ta nhảy xuống. “Đằng nào thì bao giờ nó cũng sai rồi- hàn thử biểu bố láo”, có người nói. “Đời nào chúng nó lại treo cái tốt ở đây”. Các công khu trưởng tản đi mỗi người một ngả. Sukhôv chạy ra giếng. Tai anh buốt cóng dưới hai vạt mũ che mà anh đã kéo xuống nhưng chưa buột chặt. Phía trên giếng phủ kín một lớp băng dày cho nên cái sô nhét mãi mới chui lọt qua miệng giếng. Còn dây thừng thì cứng như cây ấy. Đôi tay Sukhôv tê cóng, cho nên lúc anh khiêng sô nước bốc khói về đến phòng giám thị anh nhúng ngay chúng vào nước. Anh thấy ấm hơn. Tên Thát-đát đã đi khỏi nhưng bốn tên giám thị đang đứng cãi vả với nhau. Họ đã thôi chơi cờ hay ngủ, và đang cãi nhau xem là tháng Giêng này lãnh được bao nhiêu kê (Trong trại “công nhân tự do 3 hiện đang thiếu thực phẩm, và mặc dầu chế độ thẻ khẩu phần đã hết từ lâu, nhưng các giám thị vẫn còn có thể mua thực phẩm với giá được trừ mà dân địa phương không mua được). “Đóng cửa lại, thằng đầu cứt! Gió lạnh quá”, một tên giám thị quát lên. Mới sáng ra không nên làm ước giày bốt nỉ. Dù có chạy được về trại cũng không có đôi khác mà thay. Suốt tám năm ở trỏng, Sukhôv đã được thấy đủ mọi thứ thăng trầm về tình trạng giày dép. Đã có lúc suốt mùa đông không có bốt nỉ mà đi, lại có lúc ngay đến bốt thường cũng không thấy có mà chỉ có guốc làm bằng vỏ cây phong hay dép “kiểu Xưởng Máy Cày Chelyabinsk” (tức thị dép làm bằng vỏ xe hơi, khi đi còn để lại đằng sau các vết bành xe). Bây giờ thì tình hình giày dép đã khả quan hơn. Hồi tháng Mười- vì có lần anh đã bày mưu lẻn xuống các kho với nhân vật quan trọng thứ nhì trong công khu- Sukhôv đã được một đôi bốt thật chắc, có mũi thật khỏe và bên trong đủ rộng để có thể quấn đến hai lớp vải bao chân ấm. Suốt một tuần anh cảm thấy lạc thú nhất đời, đi đâu cũng va hai gót giày vào nhau khoái trá. Thế rồi tháng Chạp lại được phát bốt nủ nữa chứ, và đời tươi thắm như hoa. Thật chả muốn chết tí nào hết. Nhưng rồi có thằng chó má nào ở phòng kế toán rỉ tai Chỉ huy trưởng: “Cho lãnh bốt nỉ nhưng bắt phải nộp lại đôi kia. Tù không được quyền có hai đôi một lúc”. Thế là Sukhôv phải quyết định hoặc giữ đôi bốt da mới suốt mùa đông, hoặc lấy đôi bốt nỉ- qua suốt mùa xuân tuyết tan- và trả lại đôi mới. Anh đã nâng niu đôi giày đáng yêu này như nâng niu trứng ấy, lấy mỡ thoa vào chúng và đánh cho da mềm ra. Trong suốt tám năm giời, không có gì đã làm anh đau khổ hơn là phải đem trả đôi bốt ấy. Chắc là chúng sẽ bị đổ vào một đống cùng với những đôi khác, và chắc rồi xuân đến anh sẽ chẳng bao giờ tìm lại chúng được nữa. Sukhôv chợt nảy ra một ý kiến. Anh tụt vội đôi bốt nỉ ra, dựng vào một xó, ném mớ vải bao chân lên trên (cái muỗng anh vẫn thường giắt vô một chiếc bốt bỗng rớt leng keng xuống sàn nhà- hồi nãy tuy đi vội như thế mà anh cũng không quên nó), đi chân không, khom mình xuống dội nước vào ngay giày của mấy tên giám thị. Thấy vậy một tên co vội chân lên, miệng hét “Làm từ từ chứ, thằng khốn nạn!”. ...“Sao lại gạo được? Gạo lại thuộc về phần chia khác. So sánh thế nào được”... “Sao phải dùng tới từng ấy nước hả, đồ ngu? Rửa nhà như vậy đấy hả?” “Còn cách nào khác đâu thưa Công Dân Giám Thị? Sàn dính bệt những đất là đất!” “Bộ chưa bao giờ thấy mẹ đĩ rửa nhà hay sao hả đồ ngu?” Sukhôv đứng thẳng người lên, cầm trong tay miếng giẻ nước chảy ròng ròng. Anh nhoẻn một nụ cười ngây thơ, để lộ ra mấy cái răng thiếu vị bị sưng xuất huyết khi ở Ust-Izhma năm 1943, cái hồi mà anh tưởng là đã sắp gục rồi. Tưởng là sắp đi đoong rồi. Đi ỉa chảy, có máu, ruột đau rã rời, ăn vô chả giữ lại được gì hết trọi. Nhưng bây giờ mỗi một cái còn lại từ những ngày đó là cái giọng nói phều phào tức cười của anh. “Thưa Công Dân Giám Thị, em bị xa vợ từ hồi 1941 kia. Giờ cũng chẳng nhớ được nó ra làm sao nữa”. “Coi kìa, bọn chúng lau nhà như thế kia kìa... Mấy tên khốn nạn này chẳng biết làm cái gì cả, mà cũng chẳng thiết làm nữa. Cho chúng ăn bánh mì không đáng. Quân này phải ăn cứt kia!”. “Nhưng việc đéo gì mà ngày đéo nào cũng phải rửa sàn? Lúc nào cũng ướt át. Ê này, 854, nghe đây. Lau qua loa cho nó khỏi ướt thôi, rồi cút!”. ...“Gạo! Làm sao mà so sánh kê với gạo được”... Sukhôv làm lẹ cho nó xong. Có hai thứ làm việc. Như là hai đầu gậy ấy. Làm cho người ta thì làm thật đàng hoàng, còn làm cho người ngợm thì chỉ đại khái thôi. Nếu không thì thiên hạ ngỏm củ từ đã khuya rồi. Đó là cái chắc. Sukhôv lấy giẻ ướt lau qua sàn gỗ một lượt nữa, không để sót một chỗ nào khô, ném luôn cái giẻ chưa vắt vào phía sau bếp lò, đi bốt, đổ chỗ nước còn lại trong sô lên lối đi mà các sếp lớn hay sử dụng, và đi tắt qua nhà tắm, qua câu lạc bộ tối om và lạnh lẽo, đến nhà ăn. Anh còn phải đến bệnh xá nữa- bây giờ lại thấy đau ê ẩm cả người. Rồi lại còn phải tránh cho bọn giám thị ở trước cửa nhà ăn không nhìn thấy. Ông Chỉ huy trưởng đã ra lệnh triệt để bắt các tù nhân đi lạng quạng một mình và nhốt vào phòng kín. Thực là điều hiếm, sáng nay không có nhiều người đứng xếp hàng đợi vào nhà ăn. Anh bèn đi vào luôn. Bên trong mù mịt như một nhà tắm hơi- nào là không khí thấm đầy sương muối bên ngoài tràn vào, nanò là hơi cháo loãng trong nhà ăn bốc lên. Mọi người đang ngồi ở bàn hoặc đứng chen chúc ở chỗ khoảng trống giữa những người ngồi bàn để đợi lấy chỗ. Vừa la lối inh ỏi vừa len lỏi rẽ qua đám đông, hai ba người thuộc mỗi công khu tay bưng khay gỗ chất những tô cháo lúa mạch và cháo ngô, và kiếm chỗ trên bàn để đặt xuống. La đến như thế mà những thằng ngớ ngẩn chẳng nghe thấy gì, xô luôn vào khay của người ta, thế là đổ tóe ra hết! Tiện bàn tay trống bèn nện cho chúng một cú vào gáy! Phải như thế! Cho chúng một bài học, đứng có lớ xớ kiếm chác đồ ăn thừa mà vướng cả lối đi người ta. Phía bên kia có một anh chàng trẻ tuổi làm dấu trước khi ăn. Chắc phải là dân miền Tây Ukraine 4 và là dân mới. Chứ dân Nga thì đã chẳng còn nhớ phải làm dấu bằng tay nào nữa rồi. Ngồi trong nhà ăn lạnh nên phần lớn khi ăn đều vẫn đội mũ, nhưng ăn không vội vã, đuổi theo từng miếng cá thối lẫn trong đám lá bắp cải và nhổ xương ra bàn. Khi xương chất thành một đống sẽ có một anh gạt xuống đất trước khi công khu sau ngồi vào, và rồi xươong sẽ bị dẫm nát ở dưới đất. Nhổ xương ngay xuống đất là bất lịch sự. Ở giữa nhà ăn có hai hàng cột có thể gọi là cột nhà hay giàn chống. Fêtyukôv, một người khác nữa cùng công khu đang ngồi dựa vào cột giữ phần ăn sáng cho Sukhôv. Tên này cũng không phải vào hàng vai vế trong công khu- còn dưới cả Sukhôv nữa. Mới thoạt nhìn tưởng người nào trong công khu cũng như nhau- cũng áo măng-tô đen, cũng mang số- nhưng bên trong thì khác nhau lắm. Người nào cũng có giai cấp ra gì. Buinôvsky, chẳng hạn, không phải là hạng người ngồi giữ bát cho kẻ khác. Và có những việc mà Sukhôv không thèm làm. Chẳng hạn, ta chẳng thể yêu cầu Buinôvsky, ông Đại úy Hải quân đó, giữ bát cho ta được, và có những việc mà ngay đến Sukhôv cũng chẳng thèm làm- những việc dưới tư cách của anh. Fêtyukôv trông thấy Sukhôv đến thì đứng dậy nhường chỗ, thở dài một cái. “Nguội hết rồi. Tôi toan ăn hộ anh- tôi tưởng anh nằm nghỉ nhà mát rồi chứ”. Hắn không đứng chực làm gì. Hắn biết là Sukhôv sẽ không để lại một chút gì cho hắn hết. Nó sẽ liếm sạch nhẵn cả hai tô cho mà coi. Sukhôv rút muỗng giắt trong bốt ra. Anh mến cái muỗng này lắm, nó đã theo anh đi khắp nơi miền Bắc. Chính anh đã lấy giây nhôm đúc nó trong cát và khắc lên nó chữ: “Ust-Izhma 1944” 5 . Rồi anh bỏ mũ ra khỏi cái đầu trọc của anh- dù là lạnh đến nấy anh cũng không bao giờ để nguyên cả mũ mà ngồi ăn. Anh khuấy bát cháo đã nguội và nhìn vội vào bát xem trong đó có gì. Như lệ thường. Không ohải là lớp cháo múc trên mặt nồi nhưng cũng chẳng phải là thứ múc từ dưới đáy nồi. Con nhà Fêtyukôv dám đỡ nhẹ một củ khoai tây rồi lắm ạ. Cháo trong trại giam chỉ ngon duy ở chỗ là thường thường nó nóng, nhưng bây giờ cháo của Sukhôv đã nguội ngắt. Dù vậy anh cũng ăn chậm rãi và cẩn thận như thường lệ. Không việc gì mà vội, dù nhà có cháy cũng mặc. Ngoài lúc ngủ, tù nhân chỉ có thì giờ riêng của mình là mười phút vào bữa ăn sáng, năm phút lúc nghĩ trưa và năm phút nữa vào bữa ăn tối. Cháo ngày nào cũng vậy, chả đổi gì cả. Nó tùy thuộc loại rau dự trữ được trong mùa đông. Năm ngoái chỉ trữ có cà rốt, muối, vì vậy chỉ có mỗi cà rốt trong cháo suốt từ tháng Chín tới tháng Sáu. Năm nay là bắp cải. Trại được ăn ngon nhất vào tháng Sáu, vì hết rau phải dùng lúa mạch thay thế. Tệ nhất là tháng bảy, người ta bỏ lá tầm ma 6 xé nhỏ vào nồi nấu. Cá thì hầu hết chỉ là xương. Thịt cá đã bị luộc rữa ra hết rồi, chỉ còn một chút dính ở đuôi và đầu. Không bỏ sót đến một cái vẩy hay một mẩu thịt còn dính vào bộ xương, Sukhôv nhai nát hết xương, hít lấy nước rồi nhổ ra bàn. Anh không chừa lại một chút gì hết- ngay cả đến mang hay đuôi cũng ăn tuốt. Ăn cả mắt nữa nếu chúng còn năm nguyên tại chỗ, trong đầu cá, chứ nếu đã long ra rồi mà nổi lềnh bềnh trong bát thì anh không ăn. Mọi người đều nhạo anh về chuyện này. Hôm nay Sukhôv lại để dành được đôi chút. Anh chưa trở về trại xá lấy phần bánh mì nên bây giờ ăn không có bánh. Bánh mì thì lúc nào ăn không cũng có thể được, ăn về sau lại đỡ đói. Món thứ hai là món cháo magara đặc cứng, cái món lúa mạch “Tàu” chết tiệt này. Cũng nguội ngắt và đóng bánh lại. Sukhôv xắn ra thành từng miếng. Ngay lúc còn nóng nó cũng đã nhạt nhẽo rồi, ăn chẳng thấy thấm thía gì rồi, chứ đừng nói gì lúc nguội. Thực ra chỉ rặt cỏ là cỏ, có điều là nó màu vàng, trông giống như kê. Người ta lấy nó thay vào lúa mạch, cho là ý kiến hay lắm và bảo là bắt chước người Tàu. Khi nấu lên, một tô nặng khoảng bốn trăm gờ-ram. Không hẳn là lúa mạch thật, nhưng cứ cho là như vậy đi. Anh liếm muỗng, nhét nó vào bốt, đội mũ, rồi đi ra bệnh xá. Trời vẫn còn tối như bao giờ, và những ngôi sao bị lu mờ vì những ngọn đèn trong trại. Và hai ngọn đèn rọi hãy còn quét đi quét lại khắp khu doanh trại. Lúc mới lập trại- đây là một trại “Đặc Biệt” 7 - lính canh hãy còn có nhiều hỏa châu. Mỗi khi điện hư, họ bắn hỏa châu lên phía trên doanh trại như mưa trắng, đỏ, xanh lục- cứ y như ở ngoài mặt trận ấy. Nhưng rồi họ thôi không dùng hỏa châu nữa. Có lẽ họ cho là tốn kém quá. Trời hãy còn tối như lúc có hiệu đánh thức. Nhưng những tay lâu năm có thể căn cứ vào những cái này, cái kia, cái nọ mà biết được là hiệu điểm danh sắp sửa nổi lên. Tên phụ việc cho thằng Thọt (Thọt là một tên cần vụ trong nhà ăn, hắn lấy đồ ăn của nhà ăn để nuôi một tên phụ việc) đã đi kêu trại x
Mặt Trái Thần Tượng
Ấn phẩm "Mặt trái của thần tượng" của tác giả John O'hara, sách do dịch giả Phan Thị Thanh chuyển sang Việt ngữ, được nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 1974. Ấn bản đang lưu giữ tại Quán Sách Mùa Thu có tình trạng rất đẹp, sách nguyên bìa gáy, ruột đẹp, lõi sách chắc chắn. Sách dày 84 trang. Nhìn chung, tác phẩm" Mặt trái của Thần Tượng'' là một thành công. Đó là câu chuyện tình tay ba giữa Charley, Mildred và Hubert. O'Hara đã sắp xếp rất khéo léo, nhất là hình ảnh một Charley giàu sang, cả thế giới biết danh, nhưng buồn nản thay, chính lúc thế giới đang đón tiếp ông, lại là lúc ông ra đi vĩnh viễn. Con người và cuộc đười của Hubert với những thay đổi, thăng trầm, cũng đã làm say mê độc giả không ít.  Người ta có thể thắc mắc về những nhân vật trong truyện: họ có thật ngoài đời không? Qủa là có, họ là hình ảnh trung thực của những người làm nghệ thuật chuyên nghiệp. O'Hara Ward để vạch trần những xấu xa của con người, để gửi gắm tâm sự của ông thời niên thiếu. Ông dùng một Martin Ruskin làm tiêu biểu cho sự xảo nguyệt của con người. Và nhân vật Charley được dựng lên để bộc lộ những lo âu, trắc ẩn, phập phồng dưới lớp vỏ giàu sang, phú quí bên ngoài. Trong" mặt trái của thần tượng O'Hara đã vạch trần những  tranh giành quyền lực, địa vị, những áp lực kinh tế, cùng sự phân chia giai cấp và lối sống đã khiến Holly wood tách rời và khác hẳn với những người khác. Ông cũng đã phân tách và tỏ ra thông cảm với nổi cô đơn, nhất là sự trống vắng về tình cảm mà những nghệ sĩ phải gánh chịu.  *** Người đời có thể biết lúc nào là lúc chúng ta đang cố gắng để biến đổi ta thành một con người khác. Sự biết trước này sẽ giúp ngăn chặn một số người chân chánh đang đi dần vào chỗ xấu xa ; nhưng đồng thời lại không thể lôi kéo những kẻ bất chánh trở nên lương thiện. Phải chờ đến lúc bốn mươi tuổi, mới biết được ta thuộc loại người nào, và sở dĩ ta biết được là nhờ ở nhận xét của những người chung quanh – của những người trong gia đình, bạn bè, kẻ thù và ngay cả những người chưa tiện quen biết. Đồng ý là họ có thể lầm lẫn khi nhận xét về ta, nhưng đó là ý kiến riêng của họ và là nhận xét cuối cùng khó thay đổi, vì họ không đủ kiên nhẫn để phán xét dựa trên những sự thật. Nhưng nếu ta là họ để nhận xét một cá nhân khác, ta cũng sẽ có những nhận xét hoàn toàn tuyệt đối và thiếu kiên nhẫn giống như họ vậy. Mời các bạn đón đọc Mặt Trái Thần Tượng của tác giả John O'Hara & Phan Thị Thanh (dịch).
Cánh Hoa Rực Lửa
Cánh Hoa Rực Lửa, nguyên tác THE INN OF THE SIXTH HAPPINESS của Alan Burgess, bản dịch của NGUYỄN NHƯỢC NGHIỄM, bìa NGUYỄN ĐỒNG, ấn phẩm thứ 43 của nhà xuất bản Trẻ, ấn hành lần thư nhứt 1000 bản tại nhà in riêng của nhà xuất bản, không có bản đặc biệt. Vào những năm 1930 hỗn loạn, cô hầu bàn người Anh Gladys Aylward theo ơn gọi của Thiên Chúa đã mưu cầu đến Trung Hoa để truyền giáo. Vượt qua khó khăn về tài chánh cùng những rối ren thời cuộc lúc bấy giờ, không màng đến hiểm nguy, cô đã đến một vùng đất hẻo lánh, nghèo nàn lạc hậu tại miền Hoa Bắc. Cùng với bà Jeannie Lawson - một nhà truyền giáo kỳ cựu - họ bèn mở một khách điếm tên Lục Phúc. Khách điếm ngoài mục đích dùng làm nơi tá túc cho tha nhân thì còn là nơi chốn để họ rao tin mừng cho mọi người sau bữa ăn chiều. Dần dà, với một đức tin mãnh liệt, cùng tấm lòng chân ái và nghị lực phi thường, Gladys đã được tất cả dân bản xứ đều hết lòng tin yêu. Đồng thời cũng nẩy sinh một mối tình giữa cô và Lân – một sĩ quan Hán lai Hà Lan rất lạnh lùng. Khi chiến tranh Trung-Nhật bùng nổ, cũng là lúc Gladys nhận ra đâu là mối phúc hạnh thứ sáu để cô phải hoàn thành một sứ mệnh vô cùng cam go mà Chúa ban. *** Alan Burgess (1 tháng 2 năm 1915 – 10 tháng 4 năm 1998) là một phi công và tác giả của Lực lượng Không quân Hoàng gia Anh , người đã viết một số cuốn sách tiểu sử và phi hư cấu giữa những năm 1950 và 1970. Ông đã viết tiểu sử của Gladys Aylward, và Flora Sandes, và đồng viết cuốn tự truyện của Ingrid Bergman . [3] Bergman đóng vai Gladys Aylward trong phim The Inn of the Sixth Happiness dựa trên tiểu sử của Burgess. Alan Burgess từng phục vụ trong Lực lượng Không quân Hoàng gia trong Thế chiến thứ hai, Burgess tiếp tục viết Đường hầm dài nhất: Câu chuyện có thật về cuộc đào tẩu vĩ đại trong Thế chiến thứ hai, câu chuyện về " Cuộc đào thoát vĩ đại ". Mời các bạn đón đọc Cánh Hoa Rực Lửa của tác giả Alan Burgess & Nguyễn Nhược Nghiêm (dịch).