Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lễ Vật Kinh Hoàng

Câu chuyện mở đầu bằng cái chết của một bé gái sơ sinh cùng những phản ứng kỳ lạ của gia đình đứa trẻ. Ban đầu nguyên nhân tử vong được cho là do hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh (SIDS), nhưng một dấu hiệu đáng ngờ xuất hiện trên mặt bé dẫn cảnh sát đi đến kết luận: đây là một vụ giết người. Cha của bé gái bị bắt khi đang cố mang xác bé chạy trốn và cụ ngoại của bé khăng khăng rằng hung thủ là “Inguma” – một ác ma trong thần thoại xứ Basque, tước đoạt mạng sống của con người trong lúc họ đang ngủ. Qua 1500 trang sách, nhân vật chính Amaia Sazalar đã để lại trong lòng độc giả rất nhiều cảm xúc yêu thương và ngưỡng mộ về một nữ thanh tra tài năng, gan góc nhưng lại có tuổi thơ bất hạnh đến ám ảnh. Chính những trải nghiệm của bản thân đã làm nên một Amaia quyết đoán và luôn hành động độc lập, và nó khiến cho các đồng nghiệp của chị cảm thấy không hài lòng. Khi Amaia quyết định mở rộng điều tra các trường hợp trẻ sơ sinh dưới hai tuổi chết do SIDS trong thung lũng Baztan những năm gần đây, chị nhanh chóng tìm ra điểm tương đồng đáng ngờ và khiến cuộc điều tra rơi vào mớ rắc rối đáng lo ngại. Sự dối trá, phản bội và nghi kỵ nhau bắt đầu len lỏi bên trong từng thành viên của đội điều tra án mạng. Tạm xa vai trò của một người vợ, người mẹ, Amaia trở về nơi mọi sự bắt đầu để đối mặt với bóng ma quá khứ của mình và khám phá ra sự thật khủng khiếp đã hủy hoại thung lũng Elizondo xinh đẹp trong nhiều năm qua. *** Sau Vệ sĩ vô hình và Mối bất hòa truyền kiếp, tác giả Dolores Redondo cho ra mắt bạn đọc tập tiếp theo và cũng là tập cuối cùng trong xê ri tiểu thuyết hình sự về thung lũng Baztán. Câu chuyện mở đầu bằng cái chết của một bé gái sơ sinh cùng những phản ứng kỳ lạ của gia đình đứa trẻ. Ban đầu nguyên nhân tử vong được cho là do hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh (SIDS), nhưng một dấu hiệu đáng ngờ xuất hiện trên mặt bé dẫn cảnh sát đi đến kết luận: đây là một vụ giết người. Cha của bé gái bị bắt khi đang cố mang xác bé chạy trốn và cụ ngoại của bé khăng khăng rằng hung thủ là “Inguma” – một ác ma trong thần thoại xứ Basque, tước đoạt mạng sống của con người trong lúc họ đang ngủ. Qua 1500 trang sách, nhân vật chính Amaia Sazalar đã để lại trong lòng độc giả rất nhiều cảm xúc yêu thương và ngưỡng mộ về một nữ thanh tra tài năng, gan góc nhưng lại có tuổi thơ bất hạnh đến ám ảnh. Chính những trải nghiệm của bản thân đã làm nên một Amaia quyết đoán và luôn hành động độc lập, và nó khiến cho các đồng nghiệp của chị cảm thấy không hài lòng. Khi Amaia quyết định mở rộng điều tra các trường hợp trẻ sơ sinh dưới hai tuổi chết do SIDS trong thung lũng Baztan những năm gần đây, chị nhanh chóng tìm ra điểm tương đồng đáng ngờ và khiến cuộc điều tra rơi vào mớ rắc rối đáng lo ngại. Sự dối trá, phản bội và nghi kỵ nhau bắt đầu len lỏi bên trong từng thành viên của đội điều tra án mạng. Tạm xa vai trò của một người vợ, người mẹ, Amaia trở về nơi mọi sự bắt đầu để đối mặt với bóng ma quá khứ của mình và khám phá ra sự thật khủng khiếp đã hủy hoại thung lũng Elizondo xinh đẹp trong nhiều năm qua.  Tác giả Dolores Redondo sinh năm 1969, tại Saint-Sébastien, một tỉnh thuộc xứ Basque, Tây Ban Nha. Bà từng học chuyên ngành Luật, làm việc nhiều năm trong lĩnh vực thương mại trước khi trở thành tiểu thuyết gia. Với thành công của bộ ba tiểu thuyết hình sự đặc sắc về thung lũng Baztan, Redondo trở thành tác giả trinh thám được đọc nhiều nhất tại Tây Ban Nha năm 2017 Bà là một trong số ít tác giả Tây Ban Nha được đề cử giải thưởng CWA International Dagger 2015. Nhận xét của báo chí: Một tác phẩm bộ ba xuất sắc… một cuốn tiểu thuyết nổi bật… vô cùng lôi cuốn.                                                             (Sunday Times – Sách trong tháng ) Nhiều khía cạnh trong nhân cách được miêu tả rất hấp dẫn và đầy sức thuyết phục.                                                                         (Publishing Perspectives) Văn phong rất đẹp, uyển chuyển và duyên dáng.                                                                         (Raven Crime Read blog) Trích đoạn hay: Trích đoạn 1: [Sau khi chọn rượu vang, James và Amaia hài lòng thưởng thức không khí trong nhà hàng một lát. Họ không đả động đến đề tài tang lễ, và tránh làm tăng thêm sự căng thẳng hiển hiện giữa họ chiều hôm ấy. Họ biết là cần nói chuyện, nhưng có một thỏa thuận ngầm là đợi cho đến khi chỉ còn hai người. – Cuộc điều tra thế nào rồi? – James hỏi thăm. Chị nhìn anh, cân nhắc nên trả lời ra sao. Từ khi gia nhập lực lượng cảnh sát, chị thận trọng không bao giờ bàn bạc công việc của mình với gia đình, và họ biết không nên hỏi. Chị không muốn nói chuyện với James về những khía cạnh đáng sợ trong nghề nghiệp của mình, cũng như tốt hơn hết là không nhắc tới những sự kiện trong quá khứ của mình, dù James đã biết. Chị thấy khó nói về thời thơ ấu, và trong nhiều năm chị chôn vùi sự thật dưới vỏ ngoài giả dối. Khi các rào chắn kìm giữ mọi nỗi kinh hoàng mở toang, đưa chị tới ngưỡng lành mạnh, có thể thổ lộ với James về kẽ nứt trên bức tường sợ hãi cho phép ánh sáng tràn vào, tạo ra một chỗ cho họ sát bên nhau, một chỗ đưa chị trở lại cõi đời mà nếu thận trọng, những bóng ma cũ có thể không chạm được đến chị. Song, Amaia luôn biết rằng nỗi sợ không bao giờ mất đi hoàn toàn, nó chỉ co lại vào một nơi tối tăm, nhớp nháp và chờ đợi, giảm bớt thành một tia sáng màu đỏ nhỏ xíu có thể vẫn trông thấy dù không muốn, dù ta không thừa nhận sự tồn tại của nó, vì nó cản trở ta khỏi cuộc sống. Chị cũng biết nỗi sợ là việc cá nhân, dù có nói đến đâu hoặc đặt tên nó là gì đi nữa, nó cũng không ra đi; câu nói cũ, sáo mòn “gánh nặng chia đôi sẽ còn một nửa” không áp dụng ở nơi dính líu đến nỗi sợ. Chị luôn tin rằng tình yêu sẽ chiến thắng mọi thứ, sẽ mở toang cánh cửa và chị sẽ tự bộc lộ với James mọi gánh nặng trong quá khứ. Giờ đây, ngồi đối diện với anh, chị vẫn nhận ra anh chàng điển trai mà chị yêu say đắm. Người nghệ sĩ tự tin, lạc quan không bị ai muốn giết, nhìn nhận mọi sự việc với cung cách đơn giản gần như trẻ thơ, cho phép anh đi theo một con đường không thay đổi, chắc chắn không bị những hành động tàn ác tấn công. Nó cho phép anh tin rằng chỉ cần lật sang trang, chôn vùi quá khứ hoặc nói chuyện với một bác sĩ tâm thần trong nhiều tháng về việc mẹ đẻ thèm ăn thịt mình là sẽ giúp chị vượt qua nỗi sợ, sống trong một cõi đời có những đồng cỏ xanh tươi và bầu trời xanh biếc, chống đỡ bằng những thiện ý đơn giản là nó phải như thế. Kỳ vọng hạnh phúc là một lựa chọn khiến chị ngỡ ngàng vì nó ngây thơ, gần như là xúc phạm.] Trích đoạn 2: [Toàn thân Amaia run rẩy. Chị cảm thấy các cơ lưng căng cứng, sự căng thẳng chạy suốt hệ thần kinh như một dòng điện, đổ về các đầu ngón tay, cho chị một cảm tưởng lạ lùng, bất cứ lúc nào chúng cũng có thể nổ tung, giải phóng sức sống mãnh liệt này. Bụng Amaia quặn thắt, miệng khô khốc, không khí trong xe không đủ rót đầy phổi chị. Chị đỗ xe bên ngoài nhà Markina, chắn lối ra, và trở lại con đường nhỏ lát đá, cảm thấy nôn nao theo từng bước, lúc tim chị đập thình thịch trong ngực, rộn ràng trong tai. Amaia bấm chuông, kiên quyết và ăn năn bằng nhau, chị hồi hộp đợi lúc cố làm dịu nỗi lo đang đe dọa nhấn chìm chị. Lúc Markina mở cửa, ông vẫn đi chân không, tóc ông đã khô, rối bù xõa xuống vầng trán. Ông không nói gì, chỉ đứng nhìn chị, mỉm cười bí ẩn. Chị cũng không nói gì, nhưng giơ bàn tay lạnh giá cho đến lúc những ngón tay chị chạm vào miệng ông, vào đôi môi mềm mại, ấm áp của ông. Dường như khóe miệng ông trở thành mục tiêu của chị, định mệnh của chị, nơi nghỉ ngơi duy nhất của chị. Ông siết chặt tay chị, như sợ bỏ lỡ mối kết nối này, rồi đẩy cửa khép lại sau chị, đưa chị vào trong nhà. Đứng trước mặt ông, những ngón tay chị ép vào môi ông, chị ngập ngừng vài giây, tìm lời có nghĩa để nói, nhưng chị biết lúc này không thể cất nên lời, chị phải chịu thua một giọng nói khác, một ngôn ngữ khác, và như một người ngoài cuộc, chị chưa bao giờ có thể chia sẻ với ai. Rút tay khỏi môi ông, chị soi mình trong mắt ông, nó nhìn lại chị với vẻ sợ hãi và phấn khích. Chị táo bạo tiến tới, cơ thể họ bùng nổ, mắt nhắm lại, ông ôm chị, run rẩy. Ngước nhìn Markina, Amaia biết rằng chị có thể yêu người đàn ông này… Chị tuột chiếc áo khoác ướt và nắm tay ông, đưa ông tới phòng ngủ. Ánh sáng lọt qua tấm rèm chỉ đủ để nhận ra đường nét của đồ đạc nặng nề; chị kéo rèm, để bầu trời u ám chiếu sáng cả phòng. Lúc đứng cạnh giường, ông ngắm chị với một vẻ khiến chị phát điên, song ông vẫn không mỉm cười. Chị cũng thế. Mặt chị để lộ vẻ bứt rứt vì biết mình đang bầu bạn với một người ngang sức ngang tài. Chị đến gần hơn, đăm đăm nhìn ông, bị sự thống khổ mới mẻ chiếm lĩnh. Chị ngượng nghịu mơn trớn ông, mất tự tin khi nhận ra mình trong ông, nhận biết rằng chị ở đó vì lần đầu tiên trong đời, chị có thể thực sự bộc lộ bản thân, không chỉ trút bỏ quần áo mà cả gánh nặng cuộc sống ngượng ngùng, và lúc làm thế chị thấy mình phản chiếu trong ông như trong một tấm gương vậy. Chị biết mình chưa bao giờ khao khát bất cứ người nào theo kiểu này, chưa bao giờ trải qua sự mong mỏi nung nấu này với cơ thể một người đàn ông…] Trích đoạn 3: [Jonan Etxaide, Jonan, người bạn thân nhất của chị, có lẽ là người tinh tế nhất mà chị biết, đang nằm ngửa, tay chân dang rộng giữa một vũng máu lớn. Anh bị bắn hai phát. Một vào ngực như Montes nói, ngay dưới xương ức. Vết đạn đen ngòm và tương đối sạch, hầu hết máu chảy từ chỗ thoát ra. Phát đạn kia vào trán, để lại một vết tròn, làm mớ tóc màu hạt dẻ trên đỉnh đầu anh bết lại thành một đống đông cứng. Amaia tới gần, vẫn nắm chặt vũ khí và sửng sốt thấy nhiều cảnh sát khác trong phòng khách. Vào lúc đó, Amaia đã cố hết sức không thở, song không thể giữ lâu hơn được nữa. Chị hít vào, đem lại sự sống cho sinh vật đó, nó dâng lên tận cổ họng, làm chị nghẹn thở lúc há miệng và đành để nỗi kinh hoàng trong lòng mình thoát ra. Amaia cảm thấy đang bị ngạt thở. Nỗi đau mãnh liệt đến mức làm mắt chị ngứa ngáy lúc ngụm không khí cuối cùng rời khỏi phổi chị, nung đốt cổ họng chị. Đầu chị quay cuồng, và chị quỵ xuống cạnh tấm thân không còn sự sống của Jonan Etxaide. Rồi, nỗi đau nặng trĩu trong lòng chị đã thoát. Khi những giọt lệ trào ra, Amaia ngả người, mở mắt và trông thấy bàn tay nhợt nhạt của Jonan đặt trong vũng máu đen ngòm, gương mặt tuấn tú của anh đeo mặt nạ của người chết, khuôn miệng tái nhợt của anh hé mở, đôi môi không còn màu sắc. Cơn đau nhói khiến chị siết chặt tay vào ngực. Chỉ đến lúc đó, Amaia mới nhận ra mình vẫn đang cầm súng. Chị nhìn xuống, không biết nên để vào đâu… Chúng ta không có kinh nghiệm để nhận ra điều đó. Có một khoảnh khắc, một sự kiện, một lời nói, một cử chỉ, một cuộc điện thoại làm thay đổi mọi thứ. Khi nó xuất hiện, khi nó xảy ra, khi được nói nên lời, nó phá vỡ nguyên tắc chúng ta tưởng đang dẫn dắt cuộc sống của mình, khiến ta phải đối mặt với thực tế, phá hủy mọi dự định ngây thơ cho tương lai. Mọi thứ ta ngỡ là vững chắc đã sụp đổ, mọi nỗi lo toan trên đời dường như ngớ ngẩn, vì thứ bất biến duy nhất là sự hỗn loạn buộc ta phải chịu thua một cách nhún nhường trước uy quyền tối thượng của thần chết. Amaia không thể ngừng nhìn cái xác, nếu không trí lực của chị sẽ ngay lập tức phủ nhận và gào lên: không, không, không! Vì thế, chị bắt mình phải nhìn, dằn vặt mình bằng cảnh tượng mắt Jonan nhắm nghiền, da anh, môi anh tái nhợt, lúc này khô nứt, những cái lỗ đen sì khủng khiếp, nơi cái chết lọt vào, thứ máu quý giá của anh đông bết lại thành vũng đen sì, nhầy nhụa. Chị vẫn quỳ cạnh anh, không nhúc nhích, ngắm gương mặt của người bạn thân nhất, chịu thua cảm giác đau thương đã bắt chị làm con tin, chị nhận ra mình sẽ không bao giờ phục hồi vì cái chết của Jonan, nỗi đau mất anh sẽ vĩnh viễn như một cái gai nhọn trong tim chị. Nhận thức này giống như một gánh nặng, song chị phải tiếp nhận tai họa, cảm kích vì đã quen biết anh một thời gian và nuối tiếc vì anh đã ra đi mãi mãi.  NXB Phụ Nữ Mời các bạn đón đọc Lễ Vật Kinh Hoàng của tác giả Dolores Redondo & Đinh Thanh Vân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lửa Hoang - Nelson DeMille
Chào mừng đến với Câu lạc bộ đồi Custer -  Câu lạc bộ của những người đàn ông nằm trong một khu vực sang trọng dành cho những người đi săn. Thành viên của câu lạc bộ này có những lãnh đạo doanh nghiệp quyền lực nhất nước Mỹ, những lãnh đạo của giới quân sự, những quan chức chính phủ. Bề ngoài đây là nơi để xả hơi cùng bạn bè cũ. Song một ngày cuối tuần, Ban lãnh đạo câu lạc bộ nhóm họp để bàn về sự kiện 11-9, và cuối cùng đã vạch ra một kế hoạch trả đũa mang mật danh: Lửa hoang. Cuốn sách được đánh giá là “hay đến nỗi không thể đặt xuống một khi đã bắt đầu đọc”. Tác phẩm khắc hoạ hình ảnh cựu thám tử của Cục cảnh sát New York tham gia vào một âm mưu của lực lượng cánh tả nước Mỹ muốn tấn công 2 thành phố của Mỹ. Cuốn tiểu thuyết trinh thám này được nhà văn hư cấu dựa trên tin đồn được đăng trên mạng internet. ... Khủng khiếp hơn những chủ đề hôm qua và những dự đoán cho ngày mai, Lửa hoang sẽ thách thức bạn với câu hỏi về tất cả mọi thứ mà bạn nghĩ mình biết về những thế lực lãnh đạo thế giới, trong khi vẫn kích thích bạn bằng sự hồi hộp được dựng lên trên mỗi trang sách. Nelson DeMille là một trong những tác giả nổi tiếng và có lượng sách bán chạy nhất nước Mỹ, với hơn 30 triệu bản bán ra trên thế giới. Là một cựu binh Mỹ ở Việt Nam, ông đã cho ra đời 10 cuốn tiểu thuyết nổi tiếng bao gồm: Plum Island, The General Daughter, Night Fall... Bắt đầu từ tháng 10 năm 2002, cuốn tiểu thuyết trinh thám thứ tư mang tên “Lửa hoang” của nhà văn ăn khách này đã ra mắt bạn đọc. ** Khi sự thực và hư cấu hoà trộn trong tiểu thuyết, không phải lúc nào độc giả cũng nhận biết đâu là thực, đâu là hư cấu. Những người đọc bản thảo “Lửa Hoang" đã hỏi tôi đâu là chuyện thật, đâu là sản phẩm của trí tưởng tượng, do đó tôi sẽ đề cập vấn đề này ở đây. Thứ nhất, Lực lượng chống khủng bố liên bang (ATTF) trong cuốn sách này được xây dựng chủ yếu dựa trên Lực lượng phối hợp chống khủng bố (JTTF) có thật; việc khai thác một số thông tin đã được cho phép. Cụ thể, trong cuốn sách này, có rất nhiều thông tin về ELF (viết tắt của một thứ mà khi đọc sách các bạn sẽ biết). Tất cả những thông tin về ELF đều chính xác, trong phạm vi hiểu biết của tôi. Còn về kế hoạch bí mật của chính phủ mang mật danh ”Lửa Hoang" nó dựa trên một số thông tin mà tôi tình cờ thu lượm được, hầu hết trên mạng, có thể coi như tin đồn, sự thật, tưởng tượng hoàn toàn hay đại loại như vậy. Cá nhân tôi tin rằng có tồn tại một kế hoạch tương tự “Lửa Hoang", với mật danh khác. Những nội dung khác trong cuốn sách này mà nhiều người đã hỏi tôi như NEST, Xương Bánh Chè hay các tên khác đều có thật. Nếu những điều bạn đọc có vẻ như thật, có lẽ nó có thật. Thực ra thì sự thật còn lạ lùng hơn những điều tưởng tượng, và lại thường đáng sợ hơn. Còn một câu hỏi được nhắc tới nhiều nhất mà tôi quên mất là “BearBanger có thật không?” Có. Thời gian diễn ra câu chuyện này là tháng 10 năm 2002, 1 năm 1 tháng sau sự kiện 11-9-2001; những câu chuyện và tít của tờ Thời báo New York đều thật. Tương tự, bất kỳ sự đề cập nào về các thủ tục an ninh của chính phủ hay việc thiếu các quy trình này cũng đều thật ở thời điểm tôi nghĩ ra câu chuyện. Một vài độc giả làm việc trong lĩnh vực thực thi pháp luật nghĩ rằng thám tử John Corey sẽ gặp khó khăn trong phạm vi quyền hạn của mình. Tôi thừa nhận đã “cho” nhân vật tự do hơn để câu chuyện hay. Một John Corey tuân theo các luật lệ thông thường và hành động theo sách vở không phải là hình ảnh của một người anh hùng chúng ta muốn thấy. Những người đọc bản thảo “Lửa Hoang" nói rằng sau khi đã bỏ sách xuống, họ thao thức rất lâu. Nó thật là một cuốn sách đáng sợ cho những thời kỳ đáng sợ; nhưng nó cũng là lời cảnh báo cho một thế giới hậu 11-9. *** Tôi là John Corey, cựu thám tử điều tra án mạng thuộc NYPD. Tôi bị thương trong khi thi hành nhiệm vụ, nghỉ hưu với mức thương tật 75% (con số này khai chỉ để lĩnh tiền thôi chứ 98% cơ thể của tôi vẫn hoạt động bình thường); hiện tại làm đặc vụ hợp đồng đặc biệt cho Lực lượng chống khủng bố liên bang. Anh bạn Harry Muller ở phòng đối diện hỏi tôi: — Cậu đã bao giờ nghe thấy Câu lạc bộ đồi Custer chưa? — Chưa, nhưng sao? — Cuối tuần này tớ sẽ đến đó. — Vui vẻ nhé! — Đó là một lũ điên theo cánh hữu sở hữu khu vực săn bắn nằm ở vùng nông thôn của bang. — Đừng có mang về cho tôi con thú nào nhé, cũng đừng mang về chim chết. Tôi đứng dậy và bước về quầy lấy cà phê. Trên tường phía trên các bình cà phê là danh sách truy nã của Bộ Tư pháp. Chiếm phần lớn danh sách này là đàn ông theo đạo Hồi, trong Đó có trùm khủng bố Osama Bin Laden. Trong danh sách gần hai chục tên tội phạm còn có một cái tên người Libya - Asad Khalil mang biệt danh “Sư tử”. Tôi chẳng cần phải động não ghi nhớ hình ảnh của hắn bởi dù chưa một lần giáp mặt, tôi thuộc mặt hắn như gương mặt của chính mình. Tôi biết về Khalil cách đây khoảng hai năm, khi tôi săn đuổi hắn, nhưng cuối cùng thì hắn cũng đang săn đuổi tôi. Hắn trốn thoát còn tôi cũng thoát chết với một vết thương nhẹ. Như người Ảrập thường nói: “Định mệnh buộc chúng ta gặp lại nhau để quyết định số phận của mình”. Tôi mong chờ ngày đó. Tôi đổ chỗ cà phê còn lại vào một chiếc cốc và lướt qua tờ Thời báo New York nằm trên quầy. Tít của tờ báo hôm nay, thứ sáu ngày 11 tháng 10 năm 2002 chạy một dòng: “Quốc hội cho phép Bush sử dụng vũ lực đối với Iraq, tạo quyền ủy thác rất lớn". Bên dưới là tiêu đề: “Theo thông tin từ các quan chức, Mỹ có kế hoạch chiếm đóng Iraq". Dường như cuộc chiến là một kết cục được báo trước, chiến thắng cũng vậy. Vì thế nên có một kế hoạch chiếm đóng. Tôi tự hỏi liệu có ai ở Iraq biết về điều này không. Tôi mang cà phê về bàn và bật máy tính, đọc một lượt những bản ghi nhớ. Chúng tôi làm việc trong một tổ chức hầu như không dùng đến giấy, tôi thực sự nhớ việc lập những bản ghi nhớ; tôi muốn viết tắt tên mình vào chiếc máy tính bằng một chiếc bút đầu, song cuối cùng lại dùng tới bút điện tử. Nếu tôi là lãnh đạo tổ chức này, tất cả các bản ghi nhớ sẽ viết bằng bút điện tử. Tôi liếc đồng hồ, đã 4 giờ 30 phút chiều và các đồng nghiệp của tôi ở tầng 26 toà nhà liên bang số 26 đang rời công sở rất nhanh. Cũng như tôi, các đồng nghiệp của tôi là thành viên của Lực lượng chống khủng bố liên bang - ATTF, một cơ quan viết tắt bang 4 chữ cái nằm trong vô vàn tổ chức viết tắt bằng 3 chữ cái. Đây là thế giới hậu sự kiện 11-9 nên về lý thuyết đối với ai thì cuối tuần cũng là hai ngày làm việc thêm. Trên thực tế, truyền thống nghỉ việc sớm vào ngày thứ sáu vẫn không thay đổi nhiều. Vì vậy NYPD, vốn là một bộ phận của ATTF và đã quen với những thời điếm đầy rắc rối, cung cấp người cho pháo đài này vào dịp cuối tuần và những ngày nghỉ. Harry Muller hỏi tôi: — Cuối tuần này cậu làm gì? Bắt đầu kỳ nghỉ cuối tuần dài ba ngày nhân kỷ niệm Ngày Columbus, thế nhưng thật đen đủi là theo lịch tôi phải làm việc vào thứ hai. Tôi trả lời: — Tớ định tham gia buổi diễu hành vào Ngày Columbus nhưng lại phải đi làm vào thứ hai. — Thế à? Cậu định tham gia diễu hành hả? — Không, nhưng tớ đã nói với đại uý Paresi thế. Tôi nói thêm: Tôi bảo mẹ tôi là người Italia, tôi sẽ đẩy xe lăn cho bà ấy trong buổi diễu hành. ... Mời các bạn đón đọc Lửa Hoang của tác giả Nelson DeMille.
Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm - Erle Stanley Gardner
NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN (Xuất hiện theo thứ tự thời gian) DELLA STREET - Nữ thư ký thân tín nhất và bạn đồng minh tín nhiệm nhất của Perry Mason. PERRY MASON - Luật sư đại hình xuất sắc, trong truyện này bị một khách hàng bí mật làm cho ông có cảm tưởng mình như “một cậu bé với một trò chơi mới.” ELLEN CALVERT (tức Adair) - Đường hoàng, xinh đẹp, và lạnh lùng, tìm đến Mason để cố chạy trốn quá khứ. JARMEN DAYTON - Một thám tử tư được phái đến từ miền Trung Tây nước Mỹ để tìm tung tích Ellen Calvert nhưng lại "không thể che được chỗ phòng lên do khẩu súng giấu bên dưới cánh tay trái". PAUL DRAKE - Bạn thân của Mason và là giám đốc Hãng Trình thám Drake, chuyên cung cấp các dịch vụ “theo giá biểu.” JESSIE ALVA - Một nữ thám tử khôn khéo của Paul Drake, chỉ phạm mỗi một sai lầm là "mở cửa căn hộ ra". STEPHEN L. GARLAND là một «nhân viên giao tế” nhưng thật ra là một chuyên gia gỡ rối siêu đẳng mà Mason nghĩ là một con người sòng phẳng và quá khôn khéo. DUNCAN L. LOVETT - - Một luật sư ở miền Trung - Tây cũng đi tìm Ellen Calvert, phạm sai lầm vì đã đánh giá thấp Perry Mason. MAXINE EDFIELD - Một người bạn cũ của Ellen Calvert, không được cuộc đời ưu đãi và hy vọng được đến bù bằng một chuyến đi đến Los Angeles.         AGNES BURLINGTON - Nữ y tá chuyên đi tống tiền và cuối cùng đã mất mạng. TRUNG ÚY TRAGG - Thuộc Ban Điều tra Án mạng - Vị sĩ quan cảnh sát bình thường rất cẩn thận nhưng lại bỏ qua một chi tiết quan trọng trong cuộc điều tra án mạng này. WIGHT BAIRD - Con trai của Ellen Calvert, khá đẹp trai, có cuộc sống hơi phóng đãng, nhưng có lẽ còn tệ hại hơn thế. CHÁNH ÁN DEAN ELWELL - Vị chánh án khá sáng suốt, quyết tâm tìm ra sự thật trong một vụ án mạng, đưa phiên tòa tới hiện trường của tội ác. STANLEY CLEVELAND DILLON - ủy viên công tố, nổi danh là một người khoác cho nhiều bị cáo bản án tử hình. BÁC SĨ LELAND CLINTON - Vị bác sĩ đã thực hiện cuộc nghiệm thi, một nhân chứng đúng đắn và nghiêm túc một cách quá đáng. CÔ DONNA FINDLEY - Nữ thu ngân ở một siêu thị, vẫn còn nhớ rõ một cuộc chuyện trò đúng lúc với Agnes Burlington. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [Perry Mason #78 - The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) *** DELLA STREET, thư ký riêng của Perry Mason, trả lời điện thoại, nói vắn tắt với cô nữ tiếp tân, rồi quay sang Perry Mason. - Có một người đàn bà hiện ở trong văn phòng phía ngoài chỉ cho biết tên là Ellen Adair. Bà ta bảo bà ta biết đây là một sự đòi hỏi quá đáng khi cố tìm cách gặp ông mà không hẹn trước, nhưng bà ta sẵn sàng trả ông mọi chi phí thích đáng. Bà ta cần phải gặp ông ngay bây giờ về một vấn đề hết sức khẩn cấp, và bà ta rất bối rối. Mason liếc mắt lên chiếc đồng hồ đeo tay và các thứ giấy tờ ông đang giải quyết. Della Street xem lại sổ ghi các cuộc hẹn, nói với vẻ đầy hy vọng: - Ông còn được hai mươi tám phút mới tới cuộc hẹn kế tiếp. - Tôi muốn có thời giờ suy nghĩ kỹ vấn đề pháp lý này – Ông nhún vai tiếp: - Thôi được, tôi nghĩ ta cần chăm sóc các chuyện khẩn cấp. Cô hãy ra xem, Della, cố đánh giá qua bà ta. Cô hãy tìm hiểu bà ta cần gặp tôi về chuyện gì. Della gật đầu, nói vào máy điện thoại: - Chị hãy nói với bà ta tôi sẽ ra ngay, Gertie. Della Street rời văn phòng và trở vào trong vòng hai phút. - Sao  ? - Mason hỏi. - Tôi đành chịu không biết gì nhiều về bà ta, - Della Street nói. - Bà ta là một người đàn bà cao lớn dưới bốn mươi tuổi. Y phục đơn giản, khiêm tốn, và đắt tiền. Tác phong như một bà hoàng theo kiểu một người đã quen ra lệnh. Bà ta cao hơn tôi khoảng bảy tám phân và có hình dáng khá đẹp. - Thế bà ta muốn gặp tôi về chuyện gì  ? - Mason hỏi. - Bà ta muốn hỏi ông một số vấn đề về pháp luật, - Della đáp. - Bà ta bảo các vấn đề sẽ có tính chất hoàn toàn lý thuyết và khách quan. Mason thở dài. - Lại thêm một trường hợp khách hàng cố tìm cách ẩn mình phía sau một tấm chắn nặc danh. Bà ta sẽ bước vào và nói: “Giả sử A kết hôn với B và B thừa kế tài sản của mẹ anh ta ở New Mexico. Giả sử A và B đang xin ly dị. Phải chăng A có thể được hưởng một nửa tài sản  ?” Ồ, Della, tôi thừa biết toàn bộ câu chuyện vô nghĩa đó  ! Della đưa ra một tờ giấy bạc năm mươi đô la. - Bà ta đã ứng trước năm mươi đô la. Mason do dự một lát rồi bảo: - Cô hãy trả lại cho bà ta. Nói với bà ta rằng tôi sẽ nói chuyện vắn tắt với bà ta: nếu tôi quyết định trả lời các câu hỏi của bà ta, tôi sẽ tính chi phí phải chăng, còn nếu tôi không thể đồng ý việc bà ta chơi trò lật úp bài trên bàn, thì tốt hơn hết bà ta nên đi tìm một luật sư khác. - Bà ta bảo không có thời giờ đi tìm một luật sư khác, bà ta chỉ muốn gặp ông và công việc này cần được tiến hành ngay tức khắc. - Tôi hiểu, - Mason nói. - Bà ta muốn hỏi tôi một số vấn đề luật pháp lý thuyết để rồi phát đơn kiện. Thôi được rồi, Della, bà ta là một con người, bà ta đang lâm vào một tình thế rối ren nào đó, vậy ta hãy thử tìm hiểu xem đó là cái gì. Cô hãy đưa bà ta vào đi. Della Street gật đầu rời khỏi văn phòng và trở lại trong vòng mấy giây sau với một người đàn bà đứng thẳng băng, ngẩng cao đầu, chìa cái cằm ra theo một điệu bộ hống hách. Bà ta cúi chào Mason, rồi nói: - Ông Mason, tôi xin cám ơn ông đã bằng lòng tiếp tôi. ... Mời các bạn đón đọc Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm - Erle Stanley Gardner.
Bản Đồng Ca Chết Người - James Hadley Chase
James Hadley Chase là bút danh của tác giả người Anh – Rene Brabazon Raymond (24/12/1906 – 6/2/1985), người cũng đã viết dưới tên James L. Docherty, Ambrose Grant và Raymond Marshall. Ông được sinh ra ở Luân Đôn, là con của một đại tá người Anh phục vụ trong quân đội thuộc địa Ấn Độ, người dự định cho con trai mình có một sự nghiệp khoa học, bước đầu đã cho học tại trường học Hoàng gia, Rochester, Kent và sau đó học ở Calcutta. Ông rời gia đình ở tuổi 18 và làm nhiều công việc khác nhau, một nhà môi giới trong nhà sách, nhân viên bán sách bách khoa toàn thư của trẻ em, người bán sách sỉ trước tập trung vào sự nghiệp viết lách, đã sản xuất hơn 80 cuốn sách bí ẩn. Năm 1933, ông đã cưới Chase Sylvia Ray và có một con trai. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, với khoảng 90 tiểu thuyết, hầu như câu chuyện nào của James Hadley Chase cũng có một nhân vật chính muốn làm giàu nhanh bằng cách phạm tội ác - lừa gạt, cướp bóc hay ăn trộm. Nhưng kế hoạch của họ luôn thất bại, phải giết người để gỡ bí, và càng bí thêm. *** Các tác phẩm của James H. Chase đã được xuất bản tại Việt Nam: Cái Chết Từ Trên Trời Cả Thế Gian Trong Túi Ôi Đàn Bà Cạm Bẫy Gã Hippi Trên Đường (Frank Terrell #5) Thằng Khùng Cạm Bẫy Bản Đồng Ca Chết Người (Frank Terrell #1) Tỉa Dần Hứng Trọn 12 Viên Đam Mê và Thu Hận Tệ Đến Thế Là Cùng Mười Hai Người Hoa và Một Cô Gái Buổi Hẹn Cuối Cùng Trở Về Từ Cõi Chết Không Nơi Ẩn Nấp Đồng Tiền và Cạm Bẫy Lại Thêm Một Cú Đấm Đặt Nàng Lên Tấm Thảm Hoa Cành Lan Trong Gió Bão Những Xác Chết Chiếc Áo Khoác Ghê Tởm Món Quà Bí Ẩn Âm Mưu Hoàn Hảo Cướp Sòng Bạc Cạm Bẫy Dành Cho Johnny Những Xác Chết Câm Lặng Em Không Thể Sống Cô Đơn Thà Anh Sống Cô Đơn Buổi Hẹn Cuối Cùng Mùi Vàng Phu Nhân Tỉ Phú Giêm Tình Nhân Gã Vệ Sĩ Dấu Vết Kẻ Sát Nhân Trong Bàn Tay Mafia Này Cô Em Vòng Tay Ác Quỷ Thiên Đường của Vũ Nữ Châu Dã Tràng Xe Cát .... *** ắt nhắm, gáy đặt vào cái dựa đầu bằng men bóng loáng, Valérie Burnett tận hưởng những giây phút thư giãn trong bồn tắm. Nơi cửa sổ hé mở vọng vào những tiếng thì thầm từ tầng trệt. Valérie thích thú lắng nghe. Nàng cũng đánh giá cao cái khách sạn ở Spanish Bay này: thật danh bất hư truyền. Nàng cho rằng nó là khách sạn tốt nhất mà nàng đã đến ở. Nàng mở mắt ngắm nghía thân hình thon thả với đường nét tuyệt vời của mình, đôi đồi trọc hào phóng cùng với làn da trắng ở đùi non tương phản với màu rạm nắng bên ngoài của nàng. Họ mới chỉ ở Spanish Bay được một tuần, nhưng dưới những tia sáng tốt lành của mặt trời nóng bỏng, da nàng bắt nắng rất nhanh. Bằng bàn tay ướt, nàng với chiếc đồng hồ vàng và bạch kim mà Chris đã tặng nàng ngày cưới. Đã mười hai giờ kém hai mươi, nàng đủ thời gian mặc quần áo trước khi xuống thềm ngoài của khách sạn để uống một ly rượu Martini. Lúc nàng để đồng hồ trên bàn phòng tắm thì điện thoại reo. Nàng lau tay rồi nhấc ống nghe. - New York muốn liên lạc. - Cô điện thoại viên thông báo. - Bà muốn nghe chứ, thưa bà Burnett? Chỉ có cha nàng mới biết vợ chồng nàng đang ở khách sạn này. Đúng ông ấy! Val tự nhủ. - Được rồi để tôi nghe. - Nàng vừa trả lời vừa hơi chau mày vì lo lắng và bực bội. Nàng đã xin cha để cho hai đứa yên thân. Ông đã chấp nhận lời yêu cầu ấy trong một tuần. Vậy mà ông phone tới thì có nghĩa là gì? Nàng đã không viết thư mà lẽ ra nàng phải viết vì nàng biết cha quan tâm lo lắng cho mình biết chừng nào. Nàng nghe giọng cha ở đầu dây bên kia, ông có một giọng nam trầm khá ấn tượng. - Val! Con đấy à? - Vâng! Xin chào ba. Thật tốt khi... - Val! Tại sao con không cho ba biết tin tức? - Con xin lỗi. Ba biết đấy. Trời tuyệt dẹp. Con biết lẽ ra con phải... - Không quan trọng. Chris có khỏe không? - Ồ! Anh ấy vẫn khỏe. Chúng con có nói về ba tối qua và anh... - Nó sao rồi? Nghe này, Val, năm phút nữa ba phải họp rồi. Đừng mất thì giờ. Nó có thật sự khỏe không? - Nhưng thưa ba, - nàng tức mình phản đối, - con xin nhắc lại... anh ấy vẫn bình thường. - Ba cho rằng con đã sai lầm khi đến ở một mình với nó trong khách sạn này. Nó đang bị bệnh, Val, cho ba biết nó có còn chứng giật giật ở khóe miệng không? Val nhắm mắt lại. Nước trong bồn tắm bất ngờ trở nên rất lạnh. ... Mời các bạn đón đọc Bản Đồng Ca Chết Người của tác giả James Hadley Chase.
Tháng Tám Không Vua - Kiutzo Kobayasi
Phóng viên Iximôri trên đường đi công tác từ Fukuoka về Tokyo. Tại ga Hacata anh đọc báo và biết tấm vé tàu của mình mua qua hệ thống bán vé tự động đã bị bán nhầm, nghĩa là có một người khác cũng mua tấm vé với chỗ ngồi của anh. Nhưng vì nghĩ lên tàu sẽ có nhân viên tàu sắp xếp nên anh bỏ qua, không đổi lại. Cùng lúc đó, anh có cảm giác mình bị theo dõi, và sau đó là 2 nhân vật bặm trợn tiếp cận anh để đòi mua lại vé. Cảm thấy có gì bất ổn, anh nhất định không nhượng lại. Anh không biết rằng, tấm vé định mệnh ấy đã đưa anh gặp lại người yêu cũ trên cùng chuyến tàu, đồng thời rơi vào một âm mưu đảo chính tồi tệ của Lực lượng phòng vệ... *** Trong biển sương mù dày đặc, hoàn toàn không thể trông thấy gì cả. Sinh ra không biết ở đâu, từng đám hơi nước nặng nề và xám xịt như những đợt sóng đập vào tấm kính chắn gió, chảy tụ thành từng dòng và chậm chạp tan dọc theo hai bên thành xe. Một sự chuyển động đơn điệu, tẻ ngắt... Đèn pha chiếu không xa hơn một mét đường, những luồng ánh sáng vấp phải bức tường dày của bóng tối, phản chiếu lại rồi tan biến đi trong sương mù. Tầm nhìn xa gần như bằng không. Nếu như đây không phải là xe hơi, mà là máy bay, chắc từ lâu đã phải chuyển sang bay bằng thiết bị thăm dò tự động. Còn về tốc độ thì không cần phải nói. Thậm chí chỉ với hai mươi cây số một giờ, cũng không thể bảo đảm an toàn được. “Đã lâu không có sương mù như thế này...” - Mitiô Ximauti, cảnh sát trưởng khu Trung tâm của quận Aômôri, nhìn qua tấm kính chắn gió của chiếc xe tuần tra và nghĩ thầm. Chốc chốc, trong ánh đèn pha, những chiếc xe hơi ngược chiều, giống như những cái bóng đột ngột xuất hiện và chạy vụt ngang qua. Sự đột ngột đó làm cho Ximauti lo lắng. Hơi nhổm người lên, anh quay sang phía viên cảnh sát trẻ tuổi Muracami đang ngồi sau tay lái ở bên cạnh: - Hay là ta giảm bớt tốc độ đi ? - Để làm gì ? - Muracami hỏi lại. - Đi thế này cũng đã chậm lắm rồi. Không hơn hai mươi kilômét giờ. - Ừ, thôi được, - Ximauti lẩm bẩm và ngồi lại cho thoải mái hơn. Chỉ còn một quãng nữa là đến chỗ rẽ từ quốc lộ số Bốn vào thành phố. Anh nhìn đồng hồ. Đã quá nửa đêm. “Hừ, tìm ra được tên giết người trong sương mù thế này thật không phải dễ, - Ximauti nghĩ. - Có lẽ, bóng tối đã giúp tên tội phạm đi lọt qua các bót kiểm soát của cảnh sát”. Từ một nơi nào đó trong đáy sâu của ý thức chợt hiện lên những đặc điểm của tên tội phạm đã được thông báo cho tất cả các đồn, trạm cảnh sát. Gần hai mươi lăm tuổi. Cao một mét bảy mươi, gầy. Áo khoác màu sáng. Tóc dài. Qua hình dáng bên ngoài có thể đoán được là làm ở quán bar hay khách sạn. Một vụ trấn lột tắcxi bình thường. Vào hồi hai mươi ba giờ, một viên cảnh sát, trong khi đi tuần quanh khu vực của mình trên phố Hasucamati, thấy bên vệ đường, cạnh công viên, một chiếc xe tắcxi đứng tại chỗ nhưng đèn hiệu trên nóc nhấp nháy liên hồi. Khi viên cảnh sát đi đến, một thanh niên từ trong xe nhảy bổ ra, bỏ chạy. Viên cảnh sát đuổi theo, nhưng chỉ thoáng sau tên kia đã mất hút. Lái xe tắcxi, một người đàn ông đứng tuổi, nằm trên ghế, cổ bị thắt bằng sợi dây thừng nilông, đã tắt thở. Tiền thu được trong ngày cũng đã biến mất. Trực ban ra lệnh báo động, các trạm kiểm soát lập tức được đặt khắp mọi ngả đường thành phố. Mười phút sau sự kiện xảy ra, hai chục chiếc xe tuần tra phóng vào màn đêm dày đặc sương mù để truy tìm thủ phạm. -  Chúng ta loanh quanh đã gần hai tiếng đồng hồ rồi đấy. - Không hiểu sao, Ximauti cứ có linh cảm rằng cuộc truy lùng sẽ thất bại. Hình ảnh tưởng tượng của tên giết người bị truy lùng bỗng đột nhiên nhòa mờ đi; thay vào đó, khuôn mặt vợ và đứa con trai của anh hiện ra, mỗi lúc một rõ nét hơn. Mới hôm qua con anh vừa chẵn hai tuổi - cái tuổi tuyệt diệu nhất của đứa trẻ. Bây giờ có lẽ nó đang ngủ. Và Ximauti hình dung ra khuôn mặt say sưa của con anh đang áp vào bộ ngực trần của mẹ nó. Anh lắc mạnh đầu, cho tay vào túi lấy thuốc. Bao thuốc rỗng không. -  Này, Muracami, cho xin điếu thuốc. Tớ hết mất rồi. -  Chờ một tí. - Muracami rời tay khỏi cần lái và hơi nghiêng người, rút bao thuốc từ trong túi đưa cho Ximauti. Đúng vào khoảnh khắc đó, Ximauti trông thấy trước mặt mình hiện lên một bóng đen khổng lồ. Khối thép lớn, từ trong màn sương bay vụt ra, chắn ngang đường của họ. -  Cẩn thận !  - Nhưng tiếng phanh đã rít lên, trước cả khi Ximauti kịp mở miệng kêu. Trong luồng ánh sáng của hai ngọn đèn pha, một khối đen lao tới, như sắp đè cả sức nặng đáng sợ của nó lên chiếc xe tuần tra cảnh sát. Ximauti nghe ớn lạnh toàn thân. Ngay bên cạnh, một luồng ánh sáng chói chang quét vụt qua. Và liền đó, tiếng rú của động cơ đập vào tai. -  Qua rồi !  Chỉ cần một phần mấy giây nữa là... - Cùng với cảm giác nhẹ nhõm, một đợt máu nóng dồn lên mặt Ximauti. Quay đầu lại, anh chỉ kịp nhận ra thùng xe của một chiếc ô tô vận tải rất lớn. Với tiếng gầm nhức óc, nó phóng vụt qua và biến mất trong màn sương tối. -  Đuổi theo !  - Ximauti đập tay lên vai Muracami, ra lệnh. - Nhanh lên ! -  Có ngay !  - Sau một giây lúng túng, viên cảnh sát trẻ đáp. Cuộc chạm trán với chiếc xe tải điên rồ kia đã làm cho anh mất bình tĩnh. -  Nhanh lên !  - Ximauti quát. Bây giờ tất cả mọi nghi ngờ của anh đều tập trung vào chiếc xe khổng lồ vừa chạy lướt qua. Điều này gần như là một linh cảm được sinh ra bởi kinh nghiệm của mười năm làm nghề điều tra. -  Đồ mất dạy !  - Cuối cùng Muracami đã bình tĩnh lại. Anh mở máy, quay gấp tay lái và phóng xe vụt đi. Ximauti chẳng còn nhận ra đồng đội của mình nữa. Nét mặt Muracami - anh đang dồn hết sức dấn ga - biểu lộ một sự tập trung căng thẳng. Tiếng còi rú dài. Cứ mỗi lần trên đường xuất hiện và lớn vụt lên ánh đèn pha của những chiếc xe ngược chiều, Ximauti cảm thấy mồ hôi trên tay mình rịn ra vì sợ hãi. - Chiếc xe kì quái, - Muracami căng mắt nhìn về phía trước, lẩm bẩm. - Hình như chột mắt. “Một đèn pha trước bị vỡ”, - Ximauti giải mã trong đầu lời của Muracami. Chiếc xe tải nặng với một bên đèn pha bị vỡ phóng trong đêm sương mù dày đặc với tốc độ mà họa chăng chỉ những kẻ điên mới dám. Không thể xác định được chính xác, nhưng chắc phải đến bảy-tám mươi kilômét một giờ. Phóng xuyên qua đêm tối, không chọn đường. Một thằng muốn tự tử ngồi sau tay lái chắc ? “Không biết nó vội đi đâu thế nhỉ ? - Ximauti lẩm bẩm, cố nhìn cho được một cái gì đó trong bóng tối. - Đến Môriôca, Xendai hay Tôkiô ?” Đột nhiên ngay trước mũi Ximauti hiện ra thành sau của chiếc xe tải. Trong lần gặp gỡ thứ nhất, Ximauti bị bất ngờ đến nỗi ngoài khối vỏ thép, anh không kịp nhìn ra gì hết. Bây giờ anh mới thấy rõ chiếc thùng xe vận tải có mui rất lớn màu bạc trắng. Ô tô kéo moóc mười tấn bịt kín. Muracami mở còi hết công suất, ra lệnh cho người lái chiếc xe tải phải dừng lại. Nhưng nó vẫn cứ tăng thêm tốc độ, rõ ràng là muốn tìm cách tẩu. - Nó đang cố chạy trốn, - Muracami nói giọng khàn khàn và lại nhấn mạnh thêm chân ga. -  Đuổi nhanh lên !  - Ximauti nghiến chặt hai hàm răng. Ý nghĩ về sự nguy hiểm của cuộc đuổi bắt trong đêm sương mù không còn làm anh sợ nữa. Đuổi kịp !  Đuổi kịp bọn chạy trốn !  Cái máu say mê săn đuổi đã hoàn toàn xâm chiếm Ximauti, nó lây sang cả Muracami đang ngồi bên cạnh, sau tay lái. Động cơ rú mạnh, chiếc xe rung lên trước luồng không khí ngược chiều. Thậm chí cả sương mù cũng bắt đầu loãng ra, để lộ dải sơn trắng giữa tâm đường. Chiếc xe tải phía trước chạy ngoằn ngoèo, từ bên này sang bên kia trên toàn bộ nửa bề mặt rộng của con đường, cố tìm cách chặn không cho những người đuổi theo vượt lên. Đúng là tiết mục của dân Tôkiô. Muracami chúi người về phía trước chờ thời điểm thuận lợi. Cần phải biết chắc rằng phía trước không có xe ngược chiều, và lúc đó có thể vòng sang phía bên kia tâm đường, phóng vượt qua chiếc ô tô vận tải. Nhưng để nhận ra những chiếc xe ngược chiều trong bóng tối dày đặc này đâu phải dễ, nhất là khi phía trước lại còn cả một cỗ xe khổng lồ hết lượn sang phải lại sang trái để tìm cách chặn đường. -  Hừ, cứ đợi đấy, - Muracami khẽ lẩm bẩm và đột ngột đánh quặt tay lái sang phải. Ximauti bị hất đổ nghiêng sang một bên, dải sơn trắng giữa lòng đường như treo trong không khí ở phía trên con đường. Tiếng bánh xe cọ lên mặt nhựa kêu rít, mùi cao su cháy xộc vào mũi. Khi Ximauti lấy lại được thăng bằng, phía bên phải anh hiện lên một bức tường trắng bạc. Chiếc xe của họ đang chạy song song với cỗ xe vận tải. Ximauti có cảm giác như đã qua rất nhiều thời gian, nhưng thực ra tất cả chỉ mới có năm - sáu giây đồng hồ. Chiếc xe tuần tra dồn hết sức lao như tên bắn về phía trước. Bức tường màu trắng bạc nằm lại sau và bắt đầu lùi nhanh ra xa. Sau khi vượt được cỗ xe vận tải, chiếc xe cảnh sát quay trở về bên trái của đường, chạy thêm một quãng rồi bắt đầu phanh lại. Ximauti nhảy vụt xuống đường - chiếc xe ô tô vận tải đang lao tới như một con voi điên có thể đè nát xe của họ như đè một vỏ trứng mỏng manh. Muracami cũng nhảy theo ra. Đường của chiếc xe tải đã bị chặn. Và nó, dường như đành chịu thuần phục, dần dần giảm tốc độ và dừng lại, thanh chắn trước thiếu tý nữa thì đâm vào chiếc xe cảnh sát. Ximauti chạy bổ tới bên cabin chiếc xe tải. Anh đã nổi điên đến mức sẵn sàng bắn chết lái xe. Cần phải biết điều khi nói chuyện với cảnh sát chứ ! Viên cảnh sát trưởng leo lên bậc lên xuống và nhìn vào cabin. Sau tay lái là một thanh niên còn trẻ. Tóc cắt ngắn - theo mốt mới bây giờ, trông hơi là lạ. Qua tấm cửa kính của cabin, Ximauti bắt gặp ánh mắt nhìn sắc nhọn và thù địch. Người ngồi bên cạnh lái xe có vẻ già hơn nhiều. Tóc cũng cắt ngắn, cái nhìn cũng như thế - lạnh lùng và sắc nhọn. Muracami leo lên đứng bên cạnh Ximauti, lấy tay gõ vào kính. Chiếc cửa sổ nhỏ hé mở ra. -  Bằng lái của anh đâu ? - Ximauti ra lệnh. Lái xe lấy bằng lái từ trong túi ra và đưa cho Ximauti, đôi mắt cảnh giác theo dõi từng cử chỉ của hai viên cảnh sát. “Chẳng lẽ bọn này giấu tên giết người lái xe tắcxi hay sao ?” - Ximauti vừa xem xét kĩ lưỡng bằng lái vừa căng thẳng nghĩ. Tên: Côiti Tatzima, thành phố Murôman, phố Vanixi, số... Anh nhìn ảnh, rồi nhìn lái xe. Vừa giống vừa không giống... Nỗi nghi ngờ càng tăng thêm. Cần phải xem xét xe kĩ lưỡng. -  Các anh chở gì ? - Ximauti hỏi. -  Máy móc... về nhà máy, ở Tôkiô, - lái xe ấp úng đáp. -  Để rồi xem !  - Không trả lại bằng, Ximauti ra hiệu bảo người lái ra khỏi cabin. Mặt lái xe lập tức sầm lại. Anh ta quay sang phía người nhiều tuổi hơn ngồi bên cạnh - từ lúc đầu tới giờ người này chưa hề thốt lên một lời nào - và nhận được một tín hiệu gì đó bằng mắt. Lái xe ngoan ngoãn mở cửa cabin. Hai viên cảnh sát nhảy xuống đường. Lái xe cũng bước xuống, để cánh cửa cabin hé mở. Và lúc đó Ximauti, đang chuẩn bị nhổm vào thùng xe, chợt trông thấy một vật mà anh không thể nào ngờ tới - đó là nòng súng đen ngòm đang chĩa thẳng vào anh từ phía trong cánh cửa không đóng kín. Ngay trong khoảnh khắc ấy, lái xe xô mạnh hai viên cảnh sát rồi nhảy lên cabin. Bị bất ngờ, Ximauti và Muracami bắn ra giữa đường. Theo bản năng, Ximauti liếc nhìn về phía cabin. Nòng súng trường !  Ximauti không thể nào hiểu được cái người già hơn kia đang làm gì. Một ánh lửa lóe lên đầu nòng súng. Một tiếng kêu ngắn đập mạnh vào mang tai. Thân người Muracami nhảy dựng lên, ngã vật xuống đất. Mấy giọt chất lỏng ấm dính bắn vào mặt Ximauti. Chúng đã bắn chết Muracami ! Chỉ vừa mới nhận thức ra điều đó, Ximauti đã trông thấy nòng súng trường quay sang chĩa vào anh. Ánh thép lạnh lấp lánh. Và bộ mặt lầm lì của người đang ngắm bắn. Ximauti vụt nhảy tránh sang một bên và bỏ chạy, người cúi rạp xuống sát đất. Ở một nơi nào đó, dường như xa lắm, vang lên tiếng nổ khô khốc, giống như tiếng roi quất mạnh. Và có một cái gì đó đánh vào thắt lưng anh. Ximauti cảm thấy hơi lạnh của thần chết làm cứng đờ cả người mình. Anh không thể bước đi thêm bước nào nữa. Một cơn đau co giật lan truyền khắp thân thể. Quằn quại vì đau đớn khủng khiếp, anh đổ vật xuống mặt đất. Tất cả nhòa đi trước mắt. Thấp thoáng bóng tên lái xe nhảy vội vào cabin. Tiếng động cơ rú lên. Chiếc ô tô vận tải rời chỗ. Cần phải báo động !  Ý nghĩ đó khoan sâu vào ý thức đã bắt đầu tắt của viên cảnh sát. Nhưng thân thể anh không còn tuân lệnh nữa. Phải hết sức vất vả, đau đớn, anh mới trở mình nằm úp lại được. Ximauti đưa mắt nhìn theo cỗ xe đang chìm dần trong màn sương mù, cố đoán ra hướng đi của nó. Chiếc ô tô vận tải vòng qua xe kiểm tra của cảnh sát, đi chệch sang phía phải của vạch tâm đường. Vừa lúc đó, một chiếc xe tải khác đi ngược chiều phóng tới. Một ngọn lửa khổng lồ lao vụt lên trời, xé tan màn sương dày đặc. Khối hàng chở trên chiếc ô tô vận tải thứ nhất đã bốc nổ. - Cháy !  - Ximauti thì thào, anh không còn nghe thấy những tiếng nổ nữa. "Chúng mang gì thế nhỉ ?” - Ximauti vật vã cố sức hiểu, nhưng một màn đen đã trùm lên đôi mắt anh. Bằng sự cố gắng cuối cùng của ý chí, Ximauti ngẩng đầu lên nhìn. Ý thức của anh đang run rẩy trên điểm cuối cùng của sự sống. Và anh bỗng cảm thấy như có một trận mưa vũ khí đang rơi xuống quãng đường nhựa - đó là những thứ chở trong thùng xe bị bắn lên không: súng cacbin, súng máy M.1, súng phóng lựu M79. - Một sự điên rồ thế nào ấy !  - Ximauti rên rỉ. Sương mù trên quốc lô số Bốn lại bắt đầu trở nên dày đặc.  ... Mời các bạn đón đọc Tháng Tám Không Vua của tác giả Kiutzo Kobayasi.