Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Dòng Đời Nổi Trôi

.. "Cúi đầu thủ thế... Tay không rời mặt... Vào góc... Thoát ra... Thọc, thêm lực hơn nữa... Thân trên linh hoạt... Móc ngang... Chân di chuyển nhanh hơn nữa... " - Tiếng thầy võ sư quát dồn dập hướng dẫn khi tôi đang tập thực chiến trên sàn Boxing cùng một đàn anh khác. Đến với cái môn thể thao nhồi thể lực này chỉ vỏn vẹn có gần 2 năm nhưng cũng đủ biến tôi từ một thằng hs cấp 3 yếu ớt, trầm cảm. Trở nên rắn rỏi và cứng cáp hơn cả về cơ thể lẫn tâm lý. Nói về cuộc sống của tôi đến thời điểm hiện tại có thể miêu tả bằng những từ như "Buồn", "Khổ, "Bất Hạnh", "Thiệt thòi"... Hajzzz, tự bản thân tôi thì thấy hợp với 2 chữ "Vô cảm" hơn. Từng có một gia đình hạnh phúc, tròn đầy như bao gia đình khác với bố mẹ và một thằng em trai kháu khỉnh. Nhưng tất cả đã chấm dứt với tôi bởi một tai nạn giao thông khi tôi vừa đỗ vào trường chuyên cấp 3. Cả gia đình vui mừng đón tin vui và tưởng thưởng cho tôi một chuyến du lịch xa nhà mà trước khi thi tôi đã đòi hỏi nếu đỗ. Cuộc đời đã cướp mất gia đình của tôi hay là chính bản thân tôi đã làm hại những người thân yêu ruột thịt của mình. Nhiều đêm tỉnh dậy trong cơn ác mộng, nhìn vào vết sẹo dài gớm ghiếc trên ngực. Tôi lại tự dằn vặt tại sao kẻ chết đi không phải là mình mà lại là bố mẹ và em trai. Khóc rất nhiều, trầm cảm có, ù lỳ có. Từ một hs cấp 2 năng động và hoạt bát, tôi trở thành một hs cấp 3 hoàn toàn khác, vô cảm và băng giá... với mọi thứ xung quanh. Cuộc đời đã ném vào tôi những nỗi mất mát đau đớn nhất. Thì hà cớ gì tôi lại phải cởi mở đón nhận cái cuộc đời ấy. Tôi còn tồn tại và phát triển trong cái cuộc đời này, hoàn toàn chỉ là bởi nghĩa vụ và trách nhiệm với lời hứa mà tôi đã hứa với cha mẹ trước giờ lâm tử. Rằng phải cố sống và sống tốt. Tôi sẽ cố sống, còn để sống tốt... tôi chưa thể cảm nhận, vì tôi vô cảm, hay có khi cố sống cũng là một dạng thù hình của sống tốt rồi cũng nên. 3 năm cấp 3 trôi qua nhạt nhẽo, chẳng có ấn tượng gì đọng lại trong tôi ở cái tập thể này và ngược lại cũng vậy... không bạn bè, không người yêu. Thay vào đó những dấu ấn và bạn bè của tôi lại được hình thành rõ nét ở cái clb boxing này. Nơi mà có lẽ chỉ vài tháng nữa tôi sẽ phải xa nó... nếu tôi đỗ đại học. - Lên Hà Nội nhớ đừng đua đòi, cố gắng làm thêm để trang trải nhé. Rảnh thì về chơi với cô - Cô ruột tôi cất tiếng. Tôi cười khẩy, chào cô rồi quay lưng ra đi mà không có lấy một chút lưu luyến gì cái ngôi nhà này, gia đình của cô tôi. 3 năm sống trong ghẻ lạnh và cô độc, tôi cũng không dám trách móc gì vì ít nhất cũng đã phải sống nhờ nhà họ trong một thời gian dài. Dù tiền sinh hoạt hàng tháng thì vẫn trích từ tài khoản trong ngân hàng mà bố mẹ tôi để lại cho tôí khi nào tới 18t mới được toàn quyền sử dụng. Cơ mà tôi có cái quyền để không yêu quý cái ngôi nhà ấy. Ngày biết tin đỗ đh cũng là ngày mà tôi lên sẵn phương án cho một cuộc sống tự do, tự lập, riêng một cá thể hoàn toàn. - "Con chào bố mẹ, anh chào em trai nhé. Tạm biệt gia đình thân yêu... Con đi đây" - Chờ cho nén nhang cuối cùng tắt hẳn tôi khoác balo rời nghĩa trang thành phố để bắt xe khách lên HN. Ngoảnh mặt nhìn qua ô kính nơi chôn rau cắt rốn của mình, nơi mà gia đình mình mãi mãi ở lại đến khi xa dần, khuất dần... Con đang bước tiếp hành trình của con đây, con sẽ cố gắng thực hiện toàn vẹn lời hứa với gia đình mình... Con hứa... Chiếc xe bon bon trên đường quốc lộ ngày một xa dần, bên trong nó là một con người cô độc với những hành trình chông gai của cuộc đời đang chờ đợi trước mắt... *** Địa ngục tinh thần - sẽ là đao to búa lớn khi nói vậy nhưng quả thực với riêng bản thân tôi chuỗi ngày vừa qua tựu chung 1 phần có thể ví von như vậy. Trống rỗng trong cả suy nghĩ lẫn tâm trí. Đáng sợ nhất là mớ bòng bong tỉnh trong mơ, mơ trong tỉnh cứ bu bám đầu óc khiến tôi nhiều lúc trở nên si mê ko biết đâu là thực tại. Có lần đi bộ còn suýt bị xe đâm chỉ vì ko nghĩ là mình đang sang đường. Nhiều sáng thức dậy tôi vô thức vồ lấy đt, nt chúc ngày mới theo thói quen rồi giật mình, lại xóa đi khi chợt nhớ ra 1 điều. Để rồi sau đó chỉ biết vò đầu lắc lắc, mong sao những gì xảy ra chỉ là 1 cơn ác mộng. Rượu say, đòn tỉnh - chính trong thời điểm luẩn quẩn ấy, 1 người đã xuất hiện khiến tôi tỉnh lại với thực tại. Ko ai khác chính là KN... 1 trận đòn nhừ tử từ đám tay chân và từ chính anh ta. - Dám làm nhiều việc sau lưng tôi như vậy, kể cũng xem như cậu lớn mật đấy. Nể mặt cậu từng là bạn cái Ngọc, cũng từng là nv thân cận của tôi, xem như gặp gỡ hn thay cho lời cảnh cáo. Chuyện giữa cậu và nó từ giờ chính thức chấm dứt. Tôi ko muốn gặp cậu trong hoàn cảnh này lần nào nữa vì lần tới chắc chắn cậu ko còn người ngợm nguyên vẹn như thế này đâu. KN trước giờ đã nói là làm nên tôi hiểu anh ta ko nói suông. Chuyện này đến tai anh ấy hẳn là từ miệng Hoa chứ bản thân Ngọc chắn chắn chẳng bao giờ chịu nói ra. Chỉ là chính tôi trong giây phút đau đớn, bê bết ngồi góc đường, tự vấn lòng mình đã đến lúc phải chấp nhận sự thật. Trận đòn của KN đau đớn về thể xác nhưng 1 phần cũng nhờ nó mà tôi thoát khỏi đám mây mù u mê đã vây quanh mình suốt 1 khoảng tg. Tôi mặt dày chủ động hẹn gặp Hoa xem như là lần cuối muốn hỏi thăm tin tức về Ngọc. - Đang có 1 người rất tốt quan tâm đến nó rồi. Chỉ cần anh biến khỏi cuộc đời nó nữa thôi là ổn. Tôi cười khổ cam chịu lời sỉ vả từ Hoa, thực ra cô ấy chịu hẹn gặp tôi thế này đã xem như nể nang lắm rồi. Qua 1 hồi hỏi han tôi cũng chứng thực đc "người tử tế" ấy ko ai khác chính là T.Hoàng. Rốt cuộc vẫn là linh cảm của mình chính xác - T.Hoàng thực sự có tình cảm với Ngọc. Anh ta rõ ràng có xuất thân lẫn thân thế rất tốt. Chưa kể thâm tình hiện tại khi X và Z vẫn đang trong giai đoạn đầu của sự hợp tác. Ấy là còn chưa nói đến cảm tình có sẵn của bà Liên cũng như KN giành cho anh ta. Nếu T.Hoàng thực sự tốt như vậy hẳn Ngọc sẽ có đc hạnh phúc, ko còn phải gồng mình, ko còn phải chịu đựng nữa... Điều này lẽ ra tôi phải lấy làm vui, vậy mà cớ sao sống mũi cứ cay xè đến ê ẩm thế này. Đã thực sự tỉnh rồi đấy nhưng phải quên đi nữa... Quên đi những chuyện cũ... quên đi Ngọc... quên đi mối tình đầu, cũng là duy nhất... Hà Nội, có lẽ cũng đã đến lúc phải xa nơi này rồi... ---- Suy nghĩ trên tôi từng cố trốn tránh nhưng cũng đến lúc phải quyết định. Tôi đến thăm anh họ, vừa hỏi han tình hình cty hiện tại, vừa tiện thể tâm sự chuyện tôi tính rời HN. Anh cũng ko có ý kiến gì về chuyên tôi muốn vào Nam lập nghiệp, dù sao nhà cửa dưới quê tôi cũng bán hết rồi. Mối liên kết duy nhất còn lại chỉ là mộ phần gđ và họ hàng mà thôi. - Tình hình cty anh dạo này thế nào rồi, đã giải quyết xong quyết toán với mấy chủ đầu tư kia chưa? - Hajzz... Anh họ thở dài ảo não khi nghe tôi hỏi chuyện làm ăn, kiếp làm cai, thầu phụ. Ăn rơi ăn vãi công trình từ các chủ đầu tư lớn. Làm chưa xong thì bị ép tiến độ, xong rồi lại bị chậm nghiệm thu quyết toán. Bị ngang nhiên chiếm dụng vốn mà vẫn phải niềm nở để đòi tiền. Lương nhân công nhiều khi còn nợ mà vẫn phải chạy vạy vay mượn để xin dự án. Đơn giản làm nghề này mà ko có dự án quay vòng là cầm chắc "chết". - Dự án bên... cty X vẫn chưa đến hạn hả anh? - Uhm, mà sao đang dưng mày lại nghỉ ở đó, thấy nó bắt đầu khó khăn ah? Nghe anh họ nói vậy tôi chỉ biết lắc đầu cười trừ, cty của anh lẽ ra còn có thể kiếm đc nhiều công trình hơn nếu X giành đc mấy khu đất kia. Chỉ tiếc vì tôi mà... Thời gian chuẩn bị cho sự chuyển đổi tương đối thảnh thơi nên dạo này tôi hay đi lại quê - HN để thăm họ hàng và thắp hương mộ phần gđ. Tôi cũng thường qua thăm mộ ct Đặng mỗi khi từ quê trở lại HN. Dù gặp nhau ko nhiều nhưng những ấn tượng trong qk khiến tôi có cảm tình rất tốt với ông ấy. Đã có lúc tôi từng nghĩ tương lai sẽ được làm con rể, được hàng ngày gọi ông là "Bố" trên cty cũng như ở nhà, được.. . Vài bông cúc tươi thay cho những bông đã hơi héo. - "Sau này vào Nam rồi, chắc con ko còn đến thăm bố thường xuyên đc nữa. Thông cảm cho con bố nhé!!!" ---- Bụng của My lộ hẳn rồi con bé mới chịu làm đám cưới, đám cưới vui như hội ấy vì con bé đông bạn đông bè mà. Đợi tiệc mừng này kết thúc tôi mới chia sẻ quyết định vào SG sống với a.Mạnh và đám bạn của mình. Khỏi phải nói tất cả bất ngờ thế nào khi nghe tin ấy, với Trà, My và Xuân chóa còn có thêm vài phần sốc nữa. Thời điểm chính thức rời HN vào SG sau nhiều lần nấn ná cuối cùng cũng đc tôi lên lịch cụ thể. T.Dương cho đến hn mới biết tin sau khi nghe tôi nói chuyện trả phòng vào cuối tháng. Từ sau chuyện đổ vỡ của tôi, cũng tội cho T.Dương khi đến giờ cô ấy vẫn ko thôi cảm thấy có lỗi. - Vẫn còn áy náy hả, áy náy nhiều thì đem mồi lên phòng tôi. Sang làm thêm 1 trận say nữa trước khi tôi bái bai HN đc chứ, haha. Tôi lại cười khích bác T.Dương nhưng cô ấy chẳng 1 tia hưởng ứng. Chuyện say mèm với T.Dương giờ đã trở thành vô cùng nhạy cảm rồi. Nhìn T.Dương cứ cắm mặt vô Lap chat chit với bạn bè, tôi đâm nhàm chán. Vừa quay qua quay lại định chào cô ấy thì trước mắt lướt qua 2 hình ảnh khá quen thuộc. Bức ảnh trên face 1 người bạn của T.Dương, chụp khá nhiều người kiểu cách học sinh - sv, có thể là 1 nhóm bạn. Hầu hết là người ngoại quốc, khung cảnh xung quanh cũng là ở nc ngoài. Nếu chỉ có vậy thì chẳng có gì đặc biệt nhưng điều đặc biệt làm tôi phải chú ý, xen giữa đám sv ngoại quốc đó chính là hình ảnh T.Hoàng và Vinh thân mật bóp cổ nhau tạo hình vui nhộn, cả 2 đều cười rất tươi. Bức ảnh chụp bằng dslr nên chất ảnh rõ nét, zoom hình lên tôi có thể khẳng định là mình nhìn ko nhầm. Từng mảnh ghép trí nhớ lướt nhanh qua đầu, T.Hoàng từng 1 lần đến X tìm Ngọc nhưng ko gặp, khi đó anh ta trực tiếp giáp mặt Vinh nhưng cả 2 đều tỏ ra lạ lẫm ko quen biết. Tại sao lại vậy chứ??? T.Hoàng vừa du học về, Vinh qua lời tay Trường kể cũng từng tốt nghiệp bên nước ngoài, thậm chí còn từng làm cho cty đối thủ của X. Băn khoăn là vậy nhưng ko biết phải cắt nghĩa ra sao. Suy nghĩ 1 hồi tôi mới tỉnh ngộ giờ mình chẳng còn chút nào liên quan gì đến X và gđ Ngọc. Vậy có nghĩ cũng chẳng để làm gì, có thể T.Hoàng và Vinh khi đó gặp nhau chỉ là lần gặp gỡ duy nhất. Sau vài năm có quên cũng là bình thường. Còn chưa kể nếu là người giống người, dù điều này rất khó xảy ra. Nhưng nếu họ thực sự quen nhau, thậm chí là bạn của nhau thì sao? Nếu thật thì tại sao lại phải "đóng kịch"? Phân vân trước nhiều quyết định thì cứ nên chọn những quyết định sao cho sau này khỏi phải hối tiếc nhiều nhất "tại sao ngày xưa mình lại ko làm vậy". Nghĩ vậy tôi bèn lấy máy gọi cho KN, màn hình đt vẫn hiện lên dòng chữ "a.Nguyên" quen thuộc. ---- Đến SG vào 1 ngày mưa lớn, ngày trước cùng KN ra vào thường xuyên nên tôi cũng đã quen với thời tiết trong này. Mấy ngày đầu ăn uống có phần hơi kém vì chưa quen khẩu vị. Sau lọ mọ, tự đi tìm tòi quanh TP rồi lượn lờ sang hẳn vài tỉnh thành lân cận. Mỗi lần đều đi tới mệt lả, đói meo mới ăn uống nên dần dà cũng quen dần khẩu vị. Người dân trong này thân thiện và nhiệt tình hơn nên tôi "khoái" họ lắm. Sau hơn tháng làm quen và cảm nhận dần nhịp sống trong này thì tôi cũng tìm đc cv mới. 1 cty về xnk mà Trà giới thiệu, ban đầu tôi cũng ko nghĩ là mình sẽ làm cv này đâu nhưng hơn 1 tháng sống trong này, tư tưởng thoải mái dần nên tôi cũng có chút hứng khởi với cv mới mẻ này. Dù sao thì cuộc sống vốn đc tạo thành từ vô vàn những trải nghiệm. Thay mới những điều đã cũ cũng giúp bản thân có những góc nhìn mới mẻ hơn. Cv mới yêu cầu đi lại nhiều từ cty cho tới thực địa xuống hiện trường. Hàng ngày tiếp xúc với giấy tờ, chứng từ, invoice... các loại thủ tục, luật định... Nói chung cũng đủ để cả ngày bận rộn, dù vậy tôi vẫn chưa quên đc cảm giác làm việc ở X... và Ngọc... ---- 1 ngày, thằng ku Hải (thằng em ngày xưa cùng học boxing, giờ làm cho cty anh họ tôi) vào SG ăn cưới tiện thể thăm tôi, nghe nó nói chuyện mới biết cty anh họ tôi đang gặp khó khăn về tiền vốn. Nợ quyết toán từ các chủ đầu tư chưa đòi đc nên đã đến nc phải vay lãi cao để trả lương và các chi phí. Tôi gọi điện trách ông ấy vì sao ko chia sẻ rồi lập tức xin nghỉ, cùng Hải bay ra HN. Ae bàn bạc thống nhất rút hết tiền bán nhà của tôi hỗ trợ anh họ trả nợ. Mặt khác tôi quyết định gọi điện hẹn gặp KN. Định trực tiếp đến X nhưng anh ta dời điểm hẹn sang quán bar mà ngày trước cả 2 vẫn hay đến. - Là cty của anh họ cậu??? Lý do tôi hẹn gặp KN chỉ đơn giản là về việc thanh quyết toán cho công trình của anh họ. Từ đầu đến cuối cuộc gặp chỉ có vài phút mà ko nói thêm bất cứ 1 chuyện gì khác. - Thôi đc rồi, về khoản quyết toán cho cty anh cậu tôi sẽ có quyết định sớm nhất. Còn có điều này... tôi vốn vẫn thắc mắc... tại sao hồi đó cậu lại nói với tôi về chuyện giữa Vinh và T.Hoàng. Tôi nhớ lúc đó tôi đối xử với cậu khá tệ mà. -À cái này... thực ra em làm ko vì gì cả. Em nói với anh chỉ vì ko muốn sau này phải cảm thấy tiếc nếu có chuyện gì đó xảy ra thôi. Cám ơn anh vì cuộc gặp hn, hy vọng vấn đề quyết toán của anh em sớm đc giải quyết. KN nghe tôi nói vậy chỉ nhẹ gật đầu, đoạn tiếp tục ngồi lại uống rượu mặc cho tôi rời đi ---- 3 tuần sau cuộc gặp KN, tôi nhận đc tin từ anh họ thông báo công trình bên X đã đc duyệt quyết toán 100%. Vấn đề tài chính cty tạm thời đc giải quyết dù vẫn còn vài chủ đầu tư khác nấn ná trì hoãn. Tôi hài lòng với lời hứa của KN, vừa suy nghĩ chuyện cảm ơn anh ta thì U.Nhi gọi tới. Hơi bất ngờ vì con bé tự dưng lại liên lạc nhưng sau khi nghe điện tôi còn sốc hơn vì loạt sự việc vừa xảy ra. Là tin đồn về việc Y lôi kéo thành công vài nhà đầu tư đột ngột rút vốn khỏi dự án đang triển khai của Q trên nền 4 khu đất đấu giá cùng 1 vài dự án khác. Điều tương tự cũng đc X giành cho Z với tổ hợp dự án mà cả 2 đang hợp tác. Bất ngờ bị thoái vốn đồng loạt như rút dao găm khỏi vùng động mạch chủ. Cả Q và Z đồng thời thiệt hại nhưng Q thê thảm hơn nhiều vì phương thức kd "trèo cao nhờ phụ thuộc nguồn vốn liên kết". Đến giờ khi các nguồn vốn này đồng loạt rút khỏi, liền khiến Q hoàn toàn đổ sập. Người ngoài nhìn vào thì tha hồ đặt giả thiết và phân tích, về phần tôi chẳng mất công cũng đc U.Nhi bật mí sự thật. Số là bắt nguồn từ việc KN cho it kiểm tra Lap của U.Nhi, phát hiện máy con bé bị dính phần mềm gián điệp sao chép các nội dung. Truy ngược theo các dữ kiện, bức ảnh của Vinh - T.Hoàng và mqh ngày 1 thân mật giữa Vinh và Nhi thì kẻ "gián điệp" ko ai khác chính là anh ta. KN sau đó thực hiện 1 cuộc trao đổi q.trọng với G.Huy. Biết đc biên bản ghi nhớ giá ngày trước với W đc 1 người ko tên gửi đến cho G.Huy. Sau khi xâu chuỗi các mối hợp tác liền nghi ngờ Z giả quỷ giả thần tài chính của chính mình. Nhún nhường ký giao kết cùng X nhưng sự thật sau lưng lại ngấm ngầm lên kế hoạch thao túng. Tranh thủ ô.Luân tan giã với X và tình hình rối ren khi ct Đặng qua đời. Z đứng sau lôi kéo hùn 1 phần vốn giúp Q qua mặt X mua lại 4 khu đất đấu giá. 1 mặt lại giật dây Q hợp tác với Y, lợi dụng mqh đối thủ cạnh tranh giữa X và Y để mượn 1 phần tay Y "đánh" cho X mệt mỏi. Lúc bấy giờ Z mới ra mặt huy động nguồn vốn góp giúp X với lòng tin là 1 đối tác quen thuộc. Mặt khác tận dụng sức ảnh hưởng hối thúc hôn gia của Ngọc với T.Hoàng. Theo di chúc của ct Đặng thì Ngọc đc thừa hưởng 1 số cổ phần ko hề nhỏ. Chỉ cần T.Hoàng khôn khéo dùng tình cảm lay động đc Ngọc là hoàn toàn có thể khống chế số cổ phần đó để ngày càng tiến sâu hơn vào trong lòng X. Đối tác quen thuộc, bạn thân lâu năm tất cả cũng ko bằng 1 chữ Tiền, cả 3 bố con họ Trần này quả thực quá độc. G.Huy sau khi phán đoán người gửi biên bản kia có thể chính là Vinh - 1 người bạn, người thân của T.Hoàng đc cài vào X - mới đinh ninh cty Y của mình bị lợi dụng trắng vốn. Tất nhiên anh ta khá giận dữ nhưng đề nghị sau đó của KN cũng giúp anh ta giãn ra phần nào. 1 vài cổ đông trong Q vốn đã bị KN lôi kéo thành công trước đó. "Giá trị lôi kéo" này hiện tại vẫn còn khi KN huy động 1 lượng tiền dựa trên sự hợp tác với gđ Trà. Chỉ cần thêm 1 cú sốc lớn đủ khiến Q sảy chân là X lập tức có thể thâu tóm số cổ phần này, sau đó nhượng quyền lại cho Y. Lôi kéo đủ đến mức quá bán thì việc thâu tóm sát nhập cty Q, tất cả đều nằm trong tay G.Huy. Chính nhờ đề nghị hấp dẫn đó mà Y chấp nhận bắt tay X, "tiêu diệt" Q và "đánh" tả tơi Z như diễn biến tài chính trong suốt những ngày vừa qua. Nghe tin này xong tôi cũng chỉ cảm thấy phần nào an ủi vì nỗi oan ức của mình đc minh bạch. Dù vậy, tất cả mọi cảm xúc cũng chỉ dừng lại ở đó mà thôi vì hiện tại tôi đã ko còn là người của X nữa. ---- Chiều hn, lúc ra bãi lấy xe để xuống hiện trường thì tôi bất ngờ bị 1 cơn đau quằn quại nhói lên ở vùng bụng. Đau đến phải cúi gập người xuống vì khó thở. Đáng nói cơn đau này ko phải là lần đầu tiên, nó đã xuất hiện suốt nửa tháng nay, lúc đau nhiều đau ít biểu hiện rất thất thường. Nhiều lần định đi khám nhưng ngại vì lý do cv nên tôi đều khất lần. Dùng thuốc giảm đau có đỡ nhưng cơn đau vẫn ko dứt điểm. Sau nhiều trì hoãn, cuối cùng vẫn phải lê thân đến bv. Tưởng chỉ là đau bụng bình thường nhưng hóa ra nó lại phức tạp hơn tôi nghĩ. Phải qua 2 lần khám tại 2 bv khác nhau mới phát hiện đc nguyên nhân cơn đau là do 1 khối u nằm ở phúc mạc (nếu bạn nào đọc từ những ngày đầu hẳn vẫn nhớ có lần mình nhắc về bệnh này và thỉnh thoảng vẫn bị đau bụng, phải dùng thuốc). Bác sĩ trấn an chưa có kết quả xét nghiệm chưa cần quá lo lắng nhưng tôi biết bệnh này ko hề đơn giản như ông ta nói. "- Gen nhà mình có mầm ung thư thì phải, trong họ có 2 chú bác đều mất vì "thằng" này. Mày cũng phải cẩn thận đấy, đi làm ăn uống tiếp khách chừng mực thôi. Tiền nhiều hay ít cũng ko q.trọng bằng sức khỏe đâu." Lời anh họ cảnh báo hồi tôi mới ra trường văng vẳng vang lên trong đầu. Bác và chú tôi đều mất vì K, đặc biệt chú tôi cũng bị chính căn bệnh K phúc mạc này hành hạ. Cơn gió nhẹ sau cơn mưa thổi qua mát mẻ nơi hành lang bv. Bước ra khỏi phòng khám, tôi thoải mái hít hà trọn vẹn từng luồng khí mát. Thấy lòng mình nhẹ tênh 1 cảm giác thanh thản ko lo sợ, ko vướng bận. Tâm lý buông lơi bản thân, sẵn sàng chấp nhận mọi an bài của số phận. Chỉ 1 quãng đường từ bv về cty mà rất nhiều suy nghĩ, hình dung ko ngừng hiện lên trong đầu tôi. Nếu là u lành tôi sẽ tiếp tục sống, tiếp tục 1 cuộc đời với nhiều trải nghiệm đang chờ đợi. Còn là u ác... thì sao chứ, tôi sẽ ko mất tg vào việc nằm 1 chỗ để điều trị. Thay vào đó sẽ là những chuyến du lịch, đi nhiều nơi nhất có thể cho đến lúc chết. Khi ấy chết cũng là chuyến đi cuối cùng đưa tôi đoàn tụ cùng bố mẹ và đứa em trai bé bỏng. Hầu hết mọi thứ đều đc tôi lạc quan hóa, duy chỉ có Ngọc là vẫn còn đó sự băn khoăn. Nếu tôi chết đi, sẽ ko còn đc cùng cô ấy hít thở chung 1 bầu trời nữa. Ngọc vẫn chưa yêu ai khác kể từ khi chúng tôi c.tay, mặc cho T.Hoàng trong tg đó ra sức tấn công, bày tỏ thiện chí. Biết đc những điều này đều do Trà tâm sự. Cô ấy dạo này thường qua lại với KN và gđ bên đó nên có thể chứng thực việc Ngọc vẫn chưa quên đc tôi. Nếu còn nặng tình vậy, hẳn cô ấy sẽ đau lòng lắm nếu bệnh tình của tôi xấu đi. Xuân chóa tiện công tác ghé qua thăm, tình cờ nhìn thấy đống hồ sơ bệnh án liền trách móc tôi rất nhiều vì ko thông báo gì cho mn, chỉ biết "ích kỷ" âm thầm chịu đựng 1m. Tôi biết nó mắng đúng nên chi đành cười gượng nhờ nó giữ bí mật cho đến khi có kết quả xét nghiệm chính thức. ---- Nghĩa trang quê tôi... đêm qua mưa to mà sáng nay trời cứ phủ 1 làn sương mỏng se lạnh. Không gian trở nên tĩnh lặng nơi những lối đi ngăn cách những nấm mồ. Tôi hơi co người lại vì lạnh, lững thức bước từng bước men theo con đường đất, nơi trông ra 1 khuôn viên với những cây bằng lăng xòe tán rộng. Tiếng xào xạc mỗi lúc một rõ rệt... tựa tay lên những nấm mồ thở dốc. Bây giờ, nhiều lúc tôi thấy mình thật giống 1 ông lão 80, chỉ lê mình đi cũng đã mệt phờ vì cơn đau quặn nơi thành bụng ... Cái sức sống của tuổi 25 biến đi đâu mất sạch rồi? Tôi bặm môi, bước tiếp, có lẽ liều thuốc hq vẫn còn tác dụng... Cố đi đến đầu hồi, tôi ngồi xuống ngẩng mặt lên nhìn bầu trời nhưng ko thấy gì cả ngoài 1 tán lá dày đen thẫm, xuất hiện lỗ chỗ những vệt sáng của ánh nắng nhạt mờ mờ phía trên. Để tâm trí trôi đi lặng lẽ... gió hình như cũng thổi mạnh hơn. Chợt phát hiện bên thân cây trước mặt đâm ra 1 chồi non nho nhỏ, đứng cô đơn trơ trọi 1m. Nhìn chồi xanh ấy sao cô đơn giống cuộc đời tôi thế. Gục mặt xuống cánh tay, chơi vơi trong 1 mớ tâm trạng không định hình nổi. Lặn sâu trong đó là nỗi nhớ vẫn thường bị tôi cố tình chôn lấp. ...Đã nửa năm rồi! Thế là anh cũng đã sống mà ko có em 1 cách đúng nghĩa trong từng ấy tg. T.gian đi qua trước cửa, giống như là t.gian chết...vô hồ. Ko biết giờ này cô ấy ra sao? Đang vui hay buồn? Tôi ko kìm lòng nổi, thốt lên 1 tiếng thở dài xen lẫn tiếng gió da diết lẫn trong những tán lá... - Ngọc ơi... anh nhớ lắm... anh yêu em!!! - Em cũng yêu anh!!! Tôi ngẩng mặt lên vì giọng nói quen thuộc, chỉ 1s sau nc mắt như muốn trào ra. Buông rơi hết mọi suy nghĩ trước đó, tôi giang rộng 2 tay ôm bóng dáng đang đứng trước mặt mình vào lòng. Ngọc cũng ôm chặt lấy tôi, nức nở như một đứa trẻ... thì thầm giữa những tiếng nấc. _ Sao lại bắt em chờ lâu thế? Sao lại thế hả? Anh vẫn yêu em mà, phải ko? _ Anh xin lỗi! Tôi đẩy đầu Ngọc ra xa hơn một chút để có thể nhìn rõ hơn, niềm hạnh phúc ánh lên trong mắt sau nhiều ngày xa cách. - Em lạnh ko? - Ko, có anh ôm em rồi mà. - Ừm... mà sao sớm thế này em đã ở đây làm gì vậy? - Mộ "bố mẹ và em trai"... đầu tháng và rằm ngày nào em cũng về thắp hương mà. - Thật thế ư? - giờ tôi mới hiểu vì sao mấy ngôi mộ của gđ dạo gần đây lúc nào cũng tươm tất và thay hoa liên tục. - Có gì ko thật chứ, cũng như anh hay đến thắp hương bố em thôi mà. - Ơ, sao em biết... em nhìn thấy ah? - Từ hồi anh còn chưa vào SG cơ, nhìn anh loay hoay cắm đám cúc vào lọ em thương lắm nhưng vì ghét nên chỉ đứng từ xa nhìn vậy thôi. - Anh xin lỗi nhưng anh thề là chưa làm gì có lỗi với em cả. Chuyện hôm đó với T.Dương chỉ là... - Ko cần nói nữa, em tin anh mà - Ngọc đưa tay lên miết lấy môi tôi. - ... Xa nhau rồi em mới biết là mình chỉ cần đc yêu anh thôi... - Uhm, nhưng mà... anh hiện tại.. anh hiện tại đang bị... - Xuân kể với em rồi, là bệnh thì sao chứ, sống chết thì đã sao. Chỉ cần biết mình yêu nhau trọn vẹn như lúc này thôi là em thấy mãn nguyện rồi. Nghe Ngọc nói vậy, tôi cúi xuống hôn nhẹ lên viền môi hồng hồng của cô ấy. Bầu trời hình như đã tan bớt mây mù, nắng đã có màu vàng rám hơn rồi. Tình yêu chân thành vượt qua những lo âu, những hy sinh riêng lẻ, những hiểu lầm, những khổ đau... cuối cùng trở về nơi chúng xứng đáng đc trân trọng. Mãi mãi ko mất đi hạnh phúc. P/s: 2 ngày sau Ngọc theo tôi bay vào SG nhận kết quả xét nghiệm. Cả 2 đều xác định trước tâm lý và "lịch trình" riêng cho mỗi tình huống tốt hoặc xấu. Ngọc nắm chặt tay tôi trên suốt quãng đường đến bv. Tôi trấn an cô ấy ko phải nghĩ nhiều nhưng bản thân giờ phút ấy chính là tột cùng căng thẳng. Kết quả xét nghiệm: âm tính, ko phát hiện có tế bào ung thư. Mời các bạn đón đọc Dòng Đời Nổi Trôi của tác giả Lê Vũ Trọng Nghĩa.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cảnh Đồi Mờ Xám
Nhận được tin Keiko, con gái lớn của mình tự tử, Etsuko, một phụ nữ Nhật Bản sống một mình ở Anh đã bắt đầu cuộc hành trình chìm đắm vào những kí ức về một mùa hè ở Nagasaki hậu chiến. Trung tâm của những kí ức mơ hồ ấy là một tình bạn lạ lùng với Sachiko, người đã bị cuộc chiến tranh tước đi tất cả trừ đứa con gái nhỏ cùng một khao khát mãnh liệt phải đến nước Mỹ bằng mọi giá. Trong cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình, Kazuo Ishiguro đã khắc họa nên bức tranh những số phận ở nước Nhật Bản bại trận, nơi các nhân vật của ông vật lộn, xoay xở, dằn vặt với những thay đổi đến quá nhanh và quá dữ dội. Nhưng sâu hơn, cuốn sách còn là một cuộc thăm dò đầy tinh tế cái bí ẩn của kí ức. Cuộc sống hiện tại đặt nền móng trên kí ức, nhưng đến lượt mình, chính kí ức lại vô cùng bất trắc, khó lường. *** Chương một Niki, cái tên chúng tôi rốt cuộc đặt cho con gái út của mình, không phải tên tắt mà là một thỏa hiệp giữa tôi với cha con bé. Trái khoáy ở chỗ, anh lại là người muốn chọn một cái tên Nhật Bản cho nó, còn tôi - có lẽ vì một mong muốn ích kỷ không muốn gọi lại quá khứ - nên cứ nhất quyết đòi một cái tên Anh. Cuối cùng thì chồng tôi cũng đồng ý với Niki, vì tin rằng có đôi chút Đông phương phảng phất trong đó. Con bé về thăm tôi hồi đầu năm nay, vào tháng Tư, khi ngày vẫn trôi qua trong lạnh giá và mưa phùn. Có thể nó vốn định ở lại lâu hơn. Tôi không biết nữa. Nhưng ngôi nhà thôn quê và sự tĩnh lặng xung quanh khiến nó bức bối, chẳng bao lâu sau, tôi thấy rõ nó đã rất nóng lòng muốn trở về cuộc sống của mình ở London. Nó nghe các đĩa hát cổ điển của tôi với vẻ bồn chồn, lật vội qua biết bao cuốn tạp chí. Điện thoại thường xuyên đổ chuông, nó vội bước qua tấm thảm, thân hình mảnh dẻ siết trong bộ quần áo bó, cẩn thận đóng cánh cửa sau lưng để tôi không nghe được cuộc nói chuyện. Nó rời đi sau năm ngày. Phải tới ngày thứ hai nó mới nhắc đến Keiko. Hôm ấy là một buổi sáng hút gió ảm đạm, chúng tôi đã kê ghế bành ra gần cửa sổ để ngắm mưa rơi xuống mảnh vườn nhà. “Mẹ có nghĩ con sẽ đến không?” nó hỏi. “Ý con là đến lễ tang ấy.” “Không, mẹ nghĩ là không. Mẹ không thực sự nghĩ con sẽ tới.” “Nghe tin về chị ấy, con cũng buồn. Con đã suýt đến đấy.” “Mẹ chưa bao giờ nghĩ con sẽ tới.” “Mọi người không ai hiểu con bị làm sao,” nó nói. “Con không hề nói với bất kỳ ai. Chắc vì con thấy xấu hổ. Quả thực họ sẽ không hiểu được, họ sẽ không thể hiểu cảm giác của con về chuyện ấy. Chị em gái lẽ ra phải là người ta thấy gần gũi, đúng không. Có thể ta không thích họ lắm, nhưng ta vẫn gần gũi với họ. Nhưng sự thực lại không phải thế. Đến bây giờ, con thậm chí còn không nhớ chị ấy trông thế nào.” “Đúng thế, lần cuối cùng con gặp chị cũng đã khá lâu rồi.” “Con chỉ nhớ chị ấy luôn khiến con khổ sở. Con chỉ nhớ có thế về chị ấy. Nhưng mặc dầu vậy, con vẫn buồn khi nghe tin.” Có lẽ điều thôi thúc con gái tôi quay trở lại London không chỉ là sự tĩnh lặng. Vì dù chúng tôi không bao giờ nói chuyện lâu về cái chết của Keiko, chủ đề ấy không bao giờ khuất dạng, luôn lảng vảng bất cứ khi nào chúng tôi trò chuyện với nhau. Không giống Niki, Keiko là người Nhật thuần và hơn một tờ báo đã mau mắn bám vội lấy chi tiết này. Người Anh thích nghĩ rằng tự vẫn đã ăn sâu vào máu người Nhật chúng tôi, cứ như thể chẳng cần phải giải thích gì thêm; vì đó là tất cả những gì họ đưa lên mặt báo, rằng con bé là người Nhật và nó đã treo cổ trong phòng riêng. ⁎ ⁎ ⁎ Cũng chính buổi tối hôm ấy, khi đang đứng cạnh các ô cửa sổ đưa mắt nhìn ra bóng tối ngoài kia, tôi bỗng nghe tiếng Niki sau lưng mình: “Mẹ đang nghĩ gì thế?” Nó đang ngồi vắt ngang người trên ghế trường kỷ, một cuốn sách bìa mềm đặt trên đầu gối. “Mẹ đang nghĩ về một người mẹ từng quen. Một phụ nữ mẹ từng quen.” “Một người mẹ quen hồi mẹ… Trước khi mẹ đến Anh?” “Mẹ quen cô ấy hồi mẹ sống ở Nagasaki, nếu đó là điều con muốn hỏi.” Thấy nó tiếp tục nhìn mình, tôi nói thêm, “Đã lâu lắm rồi. Rất lâu trước khi mẹ gặp cha con.” Có vẻ hài lòng với câu trả lời nên sau khi buông một lời bình luận bâng quơ, nó quay lại với cuốn sách. Nói chung, Niki là một đứa trẻ biết quan tâm. Nó đến đây không chỉ để xem tôi đón nhận tin về cái chết của Keiko thế nào; nó đến thăm tôi xuất phát từ cảm giác sứ mệnh. Vì trong mấy năm gần đây, do quyết định cảm phục một số khía cạnh nhất định trong quá khứ của tôi, nó đã chuẩn bị tinh thần để nói với tôi rằng mọi chuyện đến giờ không có gì thay đổi, rằng tôi không nên ân hận vì những lựa chọn trước đây của mình. Nói ngắn gọn, để trấn an rằng tôi không phải chịu trách nhiệm trước cái chết của Keiko. Lúc này, tôi hoàn toàn không muốn nói nhiều về Keiko vì điều ấy không an ủi tôi là mấy. Tôi nhắc đến Keiko ở đây chỉ vì chuyện đó liên quan đến chuyến thăm của Niki hồi tháng Tư này, và vì chính trong chuyến thăm ấy, tôi lại nhớ đến Sachiko sau ngần ấy thời gian. Tôi chưa bao giờ thực sự thân với Sachiko. Trên thực tế, tình bạn của chúng tôi chỉ kéo dài có vài tuần lễ, không hơn, trong một mùa hè đã nhiều năm về trước. ⁎ ⁎ ⁎ Lúc ấy, những ngày khủng khiếp nhất đã qua. Lính Mỹ vẫn đông như trước - vì đang có chiến trận ở Triều Tiên - nhưng ở Nagasaki, sau những gì đã xảy ra trước đó thì đó là những tháng ngày yên ả và nhẹ nhõm. Có cảm giác thế giới đang thay đổi. Tôi và chồng sống tại một khu vực ở phía Đông của thành phố, chỉ cách trung tâm một chuyến xe điện ngắn. Gần chỗ chúng tôi ở có một con sông, có lần tôi nghe nói từng có một ngôi làng mọc lên ven bờ sông hồi trước chiến tranh. Nhưng rồi bom giội xuống và tất cả những gì còn sót lại chỉ là những đống đổ nát cháy đen. Việc tái thiết đã được tiến hành và chẳng bao lâu sau, bốn tòa nhà bê tông đã mọc lên, mỗi tòa có khoảng bốn mươi căn hộ riêng biệt. Trong số bốn tòa nhà tập thể ấy, tòa của chúng tôi được xây sau rốt, cũng chính vào thời điểm chương trình tái thiết bị tạm hoãn; vậy là giữa chúng tôi và con sông là một vùng đất trống vài mẫu toàn bùn khô và mương rãnh. Rất nhiều người phàn nàn coi ni đó là một mối đe dọa về mặt sức khỏe, và quả thật việc thoát nước ở đó rất kinh khủng. Quanh năm suốt tháng, lúc nào cũng có những hố đầy nước tù đọng, vào những tháng mùa hè, muỗi nhiều đến mức không ai chịu nổi. Thỉnh thoảng cũng thấy các viên chức tới sải chân đo đạc hoặc nguệch ngoạc ghi chép, nhưng rồi nhiều tháng trôi qua mà đâu vẫn hoàn đấy. Cư dân của khu tập thể cũng là những người như chúng tôi - các cặp vợ chồng trẻ, chồng tìm được công việc khá khẩm tại những công ty đang lên. Các công ty là chủ sở hữu của nhiều căn hộ, họ cho nhân viên của mình thuê lại với giá rất hào phóng. Căn hộ nào cũng giống nhau; sàn tatami, nhà tắm và bếp theo thiết kế phương Tây. Chúng đều nhỏ và rất khó giữ cho mát mẻ trong những tháng nóng nực, nhưng về tổng thể, các cư dân ở đây dường như đều có chung cảm giác hài lòng. Tuy vậy, ở đó, tôi vẫn còn nhớ rõ một bầu không khí tạm bợ không lẫn đi đâu được, như thể tất cả chúng tôi đang chờ đến ngày được chuyển tới sống ở một nơi khác tiện nghi hơn thế. Có một ngôi nhà gỗ nhỏ vẫn tồn tại qua sự tàn phá của cả chiến tranh lẫn những cỗ xe ủi đất của chính quyền. Tôi có thể thấy ngôi nhà từ cửa sổ căn hộ của mình, đứng lẻ loi cuối bãi đất trống rộng lớn, gần như ngay sát bờ sông. Đó là một ngôi nhà nhỏ kiểu thường gặp ở nông thôn, mái ngói dốc xuống gần sát mặt đất. Trong những khoảnh khắc trống rỗng, tôi vẫn thường đứng bên cửa sổ trân trân nhìn ngôi nhà đó. Nếu xét tới những chú ý mọi người dành cho sự xuất hiện của Sachiko, thì tôi không phải người duy nhất để mắt đến ngôi nhà ấy. Người ta bàn tán rất nhiều về hai nam công nhân một ngày nọ làm việc ở đó - những chuyện như không biết họ có phải viên chức nhà nước hay không, về sau người ta đồn rằng có người phụ nữ và đứa con gái nhỏ đến sống tại ngôi nhà, chính tôi cũng đã vài dịp thấy hai mẹ con đi qua bãi đất đầy mương rãnh. Lúc ấy là đầu hè - tôi đang mang bầu được ba hoặc bốn tháng - khi tôi lần đầu tiên để ý thấy chiếc xe Mỹ to đùng màu trắng và móp méo đang xóc nẩy chạy trên khu đất, hướng về phía bờ sông. Lúc đó trời đã sẩm tối, mặt trời đang lặn xuống sau căn nhà, thoáng chốc lóe lên trên lớp vỏ xe bằng sắt. Rồi một buổi chiều nọ, tôi nghe thấy hai phụ nữ ở trạm chờ xe điện nói chuyện về người đàn bà đã chuyển tới căn nhà vô chủ bên sông. Một người kể cho người kia mình đã nói chuyện với người ấy vào sáng hôm đó và được đáp lại bằng một thái độ khinh khỉnh không lẫn đi đâu được. Người đi cùng đồng ý rằng người mới đến có vẻ thiếu thân thiện - thậm chí có khi là kênh kiệu nữa. Cô ta trẻ lắm cũng phải ba mươi tuổi, vì con gái cô ta ít nhất cũng đã lên mười. Người phụ nữ thứ nhất bảo cô ta nói giọng Tokyo và chắc chắn không phải dân Nagasaki. Họ bàn tán một lúc về “người bạn Mỹ” của cô, rồi người phụ nữ nhắc lại thái độ kém thân thiện người lạ mặt dành cho mình sáng hôm đó. Tôi không nghi ngờ gì rằng trong số các phụ nữ cùng sống ở khu tập thể vào thời điểm đó, có những người đã phải chịu đau khổ, mang trong mình những ký ức buồn thương và kinh hoàng. Nhưng khi chứng kiến cảnh họ từng ngày bận bịu với chồng con, tôi thấy thật khó tin họ đã từng có lúc sống cuộc đời chất chứa những thảm kịch và ác mộng thời chiến. Tôi không bao giờ cố ý tỏ ra thiếu thân thiện, nhưng nếu bảo tôi không cố chứng minh điều ngược lại thì chắc cũng chẳng sai. Vì vào thời điểm ấy trong đời mình, tôi vẫn còn muốn mọi người để mình được yên. Vậy là tôi chăm chú lắng nghe hai phụ nữ nói chuyện về Sachiko. Tôi có thể hồi tưởng lại một cách sống động buổi chiều hôm ấy ở trạm chờ xe điện. Đó là một trong những ngày rực rỡ ánh nắng đầu tiên sau mùa mưa tháng Sáu, và quanh chúng tôi, các bức tường gạch và bê tông dầm nước đang dần khô ráo. Chúng tôi đang đứng trên cây cầu xe lửa và ở một bên đường ray ngay dưới chân đồi, ta có thể thấy một đám mái nhà tụm lại một chỗ, như thể các ngôi nhà đã xô nhau cùng trượt xuống dốc. Xa hơn một chút là khu tập thể của chúng tôi, nhìn như bốn cột bê tông. Lúc đó, tôi thấy đồng cảm với Sachiko, thấy phần nào hiểu được thái độ xa lánh tôi đã nhận ra khi quan sát cô từ xa. Chúng tôi rồi sẽ trở thành bạn bè với nhau vào mùa hè ấy và tôi sẽ được cô gửi gắm tâm sự riêng, ít nhất là trong một khoảng thời gian ngắn. Giờ thì tôi không nhớ chúng tôi đã gặp nhau lần đầu tiên như thế nào. Chỉ nhớ một chiều nọ tội nhận ra cô đang đi trước mình trên con đường nhỏ dẫn ra khỏi khu dân cư. Tôi vội vã đuổi theo, còn Sachiko cứ bình thản bước. Chắc hẳn lúc ấy chúng tôi đã biết tên nhau rồi, vì tôi nhớ đã gọi cô khi đến gần. Sachiko quay lại chờ tôi bắt kịp. “Có chuyện gì sao?” cô hỏi. “Thấy chị ở đây em mừng quá,” tôi nói, có chút hụt hơi. “Con gái chị, lúc em ra khỏi nhà, nó đang đánh nhau. Ở đằng kia, gần mấy rãnh nước ấy.” “Nó đánh nhau sao?” “Với hai đứa trẻ khác. Một đứa là con trai. Chúng đánh nhau dữ lắm.” “Vậy hả.” Sachiko bắt đầu đi tiếp. Tôi đi bên cạnh cô. “Em không muốn làm chị hoảng hốt,” tôi nói, “nhưng hình như chúng đánh nhau dữ lắm. Em còn thấy một vết cắt trên má con gái chị nữa thì phải.” “Vậy sao.” “Ở đằng kia, phía cuối bãi đất.” “Chúng nó vẫn đang đánh nhau à?” Cô tiếp tục đi lên đồi. “Không. Em thấy con gái chị bỏ chạy.” Sachiko mỉm cười nhìn tôi. “Em không quen thấy trẻ con đánh nhau phải không?” “Trẻ con đánh nhau thì cũng không tránh được. Nhưng em nghĩ nên nói cho chị biết. Và em nghĩ nó không định đến trường đâu. Mấy đứa kia tiếp tục đi về phía trường học, nhưng con gái chị lại quay về phía bờ sông.” Sachiko không trả lời, chỉ tiếp tục đi lên đồi. “Sự thực là,” tôi tiếp tục, “em đã định nói với chị chuyện này từ trước. Chị thấy đấy, dạo này em đã nhiều lần bắt gặp con gái chị. Hình như con bé trốn học chút ít hay sao ấy.” Con đường chia ngả trên đỉnh đồi. Sachiko dừng lại, chúng tôi nhìn nhau. “Em quan tâm đến con gái chị như vậy thật tử tế quá, Etsuko ạ,” cô nói, “hết sức tử tế. Nhất định em sẽ trở thành một bà mẹ tuyệt vời.” Cũng như hai phụ nữ ở trạm chờ xe điện, trước đây tôi vẫn nghĩ Sachiko khoảng ba mươi tuổi. Nhưng có lẽ dáng người trẻ trung của cô đã đánh lừa chúng tôi, vì nét mặt cô già dặn hơn nhiều. Cô đang nhìn tôi với vẻ thích thú thoáng hiện trên khuôn mặt, cái nhìn của cô có gì đó khiến tôi phải lúng túng cười trừ. “Chị rất cảm ơn khi em tìm chị thế này,” cô nói tiếp. “Nhưng như em thấy đấy, giờ chị đang bận chút việc. Chị phải vào Nagasaki.” “Không sao. Em chỉ nghĩ tốt hơn cả là đến nói cho chị hay, chỉ vậy thôi.” Trong khoảnh khắc, cô lại tiếp tục nhìn tôi vẫn với ánh mắt thích thú ấy. Rồi cô nói, “Em mới tử tế làm sao. Giờ thì chị xin phép. Chị phải vào thành phố.” Cô cúi chào, sau đó quay sang ngả đường dẫn lên trạm chờ xe điện. “Chỉ vì nó có vệt xước trên má thôi,” tôi nói, hơi cao giọng. “Còn con sông nữa, nhiều khúc rất nguy hiểm. Em chỉ nghĩ tốt nhất nên tìm gặp chị rồi nói cho chị hay.” Cô quay lại nhìn tôi một lần nữa. “Etsuko này, nếu em không còn việc gì để làm,” cô nói, “thì chắc hôm nay em sẽ không ngại trông con bé giúp chị đâu nhỉ. Buổi chiều chị sẽ về. Chị tin chắc em với nó sẽ rất hợp nhau.” “Em sẽ không phản đối, nếu chị muốn thế. Em phải nói là em có cảm giác con gái chị vẫn còn quá nhỏ để ở một mình suốt ngày.” “Em mới tử tế làm sao,” Sachiko nhắc lại. Rồi cô mỉm cười một lần nữa. “Đúng thế, chị tin rằng em sẽ trở thành một bà mẹ tuyệt vời.” Sau khi chia tay Sachiko, tôi xuống đồi, đi qua khu dân cư để quay về nhà. Chỉ một lúc sau, tôi thấy mình đã về đến bên ngoài tòa nhà nơi mình ở, nhìn ra dải đất trống. Không thấy bóng dáng con bé đâu, đang định quay vào thì tôi bỗng phát hiện có thứ gì đó di chuyển dọc bờ sông. Chắc con bé chỉ vừa mới đứng lên, vì giờ tôi có thể thấy rõ bóng dáng bé bỏng của nó bên kia khoảng đất đầy bùn. Thoạt đầu, một cảm giác hối thúc dâng lên trong lòng, khiến tôi những muốn quên hết chuyện này đi để quay về làm việc nhà. Nhưng cuối cùng, tôi vẫn tiến về phía con bé, cẩn thận tránh những rãnh nước tù. Theo những gì tôi nhớ thì đó là lần đầu tiên tôi nói chuyện với Mariko. Cách hành xử của nó vào buổi sáng hôm ấy chắc cũng không có gì quá bất thường, vì thực ra tôi cũng chỉ là một người lạ mặt. Nó hoàn toàn có quyền ngờ vực tôi. Và nếu quả là tôi có cảm giác bất an lạ lùng nào đó vào hôm ấy, thì có lẽ cũng chỉ là phản ứng bình thường trước thái độ của Mariko. Sau mùa mưa vài tuần trước, nước sông sáng hôm ấy vẫn khá cao và chảy xiết. Bờ đất dốc thẳng xuống mặt nước, bùn ở chân dốc nơi con bé đang đứng trông sũng nước hơn hẳn. Mariko mặc một chiếc váy bông đơn giản, dài tới gối, mái tóc cắt ngắn khiến nó có vẻ giống con trai. Không cười, nó ngẩng lên nhìn tôi đang đứng trên đỉnh con dốc bùn. “Chào cháu,” tôi nói, “cô vừa nói chuyện với mẹ cháu xong. Cháu là Mariko phải không?” Cô bé tiếp tục nhìn tôi không chớp mắt, chẳng nói một lời. Vệt trên má khi nãy tôi tưởng là máu, giờ hóa ra chỉ là một vết bùn. “Giờ này lẽ ra cháu phải ở trường chứ, đúng không?” tôi hỏi. Nó im lặng một lát. Rồi lên tiếng: “Cháu không đi học.” “Nhưng trẻ em là phải đi học. Cháu không thích đi học à?” “Cháu không đi học.” “Nhưng mẹ cháu không gửi cháu tới trường nào ở đây sao?” Mariko không đáp. Thay vào đó, nó lùi lại một bước. “Cẩn thận đấy,” tôi nói. “Không là cháu sẽ ngã xuống nước mất. Trơn lắm đấy.” Nó tiếp tục đứng dưới chân dốc nhìn lên chỗ tôi đứng. Tôi thấy đôi giày nhỏ xíu của nó nằm ngay cạnh. Cả giày và đôi chân trần của nó đều lấm lem bùn. “Cô vừa nói chuyện với mẹ cháu,” tôi nói, mỉm cười mong nó yên tâm. “Mẹ cháu nói sẽ rất vui nếu cháu lên nhà cô chờ mẹ về. Nhà cô đằng kia kìa, ở khu tập thể ấy. Cháu có thể lên nhà với cồ, ăn thử bánh cô làm hôm qua. Cháu có thích không, Mariko? Rồi cháu có thể kể chuyện của cháu cho cô nghe nữa.” Mariko vẫn nhìn tôi đầy cảnh giác. Rồi không rời mắt khỏi tôi, nó cúi xuống nhặt giày. Lúc đầu, tôi cứ tưởng điều đó có nghĩa nó chuẩn bị đi theo mình. Nhưng khi thấy nó vẫn tiếp tục nhìn mình, tôi mới hiểu ra nó nhặt giày lên là để sẵn sàng bỏ chạy nếu cần. “Cô không làm hại cháu đâu,” tôi nói rồi cười một cách căng thẳng. “Cô là bạn của mẹ cháu mà.” Theo những gì tôi nhớ, hai chúng tôi chỉ nói với nhau có thế vào buổi sáng hôm ấy. Không muốn làm con bé hoảng sợ thêm nên chỉ một lúc sau, tôi đã quay người, vượt qua bãi đất trống về nhà. Quả thực, phản ứng của con bé có phần khiến tôi phật ý; vì trong khoảng thời gian ấy, những điều tuy nhỏ nhặt vậy thôi nhưng lại khơi dậy trong tôi biết bao nỗi e sợ về bổn phận làm mẹ. Tôi tự nhủ chuyện vừa xảy ra chẳng có gì to tát và dù sao chăng nữa, trong những ngày tiếp theo, thế nào cũng có thêm nhiều cơ hội để tôi kết bạn với nó. Nhưng hóa ra, phải đến một buổi chiều khoảng hai tuần sau đó, tôi mới lại nói chuyện với Mariko. ⁎ ⁎ ⁎ Trước chiều hôm ấy, tôi chưa bao giờ đặt chân vào bên trong ngôi nhà nhỏ và đã khá ngạc nhiên khi được Sachiko mòi vào. Trên thực tế, tôi đã lập tức nhận ra cô mời mình là có mục đích gì đó. Quả đúng như vậy, tôi không nhầm. Căn nhà rất gọn gàng, nhưng tôi vẫn nhớ nó tỏa ra một vẻ tồi tàn ảm đạm; xà nhà bằng gỗ trên trần nhìn cũ kỹ và thiếu an toàn, chỗ nào trong nhà cũng phảng phất một mùi ẩm thấp. Cửa trượt ở mặt trước ngôi nhà đã được mở tung cho ánh sáng mặt trời tràn qua hiên vào trong. Mặc dầu thế, phần lớn ngôi nhà vẫn chìm trong bóng tối. Mariko đang nằm ở góc nhà cách xa nguồn sáng mặt trời nhất. Dù rất tối, tôi vẫn thấy có gì đó đang cựa quậy cạnh nó. Lại gần, tôi nhận ra đó là một con mèo lớn đang cuộn tròn trên mặt sàn tatami. “Xin chào, Mariko,” tôi nói. “Cháu có nhớ cô không?” Nó ngừng vuốt ve con mèo và ngước lên. “Cô cháu mình gặp nhau hôm nọ,” tôi nói tiếp. “Cháu không nhớ sao? Ở bờ sông ấy.” Con bé không có vẻ gì đã nhận ra tôi. Nó nhìn tôi một lúc, sau đó lại bắt đầu vuốt ve con mèo. Sau lưng mình, tôi nghe tiếng Sachiko đang pha trà trên bếp đặt ở giữa phòng. Đang định lại chỗ cô thì đột nhiên Mariko lên tiếng, “Nó sắp đẻ rồi.” “Thật sao? thế thì thích thật.” “Cô có muốn một con mèo con không?” “Cháu thật tốt, Mariko. Để cô xem thế nào đã nhé. Nhưng cô tin chắc thế nào lũ mèo con cũng tìm được một mái nhà tử tế.” “Sao cô không lấy một con mèo con?” cô bé hỏi. “Cô kia bảo sẽ lấy một con.” “Để cô nghĩ đã nhé, Mariko. Cô nào cơ?” “Cô bên kia sông. Cô ấy bảo sẽ lấy một con.” “Nhưng cô không nghĩ có ai sống ở bên kia sông, Mariko. Bên ấy chỉ toàn cây cối với rừng thôi mà.” “Cô ấy nói sẽ dẫn cháu đến nhà cô ấy. Cô ấy sống bên kia sông. Cháu không đi theo cô ấy.” Tôi nhìn cô bé trong giây lát. Rồi chợt nghĩ ra, tôi cười phá lên. “Nhưng đó chính là cô mà, Mariko. Cháu không nhớ sao? Cô bảo cháu lên nhà cô chờ mẹ cháu từ thành phố về mà.” Mariko lại ngẩng lên nhìn tôi. “Không phải cô,” nó nói. “Mà là cô kia. Cô ấy sống bên kia sông cơ. Tối hôm qua cô ấy đến đây. Khi mẹ cháu đi vắng.” “Tối hôm qua? Khi mẹ cháu đi vắng?” “Cô ấy nói sẽ dẫn cháu sang nhà cô ấy, nhưng cháu không chịu. Vì lúc ấy trời đã tối. Cô ấy nói thế thì cầm đèn theo” - con bé đưa tay chỉ chiếc đèn xách tay treo trên tường - “nhưng cháu không đi theo cô ấy. Vì lúc ấy trời đã tối.” Phía sau tôi, Sachiko đã đứng dậy và đang nhìn con gái. Mariko trở nên im lặng, sau đó ngoảnh đi và tiếp tục vuốt ve con mèo. “Ra ngoài hiên đi,” Sachiko nói với tôi, tay bê khay trà. “Ngoài ấy mát hơn.” Hai chúng tôi làm theo lời cô, để Mariko lại một mình ở góc nhà của nó. Từ ngoài hiên, tuy không thể nhìn thấy dòng sông, nhưng tôi vẫn thấy rõ nơi triền đất dốc xuống và lớp bùn càng gần mặt nước trông càng ẩm ướt hơn hẳn. Sachiko ngồi lên một tấm đệm và bắt đầu rót trà. “Ở đây nhan nhản mèo hoang,” cô nói. “Chị không thấy lạc quan cho lắm về tương lai của lũ mèo con này đâu.” “Đúng thế, có quá nhiều mèo hoang,” tôi đáp. “Thật đáng thương. Mariko tìm thấy con mèo mẹ ở đây hả chị?” “Không, mẹ con chị mang nó theo. Nếu là chị thì chị đã bỏ nó lại rồi, nhưng Mariko nhất quyết không chịu nghe lời.” “Chị đưa nó về đây từ tận Tokyo sao?” “Không. Chị với con bé đã sống gần một năm trời ở Nagasaki mà. Ở phía bên kia thành phố.” “Ôi vậy sao? Em không biết đấy. Chị sống ở đó cùng… cùng bạn à?” Sachiko ngừng rót trà và nhìn tôi, hai tay ôm ấm trà. Tôi thấy trong ánh nhìn của cô biểu cảm thích thú từng toát ra khi cô quan sát tôi vào lần gặp trước. “Chị e là em nhầm rồi, Etsuko ạ,” cuối cùng cô cũng lên tiếng. Rồi lại tiếp tục rót trà. “Chị sống ở nhà bác trai chị.” “Chị yên tâm, em chỉ…” “Ừ, tất nhiên rồi. Thế nên không việc gì phải ngại ngùng, đúng không?” Cô cười to rồi đưa tôi một chén trà. “Chị xin lỗi, Etsuko ạ, chị không định đùa em. Sự thật là, chị có việc này muốn hỏi em. Muốn nhờ vả em một chút.” Sachiko bắt đầu rót trà cho chính mình, và khi làm việc đó, dường như thái độ cô trở nên nghiêm túc hơn trước. Rồi cô đặt ấm trà xuống, nhìn tôi. “Em thấy đấy, Etsuko, một vài dự tính của chị không tiến triển như đã định. Vì thế nên hiện tại chị cần tiền. Không nhiều lắm, em hiểu không. Chỉ cần một chút.” “Em hiểu,” tôi nói, hạ thấp giọng. “Chắc chị rất vất vả khi phải lo cho Mariko.” “Etsuko này, chị nhờ em việc này được không?” Tôi cúi người. “Em có chút tiền tiết kiệm,” tôi nói, gần như thì thầm. “Em sẽ rất vui nếu giúp được chị phần nào.” Tôi rất ngạc nhiên khi Sachiko cười to. “Em tốt quá,” cô nói. “Nhưng thực ra, chị không muốn mượn tiền của em. Chị đang nghĩ đến việc khác. Hôm nọ em có nhắc tới một việc. Em có một người bạn có quán mì.” “Ý chị là bác Fujiwara?” “Em bảo chị hình như bác ấy đang cần người giúp việc. Một công việc nhỏ như vậy sẽ giúp được chị rất nhiều.” “À,” tôi đáp, hơi do dự. “Nếu chị muốn, em sẽ hỏi giúp.” “Thế thì tuyệt lắm.” Sachiko nhìn tôi trong giây lát. “Nhưng hình như em hơi lưỡng lự về chuyện đó, đúng không Etsuko?” “Hoàn toàn không. Bao giờ gặp bác ấy, em sẽ hỏi giúp chị. Nhưng em chỉ băn khoăn” - tôi lại hạ giọng - “ai sẽ trông con gái chị vào ban ngày?” “Mariko hả? Nó có thể giúp chị ở quán mì. Nó cũng khá được việc đấy.” “Em tin thế. Nhưng như chị thấy đấy, em không biết chắc bác Fujiwara sẽ nghĩ thế nào. Dù sao thì ban ngày Mariko nên tới trường mới phải.” “Chị đảm bảo với em, Etsuko ạ, Mariko sẽ không gây ra một phiền toái nào, dù chỉ là nhỏ nhất. hơn nữa, tuần sau là hết năm học rồi. Chị sẽ đảm bảo nó không làm vướng chân ai. Em có thể yên tâm về điều đó.” Tôi lại cúi người. “Em sẽ hỏi khi gặp bác ấy.” “Chị rất cảm ơn em.” Sachiko nhấp một ngụm trà. “Thực ra, chị muốn nhờ em hỏi bác ấy ngay trong vài hôm tới.” “Em sẽ cố.” “Em thật tốt.” Chúng tôi ngồi im một lát. Nãy giờ, tôi vẫn mải chú ý đến ấm trà của Sachiko; nhìn có vẻ là một sản phẩm cao cấp làm từ sứ trắng. Cả chén trà tôi đang cầm trong tay cũng được làm từ cùng một thứ vật liệu tinh tế ấy. Lúc này khi đang ngồi uống trà cùng nhau, đây không phải lần đầu tiên tôi sửng sốt về sự tương phản kỳ cục giữa bộ ấm chén với vẻ tồi tàn của ngôi nhà cùng mặt đất lầy lội đầy bùn dưới hiên. Khi ngẩng lên, tôi nhận ra Sachiko đang quan sát mình. “Chị quen dùng đồ sứ chất lượng cao rồi, Etsuko ạ,” cô nói. “Em biết đấy, cuộc sống của chị không phải lúc nào cũng giống…” - cô khoát tay về phía ngôi nhà - “thế này. Tất nhiên là chị không ngại một chút bất tiện. Nhưng có một số thứ chị vẫn không thể xuê xoa cho được.” Tôi cúi đầu, không nói gì. Cả Sachiko cũng bắt đầu ngắm nghía chén trà của mình. Cô tiếp tục xem xét, cẩn thận xoay nó trong tay. Rồi cô đột nhiên nói, “Chị nghĩ nói mình lấy trộm bộ ấm chén này cũng chẳng sai. Cơ mà, chắc bác chị cũng không quá nhớ nhưng bộ ấm chén này đâu.” Tôi nhìn cô, hơi ngạc nhiên. Sachiko đặt chén trà xuống trước mặt, phẩy tay xua ruồi. “Có phải chị nói chị sống ở nhà bác chị?” tôi hỏi. Cô chậm rãi gật đầu. “Một ngôi nhà xinh đẹp vô cùng. Với ao cá trong vườn. Khác xa với quang cảnh xung quanh đây.” Trong giây lát, cả hai chúng tôi cùng đưa mắt nhìn vào trong. Mariko vẫn nằm nguyên ở góc nhà từ khi chứng tôi ra ngoài, xoay lưng về phía chúng tôi. Dường như nó đang thì thào nói chuyện với con mèo. Chúng tôi lại ngồi im lặng một lúc lâu, rồi tôi lên tiếng. “Em không biết có người sống bên kia sông.” Sachiko quay ra nhìn những rặng cây ở bờ bên kia. “Không, chị cũng chưa bao giờ thấy ai bên ấy.” “Nhưng cô trông trẻ của chị. Mariko lúc nãy bảo cô ấy đến từ bên kia sông.” “Chị làm gì có người trông trẻ, Etsuko. Ở đây chị không quen ai.” “Mariko có nói về một người phụ nữ nào đó…” “Em đừng để ý đến nó.” “Ý chị là nó bịa ra sao?” Hình như Sachiko thoáng cân nhắc gì đó. Rồi cô nói, “Đúng, nó chỉ bịa chuyện ra thôi mà.” “Vâng, em đoán trẻ con thường hay làm thế.” Sachiko gật đầu, “Khi nào làm mẹ, Etsuko ạ,” cô mỉm cười nói, “em sẽ phải quen dần với những chuyện như thế.” Sau đó, chúng tôi chuyển sang các chủ đề khác. Dạo ấy là thời kỳ đầu trong tình bạn của chúng tôi và chúng tôi chủ yếu chỉ nói về những chuyện vặt vãnh. Phải đến một buổi sáng vài tuần sau đó, tôi mới nghe Mariko nhắc lại về người phụ nữ đã tìm đến nó. Mời bạn đón đọc Cảnh Đồi Mờ Xám của tác giả Kazuo Ishiguro & Lan Young (dịch).
21 Bài Học Cho Thế Kỷ 21
Sau khi tìm hiểu quá khứ và tương lai của nhân loại qua hai cuốn sách gây tiếng vang là Sapiens và Homo deus, Yuval Noah Harari đi sâu vào các vấn đề “ngay tại đây” và “ngay lúc này”, tức các sự kiện hiện tại và tương lai gần nhất của xã hội loài người. Những triển vọng đầy hứa hẹn của công nghệ sẽ được đưa ra bàn luận bên cạnh những hiểm họa như “đứt gãy” do công nghệ gây ra, việc kiểm soát thế giới bên trong dẫn tới sự sụp đổ của hệ thần kinh hay “tự do trong khuôn khổ”. Chính trị và tôn giáo có còn bắt tay nhau như trong quá khứ hay sẽ thao túng con người theo những cách riêng rẽ, mới mẻ hơn? Và những vấn đề toàn cầu ấy liên quan mật thiết tới hành vi và đạo đức của từng cá nhân riêng lẻ như thế nào? Xét cho cùng, những thách thức lớn nhất và những lựa chọn quan trọng nhất của ngày nay là gì? Ta cần chú ý đến điều gì? Ta nên dạy con cái ta những gì? “Cuộc khủng hoảng sinh thái đang lấp ló, mối đe dọa của các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt [...] và sự trỗi dậy của các công nghệ đột phá mới” là những nỗi lo không của riêng ai; và Harari sẽ đồng hành cùng bạn trên con đường bóc tách từng vấn đề một cách thấu đáo. *** Khác với nội dung hai tác phẩm nổi tiếng được bạn đọc săn tìm vừa qua là Sapiens lược sử về loài người và Homo Deus lược sử tương lai, lần này là một quyển sách đề cập trực diện những vấn đề có tính toàn cầu nhưng rất sát sườn với số đông người đọc. 21 bài học cho thế kỷ 21 là phần việc như chính tác giả bộc bạch: "Tôi muốn xoáy ống kính vào vấn đề "ngay tại đây" và "ngay lúc này". Tiêu điểm của tôi đặt ở các sự kiện hiện tại và tương lai gần nhất của xã hội loài người. Điều gì đang xảy ra ngay lúc này? Những thách thức lớn nhất và những lựa chọn quan trọng nhất của ngày nay là gì? Ta cần chú ý đến điều gì? Ta nên dạy con cái ta những gì?". Sự sát hợp của quyển sách này còn ở chỗ: bản thảo được bắt đầu từ những thắc mắc của độc giả và các đồng nghiệp mà tác giả có điều kiện ghi nhận được. Nhưng điều đặc biệt quan trọng chính là khả năng của tác giả trong nhìn nhận bao quát vấn đề và trình bày trong phương pháp biện giải nhân quả, cùng với phân tích định lượng các biến cố xã hội đang xảy ra. Có thể hình dung công chúng đang nhìn thấy cây, còn Noah Harari chỉ ra đây là một khu rừng loại gì, đang ở đâu trên bản đồ toàn cầu, nó vừa bị cơn bão nào tràn qua và sắp sửa có những cơn lũ nào quét tới. Quan trọng hơn nữa, Harari không đơn thuần chỉ ra một cách xác đáng những vấn đề mà nhiều người còn chưa tường tận, vị giáo sư năm nay ở tuổi 43 còn đề xuất các hướng tiếp cận chuyên biệt để cải thiện tình hình. Đơn cử một phát biểu của Harari về chủ nghĩa khủng bố: "Chủ nghĩa khủng bố vừa là một vấn đề chính trị toàn cầu vừa là một cơ chế tâm lý học nội tại. Chủ nghĩa khủng bố hoạt động bằng cách nhấn một cái nút sợ hãi thẳm sâu trong tâm trí ta và cướp đi những tưởng tượng riêng tư của hàng triệu người". Với cách hiểu như vậy, có lẽ phải cần một ít thời gian nữa, để những ai ngày ngày theo dõi tin tức qua tivi và cả những nhà làm chính sách của các quốc gia "đàn anh thế giới" đang thương lượng các khoản ngân sách để chi cho công cuộc chống khủng bố có thể đồng cảm và nhìn thấy từ đó một hướng ra bền vững hơn. Trở lại với 21 bài học cho thế kỷ 21, ở đây công chúng sẽ được dịp nghe đề cập hàng loạt câu chuyện tối quan trọng đang diễn ra, đang song hành với con người và còn có nguy cơ tiếp diễn trong tương lai. Trong ngồn ngộn dữ kiện và chằng chịt các mối quan hệ, bạn đọc vẫn tìm được cảm giác thích thú và bị hấp dẫn do lẽ tác giả đã rất tài tình trong sử dụng ngôn ngữ diễn đạt: trong sáng, logic và cả dí dỏm hồn nhiên. Cho nên những vấn đề to tát được trình thuật một cách rất giản dị, "sự nổi lên của Donald Trump nói lên điều gì? Ta có thể làm gì với vấn nạn "tin giả"? Tại sao nền dân chủ tự do lại lâm vào khủng hoảng? Chúa đã trở lại rồi chăng? Một cuộc thế chiến mới đang đến? Nền văn minh nào thống trị thế giới: Phương Tây, Trung Quốc hay Hồi giáo? Châu Âu có nên mở cửa cho người nhập cư? Chủ nghĩa dân tộc có giải quyết đươc các vấn đề bất bình đẳng và biến đổi khí hậu không? Ta nên làm gì với chủ nghĩa khủng bố". Nhưng có những dự liệu của Harari có thể khiến người đọc rùng mình: "Các thuật toán Big Data có thể tạo ra những "nền độc tài số", mọi quyền lực tập trung trong tay một nhóm tinh hoa cực nhỏ trong khi hầu hết những người khác phải gánh chịu, không phải sự bóc lột mà là một thứ tồi tệ hơn: sự vô dụng". Và như thế, những trang viết của Harari có thể cùng cư dân toàn cầu mở rộng vấn đề đến vô lượng vô biên... *** Bạn đọc Việt Nam đã biết đến cây viết thể loại lịch sử-triết học Yuval Noah Harari qua hai tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt của ông là Sapiens và Homo Deus. Lần này chúng tôi xin giới thiệu tiếp cuốn thứ ba có tựa đề: 21 bài học cho thế kỷ 21. Trong cuốn sách này, tác giả xuất phát từ góc nhìn của một nhà tương lai học để hình dung ra thế giới hiện đại trong kỷ nguyên số sẽ vận hành ra sao. Từ đó, ông nêu ra các giả thiết về sự tác động to lớn của kỷ nguyên số tới mọi mặt của đời sống xã hội loài người, cũng như các quan niệm truyền thống về tự do, hy sinh, dân tộc, tôn giáo, v.v. Cũng giống như Newton đã thắc mắc khi nhìn thấy quả táo rơi xuống đất - mà người bình thường khác thì không để ý – để từ đó làm tiền đề cho sự phát hiện ra định luật hấp dẫn, tác giả Yuval Noah Harari luôn “lật ngược lại vấn đề” để có một cái nhìn “trái chiều”, khác lạ với cách nhìn quen thuộc từ xưa đến nay. Chính điều này làm cho nội dung cuốn sách trở nên cuốn hút người đọc. Tuy nhiên, tác giả cũng thừa nhận mình là người đa nghi và không muốn mọi người có ấn tượng sai lầm rằng cái gì có tác dụng với ông thì cũng sẽ có tác dụng với tất cả mọi người, bởi lẽ các cá nhân không ai giống ai, cả về cấu tạo cơ thể, hệ thần kinh lẫn duyên nghiệp, v.v. ông cũng không ngần ngại tuyên bố là độc giả cũng nên biết cặp kính ông dùng “để nhìn thế giới, từ đó bóp méo tầm nhìn cũng như những viết lách của tôi, có màu gì” và ông cũng sẵn sàng đặt mình vào “tầm ngắm” để độc giả phán xét. Do vậy, độc giả hãy đọc cuốn sách với tinh thần phản biện vì không phải tất cả các luận thuyết của tác giả đều đã, hay sẽ là đúng đắn, là chân lý, là khách quan. Cấc triết gia cứ việc luận bàn, còn thế giới sẽ vận hành theo quy luật riêng của nó! Nhà xuất bản Thế giới *** Xin chào ACE, tôi thực hiện cuốn sách này chủ yếu do sở thích. Thế nên tôi không cần phải động viên hay phải có một lợi ích nào cả. Ở Việt Nam tôi thấy tri thức, sách vở đúng giờ là thoải mái nhất, chỉ cần lên mạng và tải là có. Người làm sách thì có hẳn một cộng đồng, nhưng chả ai cần donate hay phải trả giá mới làm cả. Có người còn mua sách rồi xé ra làm. Riêng cá nhân tôi chỉ làm những sách mình cảm thấy hứng thú, và cũng không muốn OCR sách mới cho lắm. Nhưng với cuốn này nó hợp với tôi, cho nên tôi đã quyết định OCR lại và làm một mình, vì một số lần trước cũng muốn thắp lên phong trào làm sách cho group mà tôi đang tham gia. Nhưng có vẻ như là một trò đùa thôi. Dù sao, việc làm nó có ý nghĩa với riêng bản thân tôi, nên chả sao cả. Tôi sẽ làm vì bản thân, và chia sẻ cho những người cần đến. Và tôi có một mục tiêu mà muốn đạt đến là làm 100 cuốn sách song ngữ A-V, về nhiều thể loại khác nhau. Để cho nếu như có người thích học TA bằng cách này luôn tìm được một số cuốn nào đó hợp với sở thích để tìm đọc. Nhưng mục tiêu này là rất xa khi mới đến cuốn thứ 7. Thế nên để chờ đến sách mà bạn cần, khi 7 cuốn này không có cuốn nào bạn thích thì sẽ rất lâu. Các bạn chỉ có thể dùng tạm mà thôi. Rất cảm ơn ý tưởng của các bạn trên group, đã giúp tôi có được cách làm dạng sách này. Tôi không phải người nghĩ đến đầu tiên, nhưng hiện nay là người tìm ra giải pháp để biến nó thành hiện thực và người duy nhất làm ra loại sách như thế này. Về cách làm thì tôi đã chia sẻ rồi, mong là có một ai đó cùng làm với một ý thức tốt để cho ra cùng dòng sách có chất lượng tốt. Tôi tự tin là để bằng được tôi cũng phải đầu tư công sức lớn đấy. Dù sao, có người làm thì mục tiêu 100 chỉ là con số nhỏ. Lời cuối, vì sách mới nên sau 2 năm tôi mới tung ra bản ebook sách tiếng Việt. Các bạn có thể đọc thuần Việt bằng cách đọc trong note. Với mục đích tôn trọng NXB và tác giả. Muốn cái gì tồn tại thì đều cần có tiền, mà sách mới ra đã chia sẻ tràn lan thì sách mới sẽ không thể có nữa. Thế nên tôi đã làm cho các bạn không làm lại được bản TV từ bản SN này hoặc phải tốn công nhiều mới làm lại được. Tháng 12, năm 2019 Lamtaxy Mời bạn đón đọc 21 Bài Học Cho Thế Kỷ 21 của tác giả Yuval Noah Harari.
Chỉ Thời Gian Có Thể Cất Lời
Được biết đên rộng rãi ở Việt Nam với cuốn tiểu thuyết Hai số phận (tập 1 của series Kane và Abel), Jeffrey Archer là một tiểu thuyết gia với thủ pháp kể chuện cực kỳ lôi cuốn và hấp dẫn độc giả khiến chúng ta không thể rời mắt khỏi cuốn sách ngay từ trang đầu. Tài năng tuyệt vời ấy thêm một lần nữa lại được tác giả sử dụng trong Biên niên Clifton, series ăn khách toàn thế giới của ông đang được Bách Việt mang tới với độc giả Việt Nam. Lấy bối cảnh thành phố cảng Bristol nước Anh vào những thập niên đầu thế kỷ 20 mà nhân vậy chính là một cậu bé, Harry Clifton, người mang trong mình những bí ẩn về thân thế. Số phận đưa đẩy khiến Harry có một cuộc đời khác với cha và các bác ruột mình, cậu gắng sức chiến thắng định mệnh dường như đã được ăn bài sẵn để mở cho mình một lối đi riêng. Liệu rằng, Harry có thực sự vượt lên được những hoàn cảnh éo le đeo đuổi cậu suốt từ thời thơ ấu cho tới tận khi trưởng thành? *** Câu chuyện này sẽ không bao giờ được viết ra nếu tôi không có thai. Các bạn biết đấy, tôi vẫn luôn lên kế hoạch sẽ để mất đi sự trong trắng của mình vào dịp đi chơi ở Weston-super-Mare, chỉ có điều, không phải với người đàn ông đó. Arthur Clifton chào đời tại Still House Lane, giống như tôi; thậm chí còn học cùng trường với tôi, trường Tiểu học Merrywood, nhưng vì tôi kém anh hai tuổi, nên thậm chí anh còn chẳng biết tôi tồn tại trên đời. Tất cả đám con gái lớp tôi đều mê mẩn anh, và không phải chỉ đơn thuần vì anh là đội trưởng đội bóng đá của trường. Cho dù Arthur chưa bao giờ tỏ ra quan tâm đến tôi khi còn học ở trường nhưng điều đó nhanh chóng thay đổi khi anh từ mặt trận phía Tây trở về. Thậm chí tôi không dám chắc anh nhận ra tôi là ai khi mời tôi nhảy vào buổi tối thứ bảy đó ở Palais, song một cách công bằng, tôi cũng phải nhìn đến hai lần trước khi nhận ra anh vì anh đã nuôi một hàng ria bút chì và chải tóc lật ra sau như Ronald Colman. Anh không để mắt tới bất cứ cô gái nào khác tối hôm ấy, và sau khi chúng tôi cùng nhau nhảy điệu waltz cuối cùng, tôi biết chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi anh cầu hôn tôi. Arthur nắm lấy tay tôi trên đường quay về nhà, và khi về tới trước cửa nhà tôi, anh đã cố tìm cách hôn tôi. Tôi quay mặt tránh đi. Xét cho cùng, mục sư Watts vẫn thường nhắc tôi rằng tôi cần giữ mình trong trắng cho tới ngày cưới, và cô Monday, người phụ trách ban đồng ca của chúng tôi, cảnh cáo rằng đàn ông chỉ muốn có một thứ, và một khi có được nó, họ sẽ nhanh chóng mất đi hứng thú. Tôi vẫn thường tự hỏi liệu có phải cô Monday nói từ kinh nghiệm bản thân hay không. Tối thứ bảy tiếp theo, Arthur mời tôi tới rạp chiếu bóng để xem Lilian Gish trong phim Những bông hoa gãy nại, và mặc dù cho phép anh khoác vai mình, tôi vẫn chưa chấp nhận để anh hôn. Anh cũng không làm ầm lên vì chuyện đó. Sự thực là Arthur có phần dè dặt. Đến thứ bảy tiếp theo, tôi cho phép anh hôn mình, nhưng khi anh định luồn một tay vào trong áo tôi, tôi lập tức đẩy anh ra. Kỳ thực, tôi đã không cho phép anh làm thế cho tới khi anh ngỏ lời cầu hôn tôi, trao cho tôi nhẫn đính hôn, còn mục sư Watts đã đọc bản thông báo kết hôn giữa hai người đến lần thứ hai. Anh trai Stan của tôi nói với tôi rằng tôi là cô gái cuối cùng còn trinh bên phía bờ bên này của sông Avon, dù tôi dám ngờ phần lớn những cuộc chinh phục của anh ấy chỉ tồn tại trong đầu anh mà thôi. Tuy vậy, tôi vẫn quyết định đã tới lúc, và còn dịp nào tốt hơn chuyến đi chơi tới Weston-super-Mare với người đàn ông tôi sắp sửa kết hôn trong vài tuần nữa? Tuy nhiên, ngay khi Arthur và Stan nhảy xuống khỏi xe buýt, cả hai lập tức tông thẳng tới quán rượu gần nhất. Nhưng tôi đã dành cả tháng vừa qua để lên kế hoạch cho khoảnh khắc này, thế nên khi rời khỏi xe, như một cô gái ngoan được hướng dẫn chu đáo, tôi đã sẵn sàng. Tôi bước về phía bến tàu với tâm trạng chán nản thì cảm thấy có ai đó đang đi theo tôi. Tôi ngoái lại nhìn và ngạc nhiên khi nhận ra người ấy là ai. Anh ta bắt kịp tôi, và hỏi có phải tôi đang một mình hay không. “Đúng thế,” tôi đáp, biết chắc lúc này Arthur hẳn đã nốc đến vại bia thứ ba rồi. Khi anh ta đưa tay sờ lên mông tôi, đáng lẽ phải tát vào mặt anh ta, song tôi lại không làm thế vì vài lý do. Đầu tiên, tôi nghĩ tới những lợi thế khi làm tình với một người đàn ông nhiều khả năng sẽ chẳng bao giờ gặp lại. Và cũng phải thừa nhận tôi khá thích thú trước sự sỗ sàng của anh ta. Khi Arthur và Stan có lẽ đã cạn hết vại bia thứ tám của họ, người đàn ông kia thuê phòng cho chúng tôi ở một nhà nghỉ ngay gần bờ biển. Dường như tại đó người ta có mức giá đặc biệt cho những khách thuê phòng không có ý định nghỉ qua đêm. Anh ta bắt đầu hôn tôi ngay khi chúng tôi kịp lên tới chiếu nghỉ cầu thang lầu một, và khi cửa phòng ngủ đã đóng lại, anh ta hối hả cởi khuy áo tôi ra. Rõ ràng với anh ta đây không phải là lần đầu tiên. Kỳ thực, tôi tin chắc mình không phải là cô gái đầu tiên được anh ta đưa lên giường trong một chuyến đi chơi như thế này. Nếu không phải khách quen, làm sao anh ta biết được mức giá đặc biệt? Phải thú thực là tôi không trông đợi mọi thứ trôi qua nhanh đến thế. Sau khi rời khỏi người nhau, tôi lao ngay vào phòng tắm, còn anh ta ngồi ở cuối giường và châm một điếu thuốc. Có lẽ lần thứ hai sẽ khá hơn, tôi thầm nghĩ. Nhưng khi quay ra, anh ta đã biến mất. Phải thừa nhận là, tôi cảm thấy có chút thất vọng. Có lẽ tôi đã cảm thấy tội lỗi hơn về chuyện không chung thủy với Arthur nếu anh không nôn ọe ra khắp người tôi trong hành trình trở về Bristol. Ngày hôm sau, tôi kể với mẹ tôi về chuyện đã xảy ra, song không tiết lộ thân phận người đàn ông kia. Suy cho cùng, mẹ tôi chưa bao giờ gặp anh ta, và nhiều khả năng sẽ chẳng bao giờ gặp. Bà bảo tôi hãy giữ mồm giữ miệng, vì bà không muốn phải hủy bỏ đám cưới, thậm chí nếu quả thực tôi có thai đi nữa, cũng sẽ chẳng ai đủ tinh ý để nhận ra, bởi đến khi cái bụng lộ rõ thì chắc hẳn Arthur và tôi đã kết hôn rồi. *** “Chỉ thời gian có thể cất lời” của Jeffrey Archer là một tác phẩm hay, lôi cuốn, hấp dẫn, nhưng còn xa mới có thể trở thành một siêu phẩm. Ctgctcl là cuốn đầu tiên nằm trong series 7 cuốn nằm trong bộ “Biên niên Clifton” nổi tiếng, với nhân vật trung tâm là cậu bé Harry Clifton, một cậu bé có thân phận bí ẩn. Cha cậu bé, Arthur Clifton, vốn là một công nhân chuyên cần, thật thà bỗng nhiên mất tích đầy bí ẩn. Mẹ cậu bé, Maisie, một phụ nữ lôi cuốn, quyến rũ, vốn là một phục vụ bàn trong một tiệm cà phê. Xuyên suốt tác phẩm, độc giả được dõi theo hành trình trưởng thành của Harry Clifton thông qua nhiều góc nhìn của nhiều nhân vật, từ một cậu bé ngày ngày lang thang nơi bến cảng thành một sinh viên Oxford. Cùng với hành trình trưởng thành đó, những bí ẩn trong quá khứ và trong hiện tại cũng dần dần được vén lên. Trong Chỉ thời gian có thể cất lời, tác giả đã trình diễn một kỹ thuật kể chuyện lôi cuốn. Tình tiết truyện diễn biến nhanh, ít những trường đoạn tự sự kiểu nhân vật độc thoại dài cả vài trang sách, nhân vật kể truyện thay đổi liên tục qua các phần giúp câu chuyện đa sắc thái và không bị nhàm chán. Nói không ngoa, nếu có thể rảnh rang ngồi cả ngày để đọc, bạn có thể đọc một lèo hết veo cuốn sách 500 trang này mà không gặp bất kỳ khó khăn gì. Tác phẩm thực sự rất dễ đọc. Tuy nhiên… Trước khi viết những dòng “tuy nhiên” này tôi phải tâm sự thực lòng, tôi là một độc giả khó tính. Tôi ưa thích các tác phẩm mà người đọc buộc phải đọc nhiều lần để hiểu, bỏ thời gian ngẫm nghĩ để khám phá các tầng nghĩa, mất ngủ để phân tích các cấu trúc bí ẩn của tác phẩm, và cuối cùng được trải nghiệm cảm xúc vỡ òa như khi Archimedes reo vang “Eureka!” trong bồn tắm. Chính vì vậy, với cá nhân tôi, Chỉ thời gian có thể cất lời tuy rất hay nhưng chưa thể trở thành một siêu phẩm đúng nghĩa bởi: Jeffrey Archer tuy đã dày công xây dựng nhiều bí ẩn trong tác phẩm nhưng có vẻ ông giấu không kỹ, hoặc tôi đoán mò quá giỏi nên đã “bắt bài” được ông quá sớm, khiến những lần ông dùng thủ pháp chuyển đổi nhân vật dẫn truyện để giải nghĩa các bí ẩn từ các phần trước, tôi thấy nhiều tình tiết bị lặp lại và có vẻ hơi thừa. Cảm giác khi mình biết tỏng cái điều mà nhân vật kể truyện kia đang giấu giấu, giếm giếm, úp úp, mở mở, giống y như khi nghe một chiến sĩ dũng cảm tuyên bố: “Có đánh chết tau cũng không khai ra thèng bạn tau đang nấp trong đống rơm, nha nha nha nha nha!!!” Cảm giác thực sự rất… khó tả. Là một người sinh ra và lớn lên ở nông thôn, bản thân phải tự cố gắng để có thể theo đuổi cái sự học hành, tôi đánh giá, những bi kịch và những khó khăn của cậu bé Harry Clifton phải trải là… quá bình thường. Bởi cậu đã được nhiều người thương yêu và hết lòng giúp đỡ, bởi có những người bạn chân thành, và quan trọng nhất là bởi luôn có các quý nhân xuất hiện đúng lúc, đưa tay giúp đỡ cậu thậm trí trước cả khi cậu bé kịp cảm thấy khổ đau. Đúng là… làm gì có những năm tháng tĩnh lặng trong cuộc đời, chẳng qua khi đó có những người đã thay bạn gánh vác những trách nhiệm, gánh nặng mà thôi. Harry Clifton vì vậy hầu như chỉ phải tập trung vào mỗi việc là chăm chỉ học hành, tập hát và đóng kịch. Tôi nghĩ vui rằng, đáng nhẽ tên tác phẩm nên đổi là “Quý nhân phù trợ” sẽ hợp hơn. – Đặng Xuân Lương Review Mời bạn đón đọc Chỉ Thời Gian Có Thể Cất Lời của tác giả Jeffrey Archer.
Những Kẻ Tủi Nhục - Fyodor Dostoyevsky
Tiểu thuyết "Những Kẻ Tủi Nhục" lấy khung cảnh là thành phố Peterburg, trung tâm chính trị, kinh tế, hành chính, văn hóa,... của nước Nga Sa hoàng. Dưới ngòi bút của tác giả, Peterburg không còn là những lâu đài tráng lệ, thành phố của những tượng đài và nhà bảo tàng nguy nga, của những ngựa xe như nước, những công hầu bá tước, trai thanh gái lịch, với những dạ hội và những buổi tiếp tân như trong "Chiến Tranh Và Hoà Bình" của L.Tônxtôi. Thế giới của Đốxtôiepxki là những tầng hầm tối tăm , ẩm thấp, những căn gác áp mái lạnh lẽo, là sương mù, mưa, tuyết với những con người khốn khổ cùng: ăn đói, mặc rách, ho lao, động kinh, những kẻ ma cô, đĩ điếm, ăn mày... Tóm lại đấy là một bức tranh đầy, phản ánh cái mâu thuẫn âm ỷ nhưng quyết liệt của một chế độ thối nát tập trung trong một thành phố khổng lồ mà nhân vật Ivan Petrovits gọi là "Dở điên, dở khùng". Một trong những nét hấp dẫn và làm nên đặc thù của Đốxt là tài phân tích, mổ xẻ tâm lý con người. Có thể nói, đây là sở trường đặc biệt và cũng là niềm hứng thú bất tận của Đốxt. Cũng như ở các tác phẩm khác, "Những Kẻ Tủi Nhục" có rất nhiều đoạn phân tích tâm lý hết sức sâu sắc, tinh tế, chứng tỏ một khả năng quan sát, suy ngẫm, một vốn sống phong phú, lịch lãm của một tài năng bậc thầy. Hứng thú này làm cho ngòi bút của ông có lúc sa đã thậm chí có chỗ lắp khép khiên cưỡng. Tuy nhiên, người đọc vẫn rất thú vị vì những nhận xét, mổ xẻ lòng người rất đỗi tinh vi và có sức khái quát cao, giúp cho ta khám phá sâu sắc thế giới nội tâm của chính mình mà nhiều lúc ta cũng không hiểu nổi. Từ những bối cảnh, những con người của một thời, tác phẩm của Đốxt đã vượt qua biên giới của không gian và thời gian để trường tồn cùng nhân loại. *** Dos[1], như cách gọi thân mật tên Dostoevsky của bạn đọc Việt Nam, là một nhà văn thực sự vĩ đại của cả nhân loại, hơn thế nữa, không như những nhà văn vĩ đại khác mà tác phẩm chỉ có ý nghĩa lịch sử như những chứng nhân của một nền văn minh đã qua, Dos luôn luôn đồng hành cùng nhân loại, thậm chí càng ngày Dos càng trở nên vĩ đại hơn. Sức sống vượt thời gian đó của Dos tựa hồ như là do sự lựa chọn của số phận; cuộc đời Dos, cũng như cuộc đời của Jesus, đã chịu đựng tất cả những đau khổ điển hình của con người, và trí tuệ, tình cảm của ông lại được trang bị để cảm nhận và biểu hiện cuộc đời ấy đầy đủ và sinh động nhất với sức mạnh chín muồi của một cây bút mà lịch sử đã đặt vào tay ông. Dos (1821–1881) bắt đầu cuộc đời sáng tác văn học vào quãng giữa thế kỷ XIX (tác phẩm đầu tay của Dos Những người nghèo khổ in năm 1845), lúc mà xã hội Nga đang có những biến chuyển mạnh mẽ – cái cũ đã suy thoái cùng cực, phơi bày tất cả mặt trái xấu xa và những mâu thuẫn không thể giải quyết nổi; cái mới đang manh nha, đang lần hồi định hướng – đó là một giai đoạn phức tạp và đau khổ trong lịch sử phát triển của xã hội Nga. Tuy nhiên “cùng tắc biến”, chính trong tột đỉnh đau thương và phức tạp ấy, những tư tưởng lớn lao sẽ ra đời, những nhân cách vĩ đại sẽ tự khẳng định. Đối với văn học cũng vậy: xã hội càng nhiễu nhương, văn chương – nếu vượt qua được ranh giới của thứ văn chương bồi bút – lại càng phong phú và có ích. Dos thuộc số những nhà văn mang trong mình một nhà tư tưởng và một con người hành động – ông là nghệ sĩ và cũng là một chiến sĩ. Vì vậy, không chỉ viết văn, ông còn tham gia hoạt động chính trị, và hậu quả của việc này là cái án tử hình mà phải đến tận phút chót trước giờ hành quyết mới được giảm xuống thành khổ sai ở Xibir. Sau bốn năm lưu đày, Dos tiếp tục bị sung vào quân dịch làm lính trơn, rồi sau đó bị cấm cả tự do cư trú lẫn sáng tác. Trong suốt cuộc đời của mình, Dos luôn luôn bị cuộc sống thúc bách, nợ nần như chúa chổm, phải viết văn như “một thứ ngựa trạm” để kiếm sống và trả nợ, sức khỏe kém sút, chứng động kinh luôn luôn hành hạ... Đó là hình ảnh xám xịt phủ lên toàn bộ cuộc đời nhà văn mà bạn đọc sẽ bắt gặp đó đây qua những nhân vật trí thức nghèo trong các tác phẩn của Dos, chẳng hạn Raskolnikov trong Tội ác và hình phạt, và nhất là nhân vật Ivan Petrovich của cuốn sách này. Chính vì phải sống một cuộc đời làm lũ ở giữa đám “thập loại chúng sinh” như vậy, cộng với một trái tim nhân hậu và một trí tuệ sâu sắc bẩm sinh, Dos đã trở thành lương tâm của những người “hạ đẳng”, nhà văn của những kẻ bị áp bức và sỉ nhục. Qua nhân vật Ivan Petrovich trong cuốn sách này, một nhân vật có rất nhiều nét gần gũi với đời riêng tác giả, ta thấy một nhân cách làm người, một phẩm chất nhà văn rất cao thượng: luôn luôn đồng cảm, yêu thương, xả thân vì những đồng loại bất hạnh đến mức quên mình. Trong cuộc đời tăm tối thuở ấy, nhân cách của ông, nghĩa cử của ông lóe lên như một tia sáng rực rỡ, ấm áp như một ngọn lửa mà đến trăm năm sau bạn đọc còn cảm nhận được giữa những trang sách. Đằng sau tất cả những tư tưởng và triết lý có những điều đúng đắn và sâu sắc, nhưng cũng có cả những sai lầm, thậm chí phản động, cái còn lại và làm nên chân dung đặc thù của Dos chính là tấm lòng ưu ái này của ông. Người ta kể rằng, trong đám tang của ông, những người đi đưa tang đã tự đeo những cái gông cổ, những cái còng tay, những dây xích tượng trưng... để nói lên phẩm chất của người quá cố là nhà văn của những người bị xích xiềng và chà đạp. Tác phẩm mà bạn đọc đang có trong tay là một chứng minh cụ thể cho những phẩm chất ấy của Dos. Có thể nói, tiểu thuyết Những kẻ tủi nhục[2] tuy không phải là tác phẩm tiêu biểu về chiều sâu tư tưởng và độ chín của bút pháp của nhà văn, nhưng vẫn phản ánh rất đúng Dos về hai mặt: chủ đề và văn phong. Nhà văn viết tác phẩm này năm 1861 (sau mười năm đi đày và lưu lạc vừa trở về Petersburg), và cho in lên ngay số đầu tiên của tờ tạp chí Thời Đại (Valkovskyrêmia) do ông và người anh trai chủ trương mà trong đó thực chất ông là linh hồn. Sau những bước thăng trầm dữ dội, những khủng hoảng nghiêm trọng trong tư tưởng, thế giới quan của Dos chao đảo. Ông hoài nghi con đường cách mạng xã hội của những người cách mạng dân chủ và rơi vào những tư tưởng duy tâm: muốn kêu gọi sự thức tỉnh của lương tâm, dùng cái đẹp để cải tạo thế giới. Ông phát biểu chính kiến này trong loạt tác phẩm tiêu biểu ở giai đoạn cuối đời, như Tội ác và hình phạt, Lũ người quỉ ám, Thằng ngốc, Anh em nhà Karamazov... Tiểu thuyết Những kẻ tủi nhục nằm vào giữa giai đoạn giao thời này của Dos. Ở đây đã bắt đầu xuất hiện hệ tư tưởng mới của ông trong cách phân tích và giải quyết các tình huống và số phận nhân vật. Tuy nhiên, về cơ bản tác phẩm vẫn tiếp tục đi nốt con đường của những tác phẩm trước đây, mở đầu bằng Những người nghèo khổ. Chính vì lẽ đó, người đọc và giới phê bình Nga vẫn coi Những kẻ tủi nhục như tập tiếp theo trong loạt chủ đề của Những người nghèo khổ, vẫn chịu ảnh hưởng của Belinskij trong những tư tưởng cuối cùng mà Dobroljubov gọi là “khuynh hướng nhân đạo”. Khung cảnh của câu chuyện là thành phố Petersburg, trung tâm chính trị, kinh tế, hành chánh, văn hóa của nước Nga sa hoàng. Dưới ngòi bút của Dos, Petersburg không còn là những lâu đài tráng lệ, thành phố của những tượng đài và nhà bảo tàng xa hoa, của những ngựa xe như nước, những công hầu bá tước, trai thanh gái lịch, với những dạ hội và những buổi tiếp tân như trong Chiến tranh và hòa bình của L. Tolstoy. Thế giới của Dos là những tầng hầm tối tăm ẩm thấp, những căn gác áp mái lạnh lẽo, là sương mù, mưa, tuyết với những con người khốn cùng: ăn đói, mặc rách, ho lao, động kinh, những kẻ ma cô, đĩ điếm, ăn mày... Tóm lại, đấy là một bức tranh đầy mâu thuẫn, phản ánh cái mâu thuẫn âm ỉ nhưng quyết liệt của một chế độ thối nát tập trung trong một thành phố khổng lồ mà nhân vật Ivan Petrovich gọi là “dở điên dở khùng”. Toàn bộ cốt truyện gồm có hai tuyến: Một phía là gia đình Ikhmenev, một địa chủ nhỏ bị sỉ nhục và phá sản, bị thua kiện, mất đất mất của, con gái lại bỏ nhà theo nhân tình – vốn là con trai của kẻ thù của mình. Một phía khác là gia đình ông già Smith: cô con gái cũng bị quyến rũ và bỏ nhà theo trai, mang theo toàn bộ tiền nong và lúc mang thai thì bị người tình ruồng bỏ, phải sống cầu bơ cầu bất trong cảnh ốm đau và bị người bố nguyền rủa cho đến tận lúc chết, để lại đứa con gái bé bỏng, côi cút giữa nanh vuốt của bọn người tàn ác bất lương... Tuy cùng là những người bị chà đạp, sỉ nhục đến cùng cực, nhưng mỗi nhân vật đều có một cách phản ứng riêng, một thế giới nội tâm riêng. Hai ông bà Ikhmenev mang bản chất của những người Nga trung lưu đang bị bần cùng hóa: chân chất, trong sạch, giàu lòng thương nhưng cũng đầy tự ái và sỉ diện. Họ không có cách nào chống trả hữu hiệu đối với những kẻ thù đích thực của mình và quay ra trút lên đầu nhau tất cả sự bất hạnh mà mỗi người không đáng phải chịu, và hành hạ nhau nhiều khi bằng chính lòng tốt của mình. Cô Natasha, con gái của họ, tỏ ra quyết liệt hơn trong mọi cách xử thế. Mặc dù hơi có nét lãng mạn kiểu cũ, tính cách Natasha cơ bản là tính cách hành động và thực tế: cô biết yêu và dám dũng cảm lao vào tình yêu, giành lấy hạnh phúc cá nhân, bất chấp mọi hoàn cảnh éo le, có lúc đi ngược lại cả những tín điều vốn thiêng liêng nhất trong lòng cô. Lúc gặp trắc trở, cô biết chấp nhận sự thật và tỉnh táo vượt qua nó. Cô cũng là người duy nhất biết và dám đánh trả trực diện và quyết liệt kẻ thù bằng những lý lẽ tinh tế và xác đáng. Hai bố con ông già Smith được tác giả miêu tả sơ lược hơn và có phần được sử dụng để minh họa cho những tư tưởng của tác giả. Ngược lại nhân vật Nenli, em bé gái côi cút, là cả một phát hiện sâu sắc của Dos về tâm lý, vừa đơn giản vừa phức tạp, vừa bí ẩn vừa rõ ràng... của một đứa trẻ bị chà đạp từ thuở ấu thơ, luôn nghi ngờ và thù hận tất cả mọi người, nhưng thực chất vẫn mang trong đáy lòng những tình cảm yêu thương đầm ấm và khát khao hướng tới cái thiện. Nenli cũng là nhân vật trong suốt và minh bạch nhất trong mọi quan hệ. Với bản năng thiên bẩm của đứa trẻ và sự từng trải trước tuổi, em đã phân biệt chính xác cái tốt và cái xấu, cái có thể tha thứ và cái không thể tha thứ. Cho đến phút chót của cuộc đời ngắn ngủi, trái tim kiêu hãnh ấy đã kiên trì một thái độ không khoan nhượng trước cái xấu bản chất – em đã chết đi mà tự mình không tha thứ cho kẻ đã gây nên bất hạnh cho cả gia đình em và bao nhiêu người khác, dù kẻ ấy là bố đẻ của em đi nữa! Có thể nói hình tượng nghệ thuật này đã phần nào vượt qua ý định luân lý của tác giả, và một ông Dos nghệ sĩ ở đây đã chiến thắng một ông Dos nhà tư tưởng cứng ngắc. Nhân vật móc nối hai tuyến nhân vật nói trên và là nguyên nhân gây ra tất cả mọi bất hạnh cho mọi người là công tước Valkovsky. Đây là một kẻ quí tộc đã tư sản hóa, sản phẩm của một xã hội hưởng thụ mà đồng tiền là thước đo của mọi nhân cách, cái thời mà “vị công tước chân chính duy nhất là Rôtsin” (một nhà triệu phú, tư bản ngân hàng Pháp). Nói đúng hơn, Valkovsky chỉ còn quí tộc ở cái vỏ ngoài hào hoa, tao nhã. Còn thực chất, lão là một kẻ nô lệ của đồng tiền, một tên gian manh, đàng điếm, hiếu sắc, du côn với một tâm địa cực kỳ tàn ác và nham hiểm. Lão là một tên đê tiện có ý thức, thậm chí còn biết khái quát hóa hành động xấu xa thành lý thuyết. Tự nhận định về cuốn sách này, Dos có nói rằng trong đó “có độ năm mươi trang rất đáng tự hào” – theo tôi trong số năm mươi trang này chắc hẳn có đoạn bộc bạch của công tước Valkovsky với nhân vật nhà văn Ivan Petrovich. Trong đoạn tự bạch này, lão công tước đã tự lật mặt nạ, bày tỏ tất cả những hành vi xấu xa mà lão đã làm, đồng thời đúc kết thành lý luận và hi vọng một ngày nào đó sẽ đem ra truyền bá! Đó là một thứ chủ nghĩa vị kỷ tư sản dưới dạng cổ điển nhất. Lý thuyết của lão gói gọn trong mấy câu: “Tất cả là để cho tôi, toàn thế giới được tạo ra cho tôi”, “Tôi chỉ coi là có bổn phận chừng nào có lợi cho tôi”. Khẩu hiệu của lão là: “Hãy yêu lấy chính mình!” Cách lập luận của lão không phải là không sâu sắc và có sức thuyết phục. Tuy nhiên chỉ cần với lý trí tỉnh táo bình thường, đã có thể thấy ngay được tất cả mặt trái tồi tệ của ý thức hệ tư sản ngay trong những ngày đầu hình thành của nó. Chủ nghĩa vị kỷ và tham vọng tự do cực đoan đã chà đạp lên mọi nguyên tắc nhân bản trong quan hệ giữa người với người và trở thành một mảnh đất tốt cho tội ác chà đạp đồng loại tự do phát triển. Tính chất trắng trợn và quyết liệt của nó thực sự là hồi chuông báo động cho lương tri của loài người. Trước cái hình ảnh ghê tởm của con quái vật hai chân này, tác giả đã tỏ thái độ qua lời của nhân vật Ivan Petrovich: “Lão gợi lên cho tôi ấn tượng về một loài bò sát, một con nhện khổng lồ mà tôi ao ước được đập cho chết tươi”. Như trên đã nói, trong hoàn ảnh giao thời của xã hội Nga giữa thế kỷ XIX, khi mà cái cũ đang sụp đổ, nhưng cái mới cũng chưa định hướng xong, nhất là phải trải qua một cuộc đời đầy thử thách khắc nghiệt, thế giới quan của Dos lúc này đang chao đảo dữ dội và thể hiện ra đầy mâu thuẫn. Một mặt, bằng trái tim tha thiết yêu người, lo lắng cho số phận của những đồng loại đau khổ, ông đã lên tiếng tố cáo thực trạng bất công của xã hội bằng cách vẽ lên một bức tranh chân thực cà sinh động về một cuộc sống tăm tối, bế tắc của nhân dân bị áp bức. Ngỡ như trái tim ông rỉ máu trên từng trang viết và đến trăm năm sau ta còn nghe rõ những tiếng đập quằn quại của nó. Tuy nhiên, một mặt khác, những kết luận mà ông hướng người đọc đi tới lại mang đầy cảm tính sai lầm. Xa rời tư tưởng thực tế của cuộc cách mạng xã hội. Dos đi tìm lối giải thoát cho mọi mâu thuẫn xã hội bằng con đường duy tâm, tôn giáo. Ông kêu gọi sám hối và tha thứ. Kết cục đoàn viên ở cuối truyện này là một dẫn chứng cho những tư tưởng ấy của Dos. Tác giả tạo ra một sự đối chứng giữa hai cách giải quyết mâu thuẫn: ông già Smith khăng khăng không tha thứ cho con gái, thì rốt cuộc người chết, kẻ phát điên, bố con, ông cháu đều rơi vào thảm cảnh; ngược lại ông già Ikhmenev cuối cùng đã tha thứ cho cô con gái Natasha thì toàn gia đoàn tụ, mọi người đều hạnh phúc. Tác giả đã đặt vào miệng của ông già này những lời hùng hồn thực ra chỉ để tuyên dương một chiến thắng giả tạo: “Mặc cho chúng ta bị sỉ nhục, mặc cho chúng ta bị lăng mạ, nhưng chúng ta lại bên nhau, và mặc cho lúc này những kẻ kiêu ngạo và hợm hĩnh, những kẻ đã sỉ nhục và lăng mạ chúng ta đang ca khúc khải hoàn! Mặc cho chúng ném ta vào đá! Đừng sợ” – Một thắng lợi đầy chất A.Q. Mặc dù có những hạn chế như vậy trong tư tưởng, Những kẻ tủi nhục vẫn là một tác phẩm tích cực và có sức cuốn hút mạnh mẽ. Trước hết, cũng như nhiều tác phẩm khác của Dos, tính chất chân thực của cuốn tiểu thuyết rất cao. Dos bao giờ cũng viết bởi một thúc bách nội tâm mãnh liệt, ông không e ngại biểu hiện chính mình lên mặt giấy, mà ngược lại. Vì vậy, có cái đúng và cái sai, cả cái hay và cái dở ở ông đều rất chân thực. Đọc ông, ta bắt gặp một cuộc sống ngồn ngộn, chồng chất, hối hả, lúc ồn ào, lúc sâu lắng... ngỡ như vượt qua cả câu chữ, văn chương. Do đó, văn của ông dù nhiều lúc rườm rà, rắc rối, thậm chí cẩu thả, nhưng vẫn cuốn hút người đọc nhờ cái dòng chảy xiết dào dạt của cuộc sống. Mặt khác, một trong những nét hấp dẫn và làm nên đặc thù của Dos là tài phân tích mổ xẻ tâm lý con người. Có thể nói đây là sở trường đặc biệt và cũng là niềm hứng thú bất tận của Dos. Cũng như ở các tác phẩm khác, Những kẻ tủi nhục có rất nhiều đoạn phân tích tâm lý hết sức sâu sắc, tinh tế, chứng tỏ một khả năng quan sát, suy ngẫm, một vốn sống phong phú, lịch lãm của một tài năng bậc thầy. Hứng thú này làm cho ngòi bút của ông đôi lúc sa đà, thậm chí có chỗ lắp ghép khiên cưỡng. Tuy nhiên, người đọc vẫn rất thú vị vì những nhận xét, mổ xẻ lòng người rất đỗi tinh vi và có sức khái quát cao, giúp cho ta khám phá sâu sắc thế giới nội tâm của chính mình mà nhiều lúc chính ta cũng không hiểu nổi. Từ những bối cảnh, những con người của một thời, tác phẩm của Dos đã vượt qua biên giới của không gian và thời gian để trường tồn cùng nhân loại. Chính vì những lẽ trên, chúng tôi rất vui mừng được chuyển đến các bạn thêm một tác phẩm nữa của Dos để các bạn có dịp tìm hiểu tiếp một nhà văn vĩ đại mà chúng ta hằng yêu mến, kính trọng và luôn khao khát được thưởng thức. Hà Nội ngày 20–11–1986 Anh Ngọc [1] Cách gọi ngắn gọn này của người đọc Việt Nam đối với Dostoevsky thể hiện một tình cảm đặc biệt rất đáng quí. Về tiểu sử của Dos, xin xem thêm ở “Tội ác và hình phạt” (NXB Văn Học - 1982) [2] Nguyên văn tiếng Nga - Униженные и оскорблённые: Những kẻ bị sỉ nhục và lăng mạ. *** Fyodor Mikhailovich Dostoevsky (1821- 1881), sinh ngày 11.11.1821, là nhà văn nổi tiếng người Nga. Cùng với Gogol, L. Toystol, ông được xem là một trong ba văn hào vĩ đại của Nga thế kỉ 19. Dostoevsky sinh tại thành phố Moscow, là con trai thứ hai trong 7 người con của ông Mikhail, một bác sĩ quân y được biệt phái qua phục vụ tại Bệnh Viện Maryinski chuyên chữa trị các người nghèo. Ông Mikhail là một con người cứng rắn, thẳng thắn trong khi bà mẹ lại có bản tính trái ngược, bà ta rất thụ động, tử tế và rộng lượng. Các sự kiện của gia đình quý tộc xa xưa này với cha mẹ có một vùng đất và hơn một trăm nông nô, đã là hình ảnh của các nhân vật với các bản tính thái cực trong các cuốn tiểu thuyết của Dostoevsky sau này. Trong thời gian Fyodor đi học xa nhà, ông Mikhail đã bị giết chết do các nông nô trong vùng nổi loạn và hình ảnh giết người bất ngờ và tàn bạo này luôn luôn ám ảnh Fyodor Dostoevsky khiến cho các tác phẩm của ông thường dùng đề tài là các tội ác. Và vào cuối cuộc đời, cái chết của người cha đã là căn bản cho tác phẩm danh tiếng Anh Em Nhà Karamazov. Fyodor Dostoevsky rất yêu thích văn chương. Vào tuổi 25, Fyodor đã cầm bút, sáng tác ra cuốn tiểu thuyết đầu tiên với tên là Những kẻ bần hàn xuất bản vào năm 1846. Đây là một câu chuyện tình cảm mô tả một cách bóng bẩy các cảnh tàn phá của kiếp nghèo. Cuốn truyện này đã được các nhà phê bình khen ngợi, đặc biệt là Vissarion Belinsky, và nhà văn trẻ tuổi Dostoevsky được gọi là một "Gogol mới", tác phẩm của ông trở nên bán chạy nhất, bởi vì từ xưa tới nay chưa có một nhà văn người Nga nào cứu xét một cách kỹ càng sự phức tạp tâm lý của các cảm xúc bên trong tâm hồn con người. Fyodor Dostoevsky đã dùng tới phương pháp phân tích tâm lý để tìm hiểu các hoạt động rất tinh tế của tâm lý mọi người. Sau tác phẩm Những kẻ bần hàn , Fyodor Dostoevsky sáng tác ra cuốn Con người kép đề cập tới sự phân đôi cá tính và đây là căn bản dùng cho nhân vật Raskolnikov của đại tác phẩm Tội Ác và Trừng Phạt. Qua tác phẩm này, Fyodor Dostoevsky được toàn thế giới công nhận là một trong các Đại Văn Hào của nước Nga, được xem là người sáng lập hay là người báo trước cho chủ nghĩa hiện sinh thế kỷ 20. Tác phẩm tiêu biểu: Chàng Ngốc Những kẻ bần hàn (1846) Con người kép (1846) Đêm trắng (1848) Ghi chép từ Ngôi nhà chết (1862) Những kẻ tủi nhục (1861) Con bạc (1867) Hồi Ký Viết Dưới Hầm (1864) Tội ác và trừng phạt (1866) Gã Khờ (1868) Lũ người quỷ ám (1872) Anh em nhà Karamazov (1880) Là Bóng Hay Là Hình Chàng Thiếu Niên Người Chồng Vĩnh Cửu  Mời các bạn đón đọc Những Kẻ Tủi Nhục của tác giả Fyodor Dostoyevsky.