Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mục Dã Quỷ Sự

“Ma Thổi Đèn - Mục Dã Quỷ Sự” là tác phẩm Thiên Hạ Bá Xướng khổ tâm sáng tác trong vòng 4 năm, giải đáp toàn bộ những thắc mắc/mơ hồ trong “Ma Thổi Đèn”! Đây là một cuốn tiểu thuyết hỗn hợp hiện thực & hư cấu, trộm mộ & thám hiểm. Tác phẩm là nơi tác giả tập hợp những câu chuyện ly kỳ thú vị mà bản thân đã trải qua, tràn ngập màu sắc huyễn ảo, thể hiện giá trị văn hoá truyền thống bác đại tinh thâm cùng sức tưởng tượng vô cùng phong phú của tác giả. *** Về bộ Ma Thổi Đèn: Ma thổi đèn Phần một: Thành Cổ Tinh Tuyệt Mê Động Long Lĩnh Trùng Cốc Vân Nam Thần Cung Côn Luân Phần hai: Mộ Hoàng Bì Tử Quy Khư Nam Hải Thi vương Tương Tây Vu hiệp Quan Sơn Mô Kim Hiệu Úy Thiên Hạ Bá Xướng sau khi nhượng quyền thương hiệu Ma thổi đèn đã viết tiếp câu truyện về ba mô kim hiệu úy trong hệ liệt mới của mình tên Mô Kim Hiệu Úy. Cuốn đầu tiên trong bộ Mô Kim Hiệu Úy được viết vào năm 2015 tên Mô Kim Hiệu Úy - Cửu U Tướng Quân. Hiện tại Thiên Hạ Bá Xướng đã viết tới cuốn thứ hai là Mô Kim Hiệu Úy - Câu Thi Pháp Vương nhưng sau đó đã dừng lại. Mô Kim Quyết Quỷ môn thiên sư Một phần khác cũng của tác giả viết. Nội dung kể về những năm 60 của thế kỉ XX, Hồ Bát Nhất và Tuyền béo được phân công về tham gia sản xuất kiến thiết tại Hắc Long Giang, binh đoàn nông khẩn, nông trường số 17 của sư đoàn 3. Trung đội trưởng an bài ba người là Hồ Bát Nhất cùng Tuyền béo và nhân viên liên lạc trực ở lại để trông coi vật tư, còn mình thì dẫn theo những người khác rời khỏi nông trường. Mấy người ở lại trông coi nông trường, phát hiện củi gỗ trong nhà kho ngày càng ít. Thì ra là do một con hồ ly kiếm chuyện báo thù, lén lút lấy đi củi. Ít hôm sau, một trận bão tuyết trước giờ chưa từng thấy ập đến, mấy người dự tính bắt con hồ ly, chẳng ngờ gặp phải một đàn sói từ Siberia tới đang tán loạn chạy bão, vì chạy thoát thân nên đi theo con hồ ly chui vào một cái hang đất, vô tình phát hiện một cổ mộ từ thời nhà Liêu bị che giấu từ vạn năm trước. Mục Dã Quỷ Sự “Ma Thổi Đèn - Mục Dã Quỷ Sự” là tác phẩm Thiên Hạ Bá Xướng khổ tâm sáng tác trong vòng 4 năm, giải đáp toàn bộ những thắc mắc/mơ hồ trong “Ma Thổi Đèn”! Đây là một cuốn tiểu thuyết hỗn hợp hiện thực & hư cấu, trộm mộ & thám hiểm. Tác phẩm là nơi tác giả tập hợp những câu chuyện ly kỳ thú vị mà bản thân đã trải qua, tràn ngập màu sắc huyễn ảo, thể hiện giá trị văn hoá truyền thống bác đại tinh thâm cùng sức tưởng tượng vô cùng phong phú của tác giả. Do Ngự Định Lục Nhâm chấp bút: Năm 2011, nhà sách Kim Thành (Trung Quốc) đã xuất bản bộ Ma Thổi Đèn mới, dưới sự nhượng quyền của tác giả Thiên Hạ Bá Xướng, người viết là Ngự Định Lục Nhâm. Ngự Định Lục Nhâm là một nhóm tác giả viết văn, gồm sáu người. Do được phép của Thiên Hạ Bá Xướng mà nhóm Ngự Định Lục Nhâm đã viết ra bộ Ma Thổi Đèn mới dựa theo 8 cuốn đầu. Cuốn đầu tiên tên Ma Thổi Đèn - Thánh Tuyền Tầm Tung. Không chỉ dừng lại ở 1 cuốn, Ngự Định Lục Nhâm còn viết thêm: Ma Thổi Đèn - Thánh Tuyền Tầm Tung  Ma Thổi Đèn - Phủ Tiên Độc Cổ  Ma Thổi Đèn - Sơn Hải Yêu Trủng  Ma Thổi Đèn - Tương Tây Nghi Lăng  Ma Thổi Đèn - Trấn Khố Cuồng Sa *** Tiếng súng ầm ầm làm rung động đất trời của cuộc khởi nghĩa Vũ Xương cuối cùng đã khiến cho Trung Quốc thoát khỏi gông cùm xiềng xích nặng nề của chế độ quân chủ phong kiến kéo dài suốt mấy nghìn năm qua, đồng thời đưa đất nước bước vào một thời đại mới, thời đại của những xung đột dữ dội giữa xu hướng cải cách tiến bộ và những phong tục tập quán lạc hậu, cổ hủ. Những năm đầu Trung Hoa Dân Quốc, tình hình xã hội đặc biệt hỗn loạn, không chỉ có chiến sự liên miên giữa các nhóm phiến quân, mà còn xuất hiện đợt thiên tai trăm năm mới gặp “Bắc hạn Nam lụt", khiến cho khắp mọi nơi đều rơi vào cảnh màn trời chiếu đất, hàng trăm hàng vạn người trở thành nạn dân, để có được miếng ăn qua ngày, nhiều người bất chấp tất cả lên núi làm thổ phỉ, hoặc giở thủ đoạn thất đức buôn bán một số mặt hàng cấm như thuốc lá lậu, vũ khí, thậm chí là cả con người. Vậy nên vẫn có câu “Mười năm khói lửa ngập trời, chúng sinh tứ hải một đời bi ai!” Thường nói: “Thịnh thế cổ đổng, loạn thế hoàng kim", trong những năm tháng binh hoang mã loạn ấy, chỉ có những thỏi vàng sáng bóng lấp lánh mới được coi là thứ tiền tệ có giá trị nhất. Tuy nhiên trong mắt những tên trộm mộ, dưới thời cuộc như hiện giờ, mọi thứ như luật pháp hay đạo đức đã không còn tác dụng, đây chính là thời cơ tốt nhất để đào sâu xuống những mộ cổ, lấy đi những đồ vật quý giá được chôn giấu bấy lâu nay. Những tên trộm mộ già đời kinh nghiệm đầy mình, tất nhiên, cũng sẽ không bỏ lỡ cơ hội ngon ăn như vậy. Đợi một ngày tình hình chính trị ổn định, giá cổ vật sẽ lại một lần nữa tăng lên chóng mặt, đến lúc đó đem những thứ lấy được bán ra, liền có thể dễ dàng kiếm được một món tiền lớn. Một tên trộm mộ tự xưng là “Mã Vương Gia" cùng hai đồng bọn của hắn - Lão Bắc Phong và Phí Vô Kỵ, chính là nhìn thấy cơ hội ở ngay trước mắt, bèn tính toán thừa dịp hai phe quân phiệt đóng quân ở phụ cận sông Ứng Nê giao chiến với nhau, khiến cho lão bách tính xung quanh phải bỏ thôn chạy nạn không còn một ai, lập tức động thủ nhằm vào một toà cổ mộ vô danh bên cạnh bờ sông. Mã Vương Gia tên thật là Mã Vương Thành, bởi vì kinh nghiệm trộm mộ cực kỳ phong phú, lại có không ít thủ đoạn tinh ranh khó lường, hơn nữa nhãn lực hết sức cao thâm, thậm chí có người còn nói trên trán hắn mọc ra con mắt thứ ba, không cần biết dưới lớp đất kia có chôn cổ mộ kiểu gì, bất luận nông sâu như nào, hắn ta chỉ cần trong nháy mắt là đã có thể nhìn ra được đầu mối, cho nên mới bị người ta nói thành ra như vậy. Tuy nhiên đối với những người tương đối quen thuộc bản lĩnh của Mã Vương Gia, tự nhiên đều biết hắn ta không hề mọc ra con mắt thứ ba nào trên trán cả, chỉ tôn trọng gọi là “Quan Sơn Mã Gia". Mã Vương Gia đã để mắt tới toà cổ mộ bên cạnh dòng Ứng Nê này không phải mới ngày một ngày hai, địa điểm là tại một khu rừng cách bờ sông một đoạn không xa lắm. Vật đổi sao dời, nhiều năm trôi qua, núi non thung lũng dần dần bị san bằng, gò mả cùng bia đá dẫn đường cũng biến mất từng ngày, không phải người trong nghề tuyệt đối không có cách nào phát hiện ra chúng. Nếu lấy tay gạt bỏ đám cỏ khô héo vàng bên trên, dưới lớp bùn dày chừng nửa thước, liền có thể thấy được từng viên một gạch mộ vô cùng lớn, khe hở giữa các viên gạch được gia cố bằng nước thép nung chảy, nếu muốn trong thời gian ngắn đào ra được mộ cổ bên dưới, chỉ có cách là sử dụng thổ pháo cho thổi tung một lỗ lớn. Chỉ là khu vực này lại nằm ngay sát đường lớn, tuy rằng có chút hoang vu vắng vẻ, nhưng là con đường chính bắt buộc phải đi qua mỗi lần họp chợ, trước kia thỉnh thoảng vẫn thường có người qua người lại cho nên rất khó tìm cơ hội để hạ thủ, cho dù trong đêm lén lút dùng thổ pháo nổ tung tường mộ, cũng có khả năng làm kinh động đến đội dân đoàn (Trans: Tổ chức vũ trang ở địa phương của bọn cường hào địa chủ thời xưa ở Trung Quốc) hoặc cảnh sát. Do đó Mã Vương Gia tuy rằng sớm đã nhòm ngó đến nơi này nhiều lần, nhưng vẫn chậm chạp chưa dám làm ra bất cứ động tĩnh gì. Ấy thế mà chiến loạn kéo tới, đột nhiên khiến cho khu vực này trở thành một nơi không dấu chân người, chuyện này đối với Mã Vương Gia mà nói thì quả thật là một cơ hội trời ban hiếm có, hắn liền lập tức bắt tay cùng với hai tên trộm mộ khác cũng có chút tiếng tăm - “Lão Bắc Phong” với biệt tài thông thạo sử dụng thuốc nổ, cùng tay hảo thủ sức lực hơn người “Phí Vô Kỵ", để tránh bị người khác nhòm ngó sinh nghi, ba người đều đóng giả thành đạo nhân, mang theo một số đồ nghề chuyên dụng, chất đầy trên lưng mấy con lừa, ngày nghỉ đêm đi, từ từ tiếp cận bờ sông Ứng Nê. Sở dĩ con sông này có tên là “Ứng Nê", bởi vì trong lòng sông một nửa là nước còn một nửa là bùn đất phù sa, dù cho hạn hán hay lũ lụt, trước sau vẫn luôn ngập trong bùn nhão như này. Những năm gần đây, lưu lượng nước đổ về sông Ứng Nê càng ngày càng ít dần, vốn lòng sông từ đầu cũng phải rộng đến mấy trượng, lại bị phù sa chia tách thành mấy đoạn sông, chỉ khi nào nước mưa lên cao đến đỉnh điểm, mới thỉnh thoảng liền thành một dòng. Trong lòng sông mọc lên đầy những bụi cỏ cao vài thước, có nhiều người từ nơi khác đi ngang qua không biết tình hình khu vực này, lúc đi ngang qua định bụng ghé xuống sát bờ sông tranh thủ vốc miếng nước uống hoặc để rửa mặt gì đó, trong tình huống không hề có chút chuẩn bị nào, nếu một chân vô tình đạp phải vũng bùn bên dưới đám cỏ khô, rất dễ bị mắc kẹt rồi bỏ mạng một cách oan uổng, không một ai có thể nói rõ rốt cuộc đã có biết bao nhiêu người phải chôn thây tại đây. Chỉ là con sông này bởi vì chết quá nhiều người, ngoại trừ lạch nước hẹp ở giữa lòng sông còn có thể tạm coi là sạch ra, đại bộ phận những đoạn sông khác quanh năm suốt tháng đều chảy ra thứ nước đen ngòm, một mùi hôi thối tởm lợm toả ra khắp xung quanh. Thời điểm đám người Mã Vương Gia tới được bên bờ Ứng Nê, mặt trời đã ngả về tây, hoàng hôn sớm đã buông xuống. Bởi vì trước đó đám người Mã Vương Gia đã tới nơi này không ít lần để quan sát tình hình địa thế, cho nên bọn họ gần như không tốn một chút sức lực nào đã tìm thấy vị trí cổ mộ, liền đem bức tường gạch kiên cố chuẩn bị đào ra. Lão Bắc Phong đi trước dẫn đầu, dùng ngón tay gõ gõ lên những viên gạch mộ to lớn, thăm dò vị trí bên dưới. Hai người Mã Vương Gia cùng Phí Vô Kỵ đứng ở một bên chờ đợi, Mã Vương Gia thần sắc nhàn nhã cầm tẩu thuốc hút từng hơi dài, Phí Vô Kỵ thì không được thảnh thơi như vậy, hắn tập trung nhìn chằm chằm vào biến hoá trên khuôn mặt của Lão Bắc Phong, có chút lo lắng sợ rằng số lượng thuốc nổ mang theo không đủ. Lão Bắc Phong không nhanh không chậm, bình tĩnh thăm dò kỹ càng độ dày mỏng của từng viên gạch, rồi nói với hai người kia: “Hai vị lão ca, cái vách sắt này thật sự kiên cố đấy, thuốc nổ chúng ta mang theo tuy rằng không đủ, nhưng theo tôi dự đoán, chỉ cần tập trung hoả lực của thổ pháo đặt vào điểm yếu nhất của bức tường, không mở được một lối to thì ít nhất phải mở được một lối nhỏ, cũng không có gì sai biệt lắm!” Mã Vương Gia nghe thấy vậy, khẽ gật đầu, lên tiếng phân phó: “Thôn dân xung quanh đây đã sớm bỏ chạy hết sạch, chúng ta gây ra động tĩnh lớn một chút cũng không sao, chỉ là cần phải tính toán lượng thuốc nổ vừa phải, chớ nên làm hỏng đồ vật bên trong mộ là được, tiền cả đấy!” Trong ba người Mã Vương Gia chính là thủ lĩnh, sau khi được hắn ta cho phép, Lão Bắc Phong mới dám bắt tay vào động thủ, thuốc nổ pháo dẫn được lắp đặt một cách hết sức thuần thục nhanh chóng, ầm ầm, tiếng nổ rền vang một góc trời, đừng nhìn loại thuốc nổ này được làm từ đất mà coi thường, tỉ lệ phối trộn nguyên liệu bên trong của nó hết sức cao minh, uy lực gây ra khi nổ quả thực không nhỏ, trực tiếp khiến cho đất đá nổ tung rơi xuống như mưa rào, khói bụi mịt mù. Lão Bắc Phong thời trẻ có một quãng thời gian làm việc tại cục Hoả Khí Bắc Dương, đã từng chế tạo đủ các loại thuốc nổ đạn dược, những năm gần đây lại đi theo Mã Vương Gia lăn lộn giang hồ trộm qua không ít mộ cổ, dùng thổ pháo phá tường chính là sở trường của hắn, đợi sau khi khói bụi tan đi, chỉ thấy phần đỉnh của toà cổ mộ vô danh này đã bị thủng ra một lỗ hổng lớn. Lỗ hổng bị thổ pháo cho nổ ra, vị trí vừa vặn nằm ngay trên đỉnh cửa đồng chắn ngang mộ đạo, vòng qua lớp vách sắt kiên cố nhất, nhưng khoảng trống lộ ra phía sau cũng không phải là mộ đạo, bên trong có một tấm bia mộ tạc từ thạch bích được dựng thẳng đứng, ba người không khỏi cảm thấy có chút kỳ quái, làm cái nghề trộm mộ này nhiều năm như vậy, vẫn chưa từng thấy qua nhà nào lại đặt mộ bia ở trong phần mộ cả, đây là phong cách kiểu quái gì vậy? Ngay sau đó mấy người liền đánh bạo cùng nhau tiến về phía trước, hai mắt cẩn thận dò xét từng chút một, ai cũng đều không nhịn được ý nghĩ muốn xem thử xem trên tấm bia đá thạch bích kia rốt cuộc ghi chép thứ gì. Tấm bia này vừa dài vừa phẳng, được chế tạo trông hết sức kỳ lạ, chất liệu được dùng chỉ là loại đá xanh phổ thông rất dễ kiếm, phần đỉnh phía trên chạm khắc một cái đầu quỷ, ngay chính giữa tấm bia lại khắc một dòng chữ lớn xiên xiên vẹo vẹo, các nét chữ gây cho người ta cảm giác quái dị cẩu thả, lộ ra mấy phần tà khí. Trong số ba người bọn họ, chỉ có Phí Vô Kỵ là người thô kệch một chữ bẻ đôi không biết, Lão Bắc Phong tuy rằng nhận biết được một số mặt chữ thường dùng hằng ngày, nhưng hơn phân nửa là nhận sai, cho nên nhiều nhất cũng chỉ biết được chừng hơn trăm mặt chữ đơn giản nhất, hơi phức tạp hơn tí là hắn chịu chết không đọc nổi, đối với lối chữ khắc triện trên bia đá này càng là một chữ cũng không biết. Hai người hắn tiến lên quan sát tấm bia đá này, chẳng khác gì như xem thiên thư, liền nửa chữ cũng không đọc ra được, đành phải quay sang thỉnh giáo Mã Vương Gia rốt cuộc chữ viết bên trên bia đá này có nghĩa là gì. Mã Vương Gia là người có học vấn uyên bác, lại thông hiểu cổ kim, tự nhiên là không làm khó được hắn, dòng chữ khắc trên bia đá mặc dù có điểm kỳ lạ, tuy nhiên vẫn chưa phải là loại chữ triện cổ đại phức tạp khó đọc đã sớm thất truyền từ lâu, hơi động não suy nghĩ một chút, trong lòng lập tức thấu hiểu tất cả.   Mời các bạn đón đọc Mục Dã Quỷ Sự của tác giả Thiên Hạ Bá Xướng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Khởi Đầu Từ Cái Chết - Diana Rowland
Angel Crawford là một nhân vật cá biệt và nổi loạn. Cô nghiện bia rượu, các loại thuốc hỗ trợ và thay công việc như thay áo vì tính khí bất thường cùng thái độ làm việc thiếu nghiêm túc. Mẹ Angel mất sớm và cô sống cùng ông bố nghiện ngập bất cần đời. Ngoài ra, Angel còn có cậu bạn trai sống trong ngôi nhà lưu động và sửa ô tô để kiếm sống, cũng là dân nghiện thuốc và cần sa giống như cô. Sau một đêm phê rượu và thuốc ở quán bar quen thuộc, Angel tỉnh dậy trong bệnh viện với những ký ức máu me ghê rợn về một tai nạn giao thông thảm khốc đã xảy ra với mình vào đêm hôm trước. Tuy vậy, ngoài việc không còn mảnh quần áo nào trên người thì cô lại không hề có một vết xây xước. Báo cáo của bệnh viện cho thấy cô đã bị sốc vì dùng thuốc quá liều. Angel rời khỏi bệnh viện cùng một lá thư sắp xếp công ăn việc làm mà một kẻ nặc danh đã để lại cho cô. Angel được thu xếp vào làm việc ở Nhà xác của Viện Kiểm thi của thị trấn. Nhiệm vụ của cô là đánh xe đi thu gom các xác chết bước đầu được xác định là đã qua đời một cách không bình thường, đưa về nhà xác và sau đó phụ mổ cho bác sĩ pháp y phẫu thuật tử thi để tìm ra nguyên nhân cái chết. Trong quá trình làm việc ở nhà xác, Angel dần dần kinh hoàng nhận ra mình là một thây ma khi cô khám phá ra mình thèm muốn và sẵn sàng làm mọi chuyện để có thể đánh chén những bộ não trong những xác chết mà cô phải xử lý. Khi cơn bàng hoàng trôi qua, Angel bắt đầu lên kế hoạch dự trữ thứ đồ ăn mang tính sống còn đối với mình, đồng thời cô cũng nhận ra rằng kẻ nặc danh đã để cô lại trong bệnh viện lúc đầu chính là kẻ phải chịu trách nhiệm đối với việc biến đổi cô thành thây ma. Thị trấn Tucker Point bắt đầu xuất hiện những xác chết lạ thường, những xác chết mất đầu hoặc bị tổn thương nặng phần đầu. Toàn bộ Viện Kiểm thi cũng như Sở cảnh sát bị đặt vào tình trạng báo động trước khả năng đối đầu với một kẻ giết người hàng loạt. Riêng Angel có những lập luận của riêng mình và cô khẳng định đã xuất hiện một kẻ săn thây ma trong thị trấn. Càng nhiều các vụ án xảy ra, Angel càng dần tiếp cận với sự thật. Cuối cùng, sự thật kinh hoàng và không ngờ nhất đã được phơi bày. *** Mày phải chết rồi mới đúng”, mụ y tá vừa nói vừa chỉnh gì đó trên dây truyền dịch của tôi. Mụ ta không béo mà là vạm vỡ, với đôi mắt tô vẽ lem nhem cùng mái tóc nhuộm màu cam ánh đỏ kinh tởm. Khi tôi không đáp lại ngay lập tức, mụ ta liền liếc về phía tôi như để đảm bảo là tôi đã thực sự tỉnh và nhận thức được rồi. “Mày thừa biết như thế nhỉ?”, mụ ta gặng hỏi. “Mày còn sống là phúc tổ rồi.” “Ờ... ô kê”, tôi lầm bầm. Tôi sờ tay lên phần bụng bên dưới lớp chăn rồi cau mày hỏi, “Tôi bị hôn mê hay gì à?”. Đôi môi mỏng dính của mụ ta mím lại. “Bất tỉnh ấy hả? Không. Người ta đưa mày đến cách đây vài giờ.” Mụ ta dừng lại, chống hai tay lên hông. “Mày bị sốc thuốc.” Tôi xoa một tay lên mặt, lắc đầu. “Đâu, tôi bị tai nạn ô tô mà”, tôi khăng khăng. “Tôi nhớ là mình bị thương.” Phải không nhỉ? “Bị chảy máu”, tôi thêm vào, thấy bớt chắc chắn hơn khi sờ soạng lên cái bụng vẫn còn nguyên vẹn lần nữa. Mụ y tá khịt mũi thô thiển. “Người mày chả có vết xước nào cả. Chỉ tưởng tượng là giỏi.” Mắt mụ ta nheo lại ra vẻ coi thường và chê trách. Tôi đếch quan tâm. Tôi đã quen bị người khác nhìn kiểu đó rồi. Thủy tinh, máu và kim loại. Một cơ thể nát vụn bên cạnh tôi. Răng và cơn đói. Từng miếng thịt bị xé ra... Gáy tôi đổ mồ hôi lạnh. Chuyện đó sao có thể là ảo giác được? Ảo giác phải dị hợm, mơ hồ và lộn xộn chứ. Tôi biết thế vì đã vài lần bị ảo giác rồi. Mụ y tá hắng giọng ra vẻ khó chịu rồi giật lấy tờ biểu đồ ở chân giường. “Cô em da trắng vô danh. Hừmmm. Cưng có nhớ họ tên không hả?” Mụ ta đảo mắt quay lại nhìn tôi và ném cho tôi nụ cười mật ngọt ác ý, chẳng có lấy một chút quan tâm thực sự nào trong đó. “Có, tôi biết rõ cái tên chết tiệt của mình chứ”, tôi gầm gừ. “Angel Crawford.” Tôi muốn thêm vào rằng, Và bà có thể viết lại cái tên ấy bằng cây bút chì bị cắm vào đít bà ấy, nhưng rồi vẫn kìm lại được. Tôi biết là y tá có quyền năng làm cuộc đời người ta te tua hơn vốn dĩ, và rõ ràng con mụ khốn kiếp này nghĩ rằng chỉ còn cách một bước nữa thôi, tôi sẽ thành vai chính trong một show Maury Povich[1] đặc biệt. Con mụ già chết tiệt. Tôi á, còn phải cách ít nhất hai bước nữa nhá. Mụ y tá khịt mũi như kiểu chẳng thực lòng tin tôi đủ nhanh nhạy hay tỉnh táo để biết mình là ai. “Xem trong người mày có những gì nào - THC, hydrocodone, alprazolam, codeine...” Mụ ta lép bép thêm tên vài loại thuốc dài ngoằng và rùng rợn nữa trong khi tôi quắc mắt ghê tởm nhìn mụ. Rồi mụ ném cho tôi ánh mắt chất chứa vẻ thỏa mãn ngạo mạn, treo lại tấm biểu đồ và vênh váo lạch bạch rời khỏi phòng trước khi tôi kịp đáp trả. Cũng tốt, vì điều tôi muốn nói với mụ ta sẽ phù hợp với show Jerry Springer[2] hơn là Maury Povich. Cơn giận của tôi teo quắt lại ngay khi mụ y tá bỏ đi, choáng ngợp bởi cảm giác bối rối và nỗi sợ hãi đến buồn nôn. Tôi nhấc chăn lên để tận mắt chứng kiến, một lần nữa, là mình vẫn còn nguyên vẹn. Tôi vật vã tìm cách lý giải mọi chuyện. Tôi nhớ là có máu. Rất nhiều máu. Có một vết rách gì đó dài ngang bụng, và tôi vẫn còn lưu giữ cái ký ức buồn nôn khi thấy một đầu xương trắng lởm chởm thò ra từ đùi, máu phun khắp mọi nơi. Nhưng giờ chẳng có gì bất thường cả. Không xây xát, không bầm tím. Da thịt trên người bình thường đến hoàn hảo. Một cơn hôn mê sẽ giải thích được chuyện đó, phải không nhỉ? Đại loại là vài tháng gì đó, đủ thời gian để tôi lành lặn trở lại. Nhưng mà tôi cũng chẳng có vết sẹo nào. Tôi thở dài rồi lại thả đầu xuống gối. Tôi không bị hôn mê. Mụ y tá không nói dối, cũng chẳng làm gì khiến đầu óc tôi loạn cả lên. Không, tôi chỉ đơn giản là một kẻ bỏ đi. Sốc thuốc. Tuyệt! Ôi chao, đây là một mức độ thấp kém mới đối với tôi. Và cũng chẳng khá khẩm gì hơn, khi việc tôi tụt xuống đến mức độ này là chuyện hoàn toàn có thể hiểu được. Điều có thể gây sốc duy nhất là việc này đã chẳng xảy ra sớm hơn. Tôi không nhớ là mình đã nốc thuốc nhiều đến mức như mụ y tá lắm điều đã nói, nhưng hiện giờ chuyện tôi đang ở trong phòng cấp cứu đã đủ minh chứng cho điều đó rồi. Mụ y tá cũng chẳng thay đổi kết quả xét nghiệm của tôi làm gì. Tất cả là do chính tôi gây ra, hệt như từ trước đến giờ. Tôi bị cảm giác suy kiệt rã rời nuốt chửng khi nhìn chằm chằm lên trần nhà ốp gạch lốm đốm. Bên kia cửa, tôi có thể nghe thấy âm thanh huyên náo của một cái cáng được đẩy ngang qua và những giọng nói cất lên với vẻ quan tâm ngắn ngủi. Tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Một nhân viên xã hội hay nhà tâm lý học nào đó sẽ đến và bảo rằng tôi cần phải đi cải tạo, tư vấn hay mấy trò mả mẹ như thế, đó là một gợi ý ngu xuẩn vì tôi chẳng có tiền hay bảo hiểm quái gì. Hoặc tệ hơn, tôi sẽ bị bắt giam bảy mươi hai tiếng để “đánh giá thần kinh”, vì rõ ràng tôi là mối nguy hiểm đối với chính bản thân mình, và rất có thể tôi sẽ tàn đời trong một buồng bệnh từ thiện tởm lợm nào đó. Đừng có mơ tôi sẽ chịu đựng điều đó. Lúc này tôi cảm thấy tuyệt đối bình thường, và còn rất sẵn sàng cuốn xéo khỏi nơi này. Tôi đá chăn ra và trượt khỏi giường. Nền gạch trơn lạnh dưới đôi chân trần. Tôi cần giày và quần áo. Tôi đang mặc chiếc váy bệnh viện ngu ngốc, còn quần áo của tôi thì dính đầy máu đến nỗi nếu mặc vào, tôi sẽ thu hút mọi sự chú ý khi cố ra khỏi đây... Tôi lắc đầu. Không, vụ máu me chỉ là một ảo giác. Chẳng có dấu hiệu gì cho thấy quần áo của tôi có ở trong phòng. Không có buồng thay, chỉ có một cái tủ và đống thiết bị y tế rùng rợn. Tôi đang dợm bước về phía chiếc tủ thì kịp nhớ ra bộ truyền dịch mà chỉ thêm một bước nữa, tôi sẽ vô tình giật nó khỏi cánh tay, rồi mất vài giây cố quyết định xem liệu mình có thể mang cái túi ấy theo cùng thay vì rút kim ra hay không. Tôi sợ kim tiêm kinh lên được, nhưng cứ để nguyên đấy hẳn sẽ tồi tệ hơn là tự mình rút ra. Đệch mợ, đó là lý do duy nhất khiến tôi chẳng bao giờ đụng đến những thứ thuốc mạnh hơn như heroin hay meth. Nhát chết đến mức chẳng dám cắm kim tiêm vào người để được tận hưởng cơn phê kiểu đó. Thuốc viên thì dễ dàng. Hơn nữa tôi có thể tự trấn an rằng tôi chẳng phải là con nghiện thực thụ. Thế mà giờ tôi suýt sữa đã tự giết chết mình, chẳng khác gì bị sốc heroin. Gạt ý nghĩ khó chịu đó ra khỏi đầu, tôi lột lớp băng dính trên cánh tay rồi nghiến răng rút kim truyền ra. Tôi chuẩn bị tinh thần trước cơn buồn nôn luôn tấn công bất cứ khi nào nhìn thấy máu, đặc biệt là máu của mình, nhưng thật nhẹ nhõm làm sao khi tôi chẳng đau đớn gì và cũng không cảm thấy nôn nao. Một giọt máu nhỏ xíu tuôn ra từ vết chích, nên tôi dùng viền váy lau đi trước khi kịp nhớ ra là đáng lẽ mình phải thấy buồn nôn mới đúng. Có lẽ đó là lý do vì sao tôi có ảo giác về chuyện mình bị bê bết máu? Chẳng có mấy thứ khiến tôi phát hoảng đâu, ngoài chuyện đó. Cửa phòng lại mở ra làm tôi giật thót, đánh rơi đống dây truyền với vẻ mặt đỏ bừng tội lỗi khi một y tá khác bước vào. Người này trẻ hơn mụ vừa nãy nhiều, có lẽ mới ngoài đôi mươi, với mái tóc vàng cột đuôi gà bóng mượt và kiểu gương mặt tươi tắn không trang điểm mà tôi ước gì mình cũng có. Tôi mà để mặt mộc thì trông như con chết trôi, và dù tóc tôi cũng màu vàng, nhưng thực ra là do tôi tự nhuộm lấy, cũng có nghĩa nó là một đống bùi nhùi xoăn tít, xơ xác. Mắt cô y tá liếc sang bộ truyền dịch bị bỏ rơi, song có vẻ như cô ta chẳng bực bội gì khi thấy tôi đã tháo nó ra. “Tôi muốn đảm bảo là cô đã tỉnh táo và tươm tất”, cô ta nở nụ cười thân thiện hơn tôi trông đợi. “Có hai cảnh sát đang muốn nói chuyện với cô.” Một cơn rùng mình khiếp sợ bắn xuyên qua tôi. “V... vì sao?”, tôi hỏi, mặc dù khá chắc chắn là mình biết lý do. Họ ở đây để tống tôi vào khám. Tay sĩ quan quản thúc tôi phát hiện ra tôi lại dùng thuốc và khoảng thời gian tạm tha của tôi đã chấm dứt. Hoặc là họ muốn tôi chỉ nơi tôi đã mua thuốc. Hẳn tôi đã trắng bệch cả ra vì cô y tá đóng cửa lại và mỉm cười trấn an tôi. “Họ chỉ muốn nói chuyện với cô thôi. Cô sẽ không sao đâu. Ngồi xuống đây”, cô ta nói, nhẹ nhàng nhưng kiên quyết đẩy tôi xuống giường. Cô ta không bắt tôi phải nằm mà chỉ kéo chăn vòng quanh giường sao cho che hết phần người dưới và đôi chân trần của tôi. “Thế tốt hơn. Tôi biết là mình sẽ không đời nào nói chuyện được với bất kỳ loại quan chức nào trong tình trạng bán khỏa thân”, cô ta nháy mắt với tôi. Vẻ dễ chịu không ngờ của cô ta làm tôi hơi chới với, đặc biệt là sau vẻ thù địch công khai của mụ y tá trước đó. “Quần áo của tôi đâu hết rồi?” ... Mời các bạn đón đọc Khởi Đầu Từ Cái Chết của tác giả Diana Rowland.
Truyền Kỳ Mạn Lục - Nguyễn Dữ
Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm văn xuôi duy nhất của Việt Nam từ xa xưa được đánh giá là “thiên cổ kỳ bút” (ngòi bút kỳ lạ của muôn đời), một cái mốc lớn của lịch sử văn học, sau này được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Tác phẩm gồm 20 truyện thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái nhằm gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, xã hội nhiễu nhương. Truyền kỳ mạn lục đã được dịch và giới thiệu ở một số nước như Pháp, Nga… *** Nhà văn Việt Nam, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện, Hải Dương. Thuộc dòng dõi khoa hoạn, từng ôm ấp lý tưởng hành đạo, đã đi thi và có thể đã ra làm quan. Sau vì bất mãn với thời cuộc, lui về ẩn cư ở núi rừng Thanh Hóa, từ đó "trải mấy mươi sương, chân không bước đến thị thành". Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Tryền kỳ mạn lục (in 1768, A.176/1-2). Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ nôm. Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, viết bằng tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả, hoặc của một người cùng quan điểm với tác giả. Hầu hết các truyện xảy ra ở đời Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách là Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những truyện lạ), hình như tác giả muốn thể hiện thái độ khiêm tốn của một người chỉ ghi chép truyện cũ. Nhưng căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục... mà là một sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đó là một tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán. Và nguyên nhân chính của sự xuất hiện một tác phẩm có ý nghĩa thể loại này là nhu cầu phản ánh của văn học. Trong thế kỷ XVI, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ XV; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực. Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước. Nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại văn học. Và Nguyễn Dữ đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ XVI. Trên thực tế thì đằng sau thái độ có phần dè dặt khiêm tốn, Nguyễn Dữ rất tự hào về tác phẩm của mình, qua đó ông bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão; ông đã phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề lớn của xã hội, của con người trong khi chế độ phong kiến đang suy thoái. Trong Truyền kỳ mạn lục, có truyện vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, đả kích hôn quân bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục, có truyện nói đến quyền sống của con người như tình yêu trai gái, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, có truyện thể hiện đời sống và lý tưởng của sĩ phu ẩn dật... Nguyễn Dữ đã phản ánh hiện thực mục nát của chế độ phong kiến một cách có ý thức. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh thần và mầu sắc của cuộc sống, phạm vi phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều vấn đề của xã hội, con người được đề cập tới. Bất mãn với thời cuộc và bất lực trước hiện trạng, Nguyễn Dữ ẩn dật và đã thể hiện quan niệm sống của kẻ sĩ lánh đục về trong qua Câu chuyện đối đáp của người tiều phu trong núi Nưa. ở ẩn mà nhà văn vẫn quan tâm đến thế sự, vẫn không quên đời, vẫn nuôi hy vọng ở sự phục hồi của chế độ phong kiến. Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia. Ông phơi bày những cái xấu xa của xã hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến, phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai, lên án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần vương", phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu dương những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung. Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến. Nguyễn Dữ đã có phần bảo lưu những tư tưởng phi Nho giáo khi phóng tác, truyện dân gian, trong đó có tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo và chủ yếu là tư tưởng nhân dân. Nguyễn Dữ đã viết truyền kỳ để ít nhiều có thể thoát ra khỏi khuôn khổ của tư tưởng chính thống đặng thể hiện một cách sinh động hiện thực cuộc sống với nhiều yếu tố hoang đường, kỳ lạ. Ông mượn thuyết pháp của Phật, Đạo, v.v. để lý giải một cách rộng rãi những vấn đề đặt ra trong cuộc sống với những quan niệm nhân quả, báo ứng, nghiệp chướng, luân hồi; ông cũng đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng nhân dân khi miêu tả cảnh cùng cực, đói khổ, khi thể hiện đạo đức, nguyện vọng của nhân dân, khi làm nổi bật sự đối kháng giai cấp trong xã hội. Cũng chính vì ít nhiều không bị gò bó trong khuôn khổ khắt khe của hệ ý thức phong kiến và muốn dành cho tư tưởng và tình cảm của mình một phạm vi rộng rãi, ông hay viết về tình yêu nam nữ. Có những truyện ca ngợi tình yêu lành mạnh, chung thủy sắt son, thể hiện nhu cầu tình cảm của các tầng lớp bình dân. Có những truyện yêu đương bất chính, tuy vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo nhưng lại phản ánh lối sống đồi bại của nho sĩ trụy lạc, lái buôn hãnh tiến. Nguyễn Dữ cũng rất táo bạo và phóng túng khi viết về những mối tình si mê, đắm đuối, sắc dục, thể hiện sự nhượng bộ của tư tưởng nhà nho trước lối sống thị dân ngày càng phổ biến ở một số đô thị đương thời. Tuy vậy, quan điểm chủ đạo của Nguyễn Dữ vẫn là bảo vệ lễ giáo, nên ý nghĩa tiến bộ toát ra từ hình tượng nhân vật thường mâu thuẫn với lý lẽ bảo thủ trong lời bình. Mâu thuẫn này phản ánh mâu thuẫn trong tư tưởng, tình cảm tác giả, phản ánh sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến trong tầng lớp nho sĩ trước nhu cầu và lối sống mới của xã hội. Truyền kỳ mạn lục có giá trị hiện thực vì nó phơi bày những tệ lậu của chế độ phong kiến và có giá trị nhân đạo vì nó đề cao phẩm giá con người, tỏ niềm thông cảm với nỗi khổ đau và niềm mơ ước của nhân dân. Truyền kỳ mạn lục còn là tập truyện có nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân vật. Nó vượt xa những truyện ký lịch sử vốn ít chú trọng đến tính cách và cuộc sống riêng của nhân vật, và cũng vượt xa truyện cổ dân gian thường ít đi sâu vào nội tâm nhân vật. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của thể truyền kỳ, là "thiên cổ kỳ bút", là "áng văn hay của bậc đại gia", tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian. BÙI DUY TÂN Nguyễn Dữ là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ thi Hội nhiều lần, đạt trúng trường và từng giữ chức vụ Tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới được một năm thì ông xin từ quan về nuôi dưỡng mẹ già. Trải mấy năm dư không đặt chân đến những nơi đô hội, ông miệt mài "ghi chép" để gửi gắm ý tưởng của mình và đã hoàn thành tác phẩm "thiên cổ kỳ bút" Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào chưa rõ, nhưng căn cứ vào tác phẩm cùng bài Tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định thứ nhất (1547) và những ghi chép của Lê Quý Đôn trong mục Tài phẩm sách Kiến văn tiểu lục có thể biết ông là người cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, có thể lớn tuổi hơn Trạng Trình chút ít. Giữa Nguyễn Dữ và Nguyễn Bỉnh Khiêm tin chắc có những ảnh hưởng qua lại về tư tưởng, học thuật... nhưng e rằng Nguyễn Dữ không thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm như Vũ Phương Đề đã ghi. Đối với nhà Mạc, thái độ Nguyễn Dữ dứt khoát hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không làm quan với nhà Mạc mà chọn con đường ở ẩn và ông đã sống cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại. Truyền kỳ mạn lục được hoàn thành ngay từ những năm đầu của thời kỳ này, ước đoán vào khoảng giữa hai thập kỷ 20-30 của thế kỷ XVI. Theo những tư liệu được biết cho đến nay, Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ. Sách gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển, được viết theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát từ truyền thuyết về các vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn (đền thờ Vũ Thị Thiết ở Hà Nam, đền thờ Nhị Khanh ở Hưng Yên và đền thờ Văn Dĩ Thành ở làng Gối, Hà Nội). Truyện được viết bằng văn xuôi Hán có xen những bài thơ, ca, từ, biền văn, cuối mỗi truyện (trừ truyện 19 Kim hoa thi thoại ký) đều có lời bình thể hiện rõ chính kiến của tác giả. Hầu hết các truyện đều lấy bối cảnh ở các thời Lý-Trần, Hồ, thuộc Minh, Lê sơ và trên địa bàn từ Nghệ An trở ra Bắc. Thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ..., tác phẩm muốn gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự, vua chúa hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót đầy triều đình; những kẻ quan cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân lành, thậm chí đến chiếm đoạt vợ người, bức hại chồng người. Trong một xã hội rối ren như thế, nhiều tệ nạn thế tất sẽ nảy sinh. Cờ bạc, trộm cắp, tật dịch, ma quỷ hoành hành, đến Hộ pháp, Long thần cũng trở thành yêu quái, sư sãi, học trò, thương nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc dục. Kết quả là người dân lương thiện, đặc biệt là phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ. Nguyễn Dữ dành nhiều ưu ái cho những nhân vật này. Dưới ngòi bút của ông họ đều là những thiếu phụ xinh đẹp, chuyên nhất, tảo tần, giàu lòng vị tha nhưng luôn luôn phải chịu số phận bi thảm. Đến cả loại nhân vật "phản diện" như nàng Hàn Than (Đào thị nghiệp oan ký), nàng Nhị Khanh (Mộc miên phụ truyện), các hồn hoa (Tây viên kỳ ngộ ký) và "yêu quái ở Xương Giang" cũng đều vì số phận đưa đẩy, đều vì "nghiệp oan" mà đến nỗi trở thành ma quỷ. Họ đáng bị trách phạt nhưng cũng đáng thương. Dường như Nguyễn Dữ không tìm được lối thoát trên con đường hành đạo, ông quay về cuộc sống ẩn dật, đôi lúc thả hồn mơ màng cõi tiên, song cơ bản ông vẫn gắn bó với cõi đời. Ông trân trọng và ca ngợi những nhân cách thanh cao, cứng cỏi, những anh hùng cứu nước, giúp dân không kể họ ở địa vị cao hay thấp. Truyền kỳ mạn lục ngay từ khi mới hoàn thành đã được đón nhận. Hà Thiện Hán người cùng thời viết lời Tựa, Nguyễn Thế Nghi, theo Vũ Phương Đề cũng là người cùng thời, dịch ra văn nôm. Về sau nhiều học giả tên tuổi Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú đều ghi chép về Nguyễn Dữ và định giá tác phẩm của ông. Nhìn chung các học giả thời Trung đại khẳng định giá trị nhân đạo và ý nghĩa giáo dục của tác phẩm. Các nhà nghiên cứu hiện đại phát hiện thêm giá trị hiện thực đồng thời khai thác tinh thần "táo bạo, phóng túng" của Nguyễn Dữ khi ông miêu tả những cuộc tình si mê đắm đuối đậm màu sắc dục. Hành vi ấy tuy trái lễ, trái đạo trung dung nhưng lại đem đến chút hạnh phúc trần thế có thực cho những số phận oan nghiệt. Về mặt thể loại mà xét thì Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm đỉnh cao của truyện truyền kỳ Việt Nam. Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng của Cù Hựu nhưng Truyền kỳ mạn lục vẫn là "áng văn hay của bậc đại gia", là sáng tạo riêng của Nguyễn Dữ cũng như của thể loại truyện truyền kỳ Việt Nam. TRẦN THỊ BĂNG THANH Lời tựa(1) Tập lục này là trước tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con trưởng vị tiến sĩ triều trước Nguyễn Tường Phiêu (2). Lúc nhỏ rất chăm lối học cử nghiệp, đọc rộng nhớ nhiều, lập chí ở việc lấy văn chương truyền nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng trường, từng được bổ làm Tri huyện Thanh Tuyền (3). Được một năm ông từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu. Mấy năm dư không đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập lục này, để ngụ ý. Xem văn từ thì không vượt ra ngoài phên giậu của Tông Cát (4), nhưng có ý khuyên răn, có ý nêu quy củ khuôn phép, đối với việc giáo hóa ở đời, há có phải bổ khuyết nhỏ đâu! Vĩnh Định năm đầu (1547), tháng Bảy, ngày tốt. Đại An Hà Thiện Hán kính ghi Kẻ hậu học là Tùng Châu Nguyễn Lập Phu biên. (1) Lời Tựa này được chép trong Cựu biên Truyền kỳ mạn lục. Bản này hiện chưa có trong các thư viện ở Hà Nội. Ở đây chúng tôi theo Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san, Đài Loan thư cục in năm 1987. Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú in năm Cảnh Hưng 35 (1774) lấy lại lời tựa này nhưng không ghi tên Hà Thiện Hán. Cuối bài ghi thêm "Nay xã trưởng xã Liễu Chàng là Nguyễn Đình Lân soạn in vào năm Giáp Ngọ (1774) để làm bản gốc cho nghìn vạn đời và để bán cho thiên hạ xem đọc". Chú thích (2) Nguyễn Tường Phiêu: người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc tỉnh Hải Dương, đồ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm Hồng Đức 27 (1496) đời Lê Thánh Tông; làm quan đến Thừa chánh sứ. Sau khi mất được tặng chức Thượng thư, phong phúc thần. (3) Thanh Tuyền: tức huyện Bình Xuyên, thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. (4) Tông Cát: Cù Tông Cát, tên là Cù Hựu, tác giả Tiễn đăng tân thoại. Mời các bạn đón đọc Truyền Kỳ Mạn Lục của tác giả Nguyễn Dữ.
Ác Linh Quốc Gia 2 - Trong Nháy Mắt Cười Cười
Ánh dương qua đi, bõng tối bao trùm, con người chìm trong giấc ngủ mộng mị. Chân tướng sự thật bị che giấu một cách giả dối ở một góc khuất lạnh lẽo. Có người thấy, nhưng lựa chọn bỏ qua. Con mèo với con ngươi đỏ thẫm, trong đêm tối đứng gọi đàn. Trong bóng tối... có bóng người quái dị đang không ngừng tiến đến! Chó cùng rứt dậu, ác quỷ tụ hội, tuyệt vọng và căng thẳng đến cực điểm! Vô số những sự kiện khiến người ta phải sởn gai ốc liên tục xuất hiện. Là trầm luân trong tuyệt vọng? Hay là trong tuyệt vọng tìm được lối thoát? Vẫn phải chờ đợi lời tuyên án tàn nhẫn đến từ số phận? Đây là thế giới tại quốc gia ác quỷ, một thế giới tràn đầy khủng hoảng và chém giết. *** Vì trước tiên muốn tới khu vực thứ hai gặp mặt Triệu Tĩnh Thù, cho nên Hạ Thiên Kỳ cũng không trở lại thành phố Phước Bình, mà ngay lập tức dẫn theo Sở Mộng Kỳ đi tìm Lãnh Nguyệt, sau đó ở lại chờ hai ngày.. Nói là gặp mặt, nhưng thực sự phải dùng từ chia tay để hình dung thì đúng hơn. Mãi cho đến ngày thứ ba khi bọn họ quay trở về thành phố Phước Bình, Triệu Tĩnh Thù mới hoàn thành nhiệm vụ quay về biệt thự. Không có Lãnh Nguyệt, cũng không có đám người Vương Tang Du,nhưng mà hắn và Triệu Tĩnh Thù còn có Sở Mộng Kỳ, cả thảy ba người ăn đơn giản một chút trước khi đi dự tiệc tối. Trên bàn cơm, Triệu Tĩnh Thù không nói quá nhiều, bầu không khí của ba người ít nhiều có phần gượng gạo, cuối cùng tất cả bầu không khí gượng gạo đó đều chuyển thành những lời chúc phúc. Hy vọng là ai cũng có thể bình yên, trong tương lai không lâu sẽ lại lần nữa đoàn tụ trên một con đường. Sở Mộng Kỳ trước đó cũng không biết, Triệu Tĩnh Thù từ chối yêu cầu mời cô gia nhập vào một đội của Hạ Thiên Kỳ, cho nên khi nghe nói đến Triệu Tĩnh Thù sẽ không cùng đi chung với bọn họ, thì lại vội vàng bắt đầu làm người thuyết phục Triệu Tĩnh Thù, nhưng mà cô vẫn như cũ đó là không thể nào thay đổi được suy nghĩ của Triệu Tĩnh Thù. Triệu Tĩnh Thù vẫn là quyết định ở lại, cho rằng khu vực thứ hai hiện tại cũng không hề thích hợp với cô. Dựa vào Đệ Tam Minh Phủ thì có thể làm thực lực bản thân tăng lên một cách vững vàng. Nhìn thấy Triệu Tĩnh Thù đã thật sự quyết định, Sở Mộng Kỳ mặc dù rất không bằng lòng, nhưng sau khi thấy Hạ Thiên Kỳ cũng không có nói cái gì, cô thở dài rồi cũng không lại tiếp tục kiên trì thêm nữa. Dù sao đi nữa thì với sự nhạy bén của Sở Mộng Kỳ, sẽ không thể nào không cảm nhận được giữa hai người Hạ Thiên Kỳ và Triệu Tĩnh Thù có xuất hiện thay đổi. Bởi vì khi cơm nước xong đều cũng đã khuya rồi, nghĩ đến bên trong đạo quán cũng chỉ có một cái giường đã bị hỏng, đến ngay cả một chỗ để ngũ cũng không có, cho nên Hạ Thiên Kỳ cũng không có đi vội vã, dự định chờ đến buổi sáng ngày mai rồi sẽ lên đường đi đến. Sở Mộng Kỳ và Triệu Tĩnh Thù sau khi đã tắm rửa xong hết, thì lại lần lượt về đến trong phòng ngủ, hai người đêm nay ngủ chung một chỗ, dễ nhận thấy là có rất nhiều chuyện muốn tán gẫu. Buổi tối Hạ Thiên Kỳ uống rượu rất ít, có lẽ là bởi vì sẽ rời đi, sự ưu tư trong lòng nổi lên rất nhiều, cho nên không hề buồn ngủ. Sau khi ở cạnh đầu giường liên tục hút hết hai điều thuốc lá, hắn lại một lần nữa mặc quần áo, hòa mình vào trong bóng đêm rời khỏi biệt thự. Trong thoáng chốc, thân thể hắn đã xuất hiện trước cổng khu vui chơi. Hắn đi đến đây cũng không phải là vì không ngủ được cho nên muốn đi tìm một chỗ để chơi đùa, mà đơn giản là muốn gặp mặt ông chủ khu vui chơi một lần. Dù sao người được gọi là ông chủ Tuyệt Đại lúc trước đã từng cứu họ một mạng, chính là điều quan trọng hơn, hắn muốn biết rõ ràng thân phận của người kia. Vì sao thực lực của ông ta mạnh mẽ như vậy, nhưng mà trên tay lại không có đeo đồng hồ vinh dự. Phải biết rằng bất kề là có rời khỏi Minh Phủ hay không, thì trên cổ tay đều có mang đồng hồ vinh dự, bởi vì toàn bộ phần thưởng đều là thông qua đồng hồ vinh dự để tiến hành truyền lại. Tựa như Lãnh Nguyệt và Sở Mộng Kỳ cũng thế, bọn họ mặc dù là đã rời khỏi Minh Phủ, gia nhập vào đoàn thể của hắn, nhưng mà muốn phải đạt được phần thưởng, thì cũng phải yêu cầu hắn cầm điểm vinh dự hoặc là cho điểm, với hình thức là gửi đi đến trên đồng hồ vinh dự của hai người bọn họ. Cho nên trừ phi là con người tên gọi là Tuyệt Đại kia, từ trước đến nay vẫn chưa từng gia nhập vào Minh Phủ, nếu không thì gần như là không có khả năng cầm đồng hồ vinh dự ném bỏ đi được. Dù sao đi nữa thì hắn cũng không ngủ được, chẳng bằng cứ đi thử thời vận, có lẽ có thể gặp được người nọ một lần, sẽ được biết một số chuyện mà hắn không biết. Bốn phía của khu giải trí này cũng không có sự bao phủ của Quỷ Vực, Hạ Thiên Kỳ cũng không có cảm giác được bất cứ dao động của sức mạnh nào. Sau khi sức mạnh tăng lên đến trình độ giám đốc này, khả năng điều khiển về không gian và cảm nhận khí tức của hắn cũng trở nên nhạy bén. Bất kể là người có được thuật pháp, hay là ngưởi có thể chất quỷ vật, chỉ cần là bọn chúng sử dụng thêm sức mạnh của bản thân, đang ở cách hắn trong một phạm vi nhất định là hắn sẽ cảm nhận được. Vậy nên nơi đây không hề có quỷ vật. Quỷ vật trời sanh đã có khả năng ẩn giấu hơi thở, cho nên nhiều lúc không có cách nào thông qua hơi thở để khoanh tròn vị trí của quỷ vật. Biện pháp hiệu quả nhất chính là cảm nhận Quỷ Vực, dù sao những quỷ vật hắn sắp đối mặt, đa phần thực lực nằm ở cấp độ Ác Quỷ, Mặc dù hắn khó có thể cảm nhận khí tức Quỷ Vật, nhưng cảm giác sự tồn lại của Quỷ Vực lại không thành vấn đề. Đi vào trong khu giải trí, đi đến một loạt gian phòng ở chỗ tầng trệt, Hạ Thiên Kỳ mới vừa rẽ đến noi, lại nhìn thấy người phục vụ mà hắn đã từng có trò chuyện qua một lần, đang bưng một số vỏ chai rượu từ bên trong hành lang đi ra. "Hạ tiên sinh, đã lâu không thấy anh quay lại đây chơi." Nhìn thấy Hạ Thiên Kỳ, người phục vụ kia liếc mắt một cái là đã nhận ra hắn, đến tận bây giờ vẫn còn nhớ được rất rõ ràng, Hạ Thiên Kỳ đã từng cho anh ta không ít tiền boa. "Ừ, một quãng thời gian trước đây luôn luôn có việc phải bận rộn nên không đến được, lúc này có rảnh rỗi được một chút, thì tranh thủ thời gian quay lại đây đi dạo." Khách sáo đến đây, Hạ Thiên Kỳ đề cập vào trọng tâm: "Đúng rồi, ông chủ của các người có ở đây không?" "Ông chủ không có ở đây, cũng đã lâu rồi không thấy ông ấy tới nữa!" Người phục vụ lắc đầu, nhìn Hạ Thiên Kỳ hơi có phần nghi ngờ hỏi: "Anh tìm ông chủ chúng tôi có việc hay sao?" "Ừ, quả thật là có chuyện muốn tìm ông ấy, anh có cách nào để liên lạc với ông ấy hay không? Điện thoại hay gì đấy." "Không có. Làm sao mà những người làm công như chúng tôi đây lại có cách liên lạc với ông chủ." Nghe người phục vụ nói không có, trong lòng Hạ Thiên Kỳ ít nhiều cũng có chút thất vọng, chỉ có điều hắn cũng không hề biểu hiện ra ngoài, chỉ cười cười rồi đi đến gian nhà phía bên trong. Trong lòng Hạ Thiên Kỳ thất vọng vô cùng, nhưng hắn cảm thấy không phải là hết cơ hội gặp được ông chủ. Nếu như không có duyên thì hắn cũng không cưỡng cầu. Có điều, hắn lại có một loại trực giác mách bảo rằng, sớm muộn gì hắn cũng sẽ gặp được người đó. Bây giờ nghĩ lại, thực lực ông chủ chỗ này ít nhất cũng là cấp bậc giám đốc. Vì lúc ấy ông ta không ra tay mà lại có thể ngăn chặn Lãnh Nguyệt, hơn nữa dọa cho Giang Trấn chạy mất, nên Hạ Thiên Kỳ cũng khó đoán ra được thực lực chính xác của đối phương. Chạy trên tàu điện một hồi, Hạ Thiên Kỳ uống vài bia, cảm thấy không có gì hay ho rồi lại trở về biệt thự. Nằm ở trên giường, vẫn không có chút buồn ngủ, trằn trọc hơn nữa ngày, Hạ Thiên Kỳ mới mơ màng thiếp đi. Giấc ngủ này rất tệ, vì cả đêm hắn gặp ác mộng. Có thể nói là từ khi gia nhập vào Minh Phủ cho đến hôm nay, mộng đẹp với hắn thì hoàn toàn không có duyên phận với nhau, mỗi ngày nếu như không phải bị quỷ đuổi giết, thì chính là bị vây trong ảo cảnh, tim đập nhanh đến mức gần như sắp chết đi. Rửa mặt đơn giản xong, thay đổi quần áo trên người, Hạ Thiên Kỳ lại vội vàng đi xuống lầu. Chờ cho đến khi hắn đi đến dưới lầu, thì phát hiện ra Sở Mộng Kỳ đang ngồi ở trong phòng ăn ăn điểm tâm sáng mà lại hơi có phần ngây người ra, hắn không nhìn thấy Triệu Tĩnh Thù, lập tức hỏi: "Vì sao lại không thấy Tĩnh Thù đâu?" "Cô ấy không có ở trong chỗ này, vừa đi ra ngoài rồi!" Lúc này Hạ Thiên Kỳ cũng ngồi xuống, sau đó cũng tự lấy cho mình một bát cháo, lại cầm thêm một cái bánh bao thịt bắt đầu ăn. Sở Mộng Kỳ không làm cơm nên hiển nhiên bữa sáng này đều là do Triệu Tĩnh Thù vì bọn họ mà chuẩn bị. "Cô ấy đi đâu?" "Không biết, nhưng mà cô ấy nói là chúng ta không cần chờ cô ấy." Sở Mộng Kỳ vẫn không nhìn đến Hạ Thiên Kỳ như trước, thì thào mà nói. "Vì sao vậy? Bây giờ tôi gọi cho cô ấy một lần xem!" Hạ Thiên Kỳ vừa mới nói sẽ gọi qua cho Triệu Tĩnh Thù, nhưng lại bị Sở Mộng Kỳ ngăn cản lại: "Anh đây là khờ khạo thật hay là bị ngớ ngẩn đây, nhìn đã biết là Tĩnh Thù không muốn để cho chúng ta nhìn thấy dáng vẻ đau lòng của cô ấy, cho nên mới không tiễn chúng ta." Hạ Thiên Kỳ nghe xong không nói gì, nhưng mà lại gật đầu theo bản năng, chỉ có điều bánh bao đang nhai ở trong miệng, hương vị lại đột nhiên đắng đi đến mấy phần. ... Mời các bạn đón đọc Ác Linh Quốc Gia 2 của tác giả Trong Nháy Mắt Cười Cười.
Hẹn Mùa Hoa Cúc - Ueda Akinari
Nhật Bản thế kỷ 18 đã sản sinh ra một tác phẩm kinh điển của thể loại chí quái, không thua kém "Liêu Trai chí dị" hay... phim Hollywood ngày nay. Chẳng cứ phim Hollywood, yếu tố này trong Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng Linh là một ví dụ cổ điển vô cùng nổi tiếng. Nhưng Liêu Trai chí dị có lẽ chỉ nổi tiếng hơn vì Trung Quốc đông dân, chứ một cấu tứ như vậy không hề hiếm gặp, ở Việt Nam thì có Truyền kỳ mạn lục, còn Nhật Bản, tuy có lẽ hiếm được độc giả Việt Nam biết đến về mảng này, cũng có Hẹn mùa hoa cúc, một tác phẩm không kém cạnh chút nào về những yếu tố ma quỷ ảo diệu hay những thông điệp ẩn giấu đằng sau sự ma mị. Trong Hẹn mùa hoa cúc, cũng như Liêu Trai chí dị, ma quỷ thì nhiều, nhưng những hồn ma bóng quỷ ấy chẳng đủ sức làm những độc giả đã quen với kỹ xảo doạ dẫm của điện ảnh hiện đại phải e ngại. Những câu chuyện hồn ma vượt đường xa để giữ lời hứa với bạn, người vợ đã chết vẫn thuỷ chung chờ chồng, hay ngay cả người vợ bị bỏ rơi hoá thành ma nữ đuổi theo người chồng bội bạc và nhân tình, dù là ma đấy quỷ đấy nhưng không hề giật gân hù doạ. *** Nguyên tác Kikka no Chigiri ( lời ước hẹn gặp lại nhau giữa mùa hoa cúc) của Ueda Akinari (Thượng Điền Thu Thành) đã in trong Ugetsu Monogatari (Vũ Nguyệt Vật Ngữ) hay Truyện Đêm Mưa Trăng Lu. Theo lời tựa, tập truyện được viết xong vào một đêm tháng ba trời mưa trăng lu năm Minh Hòa thứ 5 (1768), lúc tác giả 34 tuổi. Bản đầu tiên in năm An Vĩnh thứ 5 (1776). Người dịch dùng bản được Asano Sampei hiệu chú và nhà xuất bản Shinchô phát hành năm 1979. Sinh năm 1734 trong một xóm yên hoa ở Osaka (1) , Ueda là đứa con vô thừa nhận của một cô gái làng chơi. Lên bốn, mẹ bỏ không nuôi, được một thương gia giàu có và tốt bụng nhưng không con trai, đem về cho ăn học. Ông bị lên đậu ngặt nghèo, tuy thoát chết nhưng liệt hết mấy ngón tay (nên một trong những bút hiệu của ông là Zenshi Kijin (2) nghĩa là Quái Nhân Cụt Ngón). Sau khi sống một quãng đời thanh niên đồi trụy, ông sớm thức tỉnh trở lại nối nghiệp cha nuôi buôn dầu và buôn giấy nhưng không mấy chí thú vì vẫn mang giòng máu nghệ sĩ. Năm 1771, sau trận hỏa tai làm tiêu tan sản nghiệp, ông chuyển sang nghề đông y và viết văn. Cuối đời (1793), về sống ở Kyoto và mất năm 1809, trong nghèo túng, vợ chết, không con cái và hầu như mù. Tên tuổi Ueda Akinari gắn liền với văn xuôi Nhật Bản cận đại. Ảnh hưởng của ông rất sâu đậm đối với Kyokutei Bakin (1767-1848), tiểu thuyết gia số một thời Edo và những thế hệ đi sau (3). Phần ông thì chịu ảnh hưởng của các tiểu thuyết gia đời Minh như La Quán Trung (4), Phùng Mộng Long (5) ... Riêng Hẹn Mùa Hoa Cúc đã mượn đề tài truyện " Phạm Cự Khanh Kê Thực Sinh Tử Giao " (6) sưu tập trong tiểu thuyết bạch thoại Trung Quốc của họ Phùng, Cổ Kim Tiểu Thuyết, quyển thứ 16. Akinari thích viết truyện quái đản vì nó là loại văn phổ biến nhất trong quần chúng đương thời nhưng có thể một phần do bản chất thần bí của chính ông. Suốt đời, ông hay viếng đền thần chồn Inari vì tin thần đã cứu mạng lúc mình lâm bạo bệnh. Giáo sư René Sieffert đã dịch truyện nầy sang Pháp văn (xem Le Rendez-vous aux Chrysanthèmes trong Contes de pluie et de lune, Unesco, Folio, Paris, 1956). Xin để ý lời văn trong truyện nầy tuy có dụng công nhưng chung qui rất thô phác, cổ kính, ngay khi đã được chuyển ra kim văn. Niên hiệu An Vĩnh (An-ei, 1772-1781) bên Nhật, lúc tác phẩm ra đời, tương đương với thời Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc phù Lê diệt Trịnh ở nước ta. Mời các bạn đón đọc Hẹn Mùa Hoa Cúc của tác giả Ueda Akinari.