Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mười Hai Chiếc Ghế - Ilya Ilf & E. Petrov

Mười hai chiếc ghế" của hai nhà văn Liên Xô I.Ilf và E.Petrov là một kiệt tác của nền văn học Liên Xô thuộc thể loại tiểu thuyết trào phúng, được xếp vào hàng các tác phẩm kinh điển khi các tác giả còn sống. Lấy bối cảnh năm 1927, bộ truyện kể lại một phi vụ làm ăn đầy kịch tính giữa I. Vorobyaninov , một cựu quí tộc của chế độ Sa hoàng và O.Bender, một tay lừa đảo có hạng.  Tác phẩm được viết bởi ILF, Ilia Arnoldovich (1897 – 1937) cùng với PETROV, Evgeny Petrovich (1903 – 1942) là hai nhà văn trào phúng người Odessa. Valentin Petrovich Kataev ( tiểu thuyết gia và nhà soạn kịch Nga và Liên Xô) được biết tới là người đã đề xuất ý tưởng tiểu thuyết "Mười hai chiếc ghế" cho em trai Yevgeni Petrov và Ilya Ilf. Đổi lại, Kataev yêu cầu tất cả các ấn bản và bản dịch tiểu thuyết này đều cần phải đề là tặng ông. Sức tưởng tượng, sự rung cảm và sức sáng tạo không ngừng của Kataev đã khiến ông trở thành một trong những nhà văn Xô Viết xuất sắc nhất. Sau "12 chiếc ghế" Ilf và Petrov còn viết tiểu thuyết "Con bê vàng" (Золотой телёнок). "Con bê vàng" là phần II (tiếp theo) của "12 chiếc ghế". Ostap Bender không chết sau khi bị cắt cổ trong "12 chiếc ghế" và lại bắt đầu cuộc phiêu lưu mới của một kẻ du thủ du thực. Vẫn những mánh lừa đảo, cách kiếm tiền rất thông minh như trong phần I, Ostap Bender làm phần II cũng không kém phần thú vị và hấp dẫn. Nhận định: “Toàn bộ cuốn truyện toát ra sự phê phán rất thâm thúy, sắc bén, nhưng rất nhẹ nhàng, thú vị, đối với các thói hư tật xấu của con người.” -Dịch giả Lê Khánh Trường *** Ilya Ilf (Ilya Arnoldovich Feinsilberg, tiếng Nga: Илья Арнольдович Файнзильберг, 1987-1937) và Yevgeny Petrov (Yevgeniy Petrovich Kataev/Katayev, tiếng Nga: Евгений Петрович Катаев, 1903-1942) Là hai nhà văn và nhà báo Nga, được biết đến qua cuốn tiểu thuyết trào phúng, “Mười Hai Chiếc Ghế" (1928). Ilya Ilf và Petrov cũng xuất bản một số lượng lớn các câu chuyện và phác thảo dưới bút danh "Tolstoyevsky" trong Xô viết tạp chí và báo chí. Nền văn học danh tiếng của hai nhà văn phụ thuộc chủ yếu vào tác phẩm hợp tác của họ - những cuốn sách khác đã không đứng trước sự thử thách của thời gian. Ilya Ilf (bút danh của Ilya Arnoldovich Fainzilberg), sinh tại Odessa, con trai của một nhân viên ngân hàng. Sau khi tốt nghiệp từ một trường học kỹ thuật vào năm 1913, sau đó ông làm việc trong văn phòng một kiến trúc sư, một nhà máy hàng không và một nhà máy lựu đạn tay. Ông cũng góp phần đóng góp cho một tạp chí hài, tên là Sindektikon. Năm 1923, ông chuyển đến Moskva, nơi ông được nhận là một thủ thư và ông đã viết bài cho các tờ báo và tạp chí hài hước khác. Hai năm sau đó ông trở thành một nhà báo cho các tạp chí Gudok và Moriak. Trong chuyến thăm của ông ở Trung Á, ông đã chứng kiến cuộc đụng độ giữa hải quan cũ và hệ thống mới, mà đã trở thành một trong những chủ đề Trung tâm của “Mười Hai Chiếc Ghế". Sau khi họp bàn với Petrov, ông bắt đầu viết với những mảng hài hước cho tờ Pravda và các ấn phẩm khác. Nghiên cứu khoa học kéo dài gần chục năm. Ilya Ilf qua đời ngày 13 tháng 4 năm 1937 do bị bệnh lao, nơi ông đã ký hợp đồng trên hành trình của mình ở Hoa Kỳ. Yevgeny Petrov (bút danh của Yevgeny Petrovich Kataev) sinh tại Odessa, con trai của một giáo viên lịch sử. Ông tốt nghiệp năm 1920 từ một phòng tập thể dục cổ điển và bắt đầu sự nghiệp của mình như một nhà báo. Năm 1921 ông trở thành phóng viên báo tiếng Ukraina. Trước khi chuyển tới Moscow vào năm 1923, ông làm việc tại Cục điều tra hình sự Odessa. Petrov được bổ nhiệm làm phó tổng biên tập của tạp chí châm biếm Krasnyi perets và vào năm 1923, ông gia nhập đội ngũ nhân viên của tờ báo Gudok, một ấn phẩm cho các nhân viên đường sắt. Petrov đã không có tham vọng trở thành một nhà văn. Tuy nhiên, anh trai ông, nhà văn Valentin Kataev (1897-1986), khuyến khích ông soạn truyện ngắn, và một bộ sưu tập nhỏ đã được xuất bản vào năm 1924. Petrov kết hôn vào năm 1929. Từ năm 1932 ông đã góp phần vào tờ Pravda Krokodil. Năm 1925 Petrov đã trở nên quen với Ilya Ilf, người cũng làm việc cho Gudok. Cuốn sách đầu tiên của họ, “Mười Hai Chiếc Ghế" đã đạt được một thành công lớn. “Mười Hai Chiếc Ghế" xuất hiện trong thời gian tương đối tự do, khi kinh tế chính sách mới (NEPNEP) cho phép giới hạn doanh nghiệp tư nhân. Ý tưởng về những câu chuyện đã được đề xuất bởi Valentin Kataev. Ostap Bender - nhân vật chính đáp ứng trong cuộc phiêu lưu của mình là một kẻ cơ hội, quan chức, và kẻ lừa đảo và Sinbad thời kỳ NEP. Câu chuyện “Mười Hai Chiếc Ghế" đã lấy cảm hứng chuyển thể từ sân khấu và điện ảnh, không chỉ ở Liên Xô, nhưng cũng có ở Hoa Kỳ. Phiên bản phim của Mel Brooks từ năm 1970 đã nhận được nhiều sự đánh giá lẫn lộn của các nhà phê bình. Brooks là đạo diễn, viết kịch bản, tác giả của bài hát và tham gia trong một vai nhỏ. Mặc dù với tất cả các nỗ lực, sự hài hước của ông đã không mạnh như các nhà sản xuất (1968). 1933-1934 Ilf và Petrov viếng thăm Tây Âu. Họ đã gặp các nhà báo Nga nổi tiếng Ilya Ehrenburg ở Paris, và đã viết với ông một bộ phim hài, không tạo thành. Theo Ehrenburg, hài hước của Ilf là cay đắng; Petrov đã lạc quan, hài hước của mình là nhân đạo hơn và ông muốn tốt cho tất cả mọi người. Cái chết của Ilya Ilf là một sự khó khăn với Petrov, ông sau đó chỉ viết viễn tưởng. Tác phẩm của ông chủ yếu giới hạn là kịch bản phim và chỉnh sửa một bộ sưu tập của Ilf trong máy tính xách tay riêng (1937-1938). Năm 1940, ông gia nhập Đảng Cộng sản và trở thành biên tập viên của tạp chí Ogonyok. Vào năm 1941 Petrov viếng thăm Đức, nửa năm trước khi Đức Quốc xã tấn công Liên Xô, và nói: "Người Đức đang mệt mỏi của chiến tranh...". Trong thế chiến II Petrov đã phục vụ như là một phóng viên chiến tranh. Ông qua đời trong một máy bay rơi ở Sevastopol vào ngày 2 tháng 7 năm 1942. Báo cáo của Petrov từ trước đã được xuất bản dưới tiêu đề Frontovoi dnevnik (1942). ”Mười Hai Chiếc Ghế" được coi là một tôn giáo cổ điển và đã được tái bản nhiều lần.   Mời các bạn đón đọc Mười Hai Chiếc Ghế của tác giả Ilya Ilf & E. Petrov.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sách Ngược Đời Xuôi
Một nơi tử tế thì đâu thể thiếu tiệm sách được chứ, Izzie! Bởi thế mà ngoài khơi xa, ở nơi nắng vàng lấp lóa trên sóng bạc đảo xanh, nơi dân cư thưa thớt lại không thích học hành, vẫn có một tiệm sách nho nhỏ màu đỏ tía. Tiệm này không bán truyện hậu hiện đại, huyền huyễn, viễn tưởng, hậu tận thế; không bán hồi ký, trinh thám, thiếu nhi, truyện tranh, sách dịch, teen và hồi teen; ghét truyện nhiều phông chữ và minh họa nhiều hình, loại thẳng cánh các cuốn có số trang trên bốn trăm hay dưới trăm rưỡi. Gã chủ thì khó đăm đăm và xa lánh nhân tình thế thái… Mặc kệ, tiệm sách vẫn tồn tại. Để một ngày nọ, có người vào tiệm cuỗm đi món đồ quý giá nhất, Rồi một ngày nọ, có người giả khách vào xem sách và lén lút vứt con lại. Từ ấy có một em bé lớn lên giữa mùi giấy mới; có một cô gái muộn chồng với hàm răng to oành, “mông cũng chẳng khá hơn, 31 mà uống rượu như mới 25, đã ăn mày lại quyết đòi xôi gấc”; có một người đàn ông thức giấc nhờ mùa xuân thứ hai của cuộc đời… Câu chuyện tình cảm và tinh quái, pha phối chút bí hiểm, xoáy tròn như một cơn lốc qua các giá sách, người đọc sách lẫn người không đọc. Từ chối mọi kịch tính hay lắt léo. Chỉ rõ khác biệt giữa sách và đời, lại không thể phủ nhận ảnh hưởng đầy êm ái của cả hai bên đối với nhau. Sách ngược đời xuôi (The Storied Life of A.J. Fikry) có mặt bốn tháng liền trên New York Times Best Seller List, trụ hạng 1 lâu dài trên National Indie Bestseller List và đạt thành tích ngoạn mục ở rất nhiều quốc gia khác. *** Đôi khi không thích một cuốn sách chỉ là do ta đọc nó chưa đúng thời điểm mà thôi. A.J. Firky sở hữu một tiệm sách duy nhất ở một hòn đảo xa xôi phải đi mất hai chuyền phà mới tới nơi. Anh có cả một danh sách dài những thể loại bản thân ghét và sẽ không bao giờ bán ở tiệm của mình. Không tiểu thuyết văn học về những cuộc diệt chủng Do thái hay các bi kịch của nhân loại. Không "thể loại lai tạp" như tiểu thuyết văn học trinh thám hay viễn tưởng văn học. Không sách thiếu nhi, đặc biệt là về lũ trẻ mồ côi. Không tiểu thuyết đạo nhái, sách tranh, sách ảnh, hồi ký của mất tay nổi tiếng. Hiếm khi nhập các cuốn sách đầu tay hay những cuốn lãng mạn, hài hước dành cho các thiếu nữ mộng mơ, trừ khi tiệm của anh được đặt hàng trước. Anh cũng bỏ qua những series được hứa hẹn, nếu như chúng không nằm trong danh sách bán chạy của New York Times. A.J. không thích sách dày quá 400 trang nhưng cũng không được mỏng hơn 150 trang. Với anh, sách nào cũng được, miễn là không phải đống trên.   A.J. cũng chẳng phải là tay bán sách thân thiện gì. Anh thẳng tay đuổi mấy đứa nhóc vào bôi bẩn những cuốn sách trưng bày. Anh khó chịu với những phụ nữ trung niên lượn lờ trong tiệm mà chẳng mua gì. Anh cáu gắt với nhân viên của nhà xuất bản đến chào hàng sách mới. Thế nên tiệm sách Hải Đảo dần dần thua lỗ một cách trầm trọng. Nhưng cuộc đời anh bỗng chốc được rẽ ngoặt sang một trang mới khi có hai sự kiện lớn xảy đến tiệm sách Hải Đảo. Một là cuốn sách giá trị nhất trong bộ sưu tập của A.J. biến mất không để lại dấu vết, và hai là người ta để “quên” một con nhóc 2 tuổi trong tiệm của anh. Sách ngược đời xuôi không chỉ kể lại câu chuyện cuộc đời của A.J. Fikry mà còn khắc họa tình cha con sâu đậm giữa một gã bán sách khó tính và một cô nhóc có gu đọc sách dở tệ. Mỗi chương sách là tên của một cuốn sách mà A.J. vô cùng yêu thích, dù số sách này cũng chỉ hơn số đầu ngón tay một chút, kèm theo đó là một bức thư mà ông bố ấy vụng về gửi cho con gái Maya. Đọc sách, độc giả sẽ cười nghiêng ngả rồi lại rơm rớm nước mắt trước cuộc đời đầy những sự ngược đến với A.J. chứ chẳng xuôi gì. Bước sang tuổi 40, anh không chỉ trải qua nỗi đau mất vợ, rồi lại đến chứng vắng ý thức khiến anh đơ như bức tượng gỗ trong vài phút, mà còn là cơn nghiện rượu dai dẳng và nỗi cô đơn cùng cực. Nhưng sự xuất hiện của Maya đã đem lại sức sống mới cho anh, cũng giống như tiệm sách Hải Đảo mang đến niềm vui cho đảo Alice. A.J. quyết định nâng cấp tiệm sách cũng như thay đổi chính mình, vì người ta vẫn nói: thay đổi tất cả thì không thể tệ hơn giữ nguyên mọi thứ như ban đầu. Và anh tin vào điều đó. Sách ngược đời xuôi chắc chắn không phải là một câu chuyện cổ tích, vì vốn trong cuốn sách đâu có kẻ tốt hay người xấu. Nhưng mỗi chúng ta đều có quyền tin vào cái kết kỳ diệu dành cho mỗi nhân vật và cả các cửa hàng sách. Ở một nơi tử tế thì đâu thể thiếu tiệm sách được cơ chứ! *** Gabrielle Zevin là nữ tiểu thuyết gia trẻ người Mỹ, đến nay đã là tác giả của chín cuốn sách được dịch ra hơn 30 thứ tiếng. Sách ngược đời xuôi là một trong những tác phẩm nổi tiếng của cô, đã từng đứng trong danh sách bán chạy của tờ New York Times suốt bốn tháng liền. Hiện Zevin đang tập trung vào sự nghiệp biên kịch trước khi bắt tay vào cuốn sách thứ mười của cô. Mời các bạn đón đọc Sách Ngược Đời Xuôi của tác giả Gabrielle Zevin.
Chuyện Tình Tự Kể
Lyudmila Zakharovna Uvarova* xuất hiện trên văn đàn Xô-viết vào giữa những năm 60 bằng những truyện ngắn mang sắc thái riêng – trữ tình, tinh tế và sâu sắc, đã thu hút ngay cảm tình của đông đảo bạn đọc, nhất là giới trẻ. Từ đó tới nay, L. Uvarova đã cho ra đời hơn mười cuốn sách. Đáng chú ý hơn cả là các tập truyện ngắn và truyện vừa: Vừa giữa trưa đã hoàng hôn, Mới đây hoặc trước kia, Sẽ có âm nhạc, Chuyện tình tự kể… Qua những cảnh đời thường, những chuyện xảy ra hàng ngày, ngòi bút của L. Uvarova đã tái tạo được những tính cách đặc sắc, những con người có đời sống nội tâm phong phú và luôn khao khát tự vượt lên chính mình để vươn tới một thái độ sống trung thực, nhân hậu… Nữ văn sĩ không hề “khua chuông gõ mõ” về các phẩm chất nhân vật của mình. Văn của chị không trực tiếp miêu tả thế giới bên trong con người nhưng tất cả cái vẻ bề ngoài của mọi sự vật được khắc họa một cách hết sức tinh tế ấy lại toát ra những bài học đạo đức rất sâu sắc. Bạn đọc Việt Nam đã được biết tới tài năng của L. Uvarova lần đầu tiên qua truyện ngắn Chú gà trống trên ban công (trong tập truyện Tiếng nhạc trên sân ga – Nhà xuất bản Văn học 1973), sau đó là các truyện ngắn: Chòm sao Song tử xanh, Hồi ức triệu năm qua…, Bé Olya của tôi và truyện vừa Vừa giữa trưa đã hoàng hôn (trong tập truyện Nửa đời nhìn lại – Nhà xuất bản Tác phẩm mới 1982). CHUYỆN TÌNH TỰ KỂ in trong tập truyện cùng tên (Nhà xuất bản Nước Nga Xô-viết 1984) đã được đông đảo bạn đọc Xô-viết đón nhận nồng nhiệt và góp phần đưa tác giả của nó lên hàng những cây bút văn xuôi được mến mộ nhất hiện nay ở đất nước Xô-viết. NHÀ XUẤT BẢN LONG AN *** Đây là lời giới thiệu của nhà xuất bản ở thời điểm tác phẩm được in (1986). Lyudmila Uvarova là nhà văn và nhà viết kịch Liên Xô, sinh 21 tháng 11 năm 1918 và mất 24 tháng 8 năm 1990 đều tại Moskva. *** Irina Tôi không hề có ảo tưởng. Tôi biết tại sao anh ấy muốn lấy tôi làm vợ. Anh đã yêu một người phụ nữ khác, nhưng đột nhiên cô ta đã bỏ anh, rồi vì buồn, vì uất ức, vì nỗi giận hờn đắng cay của mình, và cũng có thể do muốn vươn tới một sự tự khẳng định nào đó, anh bỗng ngỏ lời hỏi tôi làm vợ. Chúng tôi quen biết nhau đã nhiều năm, đã sống hàng xóm láng giềng với nhau trên cùng một đường phố. Anh lớn hơn tôi ba tuổi rưỡi, thuở nào khi tôi học lớp bốn chẳng hạn thì anh học lớp bảy, cái đó đã tạo nên một khoảng cách lớn giữa chúng tôi. Nhưng về sau, khi tôi tròn hai mươi ba tuổi, còn anh – hai mươi sáu, thì chúng tôi đã bằng vai với nhau. Hơn nữa, người ta vẫn bảo rằng phụ nữ bao giờ cũng trưởng thành sớm hơn về mặt sinh học. Thực ra tôi không hề thấy mình trưởng thành hơn anh. Ngược lại, tôi luôn cảm thấy anh trưởng thành hơn, thông minh hơn và lớn lao hơn tôi. Có lẽ trên thực tế cũng là như vậy. Chúng tôi tốt nghiệp đại học vào thời gian khác nhau – anh ở đại học xây dựng, còn tôi – đại học kinh tế kế hoạch. Tôi mới qua tuổi hai mươi ba, làm việc ở một cơ quan thiết kế với mức lương tương đối khá, còn anh là kỹ sư trưởng của một công ty xây dựng. Một buổi sáng nọ, vào thứ bảy, anh bỗng đến nhà tôi. Chúng tôi đã lâu không gặp nhau, thế mà bây giờ bỗng nhiên anh lại đến. Ông chú Oleg Georgievich của tôi hỏi: - Tôi phải nói với cháu nó thế nào, ai đến thăm nó? Anh đã trả lời: - Xin ông nói giùm là có Pikaskin đến. Ông chú có thói quen không hề ngạc nhiên trước chuyện gì bao giờ, hỏi lại một cách lịch sự: - Xin lỗi, thế nào? Pikaskin ư? Tôi nghe có đúng không? Mời các bạn đón đọc Chuyện Tình Tự Kể của tác giả Lyudmila Uvarova.
Forrest Gump (Tiếng Việt)
Tiểu thuyết Forrest Gump của Winston Groom in năm 1986 thoạt tiên không phải là cuốn sách ăn khách cho đến khi bộ phim chuyển thể ra đời năm 1994 với ngôi sao Tom Hanks. Theo một thống kê, trước khi có bộ phim này thì cuốn sách đã được bán 30.000 bản, và khi Forrest Gump qua mặt rất nhiều bộ phim xuất sắc cùng năm để giành giải Oscar phim hay nhất, đã có 1,7 triệu bản sách được bán trên khắp thế giới. Còn bộ phim đã xếp thứ tư trong các bộ phim có doanh thu lớn nhất mọi thời đại cho đến thời điểm đó. Năm 2011, Thư viện Quốc hội Mỹ đã chọn Forrest Gump vào danh sách bảo tồn của Cơ quan Lưu trữ Phim ảnh Quốc gia vì "có ý nghĩa về mặt văn hóa, lịch sử và mỹ học."  Winston Groom là một cựu binh thời chiến tranh ở Việt Nam, sau khi trở về, ông làm phóng viên và chuyển sang viết tiểu thuyết năm 32 tuổi và đã gặt hái được nhiều thành công. Cuốn tiểu thuyết Conversations with the Enemy (1982). [Trò chuyện với kẻ thù] với chủ đề cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam đã lọt vào chung kết giải Pulitzer năm 1983. Năm 1985, Groom quay về Mobile và bắt đầu viết Forrest Gump. Cuốn sách đã trở thành dấu mốc cho sự nghiệp sáng tác của ông. Nhân vật Forrest Gump đã được Groom xây dựng như một người "tự kỷ bác học'", đã có những thay đổi khi được chuyển thể trên màn ảnh Hollywood. Sự khác biệt ở hình tượng Forrest Gump giữa truyện và phim dường như là nhà văn chủ ý xây dựng một nhân vật phản anh hùng, trong khi các nhà làm phim Hollywood thực hiện theo hướng ngược lại, người hùng kiểu mới có kết cục thành công có màu sắc Giấc mơ Mỹ. Truyện và phim đều đã gây nên những cuộc tranh luận về khía cạnh chính trị và tính biểu tượng của nhân vật Gump cũng như mối quan hệ với xã hội của chàng ngốc có chỉ số IQ (chỉ số thông minh) chỉ có 75 nhưng đã đi khắp nơi và gặp đủ loại người. Cuộc phiêu lưu của Forrest Gump suốt ba thập niên bao trùm lịch sử sau thế chiến II đã vẽ nên chân dung một nước Mỹ: Gump đã gặp 2 tổng thống Mỹ, lên tàu vũ trụ, đóng phim ở Hollywood, sang Trung Quốc và tham chiến ở Việt Nam mà không hiểu mình chiến đấu vì lẽ gì.  Forrest Gump đề cập vấn đề muôn thuở của kiếp nhân sinh: chúng ta từ đâu tới, chúng ta làm gì và chúng ta đi về đâu? Thừa hưởng cái tên của ông tướng thời nội chiến đẻ ra phong trào phân biệt chủng tộc Klu Klux Klan,Forrest Gump sinh ra với chỉ số thông minh của "thằng đần" nhưng mẹ cậu bé luôn đấu tranh cho con mình có được nền giáo dục công bằng nhất. Người mẹ tuyệt vời này luôn dạy con khi cậu bé bị chúng bạn trêu chọc "con không có gì khác biệt hết". Và hễ ai cật vấn "sao mày ngu vậy?" thì Gump có câu trả lời mẹ dặn: "Người ta chỉ ngu khi làm trò ngu".  Bằng giọng văn hài hước, châm biếm, gây cười nhưng cũng để lại dư vị cay đắng, những trang sách dẫn dụ người đọc đi vào thế giới nội tâm với cái nhìn ngây thơ mà không hề giản đơn của một kẻ đần. Cuộc phiêu lưu dị thường mà Gump đã trải qua, vẽ nên chân dung nước Mỹ sau thế chiến II - một đế quốc đã phát động cuộc chiến phi nghĩa với Việt Nam và phải trả giá.  Đó là sự mất mát niềm tin của thế hệ trẻ, hàng nghìn người chết, các cuộc biểu tình. Forrest Gump tham gia cuộc chiến mà không hề hiểu mình chiến đấu vì lẽ gì, “sao chuyện này lại xảy ra?”. Sáng lên trên cảnh nền tăm tối, hỗn loạn đó là ước mơ về hạnh phúc, về hòa bình qua hình ảnh một chiếc thuyền câu tôm, một đầm nuôi tôm.  Mỗi số phận trong tác phẩm là một câu trả lời về sự tồn tại, tin ở các giáo lý, luật lệ, mệnh lệnh hay chính mình. Trên lộ trình đưa ra các đáp án, tác phẩm cũng kịp lấy ngay những câu chuyện thời cuộc để nói về "chúng ta làm gì" của những thanh niên Mỹ khi phải tham chiến. Người bạn Bubba trước khi chết trên chiến trường Việt Nam đã đau xót hỏi Gump: "Tại sao chuyện này lại xảy ra?". Cuộc chiến tranh ở Việt Nam trên phim được khắc họa đậm nét hơn so với tiểu thuyết phần nào cho thấy cuộc chiến hằn dấu ấn đậm nét trong truyền thông nước Mỹ, đến mức nhà làm phim đã gạt bớt các chuyện phiêu lưu khác như bay vào vũ trụ, đóng phim, đấu vật, tranh cử nghị viện... trong truyện để dành đất cho Gump và các bạn của chàng ta đối diện câu hỏi "đi về đâu?". Ðây chính là sự khác biệt lớn giữa phim và truyện khi nhà văn để nhân vật tiếp tục phiêu lưu.  Các nhân vật của phim có vẻ hành động logic với hiện thực hơn nhưng cũng buông xuôi theo thời hơn. Phim vừa có vẻ khẳng định thắng lợi của triết lý Tin Lành Max Weber (Gump phải đổ máu, mất mát và lao động cật lực để giàu có), vừa có màu sắc hư vô (cuộc đời như một hộp kẹo, bạn không thể biết mình sẽ chọn được cái nào). Truyện làm rõ hơn tinh thần không thúc thủ trước hoàn cảnh của Gump và bè bạn của chàng ta, hết keo này đến keo khác khiến người đọc phải mê say và nghĩ "ờ, cuộc đời này quả không đến nỗi tồi để sống".  Cả phim và truyện đều giữ một hình ảnh Forrest Gump khờ nhưng nhân hậu, luôn đối xử tốt với mọi người xung quanh mà không toan tính. Bút pháp cường điệu hài hước của hai tác phẩm đã khiến chàng khờ Gump không còn là thằng ngốc - nạn nhân kiểu nhân vật của Dostoyevsky, mà là người còn lại sau rốt để thanh thản kể câu chuyện đời mình, đầy nụ cười và niềm phấn khích bất tận. Mời các bạn đón đọc Forrest Gump của tác giả Winston Groom & Ngọc Trà (dịch).
Phi Trường Tập 2
Thông qua câu chuyện hồi hộp về quá trình nghi ngờ, điều tra phát hiện, và tìm cách ngăn chặn một vụ âm mưu cho nổ một chuyến máy bay hành khách quốc tế đông người ngay trên không. Arthur Hailey muốn cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết tương đối tường tận và lý thú về hoạt động của một sân bay dân dụng vào loại lớn và hiện đại nhất nước Mỹ, sân bay quốc tế Lincoln, với lưu lượng máy bay lên xuống trung bình 30 giây một chiếc. Qua đó, tác giả muốn nói đến những vấn đề xã hội đang đặt ra hiện nay cho nước Mỹ: đó là những mâu thuẫn và bất công không thể tránh khỏi trong cuộc chạy đua theo tiến bộ khoa học kỹ thuật không phải vì hạnh phúc con người, mà trước hết vì lợi nhuận, đẩy con người đi đến chỗ có những hành động mù quáng điên rồ, tìm lối thoát trước cảnh ngộ bế tắc bằng cách tự giết mình và giết oan nhiều người vô tội khác. *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... Mời các bạn đón đọc Phi Trường Tập 2 của tác giả Arthur Hailey.