Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nhật Ký Bí Mật của Tiểu Thư Miranda - Julia Quinn

Tiểu thuyết lãng mạn lịch sử xuất sắc nhất - RITA Awards 2007 Hôm nay mình đã yêu. Ở tuổi lên mười, tiểu thư Miranda Cheever không cho thấy bất cứ dấu hiệu nào của một Sắc đẹp Lộng lẫy. Cô bé đã học được cách chấp nhận những kỳ vọng của xã hội đối với mình… cho đến một buổi chiều, khi Nigel Bevelstoke - chàng Tử tước Turner đẹp trai, phong nhã – nghiêm trang hôn tay cô bé và hứa rằng: một ngày kia em sẽ trở thành chính mình, em sẽ thật xinh đẹp và thông minh. Ngày hôm ấy, Miranda đã biết mình sẽ yêu Turner mãi mãi. Mười năm sau, tất cả đều thay đổi, trừ tình yêu của Miranda dành cho Turner. Đi qua một cuộc hôn nhân đau khổ, Turner giờ trở thành một người đàn ông không còn niềm tin, cô độc và cay nghiệt. Còn Miranda, cô vừa tròn hai mươi, xinh đẹp theo cách của riêng mình, ngọt ngào vừa đủ, điềm tĩnh vừa đủ và mạnh mẽ vừa đủ. Đủ để không cho phép tình yêu kéo dài mười năm dành cho Turner một lần nữa trôi qua tầm tay… *** Ở tuổi lên mười, tiểu thư Miranda Cheever không hề bộc lộ dấu hiệu nào hứa hẹn một Sắc Đẹp Lộng Lẫy. Mái tóc nâu thảm hại đồng màu với đôi mắt; đôi chân dài khác thường từ chối bất cứ chuyển động nào có thể coi là duyên dáng dù mơ hồ nhất. Lúc nào mẹ cô bé cũng thấy cô nhảy loi choi khắp nhà. Thật không may cho Miranda, cái xã hội nơi cô bé sinh ra lại rất coi trọng vẻ bề ngoài của nữ giới. Và dù chỉ mới mười tuổi nhưng cô bé đã hiểu rằng về mặt này mình bị coi là thua kém so với hầu hết các bạn nữ khác trong vùng. Trẻ con thường có cách khám phá ra những điều như vậy, thường là từ những đứa trẻ khác. Chẳng hạn như sự cố không mấy vui vẻ xảy ra tại bữa tiệc sinh nhật lần thứ mười một của tiểu thư Olivia và công tử Winston Bevelstoke, cặp sinh đôi của vợ chồng ngài Bá tước xứ Rudland. Nhà Miranda khá gần Haverbreaks, điền sản của tổ tiên dòng họ Rudland gần Ambleside, quận Lake, Cumberland, và cô bé thường học bài cùng Olivia và Winston khi bọn trẻ về đây ở. Chúng trở thành bộ ba không thể tách rời và hiếm khi chơi với những đứa trẻ khác trong vùng, vì hầu hết đều sống cách đó khoảng một giờ đi ngựa. Khoảng chục lần mỗi năm, đặc biệt là những dịp sinh nhật, con cái tất cả các gia đình quý tộc và thượng lưu trong vùng lại tụ họp với nhau. Vì lý do này mà nữ Bá tước Rudland phải thốt ra một tiếng rền rĩ chẳng hề ra dáng quý bà; mười tám thằng nhóc tai quái đang hào hứng tha bùn đất khắp phòng khách nhà bà sau khi bữa tiệc của cặp sinh đôi tổ chức trong khu vườn bị trận mưa phá hỏng. “Má cậu dính bùn kìa, Livvy,” Miranda vừa nói vừa đưa tay lên lau vết bùn. Olivia thở hắt ra vẻ mệt mỏi đầy kịch tính. “Thế thì tốt hơn hết là mình nên vào phòng rửa mặt. Mình không muốn mẹ trông thấy mình thế này. Mẹ ghét bẩn, còn mình thì ghét phải nghe mẹ kêu ca bà ghét bẩn đến thế nào.” “Mình không hiểu bà lấy đâu ra thời gian để phàn nàn về vết bùn nhỏ trên mặt cậu trong khi cả tấm thảm của bà giờ toàn bùn đất thế kia cơ chứ.” Miranda liếc William Evans, thằng bé vừa mới hô “XUNG PHONGGGGGG” rồi phóng người lên trường kỷ. Cô bé phải bặm môi lại để khỏi cười. “Và cả đồ đạc nữa.” “Cũng thế cả thôi, tốt nhất là mình nên làm gì đó.” Nói rồi cô bé lẻn ra khỏi phòng, bỏ lại Miranda ở gần lối ra vào. Miranda quan sát cuộc bạo loạn chừng một vài phút rồi khá bằng lòng chấp nhận cái vị trí người-quan-sát thường lệ của mình, cho tới khi qua khóe mắt, cô bé thấy có ai đó đang đi tới. “Bạn tặng quà sinh nhật gì cho Olivia vậy Miranda?” Miranda quay sang thì thấy Fiona Bennet đang đứng trước mặt mình, xinh xắn trong chiếc váy yếm trắng kèm khăn quàng màu hồng. “Một cuốn sách,” cô bé đáp. “Olivia thích đọc sách. Còn bạn mang gì tới?” Fiona giơ ra một chiếc hộp có họa tiết vui mắt được thắt dây nơ màu bạc. “Một bộ sưu tập các dải ruy băng. Bằng lụa và xa tanh, thậm chí là bằng nhung nữa. Bạn có muốn xem không?” “Ôi, nhưng tớ không muốn làm hỏng lớp giấy gói đâu.” Fiona nhún vai. “Bạn chỉ cần tháo sợi dây buộc cho cẩn thận là được. Tớ vẫn làm thế với quà Giáng sinh mà.” Nói rồi cô bé kéo sợi nơ buộc và nâng cái nắp hộp lên. Miranda nín thở. Ít nhất có tới một tá ruy băng nằm trên lớp lót bằng nhung đen của chiếc hộp, mỗi sợi được thắt nơ bướm cực kỳ trang nhã. “Đẹp quá Fiona. Mình có thể xem một cái không?” Fiona nheo mắt. “Tay tớ không có tẹo bùn nào đâu. Thấy không?” Miranda giơ hai bàn tay lên để cô bạn kiểm tra. “Ừ, được rồi.” Miranda thò tay vào chọn một chiếc ruy băng màu tím. Chất xa tanh trơn mượt khủng khiếp và mềm mại trôi trong bàn tay cô bé. Cô bé đặt cái nơ bướm điệu đà ướm thử lên mái tóc mình. “Bạn nghĩ sao?” Fiona đảo tròn mắt. “Không phải màu tím, Miranda ạ. Ai cũng biết chúng dành cho tóc vàng cơ. Màu này thường bìm trên nền nâu. Bạn hiển nhiên không thể đeo nó rồi.” Miranda đưa trả dải ruy băng cho cô bạn. “Vậy màu nào thì hợp với tóc nâu? Xanh lá à? Mẹ mình có mái tóc màu nâu và mình đã thấy mẹ buộc những dải ruy băng màu xanh lá.” “Xanh lá cây có thể chấp nhận được, tớ nghĩ thế. Nhưng trên mái tóc vàng thì sẽ đẹp hơn. Mọi thứ đều đẹp hơn trên nền tóc vàng.” Miranda cảm thấy một thoáng phẫn nộ dâng lên trong lòng. “Vậy thì tớ không hiểu bạn sẽ làm gì hả, Fiona, bởi vì tóc bạn cũng nâu như tóc tớ mà.” Fiona giật lùi lại, nổi cáu. “Không phải!” “Đúng thế mà!” “Không phải!” Miranda nhoài người tới trước, hai mắt nheo lại vẻ đe dọa. “Bạn nên soi gương khi về nhà, Fiona ạ, bởi vì tóc bạn không phải màu vàng.” Fiona đặt dải ruy băng tím trở lại hộp và sập nắp đánh cạch một cái. “Vậy à, nó đã từng là màu vàng, còn tóc cậu chẳng bao giờ có màu đó cả. Và ngoài ra, tóc tôi có màu nâu nhạt, mà mọi người đều biết là nó đẹp hơn màu nâu sẫm. Sẫm như tóc bạn ấy.” “Tóc nâu sẫm chẳng có gì là sai trái cả!” Miranda đáp trả. Nhưng cô bé cũng biết rằng đa số người Anh đều không đồng tình với ý kiến của mình. “Và,” Fiona đắc thắng bổ sung, “bạn có đôi môi bự như con sên!” Bàn tay Miranda vụt đưa lên che miệng. Cô bé biết mình không đẹp; cô bé biết mình thậm chí còn không được coi là xinh xắn nữa cơ. Nhưng từ trước đến giờ cô bé chưa bao giờ thấy đôi môi của mình có gì không ổn cả. Cô bé ngước nhìn nhỏ bạn đang mỉm cười tự mãn. “Còn bạn thì có tàn nhang!” Cô la lên. Fiona giật lùi lại như vừa bị một cái tát. “Tàn nhang sẽ biến mất dần. Các nốt trên mặt tôi sẽ biến đi hết trước khi tôi bước sang tuổi mười tám. Tối nào mẹ tôi chẳng dặm nước chanh vắt lên.” Cô nàng cười khẩy vẻ khinh miệt. “Nhưng bạn thì vô phương cứu chữa, Miranda ạ. Bạn xấu xí.” “Bạn ấy không xấu!” Cả hai cô bé cùng quay sang nhìn Olivia - vừa mới từ phòng rửa mặt quay trở lại. “Ồ, Olivia,” Fiona nói. “Mình biết bạn kết thân với Miranda bởi vì cô ta sống gần nhà và cùng học bài với bạn, nhưng bạn phải thừa nhận là cô ta không xinh. Mẹ mình nói cô ta sẽ chẳng bao giờ lấy chồng được.” Đôi mắt xanh của Olivia lóe lên ánh nguy hiểm. Cô con gái độc nhất của Bá tước Rudland không bao giờ tha thứ một lỗi lầm nào, và Miranda lại là người bạn thân nhất của cô bé. “Miranda sẽ lấy được người chồng tốt hơn bạn đấy, Fiona Bennet ạ! Ba bạn ấy là một Tòng nam tước trong khi ba bạn chỉ là thường dân.” “Là con gái Tòng nam tước cũng chẳng có gì khác biệt cả trừ phi cô ta có nhan sắc hoặc có tiền,” Fiona ngân nga nhắc lại những lời mà cô bé hiển nhiên đã được nghe lúc ở nhà. “Mà cả hai thứ ấy Miranda đều chẳng có.” “Im đi, bạn là đồ bò già ngu ngốc!” Olivia giậm chân quát. “Đây là tiệc sinh nhật của tôi, nếu bạn không thể cư xử tử tế thì bạn có thể về!” Fiona nuốt giận. Cô bé biết tốt hơn là không nên làm cho Olivia - con gái của những người có đẳng cấp xã hội cao nhất vùng - xa lánh mình. “Mình xin lỗi, Olivia,” cô bé lẩm bẩm nói. “Đừng xin lỗi tôi. Xin lỗi Miranda ấy.” “Tôi xin lỗi, Miranda.” Miranda vẫn im lặng cho tới khi Olivia phải đá cô bé một cái. “Tôi chấp nhận lời xin lỗi của bạn,”miễn cưỡng nói. Fiona gật đầu rồi chạy biến. “Mình không thể tin được cậu lại gọi cậu ta là con bò già ngu ngốc,” Miranda nói. “Bạn cần phải học cách tự bảo vệ mình, Miranda ạ.” “Trước khi cậu tham gia vào, mình vẫn đang tự bảo vệ rất tuyệt đấy chứ, Livvy. Mình chỉ không muốn tự bảo vệ một cách quá ầm ĩ thôi.” Olivia thở dài. “Mẹ bảo mình không có chút xíu khả năng kiềm chế hay lương tri gì cả.” “Đúng là vậy,” Miranda tán thành. “Miranda!” “Đó là sự thật, cậu đúng là như thế mà. Nhưng dù thế nào mình vẫn yêu cậu.” “Mình cũng yêu cậu, Miranda. Và đừng để tâm đến Fiona già ngớ ngẩn. Khi nào lớn cậu có thể cưới Winston và rồi chúng mình sẽ thật sự là chị em.” Miranda liếc ngang qua phòng nhìn Winston vẻ hoài nghi. Cậu đang giật tóc một cô bé con. “Mình không biết nữa,” cô bé e dè nói. “Mình không chắc là mình muốn lấy Winston đâu.” “Vớ vẩn. Như thế thật hoàn hảo. Mà nhìn xem, anh ấy mới làm đổ rượu pân ra váy của Fiona kìa.” Miranda cười toe toét. “Đi với mình nào,” Olivia nói, cầm tay cô bạn. “Mình muốn mở quà. Mình hứa là sẽ reo to nhất khi nhận quà của cậu.” Hai cô bé trở lại phòng khách, rồi Olivia và Winston mở quà. Tạ ơn Chúa (theo ý kiến của Phu nhân Rudland), hoàn tất việc mở quà vào đúng bốn giờ, thời điểm những đứa trẻ phải về nhà. Đứa nào cũng được đích thân phụ huynh đến đón, ai cũng xem chuyện được mời tới nhà Haverbreaks là một niềm vinh dự, và không vị phụ huynh nào lại muốn bỏ lỡ cơ hội làm thân với ông bà Bá tước. Ngoại trừ bố mẹ của Miranda, đúng thế. Đến năm giờ, cô bé vẫn còn ở phòng khách nhà Bevelstoke, cùng Olivia xem xét các chiến lợi phẩm. “Ta không biết có chuyện gì với bố mẹ cháu thế, Miranda,” Phu nhân Rudland nói. “Ôi, cháu biết đấy ạ,” Miranda hào hứng đáp. “Mẹ cháu đã đến Scotland thăm bà ngoại, và cháu dám chắc là ba cháu đã quên béng cháu rồi. Ba cháu vẫn thường thế khi ông mải làm việc với một bản thảo nào đó. Ông dịch từ tiếng Hy Lạp.” “Ta biết,” Phu nhân Rudland mỉm cười. “Hy Lạp cổ đại.” “Ta biết,” Phu nhân Rudland thở dài. Đây không phải lần đầu tiên ngài Rupert Cheever quên mất cô con gái của mình. “Chà, phải tìm cách đưa cháu về nhà thôi.” “Con sẽ đi với bạn ấy,” Olivia đề xuất. “Con và Winston cần phải cất đồ chơi mới và viết thiệp cảm ơn. Nếu không làm việc đó tối nay, con sẽ không nhớ được ai đã tặng con thứ gì.” “Nhưng mẹ không thể để một người hầu đưa Miranda về nhà được. Bạn ấy sẽ không có ai để trò chuyện cả.” “Tớ có thể nói chuyện với người hầu mà,” Miranda nói. “Tớ vẫn thường xuyên nói chuyện với bọn họ ở nhà.” “Không phải với người hầu nhà tớ,” Olivia thì thầm. “Bọn họ cứng nhắc và câm như hến, lại còn thường nhìn tớ vẻ không bằng lòng nữa chứ.” “Hầu như lúc nào con cũng đáng bị nhìn với vẻ không hài cả,” Phu nhân Rudland ngắt ngang, âu yếm vỗ đầu cô con gái. “Ta tìm ra giải pháp cho cháu rồi đây, Miranda. Tại sao chúng ta không nhờ Nigel đưa cháu về nhà nhỉ?” “Nigel ư!” Olivia kêu lên. “Miranda, cậu thật là chú vịt may mắn.” Miranda nhướn mày. Cô bé chưa bao giờ gặp anh trai lớn của Olivia. “Được thôi,” cô bé từ tốn nói. “Tớ mừng vì cuối cùng cũng được gặp anh ấy. Cậu vẫn luôn miệng kể về anh ấy mà, phải không Olivia.” Phu nhân Rudland ra lệnh cho một cô hầu gái đi tìm Nigel. “Cháu chưa bao giờ gặp Nigel sao Miranda? Kỳ lạ thật. À, ta cho là vì nó thường chỉ về nhà vào dịp Giáng sinh, mà Giáng sinh thì cháu lại hay đi Scotland. Ta đã phải dọa sẽ từ mặt nó để bắt nó về nhà vào ngày sinh nhật của hai đứa sinh đôi đấy. Nó không dự bữa tiệc vì sợ một trong mấy bà mẹ kia sẽ cố gắng gả một đứa trẻ mười tuổi cho nó.” “Nigel mười chín rồi, anh ấy là một đám rất sáng giá đấy,” Olivia thản nhiên nói. “Anh ấy là một Tử tước. Và cực kỳ đẹp trai. Trông anh ấy giống mình.” “Olivia!” bà Rudland nhắc nhở vẻ không hài lòng. “Thì đúng thế mà mẹ. Nếu là con trai thì con sẽ rất đẹp trai cho xem.” “Là con gái thì cậu cũng xinh xắn thế còn gì, Livvy,” Miranda thành thực nói, nhìn những lọn tóc vàng của cô bạn với vẻ hơi ghen tị. “Cậu cũng vậy. Này, cậu chọn một dải ruy băng của con bò Fiona đi. Dù gì mình cũng không cần toàn bộ chỗ ruy băng này.” Miranda mỉm cười trước lời nói dối của cô bạn. Olivia là người bạn tốt như thế đấy. Cô bé nhìn xuống hộp ruy băng và ngoan cố chọn sợi xa tanh màu tím. “Cảm ơn cậu, Livvy. Thứ Hai mình sẽ buộc nó đến trường.” “Mẹ gọi con ạ?” Nghe giọng nói trầm ấm, Miranda quay mặt về lối cửa ra vào và gần như há hốc vì kinh ngạc. Đang đứng ở đó là một sinh vật lộng lẫy tuyệt vời nhất mà cô bé từng trông thấy. Olivia đã nói rằng Nigel mười chín tuổi, nhưng Miranda ngay lập tức nhận thấy anh đã ra dáng đàn ông lắm rồi. Đôi vai rộng cân đối trông như vẽ, thân hình thanh thoát nhưng rắn chắc. Tóc anh đậm màu hơn tóc Olivia nhưng vẫn có ánh vàng kim, bằng chứng cho thấy anh thường xuyên ở ngoài trời. Nhưng phần đẹp nhất của anh, Miranda lập tức nghĩ ra, chính là đôi mắt. Nó sáng ngời, màu xanh lam rạng rỡ, giống đôi mắt của Olivia. Chúng cũng lấp lánh ánh tinh nghịch, láu lỉnh. Miranda mỉm cười. Mẹ cô bé vẫn thường bảo rằng có thể nhìn vào đôi mắt của một người mà nói về người đó, mà anh trai của Olivia thì có đôi mắt tuyệt đẹp. “Nigel, con hộ tống Miranda về nhà được không?” bà Rudland hỏi. “Ba của cô bé dường như bị cầm chân ở đâu đó mất rồi.” Miranda tự hỏi tại sao Nigel lại nhăn mặt khi nghe mẹ gọi tên mình. “Chắc chắn rồi, thưa mẹ. Olivia, em đã có một bữa tiệc vui vẻ chứ hả?” “Đập phá tanh bành.” “Winston đâu rồi?” Olivia nhún vai. “Anh ấy đi chơi với thanh kiếm Billy Evans tặng rồi.” “Anh hy vọng không phải là đồ thật.” “Chúa phù hộ chúng ta nếu nó là đồ thật,” bà Rudland xen vào. “Được rồi, Miranda, chúng ta sẽ đưa cháu về. Ta tin là áo choàng của cháu đang ở phòng bên.” Bà biến mất qua khung cửa và xuất hiện trở lại vài giây sau với chiếc áo choàng bền chắc màu nâu của Miranda. “Chúng ta lên đường chứ, Miranda?” Sinh vật đến từ thiên đường ấy đưa tay ra cho cô bé. Miranda khoác áo rồi đặt bàn tay mình vào tay anh. Thiên đường! “Mình sẽ gặp cậu vào thứ Hai nhé!” Olivia gọi với theo. “Và đừng lo lắng về những gì Fiona nói. Cậu ta chỉ là con bò già ngớ ngẩn thôi.” “Olivia!” “Thì đúng thế mà mẹ. Con không muốn bạn ấy quay lại đây nữa.” Miranda mỉm cười khi để anh trai Olivia dẫn xuống tiền sảnh, giọng của Olivia và bà Rudland nhỏ dần, nhỏ dần. “Cảm ơn anh rất nhiều vì đã đồng ý đưa em về nhà, Nigel,” cô bé khẽ nói. Anh lại nhăn mặt. “Em... em xin lỗi,” cô bé vội nói. “Đáng lẽ em nên nói ‘thưa ngài’, đúng không? Chỉ tại Olivia và Winston thường nhắc đến anh bằng tên riêng nên em...” Cô bé khổ sở nhìn xuống sàn nhà. Chỉ mới hai phút được đi cạnh anh mà cô bé đã mắc sai lầm ngớ ngẩn rồi. Anh dừng lại và cúi xuống để cô bé có thể nhìn thấy mặt mình. “Đừng lo lắng về cái từ ‘thưa ngài’ ấy, Miranda. Anh sẽ nói cho em một bí mật nhé.” Đôi mắt Miranda tròn xoe, cô bé quên cả thở. “Anh ghét tên thánh của mình.” “Đó không hẳn là một bí mật, Nig... ý em là, thưa ngài, mà mặc kệ anh muốn được gọi là gì cũng được. Cứ khi nào mẹ anh gọi anh bằng cái tên đó là anh lại nhăn mặt.” Nigel mỉm cười với Miranda. Có điều gì đó khiến trái tim anh nhói lên khi Nigel nhìn thấy cô gái bé nhỏ với nét mặt quá ư nghiêm nghị này chơi với đứa em gái ương bướng không thể khuất phục của anh. Cô bé là một sinh vật nhỏ nhắn trong cái vẻ ngoài thật buồn cười, nhưng đôi mắt nâu to tròn rất có hồn của cô lại ánh lên vẻ gì đó khá đáng yêu. “Thế anh được gọi là gì ạ?” Miranda hỏi. Anh mỉm cười với cô bé, không hề kiểu cách. “Turner.”[1] [1] Có nghĩa là Thợ tiện. Mất một lúc anh tưởng cô bé sẽ không nói gì. Miranda chỉ đứng đó, hoàn toàn bất động, chỉ có đôi mắt vẫn long lanh. Và rồi, như thể cuối cùng đã tìm ra kết luận, cô bé nói, “Cái tên hay thật. Hơi kỳ lạ một chút, nhưng em thích.” “Hay hơn Nigel nhiều, em không nghĩ thế à?” Miranda gật đầu. “Anh đã chọn nó à? Em vẫn nghĩ rằng người ta nên tự chọn tên cho mình. Em cũng biết hầu hết người ta sẽ chọn một cái tên nào đó khác với tên mình được đặt.” “Và em sẽ chọn tên gì?” “Em không chắc nữa, nhưng không phải là Miranda. Thứ gì đó mộc mạc hơn, em nghĩ thế. Người ta kỳ vọng một điều gì đó khác khi nghe đến cái tên Miranda và hầu như thường thất vọng khi họ gặp em.” “Vô lý,” Turner mạnh mẽ phản đối. “Em là một Miranda hoàn hảo.” Cô bé cười rạng rỡ. “Cảm ơn anh, Turner. Em có thể gọi anh như thế không?” “Dĩ nhiên rồi. Và anh e là không phải anh chọn cái tên này. Nó chỉ là một tước hiệu lịch thiệp. Tử tước Turner. Từ hồi tới Eton đến giờ anh vẫn dùng cái tên ấy thay cho Nigel.” “Ồ. Nó hợp với anh, em nghĩ thế.” “Cảm ơn em,” anh trang trọng đáp lại, hoàn toàn bị đứa trẻ nghiêm nghị này mê hoặc. “Giờ thì, đưa tay em cho anh lần nữa nào, chúng ta sẽ lên đường.” “Cái gì thế?” “Cái này ạ? Ồ, ruy băng ấy mà. Fiona Bennet tặng khoảng hai chục chiếc cho Olivia, và Olivia nói em có thể giữ mộtchiếc.” Mắt Turner hơi nheo lại rất khẽ khi anh nhớ lại Olivia đã nói gì lúc tạm biệt Miranda. Đừng lo lắng về những gì Fiona nói. Anh kéo dải ruy băng ra khỏi tay cô bé. “Anh nghĩ chỗ của ruy băng là ở trên mái tóc chứ nhỉ.” “Ờ, nhưng nó không hợp với váy của em,” Miranda yếu ớt phản đối. Lúc này anh đã buộc nó thật chặt lên đỉnh đầu của cô bé rồi. “Nó trông thế nào ạ?” cô bé thì thầm. “Tuyệt vời.” “Thật ạ?” Cô tròn xoe mắt vẻ hoài nghi. “Thật mà. Anh luôn nghĩ rằng ruy băng màu tím trông đặc biệt xinh xắn trên mái tóc nâu.” Miranda thấy mình phải lòng Tuner ngay tức khắc. Cảm xúc quá mãnh liệt đến nỗi cô bé quên cả cảm ơn lời khen của anh. “Chúng ta khởi hành chứ?” anh nói. Cô gật đầu, không tin tưởng chính giọng nói của mình nữa. Họ rời ngôi nhà đến tàu ngựa. “Anh nghĩ chúng mình có thể cưỡi ngựa,” Turner nói. “Một ngày quá đẹp để ngồi trong xe.” Miranda lại gật đầu. Thời tiết ấm áp khác thường đối với tháng Ba. “Em có thể lấy chú ngựa con của Olivia. Anh chắc chắn là con bé không thấy phiền đâu.” “Livvy không có ngựa con,” cuối cùng thì Miranda cũng tìm lại được giọng nói của mình. “Bây giờ cậu ấy có một con ngựa cái hẳn hoi. Em cũng có một con ở nhà. Bọn em không phải là trẻ con.” Turner nén cười. “Ừ, anh có thể thấy là bọn em không còn nhỏ nữa. Anh mới ngớ ngẩn làm sao chứ. Anh chẳng suy nghĩ gì cả.” Vài phút sau, yên ngựa đã thắng xong, và họ bắt đầu chặng đường mười lăm phút đi ngựa đến nhà Cheever. Miranda vẫn im lặng khoảng một phút đầu, quá hạnh phúc đến nỗi không muốn làm hỏng khoảnh khắc này bằng những lời nói. “Ở bữa tiệc em có vui không?” rốt cuộc Turner lên tiếng. “Ồ, vâng. Phần lớn thời gian rất vui ạ.” “Phần lớn thời gian thôi à?” Anh thấy Miranda nhăn mặt. Rõ ràng cô bé không định nói quá nhiều. “À,” cô bé chậm rãi đáp, cắn môi rồi lại nhả ra, “một cô gái đã nói những lời không tốt với em.” “Ồ?” Anh biết tốt hơn là không nên tò mò thái quá. Và quả nhiên anh đã đúng, bởi vì khi Miranda nói chuyện, cô bé gợi anh nhớ đến em gái mình - đang ngước nhìn anh chăm chú với ánh mắt thẳng thắn trong khi từ ngữ thì ào ào mạnh mẽ. “Đó là Fiona Bennet,” cô bé nói với vẻ cực kỳ chán ghét, “Olivia gọi cô ta là con bò già ngu ngốc, và em phải nói là em không thấy hối tiếc khi cậu ấy làm vậy.” Turner vẫn giữ thái độ trang nghiêm thích hợp. “Anh cũng không thấy tiếc vì con bé đã làm vậy, nếu Fiona đã nói những lời tàn nhẫn với em.” “Em biết mình không xinh đẹp,” Miranda bùng nổ. “Nhưng thật là thô lỗ bất lịch sự khi nói vậy, ấy là chưa kể còn ám chỉ thẳng thừng color="black">Turner nhìn Miranda một lúc lâu, không chắc mình phải an ủi cô gái bé nhỏ này như thế nào. Miranda không xinh đẹp, đó là sự thật, và nếu anh cố bảo rằng cô bé xinh xắn thì cô bé sẽ không tin anh. Nhưng cô bé không xấu xí. Chỉ... hơi vụng về. Tuy nhiên anh đã được giải thoát khỏi tình huống khó khăn này, không phải nói bất cứ điều gì nhờ câu bình luận tiếp theo của Miranda. “Đó là vì mái tóc màu nâu này, em nghĩ thế.” Anh nhướn mày. “Nó chẳng đúng mốt gì cả,” Miranda giải thích. “Và cả đôi mắt nâu nữa. Em cũng quá gầy và mặt em quá dài, em quá xanh xao nữa.” “Chà, những cái đó đều đúng cả,” Turner nói. Miranda quay sang đối diện với anh, đôi mắt cô bé mở to, nhòa lệ và gương mặt đượm vẻ buồn rầu. “Hiển nhiên em có mái tóc và đôi mắt màu nâu. Không có gì phải bàn cãi ở điểm đó cả.” Anh nghiêng đầu vờ săm soi nghiên cứu cô bé thật toàn diện. “Em khá gầy, và mặt em đúng là hơi dài một tí. Và em rõ ràng là trông xanh tái.” Môi Miranda run run, và Turner không thể trêu chọc cô bé thêm nữa. “Nhưng mà,” anh mỉm cười, “anh lại thích phụ nữ có tóc và mắt màu nâu hơn.” “Không phải thế!” “Đúng thế đấy. Lúc nào anh cũng thích như vậy. Anh cũng thích họ gầy và xanh xao nữa.” Miranda nhìn anh vẻ hoài nghi. “Thế còn mặt dài thì sao?” “À, anh phải công nhận anh chưa bao giờ nghĩ ngợi nhiều về vấn đề ấy, nhưng anh chắc chắn là không thấy phiền lòng với một khuôn mặt dài.">“Fiona Bennet nói em có đôi môi bự,” cô bé vẫn bướng bỉnh nói. Turner hơi mỉm cười đáp lại. Cô bé thở dài thườn thượt. “Trước đây em thậm chí chưa bao giờ nhận thấy là mình có đôi môi bự.” “Không quá bự đâu.” Cô bé ném cho anh ánh nhìn cảnh giác. “Anh đang nói thế để làm em thấy dễ chịu hơn thôi.” “Quả là anh muốn em cảm thấy khá hơn thật, nhưng đó không phải là do anh nói thế. Và lần tới Fiona Bennet mà nói em có đôi môi bự thì hãy bảo với nó là nó sai rồi. Em có đôi môi đầy đặn.” “Có gì khác nhau đâu?” Cô bé nhìn anh nôn nóng, đôi mắt tối sẫm hết sức nghiêm nghị. Turner hít vào một hơi. “Chà chà,” anh nói tránh. “Môi bự thì không hấp dẫn. Nhưng môi đầy đặn thì có đấy.” “Ồ.” Điều đó có vẻ làm cô bé hài lòng. “Môi Fiona mỏng dính.” “Môi đầy đặn thì tốt hơn nhiều, nhiều so với môi mỏng,” Turner nói dứt khoát. Anh khá thích cô gái bé nhỏ vui nhộn này và muốn cô bé vui hơn. “Tại sao?” Turner thầm cầu xin các vị thần của nghi thức xã giao và tính đúng đắn chừng mực tha lỗi trước khi trả lời: “Đôi môi đầy đặn thì hôn sẽ tuyệt hơn.” “Ồ.” Miranda đỏ mặt, và rồi cô bé mỉm cười. “Hay quá.” Turner cảm thấy hài lòng với bản thân một cách ngớ ngẩn. “Em có biết anh nghĩ gì không, tiểu thư Miranda Cheever? “Dạ?” “Anh nghĩ em chỉ cần trở thành chính mình thôi.”[2] Vừa nói ra điều đó, anh lập tức cảm thấy hối tiếc. Chắc chắn cô bé sẽ hỏi ý anh là gì, và anh chẳng biết phải trả lời cô ra sao nữa. [2] Nguyên văn là “I think you just need to grow into yourself” và Miranda hiểu lầm ý của anh nói cô bé cần phải lớn hơn để cơ thể cân đối với đôi chân quá dài của mình. Nhưng cô bé lớn trước tuổi này chỉ nghiêng nghiêng đầu suy nghĩ về tuyên bố của anh. “Em mong là anh đúng,” cuối cùng cô nói. “Hãy nhìn chân em mà xem.” Một tiếng ho kín đáo lấp liếm nụ cười nén vội trong họng Turner. “Ý em là gì?” “Thế đấy, chân quá dài. Mẹ em thường nói rằng chân dài đến nách vậy.” “Có vẻ như chân em bắt đầu từ phần hông của em đấy chứ.” Miranda cười rúc rích. “Em đang nói ẩn dụ mà.” Turner nháy mắt. Cô bé mười tuổi này quả là thích lý sự. “Ý em là,” cô tiếp tục, “đôi chân của em có kích thước không cân đối so với phần còn lại của cơ thể. Em nghĩ đó là lý do em không thể học khiêu vũ được. Em cứ giẫm vào ngón chân của Olivia hoài.” “Giẫm lên ngón chân của Olivia?” “Chúng em tập khiêu vũ cùng nhau,” Miranda mau lẹ giải thích. “Em nghĩ nếu các bộ phận trên cơ thể em ăn khớp với đôi chân thì em sẽ không quá lóng ngóng vụng về. Vì vậy em cho là anh đúng đấy. Em đúng là phải lớn hơn để cho vừa với chính mình.”[3] [3] Nguyên văn là “I do have to grow into myself.” “Tuyệt vời,” Turner nói, vui mừng nhận ra chẳng hiểu xoay xở thế nào mà anh đã nói trúng điều cần nói. “À, có vẻ như chúng ta đến nơi rồi.” Miranda ngước nhìn ngôi nhà đá xám xịt của mình. Nó tọa lạc ngay trên một trong những dòng suối ăn thông với các hồ trong vùng, và dòng suối này chảy qua cây cầu nhỏ bằng đá cuội dẫn đến cửa trước của ngôi nhà. “Cảm ơn anh rất nhiều vì đã đưa em về, Turner. Em hứa sẽ không bao giờ gọi anh là Nigel.” “Em cũng hứa là sẽ véo Olivia nếu nó gọi anh là Nigel chứ?” Miranda khẽ bật ra tiếng cười khúc khích và bụm tay che miệng. Cô bé gật đầu. Turner xuống ngựa rồi quay sang giúp cô bé xuống. “Em có biết anh nghĩ em nên làm gì không hả Miranda?” anh đột nhiên hỏi. “Gì ạ?” “Anh nghĩ em nên viết nhật ký.” Cô bé chớp mắt ngạc nhiên. “Tại sao? Ai muốn đọc nó chứ?” “Không ai cả. Em giữ riêng nó cho mình thôi. Và có thể một ngày nào đó sau khi em qua đời, con cháu của em sẽ muốn đọc nó để biết được hồi còn trẻ em sống như thế nào.” Cô nghiêng nghiêng đầu. “Ngộ nhỡ em không có con cháu thì sao?” Turner bất giác đưa tay vò tóc cô bé. “Em hỏi nhiều quá đấy, mèo con ạ.” “Nhưng nhỡ em không có con cháu thì sao?” Chúa ơi, cô bé thật cứng đầu. “Có lẽ em sẽ nổi tiếng.” Anh thở dài. “Và bọn trẻ học ở trường sẽ muốn được biết về em.” Miranda ném cho anh ánh mắt hoài nghi. “Ôi, thôi được rồi, em muốn biết tại sao anh thật sự nghĩ em nên viết nhật ký không?” Cô bé gật đầu. “Bởi vì một ngày nào đấy em sẽ lớn lên và trở thành chính mình, em sẽ xinh đẹp và thông minh. Rồi em có thể đọc lại nhật ký và nhận ra những đứa con gái như Fiona Bennet mới ngốc nghếch làm sao. Và em sẽ cười khi nhớ lại rằng mẹ em đã nói chân em dài tới tận nách. Và có thể em sẽ dành cho anh một nụ cười tủm tỉm khi nhớ lại buổi trò chuyện tuyệt vời giữa chúng ta hôm nay.” Miranda ngước nhìn anh, nghĩ rằng anh chắc hẳn phải là một trong những vị thần Hy Lạp mà ba vẫn thường đọc cho mình nghe. “Anh biết em nghĩ gì không?” cô bé thì thầm. “Em nghĩ Olivia rất may mắn vì có anh là anh trai.” “Anh nghĩ nó rất may mắn vì có em là bạn.” Môi Miranda run run. “Em sẽ dành cho anh một nụ cười rạng rỡ, Turner ạ,” cô bé thì thầm. Anh cúi xuống ân cần hôn lên mu bàn tay của cô bé đúng như anh hẳn sẽ làm với một tiểu thư xinh đẹp nhất London. “Hãy chờ xem nhé, mèo con.” Anh mỉm cười và gật đầu chào trước khi lên ngựa, dắt con ngựa cái của Olivia đi đằng sau. Miranda dõi theo cho tới khi anh biến mất ở đường chân trời, rồi cô bé cứ nhìn đăm đăm thế thêm mười phút tuyệt vời nữa. Khuya hôm đó Miranda thơ thẩn đi vào phòng làm việc của ba. Ông đang cắm cúi vào một văn bản, quên bẵng cây nến sáp đang nhỏ giọt trên bàn làm việc. “Ba, đã bao nhiêu lần con phải nhắc ba để ý đến mấy cây nến rồi ạ?” Cô bé thở dài đặt cây nến vào giá cắm. “Gì cơ? Ồ, con yêu.” “Và ba cần nhiều hơn một cây nến. Ở đây tối quá không thể đọc được.” “Thế à? Ba không để ý.” Ông chớp mắt và rồi nheo lại. “Không phải đã quá giờ đi ngủ của con rồi à?” “Vú nói đêm nay con có thể thức thêm ba mươi phút nữa.” “Vú nói vậy à? Ờ ờ, miễn là bà ấy đồng ý.” Ông lại cắm cúi trở lại bản thảo, tỏ ý không muốn nói chuyện nữa. “Ba à.” Ông thở dài. “Gì nữa thế, Miranda?” “Ba có quyển sổ thừa nào không? Giống như những cuốn ba dùng khi đang dịch ấy, nhưng là trước khi ba chép ra bản nháp cuối cùng cơ?” “Chắc là có đấy.” Ông mở ngăn kéo dưới cùng của bàn làm việc ra lục tìm trong đó. “Đây rồi. Nhưng con muốn làm gì với nó thế? Đây là một cuốn sổ rất tốt, con biết đấy, và không rẻ đâu.” “Con sẽ viết nhật ký.” “Bây giờ ư? À, thế thì ba cho là cuốn sổ này xứng đáng đấy.” Ông đưa cuốn sổ cho Miranda. Cô bé cười rạng rỡ trước lời tán dương của ba. “Cảm ơn ba. Con sẽ cho ba biết khi nào hết chỗ viết và cần một cuốn khác.” “Được rồi. Chúc ngủ ngon, con yêu.” Ông quay trở lại với đống giấy tờ của mình. Miranda ôm cuốn sổ vào ngực chạy lên lầu về phòng ngủ. Cô bé lấy ra một lọ mực và cây bút lông rồi mở cuốn sổ ra. Ở trang đầu tiên, cô bé ghi ngày tháng, và rồi, sau một hồi cân nhắc, cô viết một dòng duy nhất. Dường như đó là tất cả những gì cần viết. 2 THÁNG BA 1810 Hôm nay mình đã yêu. Nigel Bevelstoke, vốn được tất cả những kẻ muốn lấy lòng anh biết đến nhiều hơn với cái tên Turner, biết rất nhiều thứ. Anh biết đọc tiếng Latin và tiếng Hy Lạp. Anh biết tán tỉnh phụ nữ bằng tiếng Pháp và tiếng Ý. Anh biết vừa cưỡi ngựa vừa nhắm bắn một mục tiêu di động, và biết chính xác phải uống bao nhiêu ly thì không đánh mất phẩm giá địa vị của mình. Anh biết tung một nắm đấm hoặc một đường gươm với phong thái bậc thầy, và cũng có thể làm cả hai việc đó trong khi vẫn ngâm nga Shakespeare hay Donne đầy duyên dáng. Tóm lại, anh biết mọi thứ mà một quý ông nên biết, và theo những thông tin thu được thì anh xuất sắc trong mọi lĩnh vực. Người ta nhìn ngắm anh. Người ta tôn kính anh. Nhưng không có gì - không một giây nào trong cuộc đời xuất chúng và vinh quang của anh - giúp anh chuẩn bị sẵn sàng để đối mặt với thời khắc này. Và chưa bao giờ anh cảm thấy sức nặng của những ánh mắt soi xét dè chừng nhiều như lúc này, khi anh bước tới trước và ném nắm đất lên quan tài của vợ mình. Tôi rất lấy làm tiếc, người ta cứ nói đi nói lại mãi. Tôi rất lấy làm tiếc. Chúng tôi rất lấy làm tiếc. Và trong lúc đó, Turner không thể ngăn được cái ý nghĩ rằng không biết có phải đang cười anh không, bởi vì tất cả những gì anh có thể nghĩ đến là... Tôi không thấy tiếc. À, Leticia. Anh cảm ơn cô ta rất nhiều về điều đó. Hãy xem nên bắt đầu từ đâu thì hợp lý? Danh tiếng của anh bị tổn hại, dĩ nhiên rồi. Chỉ quỷ sứ mới biết có bao nhiêu người tường tận rằng anh là kẻ bị cắm sừng. Một lần, hai lần, ba lần,... Thế rồi đến bản tính trong sáng của anh cũng mất. Giờ đây, thật khó lòng hồi tưởng lại, nhưng anh đã từng không hề nghi ngờ bất cứ ai. Anh đã từng tuyệt đối tin vào những gì tốt đẹp nhất của con người - rằng nếu anh đối xử với người khác bằng danh dự và sự kính trọng thì họ sẽ làm như vậy với anh. Và cuối cùng, linh hồn anh cũng mất. Bởi vì trong khi anh bước lùi lại, chắp hai tay cứng nhắc phía sau lắng nghe vị linh mục chuyển thân xác Leticia vào lòng đất, anh không thể trốn chạy cái thực tế là anh đã ao ước điều này xảy ra. Anh muốn thoát khỏi cô ta. Anh đã và sẽ không than khóc cho cô ta. “Thật đáng tiếc,” ai đó phía sau anh thì thào nói. Quai hàm Turner giần giật. Không có gì đáng tiếc ở đây. Nó là một trò hề. Và bây giờ anh sẽ dùng một năm sắp tới để tang cho một người phụ nữ đến với anh mà lại mang thai đứa con của kẻ khác. Cô ta làm anh mê mẩn, bỡn cợt anh cho tới khi anh không thể nghĩ đến điều gì khác ngoài việc chiếm cho được cô ta. Cô ta nói rằng cô ta yêu anh, và cô ta mỉm cười với vẻ ngây thơ dịu dàng đầy vui sướng khi anh tuyên thệ lòng tận tâm và cam kết bằng cả linh hồn mình. Cô ta đã từng là giấc mơ ngọt ngào của anh. Và rồi cô ta trở thành ác mng của anh. Cô ta mất đứa bé đó, đứa trẻ đã dẫn đến cuộc hôn nhân của họ. Bố nó là một vị Bá tước người Ý nào đó, ít nhất là cô ta nói thế. Gã đã có vợ, hoặc không phù hợp, hoặc có lẽ cả hai. Turner đã sẵn sàng tha thứ cho cô ta, ai cũng phạm sai lầm, và cả anh cũng vậy còn gì, chẳng phải anh muốn dụ dỗ cô ta trước đêm tân hôn đó sao? Nhưng Leticia không muốn tình yêu của gã. Anh không biết cô ta muốn cái quái quỷ gì nữa - quyền lực, có lẽ thế, cơn say thỏa mãn khi hãy còn người đàn ông khác đổ nhào xuống vì bùa mê của cô ta. Turner tự hỏi liệu cô ta có cảm thấy thế khi gã chết không. Hay có lẽ nó chỉ là một sự giải thoát. Tính đến khi Turner và cô ta cưới nhau, cô ta đã mang thai được ba tháng. Cô ta không có nhiều thời gian rảnh. Và giờ thì cô ta đây. Hay đúng hơn là, cô ta kia. Turner không biết chính xác dùng từ nào là thích đáng hơn cả cho cái thân xác không còn sự sống trong lòng đất ấy. Mà từ nào cũng được. Anh chỉ thấy tiếc rằng cô ta sẽ chia sẻ sự vĩnh hằng trong mảnh đất của anh, yên nghỉ giữa những người nhà Bevelstoke mãi mãi. Bia đá của cô ta sẽ mang tên anh, và rồi một trăm năm nữa người nào đó sẽ nhìn vào dòng chữ khắc trên tấm đá granit kia mà nghĩ cô ta chắc hẳn là một phu nhân đáng kính, và tự hỏi bi kịch gì đã khiến cô ta ra đi khi còn quá trẻ như vậy. Turner ngước nhìn vị linh mục. Ông ta trẻ nhất trong các đồng đạo, mới đến giáo xứ, và theo anh biết thì vị linh mục này vẫn còn niềm tin rằng có thể biến thế gian này thành một nơi tốt đẹp hơn. “Tro tàn trở về với tro tàn,” linh mục vừa nói vừa nhìn lên người đàn ông giờ đã trở thành góa vợ. À phải, Turner chua chát nghĩ, đó là mình. “Cát bụi trở về với cát bụi.” Phía sau anh, có ai đó sụt sịt. Và vị linh mục, với đôi mắt xanh sáng ngời ánh lên niềm cảm thông được đặt hoàn toàn không đúng chỗ, tiếp tục nói... “Trong niềm hy vọng chắc chắn và vững vàng vào sự hồi sinh...” Chúa nhân từ. “... tới cuộc sống vĩnh hằng.” Vị linh mục nhìn Turner và thực sự nao núng. Turner thắc mắc không rõ chính xác thì ông ta nhìn thấy gì trên gương mặt anh. Chẳng có gì tốt đẹp, điều đó hẳn quá rõ ràng rồi. Ai nấy đồng thanh “Amen!”, và rồi buổi lễ kết thúc. Mọi người nhìn vị linh mục, rồi nhìn Turner, sau đó lại nhìn vị linh mục siết chặt hai bàn tay của Turner mà nói: “Mọi người sẽ nhớ cô ấy.” “Tôi,” Turner nén lại, “thì không.” Mình không thể tin anh ấy lại nói thế. Miranda nhìn xuống những dòng cô đã viết. Cô đang ở trang thứ bốn mươi hai của cuốn nhật ký thứ mười ba, nhưng đây là lần đầu tiên - lần đầu tiên kể từ sau cái ngày định mệnh chín năm về trước - cô không biết viết gì cả. Ngay cả trong những tháng ngày xám xịt ảm đạm (mà chúng thường xuyên xuất hiện), cô cũng xoay xở để viết được một đoạn dài. Tháng Năm năm cô mười bốn tuổi... Thức dậy. Mặc quần áo. Ăn sáng: bánh mì nướng, trứng, thịt lợn muối. Đọc Lý trí và Tình cảm; được sáng tác bởi một tiểu thư vô danh. Giấu Lý trí và Tình cảm. Ăn tối: thịt gà, bánh mì, pho mát. Chia động từ tiếng Pháp. Viết thư cho bà ngoại. Ăn khuya: bò bít tết, xúp, bánh pudding. Đọc tiếp Lý trí và Tình cảm, nhận diện về tác giả vẫn chưa biết. Lui về nghỉ ngơi. Ngủ. Mơ về anh. Còn đây là những điều cô ghi vào ngày 12 tháng Mười một cùng năm đó... Thức dậy. Ăn sáng: Trứng, bánh mì nướng, giăm bông. Thực hiện một cuộc biểu dương vĩ đại đọc bi kịch Hy Lạp. Không có kết quả. Dành nhiều thời gian nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ. Ăn trưa: cá, bánh mì, đậu Hà Lan. Chia động từ Latin. Viết thư cho bà ngoại. Ăn khuya: bánh mì nướng, khoai tây, bánh pudding. Mang bi kịch đến bàn (sách, không phải sự kiện). Ba không. Lui về nghỉ ngơi. Ngủ. Mơ về anh. Nhưng bây giờ - khi một sự kiện trọng đại đã thực sự xảy ra (điều chưa bao giờ xảy ra) thì cô lại chẳng có gì để viết ngoại trừ... Mình không thể tin anh ấy lại nói thế. “Than ôi, Miranda,” cô lầm bầm, nhìn mực khô đi trên đầu cây viết lông, “mày sẽ không nổi danh được với tư cách là một người viết nhật ký đâu.” “Cậu vừa nói g&igrav

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Frankenstein ở Baghdad
- John Schwartz, The New York Times Book Review “Suốt 200 năm từ khi Mary Shelley viết Frankenstein, con quái vật của bà đã tái xuất dưới vô vàn biến thể, song hiếm có biến thể nào trong số đó lại hoang dại hoặc đậm màu chính trị như con quái vật trong Frankenstein ở Baghdad của Ahmed Saadawi.” - Gregory Cowles, The New York Times “Mạnh mẽ… Siêu thực… Hài hước đen… Sử dụng một cách tài tình một nhân vật hung ác đầy kinh điển như Frankenstein trong một câu chuyện đặt ở thời hiện đại nhưng đầy chất ngụ ngôn.” - Chicago Tribune “Một thành tựu văn chương đáng kể, và, tiếc thay, đầy tính thời sự cấp thiết… Siêu thực, riết róng và thốn thấu… Kỳ lạ, tàn bạo, hài hước độc địa.” - Sarah Perry, The Guardian “Giở ra vì cốt chuyện hấp dẫn; đọc một lèo đến hết vì sự hài hước đen và cái nhìn choáng váng về bản chất con người.” - The Washington Post GIỚI THIỆU SÁCH: TÁC GIẢ: Ahmed Saadawi (sinh 1973‎) là một nhà văn, tác giả kịch bản và nhà làm phim tài liệu người Iraq. Ông đoạt Giải thưởng quốc tế Văn chương Ả-rập năm 2014 cho tiểu thuyết Frankenstein ở Baghdad. Ông hiện sinh sống và làm việc ở Baghdad. *** REVIEW “FRANKENSTEIN Ở BAGHDAD” – Ahmed Saadawi  December 17, 2022  No Comments Cuốn sách này của Ahmed Saadawi có một tựa đề đầy sức lôi cuốn và khơi dậy sự tò mò. Trong văn hóa đại chúng, “Frankenstein” của tác giả Mary Shelley vốn đã là cái tên khá nổi tiếng, mang tính biểu tượng về một con quái vật được tạo thành từ những bộ phận của các xác ch.ết. Ở đó, Mary Shelley cho chúng ta thấy nỗi đau của một con quái vật được đưa đến thế giới loài người, mong cầu tình thương nhưng nhận lại là sự hắt hủi, căm ghét, sợ hãi bởi hình dạng xấu xí và đáng sợ. Nhưng đó lại là câu chuyện riêng của con quái vật được sản sinh ra tại một đất nước thuộc châu Âu. Vậy nên bạn sẽ bất ngờ nếu “chạm trán” một “Frankenstein” trên đường phố Baghdad – thủ đô của Iraq, là một đất nước châu Á với cái tên khiến ta hay liên tưởng đến sự bất ổn về chính trị và quân sự. Sử dụng hình tượng “Frankenstein”, liệu thông qua đó Ahmed Saadawi muốn truyền tải điều gì trong tác phẩm này? “Frankenstein ở Baghdad” lấy bối cảnh tại thủ đô của Iraq vào năm 2003, đó là thời kỳ mà đất nước này diễn ra xung đột chính trị gay gắt giữa nhiều bên như chính phủ Iraq liên minh với quân đội Hoa Kỳ để chống lại dân quân Hồi giáo Shiite và Sunni. Đầu thế kỷ 21, khi mà phần đông các quốc gia trên thế giới đang được sống trong hòa bình, hợp tác cùng phát triển thì tại một số quốc gia, vùng lãnh thổ (như Iraq) vẫn đang ầm ĩ tiếng b.om đ.ạn. Nếu bạn có một trái tim nhạy cảm, bạn sẽ phải thổn thức rằng vì đâu trong cùng một thời đại, có những người được sống những ngày tháng yên bình, thì lại có những người luôn phải sợ hãi khi tính mạng của họ bị đe dọa mỗi ngày. Và chắc chắn không ai có thể cảm nhận nỗi đau một cách chân thực nhất bằng những người trong cuộc, là người dân, những nạn nhân của những cuộc chiến phi nghĩa. Ahmed Saadawi – vừa là nhà văn vừa là đứa con của mảnh đất Baghdad, đã viết ra cuốn tiểu thuyết mà nó sẽ mang đến cho độc giả trên khắp thế giới cái nhìn rõ nét, đầy đau đớn về số phận con người và vùng đất nơi đây. Để thực hiện sứ mệnh của mình một cách hiệu quả, rõ ràng Ahmed Saadawi phải viết nên được một câu chuyện thật ấn tượng, với những chi tiết hư cấu hấp dẫn lôi cuốn được người đọc và làm sao để từ đó phản ánh thực tế một cách sinh động, khơi dậy được sự thấu hiểu và đồng cảm. Với mình thì Ahmed Saadawi đã làm được điều đó. Nó xóa tan trong mình nghi ngại rằng đề tài này cùng văn chương của một nhà văn Iraq sẽ khiến mình khó mà nuốt trôi. Như đã nhắc ở phần đầu, việc sử dụng lại một hình tượng khá nổi tiếng trong văn hóa đại chúng như “Frankenstein” không khiến cho cuốn tiểu thuyết trở thành một tác phẩm vay mượn hình tượng một cách nhạt nhòa, mà ngược lại Ahmed Saadawi đã biến nó trở thành thứ giúp ông truyền tải trọn vẹn nhất thông điệp của mình. Không khó để bắt gặp những hình ảnh, những yếu tố bạo lực trong tác phẩm. Nó xuất hiện nhan nhản từ đầu đến cuối: những vụ đánh b.om t.ự s.át, tr.a t.ấn, gi.ết người, hà.nh qu.yết,… Baghdad hiện lên trong mắt chúng ta như một nơi cực kỳ bạo lực và cực kỳ nguy hiểm. Trong hoàn cảnh đó, biểu tượng của tác phẩm xuất hiện một cách thần kỳ và đầy mong đợi, sự xuất hiện của một vị cứu tinh. “Frankenstein ở Baghdad”, “Kẻ Không Tên”, “Vô Danh” hay “Daniel” là những cái tên mà người ta gọi hắn. Hắn là tác phẩm của Hadi – một gã buôn đồ cũ với cái thói ba xạo. Thế nhưng lần này Hadi không nói xạo: quả thực đã có một Frankenstein do hắn tạo nên bằng cách ghép những bộ phận cơ thể còn sót lại của những người ch.ết trong các vụ bạo lực ở Baghdad, và bằng một cách nào đó nó có linh hồn và sống dậy. Nguồn gốc cơ thể của hắn đã đưa hắn đến một sứ mệnh, đó là trả thù cho những nạn nhân đã ch.ết và góp phần tạo nên cơ thể đó. Đến đây, có thể thấy “Frankenstein” này đã không còn giống như phiên bản của Mary Shelley mà chúng ta đã từng biết. Không ai có thể biết rõ ràng về hắn, cũng như không ai có thể khẳng định được rằng hắn có tồn tại hay không? Dẫu sự thật là như thế nào, thì mình tin ít nhất hắn có tồn tại như một biểu tượng. Hắn chính là “Baghdad”! Vâng, cuốn tiểu thuyết này thành công không phải vì nó chọn một vấn đề gây nhức nhối đó là chiến tranh ở Iraq, mà với mình đó là bởi tác giả đã quá tài tình khi dùng câu chuyện đầy yếu tố hư cấu để phản ánh góc nhìn của người trong cuộc về cái thực tế đang diễn qua. Ahmed Saadawi đã nhào nặn nên nhân vật “Frankenstein ở Baghdad” bằng tất cả những gì ông thấy, cảm nhận và khao khát ở Baghdad. Như nhân vật “thằng khùng” trong tác phẩm đã nhận định, “Vô Danh” chính là một “công dân Iraq đích thực đầu tiên”. Điều này đã làm cho mình vỡ lẽ ra lý do vì sao tác giả lại mượn hình tượng “Frankenstein” cho nhân vật của mình. Vì được ghép nối từ nhiều bộ phận khác nhau của nhiều nạn nhân, trong đó có nhiều loại người, tầng lớp, tôn giáo, sắc tộc khác nhau nên rõ ràng cơ thể của “Vô Danh” chính là một cơ thể chung mang tính đại diện cho con người Iraq. Do đó có thể nói hành trình đòi lại công lý của “Vô Danh” cũng chính là tiếng lòng đầy phẫn uất của người dân Iraq đang kêu gào vì nỗi đau mà những cuộc chiến tranh giành quyền lực phi nghĩa đã mang lại cho họ. Thế nhưng càng theo dõi hành trình của “Vô Danh”, ta lại càng nhận ra có cái gì đó không đúng. Khi mà hành động trả thù của hắn ngày càng tàn bạo, vượt quá giới hạn, đôi khi lại bất chấp đúng sai để rồi tự bao biện cho bản thân mình. Chi tiết này đã làm nổi bật lên một thông điệp khác mà Ahmed Saadawi muốn truyền tải đến mọi người: bạo lực chỉ nối tiếp và sản sinh ra bạo lực, ta dùng bạo lực để thực thi công lý nhưng hóa ra chỉ đang gây thêm sự chia rẽ và nỗi đau. Đó không phải là thứ Baghdad đang cần và không phải là thứ sẽ cứu rỗi được Baghdad. Nếu đọc xong tác phẩm và chiêm nghiệm lại, ta sẽ thấy Ahmed Saadawi thật tuyệt vời. Rõ ràng câu chuyện về một con quái vật được tạo ra để trả thù lại cái ác bằng những cách tàn bạo nhất (và luôn thành công) nghe thật thõa mãn và hấp dẫn có đúng không? Nhưng rồi Ahmed Saadawi lại dẫn ta về với chân lý, khiến ta nhận ra rằng hóa ra từ đầu chúng ta đang đi sai đường mất rồi. Nhìn nhận lại toàn tác phẩm, bên cạnh một số điểm mạnh khác như xây dựng nhân vật tốt, cách triển khai và kể chuyện đầy hấp dẫn, gãy gọn… mình vẫn ấn tượng nhất với cách hình tượng hóa thông điệp tác phẩm của Ahmed Saadawi. Đó chính là lý do vì sao mình dành gần như toàn bộ nội dung bài viết này để viết về nó. Không phải là những lời nói tuyên truyền sáo rỗng, càng không phải chỉ là những lập luận tố cáo tội ác đơn thuần, Ahmed Saadawi đã bắt tất cả mọi người phải nhìn nhận lại một cách đúng đắn về thực tế và số phận của Baghdad. Bạn sẽ bị cuốn hút bởi câu chuyện về con quái vật “Frankenstein” đột nhiên xuất hiện ở Baghdad, nhưng dần bạn sẽ hiểu ra và không còn quá quan tâm đến chuyện liệu con quái vật này có tồn tại thật không. Ahmed Saadawi đã cho mình thấy sức mạnh của văn chương, một phương tiện để con người phản ánh và chống chọi lại thực tế khắc nghiệt. Đây xứng đáng là một tác phẩm cần được đọc nếu bạn muốn tìm hiểu về đất nước Iraq và những bất ổn nơi đây. Với mình, “Frankenstein ở Baghdad” vừa là một tác phẩm hay và đủ hấp dẫn để giải trí, đồng thời cũng tràn đầy những thông điệp nhân văn và ý nghĩa để ta chiêm nghiệm về cuộc sống. Review của độc giả Phát Nguyễn – Nhã Nam reading club Mời các bạn mượn đọc sách Frankenstein ở Baghdad của tác giả Ahmed Saadawi & Tất An (dịch).
Bích Ngọc
Càng lúc càng hoang mang về sứ mệnh thật sự của Hồng Ngọc trong Vòng tròn Thập nhị, Gwendolyn Shepherd sành điệu ở thế kỷ 21 đã hơn một lần liều lĩnh độc hành về quá khứ để gặp gỡ ông ngoại trẻ tuổi. Những manh mối hé dần chân tướng một âm mưu bí mật, khiến Gwen và những người ủng hộ cực kỳ bận rộn, kể cả Xemerius, dù nó không phải là người mà là một con quỷ đá vô hình tinh ranh. Và Gwen, với những nghĩ ngờ vực xoắn vặn trong não, vẫn tiếp tục song hành cùng Gideon đẹp trai chết người hồi khứ về các vũ hội huy hoàng thế kỷ 19, rồi ghen tuông, rồi cãi vã, vướng vào cuộc truy sát mất mạng. Cô có hồi sinh… hay không hồi sinh? Từ nút thắt thót tim này sẽ dẫn đến một hồi kết vô cùng kỳ lạ… Bích ngọc đã khép lại Timeless! Tất cả các bà mẹ đều say mê Kerstin Gier, giờ thì con gái họ cũng vậy... *** REVIEW TIMELESS CỦA KERSTIN GIER: Đọc kha khá rồi cơ mà đây là lần đầu tiên viết review, chắc tại lâu rồi mới có một bộ truyện mang lại cảm giác thỏa mãn như thế. Vì truyện khá hài hước nên mình sẽ viết theo kiểu free style, ngôn ngữ chắt lọc cảm giác không phù hợp lắm, có lẽ nên để dành cho Em sẽ đến cùng cơn mưa hoặc Nếu gặp người ấy cho tôi gửi lời chào. Tại sao mình lại biết bộ này? Đơn giản vì dạo hiệu sách và thấy bìa của nó quá đẹp! Mình lúc nào cũng thích bìa sách của Nhã Nam, từ bố cục, màu sắc, hình ảnh đều cho độc giả cảm giác mỗi cuốn sách của họ đều được đầu tư vô cùng kĩ lưỡng và hơn nữa là cái tên rất bắt tai: Hồng ngọc, Lam ngọc, Bích ngọc. Về nhà tò mò tìm và thử đọc cuốn đầu tiên: Hồng ngọc và không thể cưỡng lại phải mua ngay 2 cuốn sau! Đọc truyện mình khá là kén chọn, từ nội dung đến cách sử dụng câu từ, ý nghĩa của từng con chữ mình đều chú ý và thật tốt là khi đọc bộ này mình không phải nhíu mày một cái nào cả! (vì thế nên ngôn tình trung quốc chỉ đọc được một vài quyển vì cảm giác tác giả không đặt tâm vào ngôn ngữ). Đây là một bộ xuyên không mang yếu tố huyền bí, không phải đập đầu cái là xuyên không mà cái chi tiết xuyên không ở đây vô cùng rõ ràng, logic và thú vị (do gene) và nhân vật có thể xuyên không nhiều lần trong ngày với khoảng thời gian giới hạn. Các sự kiện trong quá khứ và hiện tại đan xen với nhau nhưng lại không hề rối rắm mà lại là lời giải thích cho nhau, hợp lý và tách biệt. Những bí ẩn được dần dần gợi mở làm độc giả hết ồ lại à nhưng không hề cảm thấy khó hiểu. Tình tiết truyện khá là nhanh, không gây buồn ngủ, mình chỉ thấy mối tình của 2 nhân vật (vô cùng romantic nhé) trong 2 tuần để đạt được tới mức yêu để không thể sống thiếu nhau thì hơi bị...nhanh quá, mình những hy vọng tác giả sẽ có thêm một chi tiết kiểu như Kim cương và Hồng ngọc yêu nhau là định mệnh (giống "duyên ngầm" của jacob và reneesme ý) cơ mà không có nhưng vì họ quá đáng yêu nên có thể tha thứ được. Nhân vậy nữ chính, Gwendolyn - viên Hồng ngọc cô gái này khá là cá tính, cái cách cô suy nghĩ khi biết mình mang gene vượt thời gian, khi sắp chết, khi thất tình, khi biết mình bất tử, có khóc lóc, có sợ hãi nhưng lại vô cùng hài hước và đáng yêu: " và ai biết được liệu cái bản đồ kia có chính xác không? Gỉa sử nó được vẽ bởi một tên ngố như marley thì sao? Trong trường hợp đó Gideon và tôi có thể sẽ được đào lên vào năm 2250, khi đã trở thành 2 bộ xương nắm tay nhau. Ồ, không, tôi quên mất, chỉ có Gideon hóa thành bộ xương, còn tôi, sống nhăn và khỏe mạnh, sẽ bấu lấy bộ xương của hắn, và viễn cảnh này cũng chẳng tươi đẹp lắm." Và người đồng hành với cô, bạn trai cô - Viên kim cương, Gideon de Villiers không chỉ khiến Gwenny tan chảy mà còn làm xiêu vẹo mình tin là hầu như tất cả các độc giả nữ, đẹp trai, kiến thức rộng, học vấn cao, đánh nhau giỏi, dũng cảm, si tình, nói chung tôi cảm giác Gier đã xây dựng nhân vật này vô cùng hoàn hảo nhưng lại rất gần gũi. Mình thích nhất đoạn, anh ta tự đánh vào phiên bản quá khứ của mình rồi chửi rủa như thể đó là một tên đần độn thực sự hay lúc anh ta tiêm phòng đậu mùa cho james - một nhân vật trong quá khứ, sau khi thành ma thì là bạn của gwen. "Tôi thề đó là lần cuối cùng tôi tiêm vắc xin cho người khác, đám bệnh nhân thật vô ơn!" Nhưng có lẽ, tan chảy vẫn là khi anh ta vừa khóc vừa ôm cái xác của gwen và nói "anh yêu em, đừng rời bỏ anh" Lãng mạn, hài hước, kịch tính là điều mình vô cùng thích ở cặp đôi này. Nhân vật thứ 3 trong tuyến chính diện cũng là nhân vật mà mình thích nhất là con quỷ đá Xemerius, tác giả miêu tả nó có thân thể mèo, cái cánh dơi và đuôi vẩy rồng, mình thì tưởng tượng nó phải cute cỡ như Keberos của clamp vậy. Mỗi lần nó cất lời hay nó hành động đều sẽ khiến người ta cười chảy cả nước mắt, cách nó bình luận, cách nó chê bai, cách nó kể chuyện khiến người ta phải đọc đi đọc lại cái đoạn đó. Qủy gì mà lại mê đọc ngôn tình nhưng suốt ngày giả bộ nôn ọe mỗi khi bắt gặp Gideon và Gwen hôn nhau. Và hãy nghe nó bình luận khi biết gwenny bất tử: "Gỉa sử một tấm bê tông 8 tấn rơi vào cậu, cậu có phải sống 1 cuộc đời bẹp rúm như một cái tem không?" Thấy chưa? thế thì ai có thể không yêu nó cơ chứ? Nhân vật cuối cùng mình muốn nhắc đến là nhân vật phản diện duy nhất của cả bộ truyện, bá tước Saint German, điều thú vị là nhân vật này có thật trong lịch sử nhé, mọi người có thể search google sẽ thấy rất nhiều bí ẩn hay ho xung quanh cuộc đời được cho là bất tử của người đàn ông này. Mình thì gặp ông ấy lần đầu trong series “Bí mật Nicholas Flamel bất tử”, khi đó vẫn là một siêu sao đáng yêu, chồng của Joan arc (chị này cũng có thật luôn) và bậc thầy của lửa. Thế mà chả hiểu sao đã nhảy sang đây để lập âm mưu giết Gweny tội nghiệp rồi. Còn về cách tác giả xây dựng nhân vật này thì cũng giống các nhân vật phản diện nói chung, không có gì đáng kể ( ngoài lề một chút, nhân vật phản diện mình yêu thích nhất là Loki, mà hình như ai cũng yêu anh ý thì phải). Để xem nào, kết thúc chuyện thì không thể viên mãn hơn, phải nói là VERY HAPPY ENDING, nhưng thôi không nói vào đây nữa vì sẽ ảnh hưởng đến những bạn có ý định đọc.  Với những ai thích sự lãng mạn, hài hước lại cộng thêm chút bí ẩn, hồi hộp thì đây đích thị là định mệnh của đời bạn. Còn với cái đứa thể loại nào cũng chơi như mình thì sau khi đọc Dan Brown thì bộ này đúng là giúp ổn định tinh thần nhiều lắm . *** Mở đầu Belgravia, London, Ngày 3 tháng Bảy, 1912   “Vết sẹo sẽ rất xấu xí,” Bác sĩ nói mà không ngẩng đầu lên. Paul cười nhăn nhó. “Ừm, dù sao cũng đỡ hơn bị chặt chân chặt tay như quý bà Lo Lắng Thái Quá đã dự đoán.” “Hay nhỉ!” Lucy gắt lên với Paul. “Em không lo lắng thái quá, và còn anh… ngài Đầu Rỗng Vô Tâm, đừng đùa cợt! Anh biết vết thương có thể nhiễm trùng nhanh đến mức nào, và đến lúc ấy thì anh giữ được tính mạng ở thời này là may đấy. Không có kháng sinh, còn bác sĩ thì ngu ngốc và vô dụng.” “Ồ, cảm ơn nhiều nhé,” Bác sĩ đáp, và bôi một thứ thuốc nâu nhờ nhờ lên vết thương vừa khâu xong. Xót như điên, Paul khó khăn lắm mới ghìm được mình không nhăn mặt. Anh chỉ hy vọng sẽ không để dây vết máu trên chiếc tràng kỷ thanh nhã của quý bà Tilney. “Dù sao thì họ cũng không làm khác được.” Lucy gắng điều chỉnh giọng nói cho thân thiện hơn. Cô thậm chí còn cố mỉm cười. Một nụ cười khá u uất, cho dù cô đã cố gắng. “Tôi tin chắc ông đang làm hết khả năng của mình,” Cô nói với ông bác sĩ. “Bác sĩ Harrison là người giỏi nhất đấy,” Quý bà Tilney cam đoan. “Và là người duy nhất có thể nhờ được,” Paul lẩm bẩm. Đột nhiên, anh thấy mệt rũ. Chắc chắn trong thứ nước ngòn ngọt mà ông bác sĩ cho anh uống có thuốc an thần. “Là người kín mồm kín miệng nhất thì đúng hơn,” Bác sĩ Harrison nói. Ông áp một dải băng trắng như tuyết lên tay Paul. “Và thực tình, tôi không tưởng tượng nổi việc chữa trị một vết thương do đâm chém có thể khác đi nhiều trong tám mươi năm tới.” Lucy hít sâu một hơi, và Paul lập tức đoán được sắp xảy ra chuyện gì. Một lọn tóc từ búi tóc trên đỉnh đầu cô roi xuống, cô hung hăng vén nó ra sau tai. “À thì, nhìn chung thì có lẽ là không, nhưng nếu vi khuẩn… òm, là cái lũ sinh vật đơn bào mà…” “Thôi nào, Luce!” Paul ngắt lời cô. “Bác sĩ Harrison biết rất rõ vi khuẩn là gì!” Vết thương vẫn xót kinh khủng, và Paul lại quá mệt, đến nỗi anh chỉ muốn nhắm mắt lại mà ngủ thiếp đi. Nhưng như vậy sẽ khiến Lucy càng thêm lo. Mặc dù ánh mắt cô đang long lên tức giận, anh biết đằng sau đó ẩn giấu nỗi bất an, và, tệ hơn nữa, là nỗi sợ. Vì cô, anh không được để lộ tình trạng tồi tệ hay cảm giác tuyệt vọng của bản thân. Vì vậy, anh nói tiếp: “Dẫu sao chúng ta cũng đang không ở thời Trung cổ; mà ở thế kỷ 20. Đây là thời kỳ của những tiến bộ mở đường trong y học. Máy điện tâm đồ đã thành tin cũ, và mấy năm vừa rồi, người ta đã tìm ra nguyên nhân và cách chữa trị bệnh giang mai.” “Ồ, có ai đó đã để tâm trong giờ thần bí học như một cậu bé ngoan thế nhỉ!” Lucy trông như sắp nổ tung ngay tại chỗ. “Thật là thú vị!” Bác sĩ Harrison góp thêm. “Và năm ngoái cái cô người Pháp Marie Curie mới được trao giải Nobel Hóa học.” “Bà ta phát minh ra cái gì? Bom nguyên tử à?” “Lucy, đôi khi em ngốc thật đấy. Marie Curie tìm ra cách chiết xuất radi…” “Ôi, anh làm ơn im đi!” Lucy khoanh tay lại và bực tức lườm Paul. “Anh có thể giữ các bài giảng đó lại cho mình! Anh! Có! Thể! Đã! Chết! Cho nên anh làm ơn có thể nói cho em biết làm sao em có thể đảo ngược cái thảm họa phía trước chúng ta mà không có anh không?” Giọng cô đột nhiên run lên. “Hay làm sao để em có thể sống tiếp mà không có anh?” “Anh xin lỗi, Công chúa.” Cô không hề biết anh hối lỗi đến mức nào. “Hừ!” Lucy nói. “Anh không cần phải làm cái vẻ mặt chó cún thương tâm đó đâu.” “Cứ nghĩ về những thứ có thể xảy ra chẳng ích gì cả, con gái à,” Quý bà Tilney lắc đầu nói trong khi giúp bác sĩ Harrison cất dụng cụ vào túi. “Mọi thứ sẽ ổn thôi. Paul hơi xui xẻo, nhưng cũng vẫn còn may chán.” “Vâng, phải rồi đấy ạ, đúng ra chuyện này còn có thể tệ hơn nhiều, nhưng thế đâu có nghĩa là mọi thứ đều ổn!” Lucy kêu lên. “Chẳng có gì ổn cả, chẳng có gì cả!” Mắt cô ầng ậng nước, khiến trái tim Paul muốn tan vỡ. “Chúng ta đã ở đây gần ba tháng và vẫn chưa thực hiện được chút gì theo kế hoạch, chỉ toàn làm ngược lại, khiến vấn đề tồi tệ hơn! Mãi rồi mới có được mớ giấy tờ chết tiệt đó, thế rồi Paul lại cho đi mất!” “Có lẽ anh đã hơi vội vã.” Paul thả đầu roi xuống gối. “Nhưng lúc đó, anh nghĩ như thế là đúng.” Bởi vì lúc đó, anh thấy cái chết gần kính khủng.Cây kiếm của huân tước Alastair đã có thể dễ dàng kết liễu đời anh. Tuy nhiên, anh không thể để Lucy biết được. “Nếu chúng ta có Gideon bên cạnh, vẫn sẽ còn một cơ hội nữa. Ngay khi đọc được mớ giấy tờ đó, cậu ta sẽ hiểu được hai ta đang làm gì và tại sao.” Hoặc là cứ hy vọng thế đi, anh nghĩ. “Nhưng chính chúng ta cũng không biết trong mớ giấy đó có thứ gì. Chúng có thể là mật mã, hoặc là… ôi, anh còn không biết anh vừa đưa cho Gideon cái gì,” Lucy nói. “Ai mà biết huân tước Alastair đã nhét cho anh cái gì, hóa đơn cũ, thư tình, một xấp giấy trắng…” Paul có nghĩ đến việc này từ trước, nhưng chuyện đã rồi. “Đôi lúc em cần phải có niềm tin rằng mọi thứ rồi sẽ ổn cả,” Anh thì thào, ước sao có thể áp dụng điều đó cho chính mình. Việc anh có thể đã đưa cho Gideon những giấy tờ vô dụng đã đủ tệ; nhưng lại còn khả năng thằng bé sẽ đem chúng thẳng tới cho bá tước Saint Germain. Nếu vậy, họ đã ném đi quân át chủ bài duy nhất. Nhưng Gideon nói cậu ta yêu Gwendolyn, và cái cách cậu ta nói cũng khá… thuyết phục. “Cậu ta đã hứa,” Paul cố cất tiếng, nhưng lại chỉ có thể thì thầm khe khẽ. Đằng nào đó cũng sẽ chỉ là nói dối. Anh không có thời gian nghe Gideon trả lời. “Thật đúng là ngu mới muốn câu kết với Liên minh Firenze,” Anh nghe Lucy nói. Mắt anh đã nhắm nghiền. Dù nó là gì đi nữa, thì thứ bác sĩ Harrison cho anh uống phát tác rất nhanh. “Và vâng, em biết, em biết,” Lucy tiếp tục. “Đáng lẽ chúng ta nên tự xử lý vấn đề.” “Nhưng con không phải kẻ sát nhân, con gái à,” Quý bà Tilney nói. “Tự tay giết người với kiếm một người khác làm việc đó thì có khác gì nhau đâu cơ chứ?” Lucy thở dài nói, mặc quý bà Tilney dữ dội phản đối (“Con gái, đừng nói những lời như vậy! Con không bắt ai giết người cả, con chỉ để lộ ra chút thông tin mà thôi!”), đột nhiên, dường như không ai có thể an ủi cô. “Chúng ta đã làm sai hết những gì có thể làm sai, Paul à. Trong suốt ba tháng trời chúng ta chỉ toàn lãng phí thời gian cũng như tiền của Margaret, và chúng ta đã làm liên lụy quá nhiều người.” “Đấy là tiền của huân tước Tilney,” Quý bà Tilney sửa lại, “và con sẽ kinh ngạc khi biết ông ấy thường vung tiền vào cái gì. Đua ngựa với vũ nữ vẫn còn là nhẹ. Ông ấy thậm chí sẽ không để ý thấy một khoản nho nhỏ mà ta đã trích ra để phục vụ cho mục đích của chúng ta. Và nếu có để ý, ta tin rằng ông ấy sẽ đủ lịch sự để không nói gì.” “Về phần mình, tôi không hề hối tiếc vì đã bị lôi kéo,” Bác sĩ Harrison an ủi họ, tươi cười. “Tôi đang bắt đầu thấy cuộc sống khá nhàm chán. Mà không phải ngày nào trong tuần anh cũng được gặp những nhà du hành từ tương lai đến, lại còn biết nhiều về nghề nghiệp của anh hơn cả bản thân anh. Và nói nhỏ giữa chúng ta nhé, cái thái độ tự cao tự đại của mấy quý ông Villiers và Pinkerton-Smythe trong Đội Cận vệ ở đây đủ để khiến bất cứ ai cũng cảm thấy muốn âm thầm nổi loạn.” “Thật đúng vậy,” Quý bà Tilney nói. “Lão Jonathan de Villiers ngạo mạn ấy còn đe dọa sẽ nhốt chặt vợ ở nhà nếu cô ta không thôi đồng cảm với đám đang đấu tranh giành quyền bầu cử cho phụ nữ.” Bà bắt chước một giọng nam cau có. “Tôi băn khoăn không biết sẽ xảy ra điều gì tiếp theo? Quyền bầu cử cho chó chăng?” “À, thì ra đó là lý do khiến bà dọa tát ông ta,” Bác sĩ Harrison nói. “Đó quả là một bữa tiệc trà mà tôi thấy không nhàm chán!” “Cũng không hẳn là vậy. Tôi chỉ nói tôi không thể đảm bảo điều mà bàn tay phải của tôi muốn làm nếu ông ta cứ tiếp tục bình phẩm đại loại như vậy.” “Nếu ông ta cứ tiếp tục nói năng nhảm nhí… đó là nguyên văn lời bà,” Bác sĩ Harrison chỉnh lại. “Tôi vẫn nhớ bởi vì đã rất ấn tượng.” Quý bà Tilney cười lớn và đưa tay cho ông bác sĩ. “Tôi sẽ tiễn ngài ra cửa, bác sĩ Harrison.” Paul gắng sức mở mắt và nhỏm dậy để cảm ơn bác sĩ nhưng không làm nổi. “Mmph… ảm… ơ…,” Anh cố lúng búng. “Có quái quỷ gì trong thứ nước ông đưa anh ấy vậy, bác sĩ?” Lucy gọi với theo bác sĩ Harrison. Ông bác sĩ ra đến cửa lại quay vào. “Chỉ là vài giọt rượu thuốc có pha thuốc phiện y tế thôi. Hoàn toàn vô hại!” Nhưng Paul đã không thể nghe thấy tiếng rít giận dữ của Lucy. Mời các bạn mượn đọc sách Bích Ngọc của tác giả Kerstin Gier & Hồ Kiều Lan (dịch).
Trạm Dừng Chân Nơi Nhà Ga Tuổi Trẻ
"Trạm dừng chân nơi nhà ga tuổi trẻ" - Asai Ryo (tên tiếng Nhật: Nanimono) đã oanh tạc Nhật Bản như thế nào??? - Được tái bản nhiều lần, có hàng loạt các phiên bản khác nhau (như hình đấy các bạn, mà đó vẫn chưa phải là hết đâu :))) - Phim điện ảnh của cuốn sách cũng càn quét khắp các cụm rạp, gây xúc động mạnh tại xứ sở Phù Tang!!! *** Review Trạm dừng chân nơi nhà ga tuổi trẻ – Asai Ryo Ai trong chúng ta rồi cũng đều phải bước qua những năm tháng vô tư, hồn nhiên để đến với cánh cửa mới mang tên “trưởng thành”. Đó là chặng đường mà mỗi người đều nếm trải sự chênh vênh ở cái ngưỡng không còn trẻ mà cũng chẳng trưởng thành, không lạc lối nhưng cũng chẳng thể tìm cho mình một ngã rẽ riêng. Tôi đến với những trang sách của Asai Ryo vào một ngày Hà Nội mới chớm vào thu và khi chính bản thân mình cũng đang ở cái ngưỡng của sự trưởng thành. Đối với tôi, “ Trạm dừng chân nơi nhà ga tuổi trẻ ” là một điều gì đó hết sức đặc biệt. Cuốn sách ấy vừa giống như một lời thủ thỉ, tâm tình lại vừa như bức thông điệp truyền cho con người ta những bài học đầy ý nghĩa. “Tuổi trẻ của chúng ta luôn có một giai đoạn, mà lúc đó, chúng ta hoài nghi về chính bản thân mình. Không biết làm gì, không biết đi đâu, càng không biết mình là ai”. Đó chính là tuổi trẻ của những nhân vật mà nhà văn Asai Ryo đã xây dựng trong cuốn sách của mình. Đầu tiên có lẽ phải nhắc đến Takuto – cậu thanh niên ít nói, rụt rè, ngay đến cả lời tỏ tình với người con gái mình yêu cũng không dám nói. Bỏ qua những cơ hội bày tỏ để rồi đến cuối cùng anh và cô gái mình yêu lại trở nên xa cách mãi mãi. Mizuki thì luôn khiến người ta cảm thấy cô nàng đang tự thu mình vào một thế giới riêng mà khó ai có thể bước vào được. Tự ti vì gia cảnh, nghĩ rằng mình không thể nào sánh được với bạn bè, Mizuki tự xa lánh, tách biệt với thế giới xung quanh. Mizuki vui tươi, yêu đời bỗng trở thành một cô nàng chi li, tính toán trong các mối quan hệ. Tận sâu trong trái tim, cô không mong có ai đó sẽ mang đến hạnh phúc cho mình vì chẳng ai muốn dành trọn tình cảm cho một người chỉ biết nghĩ đến bản thân. Còn với Takayoshi – cậu quý tử luôn sống ỷ lại vào cha mẹ, cậu không muốn phải bỏ công sức để làm bất cứ điều gì. Được lớn lên trong căn nhà ấm áp, được chăm sóc tỉ mỉ trong từng bữa ăn,… tất cả khiến cậu thanh niên này trở nên lười biếng và phụ thuộc vào cái lồng yêu thương do cha mẹ tạo ra. Cuối cùng nhân vật mà có lẽ được nhiều người thích nhất là Kotoro – chàng trai với cá tính âm nhạc khác biệt mà mỗi lần lên sân khấu luôn nhận về “những ánh đèn flash của máy chụp hình chớp nhoáng sáng lòa sân khấu”. Đam mê là vậy, nhưng rồi đến khi hồi chuông cuối cùng của thời học sinh vang lên cũng là lúc Kotoro chia tay ban nhạc. Anh bạn phải vụt chạy đi tìm kiếm công việc làm ổn định thay vì cứ mải mê khao khát với ước mơ “rẻ tiền” ấy. Bốn con người với bốn câu chuyện riêng đã được ngòi bút của nhà văn Asai Ryo khéo léo sắp xếp để họ cùng gặp nhau ở một điểm hẹn mới trong cuộc đời. Công cuộc tìm kiếm việc làm của bốn cô cậu sinh viên được miêu tả sống động, chân thực theo đúng với tính cách, tâm lý của mỗi người. Để rồi, khi lướt qua câu chuyện của các nhân vật, có đôi lúc chúng ta lại tìm thấy hình ảnh của chính mình trong đó. Từng trang viết của nhà văn đều phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội, trong đó có cả những chông chênh của tuổi trẻ trong hành trình tìm kiếm bản thân. Thu mình trong lớp vỏ tự ti như Mizuki hay sống mãi với nỗi ân hận muộn màng như Takuto? Chọn lựa một hướng đi mới như Kotoro hay cứ mãi để cuộc đời phụ thuộc vào cha mẹ như Takayoshi? Câu hỏi đặt ra cho các nhân vật nhưng dường như bất cứ độc giả nào khi cầm trên tay cuốn sách cũng đang tự đi tìm câu trả lời cho chính bản thân mình. Khi còn bé ai cũng nhìn cuộc sống qua những lăng kính ngây thơ và hồn nhiên nhất. Cứ nghĩ rằng khi lớn lên rồi tự bản thân mình sẽ làm nên điều tuyệt diệu. Thế nhưng như Asai Ryo đã viết: “Cuộc sống chẳng khi nào là dễ dàng cả. Nếu đang cảm thấy dễ dàng, thì chắc chắn có người đang thay ta gánh chịu phần không dễ dàng ấy rồi”. Ai rồi cũng sẽ trưởng thành và sự trưởng thành đó chưa bao giờ là dễ dàng. Cạm bẫy, lừa lọc, vô cảm và thực dụng, tất cả khiến con người ta dường như trở nên yếu đuối hơn thế nhưng tuổi trẻ của ai chẳng cô đơn, mệt mỏi, thậm chí là bế tắc. Tất cả rồi sẽ bước qua như thế nào? Ngòi bút của Asai Ryo quả thực tài năng khi từng hơi thở, từng con chữ, từng mảnh ghép số phận trong cuộc hành trình tìm kiếm bản thân của những người trẻ đang lạc lối ấy đều được nhà văn góp nhặt và đưa vào câu chuyện của mình. Và có lẽ điều làm tôi thích nhất ở “ Trạm dừng chân nơi nhà ga tuổi trẻ ” chính là ở cảm xúc tự nhiên, chân thành mà tác giả mang đến. Không cần phải phê phán, chê bai, cuốn sách vẫn chạm đến trái tim người đọc bởi những điều đơn thuần nhất. “Khi nỗ lực, người ta không để ý họ làm vì ai, làm vì điều gì. Nỗ lực không phải là lăn lóc trên Internet hay mạng xã hội. Mà nó đang ở ngay đây, trong chuyến tàu sắp sửa vào ga với máy sưởi chạy quá đà, giữa một ngày tháng Hai rét buốt”. Với ý nghĩa nhân văn sâu sắc về những bài học đường đời đầu tiên giành cho tuổi trẻ, tác phẩm của Asai Ryo đã đoạt giải thưởng văn học danh giá nhất Nhật Bản – Naoki lần thứ 148 và chuyển thể thành bộ phim ăn khách Namimono. Cuốn sách đến từ xứ sở hoa anh đào đã trở thành hành trang quý giá trên mỗi chặng đường cho những ai đang và sẽ đi qua những năm tháng thanh xuân rực rỡ. Cảm ơn tác giả, cảm ơn vì những giá trị chân thành mà nhà văn mang đến cho các thế hệ bạn đọc! About The Author Thư Lê Thị *** Trạm dừng chân nơi nhà ga tuổi trẻ của Asai Ryo là một cuốn tiểu thuyết gây được tiếng vang lớn ở xứ sở hoa anh đào. Tác phẩm đoạt giải Naoki và đã được chuyển thể thành bộ phim điện ảnh ăn khách Nanimono (Tiếng Anh: Somebody - Ai đó) đang “oanh tạc” thị trường phim Nhật Bản. Ở Việt Nam, bản Việt ngữ cuốn sách được Nhà xuất bản Phụ nữ ấn hành năm 2018. Có nhiều điều gợi lên cho chúng ta từ cuốn sách. Trong kí ức hay hiện tại, với một người đọc đã mang trong mình ít nhiều trải nghiệm, chúng ta thấy hiện về một hành trình đã đi qua, với những thăng trầm, buồn vui của tuổi trẻ, của thanh xuân say mê, sôi nổi đầy hi vọng, chán chường, tuyệt vọng cùng những lựa chọn chủ động và bị động. Có thể, ngay lúc này, chúng ta chợt nhớ đến một Đứa con đi hoang nay đã trở về của Andre Gide, Rừng Nauy của Murakami Haruki, Ở quán cà phê tuổi trẻ lạc lối của Patrick Mondiano… Cũng có thể, chúng ta nhớ đến những ngày trí thức tuổi trẻ với đầy hoài bão, khát vọng trong những truyện ngắn ám ảnh của Nam Cao, Thạch Lam, Nhất Linh, Khái Hưng hay những câu thơ giục giã đam mê của Xuân Diệu. Cũng có thể, chúng ta nhớ về Lưu Quang Vũ với những câu thơ của tuổi trẻ trong một thành phố chật chội, u buồn. Gần hơn nữa, chúng ta nhớ đến Những thiếu thời lơ lửng của Hạnh Nguyên, Tuổi thanh xuân đôi chuyến tàu đi lạccủa Lương Đình Khoa, Mộ phần tuổi trẻ của Hoàng Trọng Khang, Tôi ngồi đây chờ cơn bão tới của Nguyễn Hải Nhật Huy, những ám ảnh buồn bã trong truyện ngắn và tiểu thuyết của Đinh Phương… Kí ức đan dệt trong nỗi hoài niệm về tháng ngày thanh xuân đã đi qua khiến cho cuốn sách Trạm dừng chân nơi nhà ga tuổi trẻ của Asai Ryo vừa giống như một trải nghiệm trực tiếp, vừa như một nguyên cớ, một vẫy gọi trở về. Chúng ta sẽ nói gì về cuốn sách này khi ngay ở đó, dường như thấp thoáng hình bóng của mình những ngày chưa xa? Tuổi trẻ, những lựa chọn để trưởng thành, cái ngưỡng mà bất cứ ai cũng phải đối mặt chính là ý niệm xuyên suốt của cuốn tiểu thuyết. Qua các nhân vật Takuto, Kotaro, Mizuki, Rika, Sawa, Takayosi,… một thế giới của người trẻ được tái hiện, chân thực và ám ảnh. Họ, những sinh viên đại học và nỗi băn khoăn trước những lựa chọn để dấn thân vào đời. Sự chua chát khởi đầu cuốn tiểu thuyết một cách lạnh lùng bằng những gặp gỡ, những chia rời, ngăn cách, sự bị động của con người trước xã hội, sự dối trá mà họ bắt buộc phải chấp nhận để bước vào cánh cửa trưởng thành. Tìm việc, đó là câu chuyện trung tâm, nhưng từ đó, mọi vận động nông sâu, rõ rệt hay mơ hồ của đời sống những người trẻ tuổi được hé lộ. Bản ES (Một dạng hồ sơ tuyển dụng) đã chứng thực cho những điều gian dối, khi các cô cậu sinh viên cố gắng trả lời một cách không trung thực về khả năng, điểm mạnh, điểm yếu của mình. Chuẩn bị những dối trá, nghĩ, nói và làm những điều dối trá đến một lúc nào đó người ta không còn xem đó là dối trá nữa. Cái xã hội mà những người trẻ sắp dấn thân vào đã dung dưỡng cho thái độ, lựa chọn ấy. Và, trưởng thành là gì nếu không phải là một trạng thái bị hoài nghi trước bao điều dối trá. Trạm dừng chân nơi nhà ga tuổi trẻ quả thực đã gợi lên cho chúng ta những ưu tư không hề nông nổi. Tuổi trẻ, học tập, tình yêu, việc làm, sự trưởng thành, những mất mát, nhân cách, cách sống, sự thích nghi, năng lực, kinh nghiệm, lời nói và hiện hữu, sự trống rỗng, mất niềm tin, nỗ lực khẳng định bản thân, sự lựa chọn, sự từ bỏ, hoài nghi và xác tín, bám giữ hay buông xuôi,… chừng ấy có phải là quá nhiều luận đề cho một cuốn tiểu thuyết? Không, đây không phải tiểu thuyết luận đề, mà là một mô tả thật gần, thật trung thực những diễn biến của đời sống giới trẻ, trong trạng thái nguyên bản nhất. Chỉ có đối thoại và những suy tư, rất ít những trường đoạn trữ tình, miêu tả - vốn là đặc sản của tiểu thuyết lãng mạn. Bên cạnh đó, cuốn sách này, thông qua những suy tư và do dự, thông qua những lựa chọn của tuổi trẻ, chúng ta nhận ra đời sống đang hiện diện thế nào. Cuộc sống của các nhân vật trong cuốn tiểu thuyết chất vấn lại lối sống của thế hệ, của những bao trùm giăng mắc mà họ đang vướng phải. Họ nghi ngờ rằng, có thể, với những gì đang diễn ra, họ thiếu đi phần con người, chỉ rập khuôn như máy móc. Thời đại công nghệ đẩy tuổi trẻ vào những lựa chọn bị động. Việc tham gia vào các mạng xã hội như Facebook, Twiter hay đắm chìm trong Internet đã lấy hết thời gian sống của tuổi trẻ. Họ buộc phải diễn tả mình thật ngắn gọn, bằng những từ khóa, bằng những kí tự giới hạn, họ phải đánh bóng mình bằng những status “chất lừ” trong khi có thể sự thực họ nhạt nhẽo, rỗng tuếch và vô cảm. Một khi, phải lựa chọn những ngôn từ ít ỏi để diễn đạt mình, tuổi trẻ thời công nghệ buộc phải loại bỏ đi nhiều từ ngữ khác. Mà, những từ ngữ bị loại bỏ, xem ra mới là những từ quan trọng làm nên sự hiện diện đích thực của con người. Thế có nghĩa là gì? Những ngôn từ quan trọng thực chất đã bị chôn vùi, đồng nghĩa với một bản thể, một thế hệ có thể đã bị đánh mất, bị lãng quên mặc dù vẫn hiện diện hàng ngày trong đời sống. Trạm dừng chân nơi nhà ga tuổi trẻ xác thực một thảm trạng về tính không trùng khít, không vừa vặn của những mảnh ghép tuổi trẻ. Những mảnh ghép không khít cứ bị ấn bừa vào nhau để rồi bung vỡ ở chính trung tâm của nó. Internet, facebook, Twiter… giống như những liều thuốc an thần, là chiếc đệm lười, là vỏ ốc để tuổi trẻ trú ngụ, ấn náu và trốn tránh. Họ - những người trẻ tuổi sẽ trở thành - trưởng thành như thế nào trong một thế giới đầy bị động như vậy? Cuốn tiểu thuyết của Asai Ryo đã mang đến cho người đọc, nhất là giới trẻ những suy tư thực chất, gần gũi với chính họ. Nhưng, không hề khuyên bảo hay dạy dỗ, cuốn sách như một người bạn, một “lời thủ thỉ, tâm tình” mà chạm đến những giật mình sâu kín của thế hệ. Và, sau tất thảy những điều bị động, bất ổn cuốn ta đi, một xác tín được thức tỉnh chính là: Ta chỉ có thể trở thành chính mình. Đó là một thông điệp quan trọng từ cuốn sách rất cần cho tuổi trẻ này. NGUYỄN THANH TÂM   Mời các bạn mượn đọc sách Trạm Dừng Chân Nơi Nhà Ga Tuổi Trẻ của tác giả Asai Ryo.
Rebecca Ở Trang Trại Suối Nắng
Tuyệt vời, ấm áp và đáng đọc" - Mark Twain Cô bé Rebecca 11 tuổi thông minh, nhanh miệng, vui tính và hồn nhiên được mẹ gửi đến ở với hai người dì ở thị trấn Riverboro. Giờ thì cô bé phải bắt đầu làm quen với một cuộc sống mới, trường học, bạn bè, những người hàng xóm mới. Và trên hết là bà dì khó tính lúc nào cũng tìm cách soi lỗi của Rebecca. Liệu những bộ quần áo đẹp và trường học có đáng để cô bé mơ mộng giàu tưởng tượng ấy phải hi sinh, hay sẽ khiến cô bé tìm cách quay trở về Trang Trại Suối Nắng? Rebecca Ở Trang Trại Suối Nắng là cuốn tiểu thuyết thiếu nhi kinh điển sẽ đưa các em vào cuộc khám phá trải nghiệm tuyệt vời về con người và vùng quê nước Mỹ thế kỷ XIX. Đây thực sự là một tác phẩm hấp dẫn và có sức lôi cuốn mạnh mẽ, được nhiều tầng lớp độc giả yêu thích từ nhiều thập kỷ qua. ***   Review Sách "Rebecca Ở Trang Trại Suối Nắng": Tác Phẩm Thiếu Nhi Kinh Điển Và Còn Hơn Thế Nữa Gấp sách lại, tôi thấy tim mình đang đập rất nhanh, đến nỗi đang viết đây mà tay tôi vẫn run lẩy bẩy...   Tôi không thích nói về văn phong về ý nghĩa về trẻ em về giá trị về này kia, tôi chỉ muốn nói về Adam Ladd – “chú Aladdin” của Rebecca, phân tích anh đến tận cùng, thêu dệt nên tất cả những gì tôi có thể thêu dệt về anh, vì đây chính là nhân vật khiến tôi đổ gục ngay từ giây phút đầu xuất hiện. (Tôi sẽ gọi ông chú 34 tuổi này là “anh”, theo như dịch giả gọi, và vì tâm hồn anh phù hợp với nhân xưng ấy). Thật ra là, lúc đọc lời nhà văn Jack London gửi cho Kate Douglas Wiggin: “Tại sao cô bé không phải là con gái tôi? Tại sao người mua ba trăm bánh xà phòng kia không phải tôi? Tại sao, ôi, tại sao chứ?” – tôi cứ ngỡ “người mua ba trăm bánh xà phòng” hẳn phải là một ông bác phúc hậu, kiểu như sẽ là cha đỡ đầu gì đó của Rebecca chứ? Ai mà ngờ được đó lại là một “ông chú” trẻ tuổi ưa nhìn, người mà từ lần đầu xuất hiện đã lập tức trở thành tia nắng sưởi ấm cho cuộc đời Rebecca (hai người gặp nhau lần đầu khi Rebecca 12 tuổi, Adam 29 tuổi).    Lúc đầu, chẳng hiểu sao cái tên chương báo hiệu sự xuất hiện của Adam khiến tôi rất chán – “Chú Aladdin”, như thể tác giả đang giả vờ úp mở rằng một ông chú tốt bụng sắp sửa xuất hiện. Tôi nghĩ, nếu là một ông chú tốt bụng thì chỉ cần bác Cobb là đủ rồi, chả cần thêm. Nhưng thật may, và thật tuyệt, là tôi đã lầm, vì ông chú này không chỉ tốt bụng, mà còn cực kỳ thú vị (và trẻ, và đẹp trai, và giàu có, wow!). Và rồi khi ông chú hào phóng quyết định mua hẳn ba trăm bánh xà phòng (khiến Rebecca kinh ngạc đến nỗi ngã ngửa khỏi hiên, rơi tõm vào lùm cây), tôi đã quyết định, mình thích ông chú này. Cái sự “mua ba trăm bánh xà phòng” nói hào phóng thì cũng hào phóng đấy, nhưng theo lẽ thường, chắc phải lý giải theo kiểu bà bác Miranda của Rebecca (nhân vật khắc nghiệt nhất truyện) thì tôi thấy hợp lý hơn:  "Ba trăm bánh xà phòng!” bà Miranda thốt lên.  “Chao, thật đúng là có một cái loại mùa vụ chưa bao giờ thất thu ở Riverboro này!”“Mùa gì đấy ạ?” cô Lydia lịch sự hỏi. “Mùa ngu.”  (Ha ha ha, đây là đoạn tôi thích nhất truyện. Bác Miranda khắc nghiệt của chúng ta chửi người còn hay hơn hát). Nhưng ba trăm bánh xà phòng ấy chính là cơ duyên cho sự quen biết của Adam và Rebecca. Lần đầu gặp gỡ, anh vì đôi mắt lanh lợi kia mà vung tay mua ba trăm bánh xà phòng (rồi để chất đống trong nhà kho chưa biết xài tới bao giờ), chỉ bởi cô bé bán những bánh xà phòng ấy – Rebecca, là cô bé “đặc biệt và có sức thu hút nhất” mà anh từng thấy. Theo thời gian, anh chứng kiến cô bé ấy từng bước trưởng thành bằng ánh nhìn tán dương và trân trọng, nâng đỡ quan tâm cô theo một cách thật cẩn thận và tinh tế. Ví như, chỉ để “hợp lý hóa” món quà của mình và không gây nên thị phi không đáng có gì ảnh hưởng đến cô bé, vào những dịp mà không ai có thể nói ra nói vào (như Giáng Sinh chẳng hạn), anh tỉ mỉ chọn từng món quà cho cô nhưng luôn không quên tặng một món tương tự cho Emma Jane, bạn thân của Rebecca. Dù cô bé bạn thân nọ anh hầu như không nhớ được tên. Lại ví như, khi gia đình Rebecca gặp khó khăn, anh không trực tiếp ra mặt giúp đỡ, mà ý nhị tổ chức một cuộc thi viết luận với giải thưởng cao. Anh nghĩ thế này:  Bạch Tuyết – Hoa Hồng cần giúp đỡ, mình chẳng có cách nào giúp cô bé mà không gây điều tiếng cả, nên cô bé phải tự đạt được nó, cô gái nhỏ tội nghiệp! Không biết tiền bạc của mình có phải luôn trở nên vô dụng mỗi khi mình cần đến hay không nữa!. Và than ôi, tim tôi đập thình thịch khi đọc những dòng ấy. Cái cách anh muốn giúp nhưng luôn tìm lý do thật đường hoàng để giúp, cách anh trăn trở để sao cho mọi sự quan tâm của mình phải thật tự nhiên và thường tình. Sau lưng, anh không ngại nài nỉ cô giáo Maxwell hãy dùng tài lực của anh để hỗ trợ Rebecca, nhưng trước mặt Rebecca, anh luôn là một ông chú vui vẻ tốt bụng, chưa từng để cô phải khó xử vì điều gì. Có lẽ, thật ra, ngay từ đầu, ông chú chỉ đơn giản là yêu thích cô bé ấy, vì đứa trẻ này đáng yêu quá. Nhưng rồi, theo từng bước chân của cô bé, tận mắt chứng kiến đứa trẻ ấy ngày một trưởng thành và hoàn thiện, thấy viên ngọc ấy ngày một tỏa sáng rạng rỡ, có người nam nào lại giữ lòng được mà không rung động? Adam, có thể lúc nào anh cũng đủ chín chắn để tạo ra hoàn cảnh hợp lý cho mỗi sự quan tâm đối với Rebecca, nhưng một lúc nào đó, một giây nào đó, khi hình ảnh đôi mắt biết cười ấy chợt hiện ra và choán hết tâm trí anh, liệu anh có còn đủ lý trí như vậy không? Sự thật là không. Khi anh mua chiếc ô hồng sặc sỡ và gửi khẩn cho cô bé của anh mà “chẳng chút mảy may băn khoăn”, anh đã để trái tim mình đánh gục lý trí. (Dĩ nhiên một tiếng sau anh đã vội tỉnh táo lại và mua thêm một chiếc ô xanh tặng cho Emma Jane, người bạn của Rebecca, lý do thì bên trên tôi đã đề cập rồi đấy). Ôi! Yêu chết một Adam dễ thương như vậy. Tôi chẳng biết ý định của tác giả là gì, làm sao lại để nhân vật nam yêu thích của tôi hơn cô gái yêu thích của anh đến 17 tuổi chứ (17 tuổi – đúng gấp đôi số tuổi của Rebecca ở cuối truyện, hic). Nhưng tác giả đã xây dựng nên một Adam 34 tuổi mà không phải 54 tuổi, và tình cảm anh dành cho Rebecca là có thật. Dù rằng Rebecca của chúng ta từ đầu đến cuối vẫn ngây thơ như cô bé bán xà phòng ngày nào, ngưỡng mộ và kính trọng anh, đặt anh ở một vị trí rất quan trọng trong tim, nhưng mà yêu thì… thật lòng tôi cũng chẳng biết cái ngày Rebecca nhìn Adam với một ánh mắt khác có bao giờ đến hay không. Điều này dằn vặt tôi dữ lắm, và hẳn cũng đã và sẽ dằn vặt Adam không ít lần. Nhưng tôi vẫn có quyền hi vọng chứ. Tôi sẽ hi vọng vào tương lai của họ theo cách đẹp đẽ nhất mà tôi có thể thêu dệt nên. Vì tác giả đã cho chúng ta cơ hội cơ mà (nói đơn giản là tác giả chả kết thúc đành đoạn gì cả). Ừm, nói cho xôm nhưng tóm lại – Adam Ladd là nhân vật cực kỳ yêu thích của tôi trong truyện này, còn sự yêu thích của anh với Rebecca, mà có lẽ cũng là mọi người đọc dành cho Rebecca, thì hẳn là: “Tôi mừng là đã được gặp cô bé; tự hào vì quen biết cô thiếu nữ, và mong chờ được gặp người phụ nữ tương lai!” *** hiếc xe ngựa chở khách cũ kỹ lóc xóc chạy trên con đường bụi mù từ Maplewood đi Riverboro. Mới giữa tháng Năm mà trời oi nóng như đang giữa mùa hè. Bác Jeremiah Cobb chiếu cố cho lũ ngựa hết mức có thể, song vẫn không quên mình đang đi đưa thư. Đồi còn nhiều. Bác thả lỏng đôi dây cương trong tay, uể oải ngả lưng trên ghế và duỗi một chân gác lên miếng chắn bùn xe cho thoải mái. Chiếc mũ vành đã sờn kéo sụp hẳn xuống che mắt, bác bỏm bẻm nhai một miếng thuốc lá bên má trái. Trên xe có một hành khách - một người nhỏ bé tóc đen mặc váy trúc bâu bóng màu vàng nhạt. Cô bé người mảnh mai quá và ngồi thẳng đừ đến nỗi liên tục bị trượt từ chỗ này sang chỗ khác trên chiếc ghế nệm da, mặc dù cô đã gắng hết sức lấy chân tì sao cho mình ngồi đúng giữa ghế và hai tay mang găng vải bám chặt hai bên để giữ thăng bằng. Cứ lúc nào bánh xe thụt xuống rãnh sâu hơn bình thường, hay bất thình lình nảy xóc lên vì vấp phải hòn đá, là cô bé dù chẳng muốn vẫn cứ bị nảy lên một cái, rồi rơi xuống, thế là lại phải chỉnh lại chiếc mũ rơm nho nhỏ trông rõ buồn cười, rồi nhặt cái dù bé xinh màu hồng lên hoặc đặt lại cho nó ngay ngắn, một việc dường như là nhiệm vụ chính của cô - trừ phi chúng ta tính cả chiếc ví đính hạt cườm, mà cứ chốc chốc, khi điều kiện đường sá cho phép, cô lại dòm vào, và hài lòng ra mặt khi những thứ quý báu trong ấy không mất hay rơi đi tẹo nào. Bác Cobb chẳng biết tí gì về những phiền hà của việc đi lại ấy, bởi công việc của bác là đưa người ta đến nơi họ cần, chứ không nhất thiết phải làm cho họ đi đường được thoải mái. Thậm chí bác còn quên béng sự tồn tại của vị khách bé nhỏ không có gì đáng chú ý này. Khi bác chuẩn bị rời bưu điện ở Maplewood sớm hôm ấy, một thiếu phụ bước từ xe ngựa chở hàng xuống, tới chỗ bác hỏi có phải đây là xe đi Riverboro, và bác có phải bác Cobb hay không. Khi bác trả lời rằng phải, thiếu phụ liền gật đầu với một cô bé đang háo hức đợi câu trả lời, và cô chạy ngay tới chỗ bà như thể sợ bị muộn mất dù chỉ là một tích tắc. Cô bé áng chừng mười, mười một tuổi, nhưng cho dù đã trải qua bao nhiêu mùa hè thì cô vẫn có vẻ nhỏ hơn so với tuổi của mình. Mẹ cô bé giúp con leo lên xe, đặt bên cạnh con một cái bọc và một bó hoa tử đinh hương, quan sát việc chằng buộc cái rương cũ ở phía sau, và cuối cùng tỉ mẩn đếm từng đồng bạc để trả lộ phí. “Tôi nhờ bác đưa cháu đến chỗ mấy chị tôi ở Riverboro,” thiếu phụ nói. “Bác có biết Mirandy và Jane Sawyer không? Họ sống ở ngôi nhà gạch ấy.” Lạy Chúa phù hộ, bác biết họ rõ như thể bác đã sinh ra họ ấy chứ! “Là thế này, con bé sẽ đến đó, và hai chị ấy đang đợi cháu nó. Xin bác để mắt đến cháu nhé! Cháu nó mà thấy có thể ra ngoài bắt chuyện với người lạ hay rủ người ta đi cùng là nó làm ngay đấy ạ. Tạm biệt con, Rebecca; gắng đừng gây chuyện đấy, và phải ngồi yên, như thế thì khi đến nơi con mới chỉnh tề xinh đẹp được. Mà đừng có làm phiền bác Cobb nhé. Bác thấy đấy, nó đang háo hức lắm. Mẹ con tôi đi tàu từ Temperance đến đây từ hôm qua, nghỉ đêm ở nhà bà chị họ tôi và sáng nay mới đánh xe từ nhà chị ấy đến đây - những tám dặm đấy.” “Tạm biệt mẹ, mẹ đừng lo lắng; mẹ biết mà, có phải con chưa đi xa bao giờ đâu cơ chứ.” Thiếu phụ khẽ cười nhạo một tiếng và nói với bác Cobb giọng thanh minh, “Nó mới đến Wareham ngủ lại một đêm; chẳng đáng để mà tự hào là đi xa được!” “Thế là đi xa chứ còn gì nữa mẹ,” cô bé nói giọng hào hứng và bướng bỉnh. “Rời trang trại này, chuẩn bị bữa trưa cho vào giỏ này, đi xe ngựa một lúc và đi tàu hỏa chạy bằng hơi nước nữa này, mình còn mang cả váy ngủ nữa.” “Có nói thì cũng đừng nói cho cả làng nghe thế chứ,” người mẹ lên tiếng, cắt ngang dòng hồi tưởng của nhà du hành giàu kinh nghiệm. “Mẹ chẳng dặn con rồi,” thiếu phụ thì thầm, với nỗ lực thiết quân luật cuối cùng, “không được nhắc đến váy ngủ và tất dài và… những thứ tương tự, bằng giọng ông ổng lên thế, nhất là khi có đàn ông con trai xung quanh.” “Con biết, mẹ, con biết mà, và con sẽ không như thế nữa đâu. Con chỉ muốn nói là…” - đến đây bác Cobb tặc lưỡi một tiếng, quất cương, và đôi ngựa khoan thai bắt đầu công việc hằng ngày của mình - “Con chỉ muốn nói rằng đi xa là khi…” - lúc này chiếc xe ngựa đã bắt đầu đi rồi nên Rebecca phải thò đầu ra ngoài cửa sổ để nói cho hết câu -“Đi xa là khi mà mình mang theo váy ngủ!” Mời các bạn mượn đọc sách Rebecca Ở Trang Trại Suối Nắng của tác giả Kate Douglas Wiggin & Phạm Minh Điệp (dịch).