Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Hoa Tiêu Trên Sông Danube (Jules Verne)

Jules Verne sinh ngày 8 tháng hai năm 1828 tại Nantes, mất ngày 24 tháng Ba năm 1905 tại Amiens (Pháp). Ông là nhà văn Pháp nổi tiếng, người đi tiên phong trong lịch sử thể loại Khoa học viễn tưởng.

Năm 1863, cuốn tiểu thuyết đầu tay Năm tuần trên khinh khí cầu của Jules Verne được xuất bản tại nhà xuất bản Pierre- Jules hetzel, một trong những nhân vật quan trọng nhất trong ngành xuất bản Pháp thời bấy giờ và đã gặt hái thành công vang dội vượt ra ngoài biên giới nước Pháp. Sau thắng lợi đầu tiên đó, Jules Verne đã ký với hetzel hợp đồng 20 năm sáng tác các tiểu thuyết cho tờ Tạp chí giáo dục và giải trí chuyên dành cho giới trẻ. Trong vòng 40 năm, Jules Verne đã sáng tác loạt tiểu thuyết Những chuyến du hành kỳ thú (Voyages extraordinaires) bao gồm 62 tiểu thuyết và 18 truyện ngắn.

Các tiểu thuyết của Jules Verne được đánh giá rất cao; chúng tiên đoán về cuộc sống hiện đại và các thành tựu khoa học kỹ thuật. Jules Verne đã viết về những chuyến du hành bằng máy bay hay tàu ngầm trong không gian, dưới lòng đất hay dưới nước... trước khi những phương tiện này được phát minh. Theo Index Translationum, ông là tác giả thứ hai được dịch nhiều nhất trên thế giới với tổng số 4.702 bản dịch các thứ tiếng, chỉ sau Agatha Christie. Năm 2011, ông là tác giả Pháp được dịch nhiều nhất trên thế giới. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày mất của tác giả, năm 2005 được gọi là “Năm Jules Verne”.

***

Vào ngày đó, thứ bảy 5 tháng tám 1876, cả một đám đông người ồn ào tụ tập tại quán rượu “Cuộc gặp mặt của các ngư dân”. Những tiếng hát, tiếng ly tách, tiếng hoan nghênh, tiếng la hét trộn lẫn thành sự ồn ào kiinh khủng, chốc chốc lại bật lên những tiếng thét to: “Hô!” bộc lộ niềm vui tràn ứ. Tìm mua: Người Hoa Tiêu Trên Sông Danube TiKi Lazada Shopee

Những ô cửa sổ nhỏ của quán rượu trông thẳng ra sông Danube, ven sông là một thành phố nhỏ tuyệt diệu của Ditmaringen, thủ phủ cua triều đại Phổ, tọa lạc bên nguồn sông vĩ đại vùng Trung Âu.

Sau khi đeo xong tấm biển, được kẻ bằng những kiểu chữ Gô-tích thật đẹp, treo trên cửa ra vào, các hội viên của “Hội vùng sông Danube” đi vào quán rượu. Đây là một hội quốc tế bao gồm những ngư dân thuộc nhiều quốc gia khác nhau nằm ở ven sông Danube. Nếu không có sự đánh chén thì cuộc nhóm họp nào cũng mất đi phần náo nhiệt vui tươi - thức uống phải ngon nhất hạng. Thế nên ở đây người ta uống bia Huyn-khen hảo hạng và rượu ngon Hungary - ly cốc nào cũng luôn đầy tràn. Họ phì phà thuốc lá và những ống điếu dài lúc nào cũng nhả khói thơm lựng ngập tràn cả gian phòng lớn mời tố. Nếu những người nói chuyện không nhìn thấy mặt nhau, ắt họ cũng nghe được tiếng nhau, nhất là đối với những người không bị nặng tai.

Là những con người điềm tĩnh và lặng lẽ khi bắt tay vào việc, những ngư dân này sẽ hóa thành những người ồn ào nhất trên đời, khi họ đã xếp mọi dụng cụ đồ lề của mình sang một bên. Họ không chịu thua bọn thợ săn trong các câu chuyện về những chiến công vĩ đại, mà đây là điểm mạnh của cánh săn bắn.

Đến lúc tàn tiệc sáng khá là ngon lành, mà tụ hội quanh những cái bàn là hàng trăm khách được mời đến - những dũng sĩ của cái cần câu, những người ủng hộ nhiệt tình con nước, những lẻ si mê cái móc câu. Khỏi phải nói, những chiến công giờ sáng này đã hong khô cổ họng của họ, cứ theo số lượng chai đặt ra trong phiên tráng miệng. Sau đó đến lượt hàng lố chai rượu mùi được quyết định dùng đồ uống thay cho cà phê.

Đồng hồ gõ ba tiếng - khi khách khứa rời bàn. Thật tình mà nói, trong số họ đã có vài người loạng choạng và họ không thể cất bước nổi nếu không có tay dìu của bạn bè. Nhưng số đông vẫn còn cứng cựa, như những vị khách quen mắt dũng mãnh và bướng bỉnh của các phiên họp thần thánh kéo dài mà hàng năm đều tái diễn vài lần nhân các cuộc thi của “Hội vùng sông Danube”.

Danh tiếng của những cuộc thi (đã chuyển thành những cuộc chè chén) này vang dội trên suốt chiều dài con sông trứ danh, không kém gì những âm điệu luân vũ của Strauss. Tụ hội lại đây là các đấu thủ từ công địa Bađanh, từ Vuốctemhéc, Bavaria, Áo, Hungary, từ Rumani, Xecbi và thậm chí từ những tỉnh thuộc Thổ - Bungary và Bexarabia.

Hội đoàn này tồn tại đã năm năm. Dưới sự cai quản của vị chủ tích Micletxcô, người Hungary, hội đoàn rất phát đạt. Tài lực của Hội tăng tiến đã cho phép đưa ra những giải thưởng lớn tại các hội thi, và lá cờ của hội nổi bật lên nhờ vô số những huy chương giành được trong sự đấu tranh bền bỉ với các hội đoàn những người câu cá khác. Ban chấp hành các giám đốc của hội, những người rất am hiểu các đạo luật về sự câu cá trên các vùng sông, đã ủng hộ những người đồng chí khi thì chống lại nhà nước, lúc lại chống phía tư nhân và bảo vệ các quyền hạn, đặc lợi của họ bằng một sự kiên trì đáng kể, dám nói rằng, bằng một sự bướng bỉnh hết sức chuyên nghiệp, vốn là đặc tính của giống hai chân trội hẳn trong giống người đặc biệt say mê sự đánh bắt cá bằng cần câu.

Cuộc thi vừa được diễn ra, đây là lần thứ hai trong năm 1876. Vào lúc 5 giờ sáng, những đối thủ đã rời khỏi thị trấn và tụ tập trên bờ trái sông Danube gần Ditmarigen. Họ thảy đều ăn bận theo đồng phục của hội đoàn: áo choàng ngắn không làm gò bó các cử động, quần dài được nhét ống vào đôi ủng đế cao, mũ với phần lưỡi trai lớn. Đương nhiên, họ có trong tay cả bộ các loại dụng cụ khác nhau mà đã được liệt kê trong “Sách chỉ nam của người câu cá”. Những cần câu, những vợt phụ, chỉ câu được bó lại trong các túi da nai, những cái phao đủ mọi độ sâu, những hạt chì đủ mọi kích thước cho hòn chì, những con ruồi nhân táo, những sợi dây nhỏ, dây gân Florentina. Sự câu cá được tự do, bất cứ con cáo nào câu được cũng được tính điểm, và mỗi người câu cá đều có thể cho nó ăn thêm gì cũng được.

Khi đồng hồ điểm sáu giờ, chín mươi bảy đấu thủ đều vào chỗ với cần câu trên tay, chuẩn bị ném móc câu. Khi kèn trỗi nhạc hiệu, thí chín mươi bảy sợ chỉ câu đồng loạt vút lên trên mặt sông.

Vài giải thưởng đã được công bố tại hội thi, hai giải đầu, mội người được 100 phloring, được quy định phát cho người câu cá câu được số cá nhiều nhất, và cho người câu được con cá lớn nhất.

Hoàn toàn không có diễn biến gì xảy ra cho đến hồi kèn hiệu thứ hai. Hội thi kết thúc vào lúc 11g. Số cá câu được của mỗi người đều được giao lại cho ban giám khảo gồm chủ tịch Micletxco và bốn hội viên của “Hội vùng sông Danube”. Dù rằng những người đánh cá bằng cần câu là những người nóng nảy nhất trên đời, song hoàn toàn không có một ai nghi ngờ đến sự hết sức công bằng của những nhân vật cao cấp và có uy thế này, nên không có một sự phản kháng nào xảy ra. Chỉ phải trang bị bằng lòng kiên nhẫn để nhận biết kết quả của cuộc thẩm xét tận tâm: sự phân chia các giải thưởng khác nhau căn cứ theo số cân hay số lượng cần phải đươc giữ trong bí mật cho đến tận lúc phát giải mà trước đó là bữa tiệc hữu nghị giữa những người dự thi.

Giờ ấy đã đến. Những người câu cá - đó là không nói đến những người Ditmaringen tò mò - ngồi yên lặng chờ đợi trước bục diễn đàn gồm vị chủ tịch và các hội viên khác của hội đoàn.

Quả thật, nếu có đủ ghế tựa, ghế dài và ghế đẩu, thì sẽ có khá đủ những chiếc bàn, mà trên cac bàn đã bày ra những vại bia, những chai rượu đủ các loại, những ly, cốc đủ cỡ lớn và nhỏ.

Khi mọi người đã yên vị, và các ống tẩu đã bắt đầu nhả khói, vị chủ tịch đứng lên.

- Nghe nào! Nghe nào!

Những tiếng hoan hô vang động.

Ngài Micletxco uống cạn cốc bia, bọt bia vẫn còn lòng thòng trên ria mép ông ta.

- Thưa các bạn đồng nghiệp - ông nói bằng tiếng Đức, thứ ngôn ngữ mà các hội viên đều biết; không phân biệt các dân tộc - các bạn đừng mong mỏi ở tôi lời lập luận cấu trúc theo cách cổ điển với lời vào đề, phần nội dung chính, rồi đến đoạn kết bài. Không, chúng ta có mặt ở đây không phải để thưởng thức những ngôn từ nghi thức trang trọng mà tôi sẽ chỉ nói đến các công việc nhỏ bé của chúng ta theo tình bằng hữu, thậm chí sẽ nói, theo tình anh em, nếu như cách diễn đạt như thế lại thích hợp hơn đối với một hội đoàn quốc tế.

Đáp lại hai câu nói quá dài này - như thường lệ mỗi khi bắt đầu diễn từ, thậm chí khi người phát ngôn không muốn làm người lắm lời - là tràng vỗ tay đồng lòng vang lên kèm theo với hàng loạt những tiếng la “Hay lắm!”, “Hô!” bị đứt quãng bởi những tiếng nấc cục. Tiếp đó ngài chủ tịch nâng cốc và toàn bộ những cái cốc cùng cạn sạch.

Tiếp tục bài diễn văn, ngài Micletxco đã sắp xếp những người đánh cá bằng cần câu lên hàng đầu của nhân loại. Ông ta nhấn mạnh tất cả những phẩm chất, tất cả những đức tính mà những người câu cá đã được thiên nhiên hào phóng ban cho, ông ta chỉ rõ ràng phải cần đến biết bao nhiêu là sự nhẫn nại chịu đựng, sự nhanh trí, tính lạnh lùng, trình độ trí thức cao, để đạt được thành tích trong nghệ thuật bắt cá, bởi lẽ đây là cái lớn hơn nghề nghiệp, đây chính là nghệ thuật, và nó còn cao hơn nhiều so với các chiến công mà những thợ săn đã huênh hoang một cách vô ích.

- Có thể so sánh nghề đi săn với sự đánh bắt cá được hay sao? - ông ta lớn tiếng.

- Không! Không! - những cử tọa đồng loạt ứng tiếng.

- Công trạng như thế nào khi phải giết một chú gà gô hay một cô thỏ, khi các ngài nhìn thấy chúng trong tầm bắn và khi con chó - mà chẳng lẽ chúng ta có con chó? - đi tìm thú săn cho các ngài? Các ngài nhận định con thú săn ấy từ xa, các ngài không bắn ngay nó vội, và các ngài sẽ vãi ra một số lượng đạn chì không đếm xuể, phần lớn những viên đạn chì ấy bay đi một cách vô ích… Trái lại, để đánh bắt con cá thì các ngài sẽ không thể theo dõi bằng cái nhìn… con cá ẩn náu dưới mặt nước… Phải nhờ đến rất nhiều kỹ xảo, mưu mẹo, trí tuệ và sự lém lỉnh để buộc con cá phải cắn câu, để giật nó, để lôi nó lên khỏi mặt nước, lúc thì nó treo lơ lửng bất động trên đầu sợi cước, lúc thì rung rung giãu giụa tựa như đang hoan nghênh các ngài vì chiến thắng.

Lời này, lời đáp lại là những tiếng hô muốn vỡ phòng: “Hoan hô!”. Nhất định la ngài chủ tịch biết làm rung nảy lên tình cảm của các hội viên. Hiểu rằng không thể đi quá xa trong những lời tán dương các bạn đồng nghiệp của mình, ông ta đã đánh bạo mà không sợ bị buộc tội cường điệu - đặt ra cho họ phần công việc tao nhã cao hơn mọi người khác, tâng bốc lên tận trời xanh các nghề đánh cá khoa học của những người nhiệt thành và thậm chí ông ta còn quay lại để tưởng nhớ vị nữ thần tuyệt vời được đưa lên hàng đầu bởi những người hâm một trẻ tuổi của cổ La Mã tại các kỳ hội lớn của những người đánh cá.

Những điều ám chỉ này có hiểu ra được hay không? Có lẽ thế, bởi vì họ đã gây nên làn sóng phấn khởi thật tình.

Sau đó, vừa lấy lại hơi thở và sau khi uống cạn thêm một cốc vại bia sủi bọt nữa. Ông ta tiếp tục;

- Tôi chỉ còn một điều là chúc mừng các bạn nhân sự phát đạt của hội đoàn mà hang năm đều được bổ sung thêm nhiều hội viên mới và tiếng tăm của hội đã được lặp nên một cách vững chãi trên toàn Trung Âu. Tôi sẽ không nói với các bạn về thành tích của chúng ta. Các bạn đã biết rõ chúng, cac bạn đã tham gia làm nên chúng, và đó là vinh dự lớn để nhập cuộc thi. Báo cí Đức, Tiệp, Rumani đều không tiếc lời ca ngợi, đánh giá hết sức cao, và tôi xin nói thêm là, hết sức xứng đáng! Tôi xin nâng cốc chúc mừng, và xin các bạn hãy ủng hộ với tôi, các nhà báo đã hết sức tận tụy với công việc quốc tế của “Hội vùng sông Danube”!

Tất nhiên, mọi người đồng thanh đáp lại lời của ngài chủ tích. Những chai rượu được dốc cạn vào các cốc, còn những cái cốc thì được lật úp vào những cái cổ họng cũng hết sức nhẹ nhàng như thế, như nước sông vĩ đại và ngọn nguồn của nó tuôn ra biển cả.

Có thể chấm dứt được vào chỗ này, nếu như bài diễn văn của ngài chủ tịch đã được kết thúc bằng lời chúc rượu sau cùng. Nhưng những lời chúc rượu khác được tuôn ra có lẽ là rất ư hợp thời.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Jules Verne":Cuộc Du Hành Vào Lòng ĐấtNhững Đứa Con Của Thuyền Trưởng GrantBay Quanh Mặt TrăngBí Mật Đảo LincolnChú Bé Thoát Nạn Đắm TàuCuộc Phiêu Lưu Kỳ Lạ Của Đoàn BarsacCuộc Thám Hiểm Vào Lòng ĐấtMột Lễ Cưới Khác ThườngNgọc Phương NamNgọn Hải Đăng Nơi Cuối TrờiNgười Hoa Tiêu Trên Sông DanubePhiêu Lưu Vào Mỏ Than AberfoyleThuyền Trưởng Tuổi 1580 Ngày Vòng Quanh Thế Giới5 Tuần Trên Khinh Khí CầuHai Vạn Dặm Dưới Đáy Biển

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Người Hoa Tiêu Trên Sông Danube PDF của tác giả Jules Verne nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Hội Chợ Phù Hoa (William Makepeace Thackeray)
William Makepeace Thackeray sinh ngày 18 tháng 7 năm 1811 tại Calcutta, Ấn Độ. Ông là con một viên chức của Công ty Ấn Độ, lãnh chức vụ tài phán ủy viên. Năm Thackeray lên 4 tuổi, cha ông từ trần, mẹ ông tái giá. Ông theo mẹ về nước Anh, được gửi theo học trong một trường tư thục ở Chiswich HamSơ. Lối giáo dục nghiệt ngã trong trường này khiến ông không chịu nổi, đã có lần ông phải bỏ trốn. Ta còn thấy dấu vết trường học này trong chương đầu cuốn Hội chợ phù hoa (Vanity Fair). Năm 18 tuổi, ông theo học luật khoa tại Đại học đường Cambridge, nhưng không tốt nghiệp. Ông tỏ ra có khuynh hướng châm biếm ngay từ hồi còn ít tuổi. Trong thời gian theo học tại trường đại học Cambridge, ông dành nhiều thì giờ cộng tác với những tờ báo trào phúng, thí dụ tờ Timbutoo, tờ Người học làm sang (The Snob) hơn là để trau dồi những kiến thức mà ông thấy vô ích. Rời nhà trường, ông chính thức bước vào làng văn với những bài báo và những truyện ngắn có tính chất châm biếm. Nhờ gia sản của cha để lại, được hưởng một món lợi tức đồng niên khá dồi dào, ông có điều kiện du lịch nhiều nơi tại Âu châu. Ông có sống tại Weima (Đức) một thời gian để tìm hiểu phong tục địa phương và nghiên cứu về thi hào Goethe. Rải rác trong tác phẩm của ông, ta còn thấy một số chi tiết miêu tả sinh hoạt của giới quý tộc Đức, thí dụ đoạn tả tiểu triều đình Pumpernickel trong Hội Chợ Phù Hoa. Ông cũng đã sống tại Paris một thời gian khá lâu để theo học nghề hội họa. Trong lĩnh vực văn học cũng như trong lĩnh vực mỹ thuật, sở trường của ông rất thống nhất: ông có biệt tài về loại tranh biếm họa, đã một thời sinh nhai về nghề này tại Paris. Cũng tự tay ông đã vẽ những “vi-nhét” và những tranh minh họa in kèm tác phẩm Hội chợ phù hoa lần xuất bản thứ nhất. Kết quả của những cuộc du lịch ấy là những tập ký sự có tính chất châm biếm như Tập ký họa thành Paris (The Paris Sketch Book, 1840), Tập ký họa xứ Ai len (The Irish Sketch Book, 1843)v.v… Hồi còn thanh niên, Thackeray sống một cuộc đời phong lưu, có dịp tiếp xúc nhiều với những người thuộc tầng lớp tư sản và quý tộc, nhân đó ông đã thu lượm được những tài liệu thực tế rất phong phú về cuộc sống vật chất và tinh thần của những hạng người này để đưa vào tác phẩm của mình. Người ta còn nói rằng vì vợ ông mắc bệnh loạn trí nên ông sinh ra chán đời, việc ấy có thể phần nào cũng ảnh hưởng tới cái nhìn bi quan của ông đối với cuộc sống, và khiến cho ngòi bút châm biếm của ông thêm chua chát, tàn nhẫn; tuy nhiên đó không phải là nguyên nhân chủ yếu. Thackeray sang Mỹ hai lần để diễn thuyết về văn học, đặc biệt là về vấn đề Những nhà văn trào phúng nước Anh thế kỷ thứ 18. Trở về nước, ông ứng cử vào Hạ Nghị viện, nhưng thất bại. Từ 1859 ông làm chủ bút một tờ báo lớn, tờ Tuần báo Cornhin (The Cornhill Magazine) được vài năm. Do làm việc quá nhiều, sức khỏe suy giảm, ông mất năm 1863 vì bệnh xung huyết não thọ 52 tuổi.Văn nghiệp của Thackeray có tính chất khá thuần nhất. Ông viết nhiều loại truyện, cả truyện nhi đồng và truyện lịch sử, nhưng hầu hết văn phẩm của ông đều có tính chất châm biếm, nhằm đả kích xã hội tư sản quý tộc Anh đương thời. Trong số ấy, nổi tiếng nhất là những tác phẩm Cuốn sách của các ông học làm sang (The Book of Snob); Hội Chợ Phù Hoa; Truyện Penđennix (Pendennis)… Những tác phẩm này đã gây ra một dư luận sôi nổi - người tán thưởng nhiều mà kẻ ghen ghét dĩ nhiên cũng lắm - và nâng ông lên hàng những tiểu thuyết gia hiện thực ưu tú nhất trên văn đàn nước Anh. Đó là những tác phẩm bộc lộ đầy đủ nhất bản sắc tư tưởng của tác giả. Tác phẩm đầu tiên rọi ánh sáng vinh quang vào cuộc đời sáng tác của ông là cuốn Truyện các ông học làm sang nước Anh do một người trong bọn kể lại (The Snobs of England by One of themselves) in năm 1846; tác phẩm này gồm những bài tiểu luận có tính chất luân lý và chính trị, nội dung nhằm đả kích một cách cay độc những cái rởm đời và thối nát trong xã hội và chính giới nước Anh đương thời. Năm sau, ông cho xuất bản cuốn Hội Chợ Phù Hoa. Năm 1848 ông lại cho in cuốn Pendennis. Ngay từ cuốn Truyện các ông học làm sang nước Anh do một người trong bọn kể lại… nhiều người đã tỏ ý bất bình vì những nét đen thẫm trên những bức tranh biếm họa của ông; tới khi cuốn Pendennis ra đời, thì sự khó chịu biến thành sự thù ghét, vì rất nhiều người thuộc các tầng lớp trên cảm thấy hình như tác giả muốn ám chỉ chính họ. Thackeray gặp khá nhiều khó khăn trong việc ấn hành những tác phẩm này. Hội Chợ Phù Hoa được coi là một kiệt tác của chủ nghĩa hiện thực trong văn học Anh thế kỷ 19; đó là một trong năm tác phẩm nổi tiếng nhất của văn học Anh-cát-lợi. Mới đầu cuốn truyện được mang tên là Những bức ký họa về xã hội nước Anh (Sketches of English Society) về sau tác giả đổi là Hội Chợ Phù Hoa; cái tên có tính chất tượng trưng này thích hợp với nội dung hơn vì bao hàm cả thái độ phủ định của Thackeray đối với xã hội đương thời. Lần ấn hành thứ nhất, ngoài bìa có ghi câu “Một cuốn truyện không có nhân vật tiêu biểu cho một hạng người, một thói xấu, hoặc một tầng lớp xã hội; toàn bộ tác phẩm là một bức tranh toàn cảnh miêu tả xã hội nước Anh đương thời, do đó các nhân vật có địa vị quan trọng như nhau, không phân biệt chính phụ”. Thật ra cuốn tiểu thuyết vẫn có những nhân vật chính, và một nhân vật trung tâm là Rebecca Sharp. Tìm mua: Hội Chợ Phù Hoa TiKi Lazada Shopee Nội dung chủ yếu của Hội Chợ Phù Hoa xoay quanh việc “làm nên” của Rebecca, một thiếu nữ “con nhà hà tiện”, cha là một họa sĩ trác táng, mẹ là một vũ nữ người Pháp. Thiếu giáo dục từ nhỏ, nhưng nhờ có sắc đẹp, lại thông minh và tài hoa, từ chỗ bơ vơ côi cút, bị khinh rẻ, cô ta trở thành con dâu của gia đình Crawley, một gia đình quý tộc thôn quê. Dựa vào địa vị nhà chồng, và nhờ những mánh khóe xảo quyệt riêng, dần dần Rebecca len lỏi được vào giới thượng lưu quý tộc nước Anh và nước Pháp, trở thành một bậc mệnh phụ, danh vọng lẫy lừng, được triều kiến cả hoàng đế George đệ tứ. Song chính những thủ đoạn đê tiện Rebecca dùng để mưu danh lợi về sau đã làm hại cô ta; Rebecca ngoại tình với một hầu tước để lợi dụng y; việc vỡ lở; cô ta bị quẳng ra khỏi xã hội thượng lưu một cách tàn nhẫn. Cô gái sớm hư hỏng ấy trở lại cuộc đời tăm tối cũ; bị cái giới thượng lưu thanh cao một cách giả dối kia ruồng bỏ, càng ngày cô càng chìm sâu xuống vũng bùn trụy lạc. Khi đã luống tuổi, chán cảnh lăn lộn vô ích, Rebecca đành sống cuộc đời tầm thường như mọi người; và nhờ số tiền kiếm được một cách bất chính, Rebecca cũng được thiên hạ kính trọng như một người có đạo đức. Xen vào câu chuyện lên voi xuống chó của Rebecca là những mẩu phim linh hoạt trình bày cuộc sống và tâm lý của nhiều hạng người khác nhau thuộc giai cấp quý tộc, giai cấp tư sản, tầng lớp trung lưu trong xã hội nước Anh đương thời: gia đình ông Sedley, một người làm nghề buôn cổ phiếu, bị cuộc chiến tranh Napoléon làm cho phá sản, lâm vào cảnh khốn cùng, nhưng vẫn luyến tiếc thời kỳ còn ôm giấc mộng làm giàu, gia đình lão Osborne, nhà tư sản buôn sáp, với một nền luân lý đặc biệt của khu City thành Luân Đôn, lấy đồng tiền làm tiêu chuẩn, gia đình Crawley, một gia đình quý tộc lâu đời ở thôn quê với đủ những cái thối tha lục đục trong nội bộ, gia đình Gôn mà người cầm đầu là hầu tước Xtên, với mâu thuẫn trắng trợn giữa cái bề ngoài đầy uy thế của một nhà đại quý tộc và thực chất bất nhân phi nghĩa của một tên lưu manh… tất cả lồng vào câu chuyện tình vừa lãng mạn vừa tức cười của bộ ba Amelia, George Osborne, và Dobbin. Thế kỷ thứ 19, chế độ tư bản nước Anh đang trong giai đoạn phát triển cực thịnh; năm 1875, tính ra bốn phần năm dân số Anh sống về công nghiệp. Lợi nhuận bóc lột được của công nhân trong nước và vơ vét được tại các thuộc địa tạo điều kiện cho giai cấp tư sản và giai cấp quý tộc tư sản hóa sinh hoạt hết sức xa xỉ. Bề ngoài xã hội Anh đương thời có một bộ mặt phồn vinh; việc kinh doanh dễ đem lại những món lợi lớn; địa vị của giai cấp tư sản trong xã hội được nâng cao; sự cấu kết giữa giai cấp phong kiến và giai cấp tư sản càng chặt chẽ hơn. Giai cấp quý tộc đi vào con đường kinh doanh tư bản để thu lợi nhuận, hoặc liên kết với giai cấp tư sản để lấy tiền mạ vàng lại huy hiệu của dòng họ; ngược lại, giai cấp tư sản cũng muốn quý tộc hóa đồng tiền của mình bằng cách kết liên với giai cấp phong kiến, đồng thời đó cũng là một cách nhờ hơi hướng địa vị của giai cấp này nhằm bước vào lĩnh vực hoạt động chính trị dễ dàng hơn. Trong ngai vàng ngư trị xã hội, có hai thế lực cùng ngồi song song, là đồng tiền và danh vọng. Đó là hai thế lực có tác dụng nhào nặn tâm lý con người đúc theo một cái khuôn chung, và biến cuộc đời thành một cái chợ trong đó mọi thứ quan hệ đều có tính chất “tiền trao cháo múc”. Cuộc chạy đua theo đồng tiền và danh vọng lôi cuốn tất cả các tầng lớp từ bậc trung lưu trở lên. Tôn giáo bị giảm bớt hiệu lực, vì một nền luân lý mới có tính chất thực tiễn hơn đã hình thành: hạnh phúc tối cao của cuộc đời là có địa vị sang trọng và có thật nhiều tiền, vì thiên hạ đang xô nhau vào mà quỳ lụy, bợ đỡ, sợ hãi kính phục kẻ có của và có địa vị. Đạo đức và tài năng trở thành những thứ đồ cổ bị gạt ra bên lề cuộc sống, bởi lẽ trong một xã hội thương mại chỉ có hai thần tượng được người ta phụng thờ là đồng tiền và uy thế của dòng họ; kẻ có tài nhưng nghèo túng và xuất thân tăm tối của mình. Văn hào Stendhal[3] đã có một nhận xét lý thú: “Trí thông minh và thiên tài đặt chân lên nước Anh là mất ngay hai mươi lăm phần trăm giá trị”; ông muốn nói tới cái “Tinh thần chiết khấu” đặc biệt thương mại thấm nhuần trong mọi quan hệ của xã hội Anh. Một mặt khác, đời sống của quần chúng lao động rất cực khổ. Sau chiến tranh chống Napoleon (kết thúc năm 1815), nông thôn tiêu điều xơ xác vì giá lúa mì sụt kinh khủng đến nỗi nhiều nông dân đốt cả cối xay bột; đạo luật khoanh đất cướp ruộng vẫn tiếp tục thi hành; tầng lớp trung gian ở nông thôn giảm đi trông thấy; họ lũ lượt kéo ra thành thị và bị vô sản hóa, hoặc biến thành tá điền làm thuê cho địa chủ. Công nghiệp không dùng hết người, vì kỹ thuật phát triển đòi hỏi tương đối ít nhân công; lại thêm số binh lính quá đông không cần thiết trong thời bình trở thành một gánh nặng cho ngân sách; chính phủ quyết định thải hồi tất cả dân vệ. Do đó thành thị đầy dẫy những đoàn người thất nghiệp; nạn bần cùng lan tràn khắp nơi. Những mâu thuẫn xã hội trầm trọng đến mức sắp nổ ra những vụ bạo động lớn (thí dụ ngày 23-2-1820 sở mật vụ khám phá ra một cuộc âm mưu giết toàn bộ chính phủ, do Thistlewood cầm đầu, tức là: Vụ án phố Ca- tô Chính mâu thuẫn xã hội này giải thích sự phát triển đặc biệt của phong trào “Nghiệp đoàn” (Trade-Unions) và sự ra đời của tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng do Owen đề xướng (1833); về mặt văn học, nó là động lực thúc đẩy sự phát triển của khuynh hướng hiện thực manh nha từ thế kỷ 18, trở thành xu hướng văn học chủ yếu dưới triều đại Victôria thế kỷ 19. Hai đại diện ưu tú của văn học hiện thực thời kỳ này là Thackeray và Đickenx. Tuy cùng chung một thái độ phủ định đối với xã hội đương thời, nhưng đối tượng miêu tả của hai người khác nhau. Thackeray khác Dickens ở điểm ít quan tâm nêu những mâu thuẫn giữa các tầng lớp xã hội đối kháng, cũng như ít chú ý đến vào việc đả kích các tầng lớp thống trị, và có con mắt quan sát tâm lý thấu đáo hơn. Khuynh hướng trào phúng nảy nở trong văn học Anh từ giữa thế kỷ 18. Những người đại diện của khuynh hướng đó là Smolett và Jonathan Swift[4]. Đó là tiếng nói phản kháng lại những sự bất công trong xã hội; khuynh hướng ấy được kết tinh ở Thackeray. Ông đại diện cho tài năng chân chính bị miệt thị; trong tiếng cười cay độc của ông có phần nào sự phẫn nộ của quần chúng. Chủ nghĩa hiện thực ở Thackeray mang mầu sắc luân lý rõ rệt; ông muốn đứng trên quan điểm đạo đức mà soi mói cuộc đời và rút ra những bài học về cách xử thế.Chủ đề của Hội chợ phù hoa - như tên cuốn truyện cũng cho ta rõ một phần - là sự vô nghĩa, sự phù phiếm của cuộc đời, một tấn hài kịch lớn, trong đó mỗi con người sắm một vai trò mà không tự biết, hoặc một cảnh hội chợ hỗn tạp, trong đó chỉ toàn là những sự phô trương mua bán, và mọi thứ đều là những món hàng. Tác giả tự coi vừa là một anh hề sắm vai trò để mua vui cho thiên hạ, vừa là nhà đạo diễn cô lại hình ảnh của cuộc sống trong một màn kịch múa rối. Khuynh hướng vạch những nét “mặt trái đời” toát ra trong toàn bộ tác phẩm từ chương đầu đến chương cuối. Tác giả muốn rút ra một bài học luân lý; tác phẩm có tính chất như một bài ngụ ngôn dài. Tất cả những cái gì gọi là cao quý, tốt đẹp, mà thiên hạ hằng khao khát và thiết tha gắn bó, thực ra chỉ là những chuyện hết sức vô nghĩa, thí dụ như danh vọng, tiền tài, những cái vẫn gọi là những đức tính, và ngay cả những tình cảm thiêng liêng như tình cha con, tình bè bạn, tình vợ chồng… nhiều khi cũng chỉ là câu chuyện khôi hài. Dưới mắt tác giả, đạo đức vẫn khoác tấm áo thêu kim tuyến lộng lẫy như cũ, nhưng lật lên chỉ thấy những tình cảm đê tiện trần truồng: sự tính toán vị kỷ, lòng vụ lợi, thói giả nhân giả nghĩa, tính phô trương rởm đời, sự lường gạt kèn cựa. Mỗi nhân vật trong tác phẩm tiêu biểu cho một thói xấu, một giai cấp; mỗi người mỗi vẻ, nhưng tất cả đều mang trên mình con dấu chính của thời đại, tức là hình ảnh dục vọng hung hãn đè nén và tiêu diệt thiên lương; do đó con người ta ở đời không nên phí sức mà tranh danh đoạt lợi, hãy nên biết tiết chế dục vọng của mình. Nhà luân lý Thackeray đã nhìn xã hội nước Anh - đúng hơn là xã hội thượng lưu trưởng giả nước Anh - với con mắt rất bi quan, hoài nghi, nhưng không thờ ơ, trái lại hết sức soi mói; do đó những chi tiết nêu lên trong tác phẩm có một giá trị hiện thực lớn. Mũi nhọn đả kích của tác giả chĩa thẳng vào những tầng lớp đang chễm chệ ngồi trên cổ quần chúng lao động.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hội Chợ Phù Hoa PDF của tác giả William Makepeace Thackeray nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Hogwarts: Một Hướng Dẫn Không Đầy Đủ Và Không Đáng Tin Cậy (J. K. Rowling)
Chúng ta biết khá nhiều về Hogwarts. Đó là một trường học dành cho các phù thủy và pháp sư, được mời đến dự khi nhận được một bức thư cú. Nó có một trăm bốn mươi hai cầu thang, di chuyển như thể nó có tâm trí của riêng mình. Nó được thành lập bởi Godric Gryffindor, Rowena Ravenclaw, Helga Hufflepuff và Salazar Slytherin, mà sau đó được đặt tên cho những Nhà của trường. Thậm chí có một lối đi bí mật dưới bức tượng phù thủy một mắt cho phép một người nhỏ thó thoát ra và vào hầm đến tiệm Công tước Mật. Nhưng nếu giáo sư Albus Percival Wulfric Brian Dumbledore nói rằng thậm chí ông ta cũng không thể biết hết tất cả các bí mật của Hogwarts, cũng như chúng tôi. Chỉ có một người biết mọi thứ về Hogwarts. Trong tập hợp những bài văn này, J.K. Rowling đã tiết lộ bí mật ẩn chứa và truyền thuyết kỳ lạ của trường phái pháp sư và phù thủy ở Anh.(pottermore.com)***Chúng ta bắt đầu giống như bất kỳ pháp sư hay phù thủy nào trên đường tới Hogwarts - tại Ngã tư Vua ở London. Đó là một nhà ga xe lửa ồn ào, náo nhiệt đầy những người qua lại bận rộn - quá bận rộn đến nỗi họ không để ý đến những người có nhiều rương, cú, mèo và áo choàng chạy trên hàng rào soát vé và biến mất tăm. Tìm mua: Hogwarts: Một Hướng Dẫn Không Đầy Đủ Và Không Đáng Tin Cậy TiKi Lazada Shopee Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "J. K. Rowling":Harry Potter Và Hòn Đá Phù ThủyHarry Potter Và Phòng Chứa Bí MậtHarry Potter Và Tên Tù Nhân Ngục AzkabanHarry Potter Và Chiếc Cốc LửaHarry Potter Và Hội Phượng HoàngHarry Potter Và Hoàng Tử LaiHarry Potter Và Bảo Bối Tử ThầnHarry Potter Và Cậu Bé Bị Nguyền RủaDành Cho Quyền Lực, Chính Trị Và Những Yêu Tinh Gây Phiền ToáiHọc Viện Ma Thuật Và Pháp Thuật IlvermornyHogwarts: Một Hướng Dẫn Không Đầy Đủ Và Không Đáng Tin CậyNhững Chuyện Kể Của Beedle Người Hát RongQuidditch Qua Các Thời ĐạiSinh Vật Huyền Bí Và Nơi Tìm Ra ChúngTruyện Ngắn Từ Hogwarts Về Chủ Nghĩa Anh Hùng, Gian Nan Vất Vả Và Những Thú Vui Nguy HiểmĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hogwarts: Một Hướng Dẫn Không Đầy Đủ Và Không Đáng Tin Cậy PDF của tác giả J. K. Rowling nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Học Viện Ma Thuật Và Pháp Thuật Ilvermorny (J. K. Rowling)
Thế giới phù thủy "Harry Potter" kết thúc để lại tiếc nuối trong lòng hàng triệu bạn đọc trên thế giới, và có rất nhiều người hâm mộ vẫn mong chờ các chuyến phiêu lưu tiếp theo của những phù thủy nhỏ. Thế nhưng, nếu chỉ để câu chuyện kỳ diệu này xoay quanh mỗi ngôi trường Hogwarts thì quả thực là một sự phí phạm lớn. Với kỳ vọng lớn lao của các fan hâm mộ, nữ tác giả J. K. Rowling công bố 4 ngôi trường phù thủy khác bên cạnh Hogwarts vào tháng 1 vừa rồi. Mỗi ngôi trường nằm ở một địa điểm khác nhau trên khắp thế giới, và Rowling cũng hứa hẹn rằng mỗi nơi sẽ có một câu chuyện gắn liền với nó. Và vào hôm qua (28/6), nữ tác giả đã bắt đầu hé lộ các chi tiết đầu tiên về ngôi trường Hogwarts phiên bản Mỹ - Học viện ma pháp Ilvermorny. Không chỉ công bố thông tin về bốn Nhà pháp thuật tại học viện phiên bản xứ cờ hoa, bà Rowling cũng sẽ cho ra mắt một câu chuyện mới xung quanh Ilvermorny do bà chính tay chấp bút. Cụ thể, câu chuyện mới nhất sẽ xoay quanh một cô gái trẻ người Ireland có tên Isolt Sayre và cây đũa thần độc nhất vô nhị đã bị đánh cắp. Đồng thời, bà Rowling cũng hé lộ thêm về lịch sử của học viện ma thuật vĩ đại Ilvermorny, nơi sản sinh ra các anh hùng và đồng thời là bí ẩn liên quan tới các bức tường đá bị ếm bùa của ngôi trường.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "J. K. Rowling":Harry Potter Và Hòn Đá Phù ThủyHarry Potter Và Phòng Chứa Bí MậtHarry Potter Và Tên Tù Nhân Ngục AzkabanHarry Potter Và Chiếc Cốc LửaHarry Potter Và Hội Phượng HoàngHarry Potter Và Hoàng Tử LaiHarry Potter Và Bảo Bối Tử ThầnHarry Potter Và Cậu Bé Bị Nguyền RủaDành Cho Quyền Lực, Chính Trị Và Những Yêu Tinh Gây Phiền ToáiHọc Viện Ma Thuật Và Pháp Thuật IlvermornyHogwarts: Một Hướng Dẫn Không Đầy Đủ Và Không Đáng Tin CậyNhững Chuyện Kể Của Beedle Người Hát RongQuidditch Qua Các Thời ĐạiSinh Vật Huyền Bí Và Nơi Tìm Ra ChúngTruyện Ngắn Từ Hogwarts Về Chủ Nghĩa Anh Hùng, Gian Nan Vất Vả Và Những Thú Vui Nguy HiểmĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Học Viện Ma Thuật Và Pháp Thuật Ilvermorny PDF của tác giả J. K. Rowling nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Học Trò Bà Mụ (Karen Cushman)
“Học trò bà mụ” đoạt giải thưởng Newbery năm 1996, một tác phẩm kết hợp dành cho cả độc giả nhỏ và người lớn. Câu chuyện diễn ra trong bối cảnh nước Anh thời Trung cổ. Nhân vật chính là Alyce (cái tên sau này cô bé tự đặt cho mình), lớn lên từ đống phân rác, vô gia cư, luôn muốn tìm lấy một vị trí trong xã hội - kẻ học việc cho bà mụ Jane Nhọn Sắc quái gở. Trong một lần tự mình làm công việc đỡ sanh, nó đã thất bại. Thay vì đối mặt với thất bại, Alyce lại trốn chạy. Tố chất thông minh và lòng thương trẻ nhỏ vẫn cháy bỏng trong lòng cô bé và cô lại thử công việc đỡ sanh một lần nữa…***Viết từ năm 1996, cách đây 14 - 15 năm. Viết về người phụ nữ chuyên giúp phụ nữ khác sinh con theo kiểu truyền thống thời còn các vị lãnh chúa Trung cổ. Chỉ hai điều đó thôi cũng đủ khiến tác phẩm không dễ tiếp cận với bạn đọc ngày nay. Nhưng ngược lại, cũng chính chúng tạo sự tò mò, hứng thú cho bạn đọc khi tìm đến cuốn sách. Cuốn sách kể về con đường đến với nghề bà mụ của cô bé có cái tên rất lạ Bọ Hung (sau này là Alyce - do cô tự đặt). Nội dung truyện đơn giản vậy thôi nhưng điều đọng lại có lẽ lớn lao hơn nhiều. Tìm mua: Học Trò Bà Mụ TiKi Lazada Shopee Trước hết, nói về Bọ Hung. Con bé xuất thân không ai rõ, người làng thấy nó ở đống phân rác (phân súc vật, rác rưởi, rơm rạ chất đống thối rữa), tìm hơi ấm từ những thứ bỏ đi đó. Nó sống bằng mọi cách có thể: ăn cắp một củ hành, phụ gặt hái mùa màng… Tóm lại đó là một đứa trẻ không may mắn nhưng luôn nỗ lực để tồn tại trong cái thế giới lạnh lùng mà nó đang sống. Người ta thấy nó, chỉ để thấy và chế nhạo một kẻ khốn khổ ngoài ra không còn gì khác, không một sự thương hại hay giúp đỡ đứa trẻ đó. Sống cùng đám phân rác và những người lớn vô tâm suốt, con bé mang trong mình một tâm hồn lạnh lẽo, tăm tối. Chính nó cũng cảm thấy vô vọng, vô vọng… Chỉ có điều tận sâu cùng trong tâm hồn nó, nó vẫn muốn sống và sẵn sàng chớp lấy một cơ hội để được sống. Vì thế, nó đã tìm được một chỗ ở - có mùi dễ chịu hơn nhưng không ấm bằng đống phân rác, một công việc - đứa ở - trong nhà bà mụ Jane Nhọn Sắc. Bắt đầu từ đây, Bọ Hung làm quen với các loại thảo dược và công việc phụ giúp một bà mụ qua các ca đỡ đẻ trong làng. Nó học được nhiều điều nhưng chưa bao giờ dám thử tự mình vận dụng chúng. Nó vẫn còn sợ, vẫn còn e ngại. Cũng từ ngày sống cùng bà mụ Jane, Bọ Hung không còn e sợ sự trêu chọc ác ý của bọn con trai trong làng; nó sẵn sàng đáp trả một cách nanh nọc để bảo vệ mình. Thậm chí nó đủ dũng cảm và nhân hậu để cứu một đứa trong bọn chúng bị rớt xuống nước. Hành động ấy làm thay đổi hẳn mối quan hệ giữa nó và lũ con trai, đặc biệt là đối với Will Russet - kẻ chịu ơn cứu mạng. Bọ Hung đã có bạn ở đây. Sự đổi thay không chỉ diễn ra trong mối quan hệ nói trên. Bọ Hung còn có cơ hội thực hiện những điều học lóm từ bà mụ Jane vào cuộc sống. Khởi đầu là giúp một con bò sinh nở, sau đó là giúp vợ quan quản lí thái ấp mẹ tròn con vuông. Con bé bắt đầu cảm thấy tự tin hơn và tự hào về mình. Bằng tấm lòng nhân ái của mình, con bé còn cố giúp đỡ một đứa trẻ khác có hoàn cảnh tương tự mình. Có thể nói, con bé trưởng thành bên đống phân rác nhưng tấm lòng và tâm hồn nó không phải một đống phân rác. Nói như người Việt Nam ta thì đó là “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Bọ Hung - nay là Alyce, đáng được độc giả yêu quý bởi tâm hồn nhân ái, trong sáng và nghị lực sống phi thường. Nhưng cuộc đời vốn không phải lúc nào cũng yên ổn, con đường thành nghề đâu có trải hoa hồng. Alyce đã gặp phải thất bại đầu tiên trong đời và nó chọn cách bỏ chạy. Bạn có thể cho là nó hèn nhát, không dám đương đầu thất bại. Vậy thì bạn hẳn đã quên, nó vẫn còn là đứa trẻ mười mấy tuổi đầu. Trước khi dám đương đầu với thất bại, rất nhiều người đều nảy sinh ý định chạy trốn. Chúng ta dễ đón nhận thành công nhưng không có gì là dễ chịu với thất bại. Tác giả Karen đã thể hiện rất thật nét tâm lí này của con người. Và Karen tiếp tục dẫn dắt bạn đọc theo bước chân học trò bà mụ đến quán ăn nơi cô đang làm việc để quên đi thất bại đầu đời. Những tưởng cuộc đời Alyce sẽ rẽ sang hướng khác thì một cơ may khác đưa cô bé quay trở lại con đường cũ. Alyce đã quay về, chính thức trở thành NGƯỜI HỌC VIỆC CỦA BÀ MỤ. Đây cũng là điểm tôi thích nhất ở nhân vật này. Tình yêu đối với công việc giúp những phụ nữ sinh đẻ vuông tròn đã là động lực giúp Alyce vượt qua thất bại và bắt đầu lại từ đầu. Dưới cái dáng vẻ nhỏ bé, yếu ớt của cô bé là cá tính mạnh mẽ. Cô bé không cha không mẹ ấy đã đứng lên bằng chính đôi chân và sống nhờ đôi bàn tay lao động của mình. Đó không chỉ là điều những đứa trẻ cần học hỏi, chính người lớn đôi khi cũng cần nhìn lại mình. Còn một người mà tôi muốn giới thiệu với các bạn: bà mụ Jane Nhọn Sắc. Lúc đầu, tôi không ưa người phụ nữ này lắm mặc dù bà ta tỏ ra thành thạo công việc và là người có hiểu biết về nghề của mình. Ấy là bởi cách bà đối xử với Bọ Hung khá cay độc. Bà ta cũng từng chạy trốn khi gặp khó khăn (đó là suy nghĩ của riêng tôi): không dám theo đến cùng một ca đẻ khó, chạy đi đỡ một ca khác và bỏ con bé giúp việc ở lại với sản phụ. Sau này, đọc đến gần cuối truyện tôi bỗng nhận ra con người này không hoàn toàn xấu. Bà ta nói Alyce “không phải người tôi cần” vì người học việc Jane muốn phải là “người dám chấp nhận thử thách, rủi ro và thất bại, rồi lại cố gắng lần nữa mà không bỏ cuộc. Trẻ con không ngừng sinh ra dù bà mụ bỏ cuộc.” Chính lời tâm sự ấy của Jane đã tác động không nhỏ tới quyết định của Alyce. Và cũng chính bà ta đã tiếp nhận sự quay lại của Alyce. Nếu tạm bỏ qua những cay độc và khắt khe của bà, bạn sẽ thấy đó là một người thầy mà Alyce cần có. Sự dạy dỗ quả là muôn hình muôn vẻ.***Bà Karen Cushman sinh tại Chicago, bang Illinois, Mỹ. Ngoài bằng cử nhân về Nhân Văn và Bảo Tàng, bà còn tự học về thư viện, thuật gấy mê, múa ba-lê và đặc biệt là y học. Được mệnh danh là nhà văn hư cấu lịch sử kiệt xuất dành cho thanh thiếu niên, 50 tuổi bà mới viết quyển sách đầu tay CATHERINE, CALLED BIRDY và đoạt ngay giải bạc Newbery năm 1995; sang năm 1996, THE MIDWIFE’S APPRENTICE đoạt giải vàng Newbery - cả hai tác phẩm đều xuất phát từ việc nghiên cứu lịch sử và văn hóa các nước Anh thời Trung cổ của bà. Tác phẩm thứ ba nói về thời kỳ đổ xô đi tìm vàng trong lịch sử Hoa Kỳ. Bà cũng là tác giải của MATHILDA BONE, THE BALLAD OF LUCY WHIPPLE và gần đây nhất là RODZINA.Tác phẩm Học trò bà mụ (Nguyên tác: The Midwife’s Apprentice) đoạt:- Huy chương vàng Newbery năm 1996.- Lọt vào danh sách những quyển sách hay nhất của Hiệp hội Thư viện Mỹ năm 1996.- Sách hay nhất cho thanh thiếu niên năm 1996.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Học Trò Bà Mụ PDF của tác giả Karen Cushman nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.