Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phố Tàu Chinatown

Toàn bộ câu chuyện diễn ra trong vòng hai tiếng đồng hồ khi hai mẹ con nhân vật chính bị kẹt lại trên một chuyến tàu điện ngầm vì có nghi ngờ đoàn tàu bị đánh bom. Trong hai tiếng đó là một cuộc độc thoại nội tâm bất tận, đầy tiếc nhớ quá khứ và những nhận xét sắc bén về cuộc sống và số phận, khi nhân vật chính nhìn lại cuộc đời của mình, từ Hà Nội đến Leningrad rồi Paris, những con người đã đi qua đời mình, nhất là Thụy, người tình Trung Hoa từ thuở nhỏ, một mối tình đầy trắc trở, rồi sau đó trở thành người chồng chạy trốn, đến một Chinatown (Chợ Lớn) vô hình nào đó, nơi không mảnh vụn quá khứ nào bắt kịp được.       ““Un milliard de chinois. Et moi. Et moi. Et moi (Một tỉ người Trung Hoa. Và tôi. Và tôi. Và tôi).” Lời bài hát của Jacques Dutronc mang vị ngọt-đắng trong độc thoại nội tâm dài đầy táo bạo này của một phụ nữ Việt Nam trẻ tuổi sống ở Belleville. Ngồi trên tàu điện ngầm, cô nhớ về Hà  Nội và tình yêu duy nhất của mình, từng bị hy sinh cho cuộc chiến biên giới Việt-Trung. Về cái thời cô còn chưa biết đến từChinatown, còn giờ đây nó đã trở thành số phận của cô. Giành được một thành công lớn tại Việt Nam, cuốn tiểu thuyết của Thuận, hiện sống ở Paris, làm nhòe đi các ranh giới giữa cái thực và hư cấu. Thỉnh thoảng chị nhét vào đây đó vài trang một cuốn tiểu thuyết khác được đưa vào đầy khéo léo, theo một lối mỉa mai tạo nên một mối liên hệ khó nhận ra với tác phẩm của Duras, và mang đến cho chúng ta, một cách đầy bình dị, một khúc ca xé lòng về lưu vong.” (Augustin Trapenard – Magazine Littéraire, 4/2009) *** Đây là lần thứ hai Chinatown được xuất bản tại Việt Nam. Cuốn tiểu thuyết vừa mang nặng nuối tiếc quá khứ vừa cay độc những khi cần này không chỉ chinh phục người đọc Việt Nam mà còn bắt đầu đến với độc giả Pháp qua bản dịch của Đoàn Cầm Thi (NXB Seuil, 2009). Toàn bộ câu chuyện diễn ra trong vòng hai tiếng đồng hồ khi hai mẹ con nhân vật chính bị kẹt lại trên một chuyến tàu điện ngầm vì có nghi ngờ đoàn tàu bị đánh bom. Trong hai tiếng đó là một cuộc độc thoại nội tâm bất tận, đầy tiếc nhớ quá khứ và những nhận xét sắc bén về cuộc sống và số phận, khi nhân vật chính nhìn lại cuộc đời của mình, từ Hà Nội đến Leningrad rồi Paris, những con người đã đi qua đời mình, nhất là Thụy, người tình Trung Hoa từ thuở nhỏ, một mối tình đầy trắc trở, rồi sau đó trở thành người chồng chạy trốn, đến một Chinatown (Chợ Lớn) vô hình nào đó, nơi không mảnh vụn quá khứ nào bắt kịp được. *** Đồng hồ đeo tay chỉ số mười. Thằng Vĩnh nhỏm dậy kêu mỏi. Nó ngủ trong tàu điện ngầm. Đầu ngả vào vai tôi. Tàu đến một ga nhỏ thì dừng lại. Mười lăm phút rồi vẫn không nhúc nhích. Người ta phát hiện một túi du lịch vô chủ. Người ta nghi âm mưu đánh bom một cái ga hiu hắt thế này chứa một âm mưu khác nguy hiểm hơn nhiều. Tôi không biết nên ngồi đợi xem âm mưu ấy nguy hiểm đến mức nào. Hay ra ngoài bắt một cái xe buýt mà đi tiếp. Thằng Vĩnh lại ngả đầu vào vai tôi ngủ. Mười hai tuổi nó cao bằng Thụy lúc mười sáu tuổi. Buổi trưa nó ăn căng tin ở trường. Một đĩa khoai tây nghiền. Một khoanh thịt bò rán. Hai lát giăm bông. Hai lát phó mát. Sữa chua. Kem. Bánh ngọt. Buổi trưa Thụy ăn cơm ở nhà. Thụy đi học về là vào bếp nấu cơm. Ba anh em hai bơ gạo, nửa mớ rau muống, sáu con tôm. Thằng Vĩnh cao bằng Thụy năm mười sáu tuổi. Tóc nó cũng cắt cao như tóc Thụy. Mắt nó cũng xếch như mắt Thụy. Trong lớp bạn bè gọi nó là thằng Trung Hoa. Ra đường người ta gọi nó là thằng Trung Hoa. Ở quận Mười Ba người ta nói với nó bằng tiếng Quảng Đông. Cả trường gọi Thụy là thằng Tàu. Thằng con cháu Đặng Tiểu Bình. Thằng tay sai Bắc Kinh. Cả phố gặp Thụy đều hỏi thế nào bao giờ về nước. Giường tủ bàn ghế bán hết chưa. Thầy hiệu trưởng được mời lên công an khu vực. Học trò Âu Phương Thụy cần được theo dõi sát. Học trò Âu Phương Thụy gia đình xin được ở lại Việt Nam sinh sống. Chính phủ đang xem xét. Chính phủ chưa quyết định gì. Nhưng cần theo dõi sát. Đại hội Đảng vừa có công hàm Bắc Kinh là kẻ thù số một của nhân dân Việt Nam. Học trò Âu Phương Thụy cần được theo dõi sát. Có thể chưa có biểu hiện gì. Nhưng nhiệm vụ của chúng ta là theo dõi sát. Từ công an khu vực về, thầy hiệu trưởng họp ban giám hiệu. Từ ban giám hiệu về, cô giáo chủ nhiệm họp cán bộ lớp. Hôm sau cả lớp nói với nhau thằng Thụy có vấn đề. Hôm sau nữa toàn trường xôn xao gia đình thằng Thụy bị công an chống gián điệp theo dõi. Gia đình thằng Thụy thường xuyên nhận tài liệu mật của Bắc Kinh. Trong lớp không ai chơi với Thụy. Không thầy cô giáo nào gọi Thụy lên bảng. Trong trường, mỗi khi Thụy đi qua, mọi người im lặng nhìn đi nơi khác. Giờ tập quân sự, Thụy được ngồi nhà. Thư gửi chiến sĩ đảo Trường Sa, Thụy được miễn viết. Năm cuối cấp học sinh cá biệt cũng được chiếu cố kết nạp đoàn. Nhưng Thụy thì không. Người ta không đả động gì đến Thụy. Người ta làm như không biết Thụy là ai. Người ta làm như không có Thụy trong lớp. Mười sáu tuổi Thụy cao bằng thằng Vĩnh bây giờ. Tóc Thụy cắt cao. Mắt Thụy xếch. Trong xe ô tô, Thụy ngả đầu vào vai tôi ngủ. Thụy kể Thụy sinh ở Yên Khê. Chúng tôi sinh cùng năm. Thụy trước tôi ba tháng hai ngày. Hôm sau cả lớp nói với nhau tôi phải lòng Thụy. Hôm sau nữa toàn trường xôn xao tôi bị thằng tay sai Bắc Kinh bắt mất hồn. Thầy hiệu trưởng mời bố mẹ tôi tới văn phòng. Cô giáo chủ nhiệm gọi tôi ra gặp riêng. Cô giáo dạy toán gọi tôi ra gặp riêng. Thầy giáo dạy văn gọi tôi ra gặp riêng. Thầy giáo tiếng Anh gọi tôi ra gặp riêng. Bí thư liên đoàn trường gọi tôi ra gặp riêng. Em nên tập trung để dẫn đầu cả lớp kỳ thi cuối năm. Em nên tập trung để đạt kết quả cao nhất kỳ thi hết cấp. Em nên tập trung để mang lại danh dự cho toàn trường kỳ thi đại học. Người đem trách nhiệm trao cho tôi. Người mang thi cử ra làm tôi sợ. Không ai đả động gì tới Thụy. Không ai tỏ ra muốn biết Thụy. Bố mẹ tôi cũng làm như không biết Thụy. Ba năm tôi học cấp ba, bố mẹ tôi không bao giờ nhắc đến Thụy. Năm năm tôi học đại học ở Nga, bố mẹ tôi cũng không bao giờ nhắc đến Thụy. Bố tôi bảo nên tập trung để sau năm năm được cái bằng màu đỏ. Mẹ tôi bảo được cái bằng màu đỏ rồi làm gì thì làm. Bố mẹ tôi đều hy vọng tôi sẽ quên Thụy. Hai mươi ba năm nay bố mẹ tôi hy vọng tôi quên Thụy. Thằng Vĩnh nhỏm dậy lần nữa. Âm mưu nguy hiểm vẫn đang đợi công an đặc nhiệm đến điều tra. Tôi vẫn không biết nên ngồi đợi hay ra bắt xe buýt. Ba người khách cùng toa nhăn nhó. Có đi nữa hay không thì phải báo. Một ngày ba tiếng trong phương tiện công cộng còn gì là đời. Tôi quay lại bảo tôi cũng một ngày ba tiếng trong phương tiện công cộng. Chẳng ai phản ứng. Tôi nói thêm hắn cũng thế, hắn cũng một ngày ba tiếng trong phương tiện công cộng. Ba người khách vẫn không phản ứng. Tôi bảo tên hắn dài lắm, có đánh vần cũng chẳng ai nhớ được. Cũng chẳng để làm gì. Có lẽ cứ gọi hắn là hắn. Từ bàn làm việc hắn gọi điện cho tôi. Hắn gọi cho tôi mười lăm phút giữa ngày. Tôi ngồi gặm bánh mì trong phòng giáo viên. Bác sĩ bảo stress. Stress vì phương tiện công cộng. Ba tiếng một ngày. Stress không có ở thế giới thứ ba. Người thế giới thứ ba mắc nhiều bệnh hiểm nghèo nhưng không ai mắc bệnh stress. Việt Nam thế giới thứ ba nhưng Việt Nam bốn mùa cây trái. Việt Nam rừng vàng biển bạc. Việt Nam có vịnh Hạ Long kỳ quan thế giới, có Sài Gòn hòn ngọc Viễn Đông, có Marguerite Duras giải Goncourt văn học. Stress không có ở thế giới thứ ba. Stress chỉ Việt Nam mới chữa được. Hắn đi Việt Nam mười hai lần. Mười một lần từ Bắc vào Nam bằng xe máy Liên Xô. Hắn làm tây ba lô. Hắn ăn đường ngủ chợ, về đến Charles de Gaulle còn mỗi quần soóc và áo may ô, tóc dài đến vai, người toàn nốt muỗi đốt. Trong tàu điện ngầm người ta nhìn hắn nghi ngờ. Ở Việt Nam nhân viên khách sạn nhìn hắn lắc đầu. Mày đày đọa thân mình làm gì, tôi hỏi hắn. Mày tưởng mày hơn tao, hắn hỏi tôi. Hắn hỏi tôi nhiều chuyện. Lâu ngày có nhớ nước chanh của mẹ không. Bố mày còn vác được xe đạp lên gác chứ. Thằng Vĩnh vẫn sưng họng à. Thằng Paul vừa lây sang thằng Arthur hôm qua. Cuối năm bọn đồng nghiệp của mày có cái đề nghị gì hay ho không. Bọn phòng tao rủ nhau đi ăn hiệu. Quán Xích Lô. Lần này đến lượt tao được chọn. Tao sẽ gọi món chim quay của thằng Vĩnh. Con Yamina năm tới lưu ban thì học cùng lớp với thằng Yasin em ruột nó à. Cô Feng Xiao hồi này thế nào. Sắp về quê bốc mộ Đặng Tiểu Bình chưa. Hắn hỏi tôi nhiều chuyện. Không bao giờ hắn đả động đến Thụy. Không bao giờ. Hắn làm như hắn không biết Thụy là ai. Về Việt Nam hắn tránh đi cùng chuyến với thằng Vĩnh. Quay lại Pháp hắn cũng tránh đi cùng chuyến với thằng Vĩnh. Hắn sợ gặp Thụy ở sân bay. Tôi hỏi hắn nhiều chuyện. Không bao giờ tôi hỏi chuyện vợ hắn. Không bao giờ tôi đả động đến đời tư của hắn. Cả quá khứ lẫn hiện tại. Tôi không cần biết. Tôi tự bảo không có nhu cầu biết. Tôi tự bảo không hơi đâu kiểm tra đời tư của hắn. Thằng Paul, thằng Arthur gặp mẹ chúng nó một tháng mấy lần, ở đâu, bao lâu, không bao giờ làm tôi để ý. Tôi không biết số điện thoại cơ quan hắn. Mỗi lần gọi điện thoại đến nhà hắn tôi đều phải mở sổ tay. Mười năm nay hắn không chuyển nhà lần nào. Nhưng tôi vẫn mở sổ tay. Thế nào mọi thứ ổn chứ. Công việc tốt chứ. Không ai sưng họng chứ. Thằng Vĩnh muốn nói chuyện với thằng Paul và thằng Arthur. Hai khả năng xảy ra. Hoặc thằng Vĩnh nói chuyện với một trong hai thằng kia, ba mươi phút. Tôi trả bao điện thoại vô hạn định nội thành và ngoại ô Paris. Hoặc, không thằng nào có nhà à. Không sao. Không quan trọng đâu. Không phải gọi lại đâu. Chuyện trẻ con ấy mà. Hắn nhắm mắt cũng đọc được số điện thoại nhà tôi, điện thoại phòng giáo viên trường tôi, điện thoại cầm tay của tôi, điện thoại hàng xóm của tôi, điện thoại cô Feng Xiao. Ba năm tôi đổi ba lần địa chỉ e-mail. Hắn chẳng cần sổ tay cũng không bao giờ nhầm. Wanadoo, Club-internet, Liberty.surf. Tên tôi, đệm Thụy. Tên Thụy, đệm tôi. Họ tôi, họ Thụy. Họ Thụy, họ tôi. Tôi cũng không nhớ nữa. Tôi cũng phải mở sổ tay. Nhưng hắn chấp hết. Không cần sổ tay hắn cũng không bao giờ nhầm. Đi đâu xa, về quê nhà hắn ở Rennes, hắn cũng viết cho tôi. Cúc cu thế nào. Hôm nay Chủ nhật sắp đi lễ nhà cô Feng Xiao à. Qua Tang Frères nhớ mua ba con bồ câu về quay cho thằng Vĩnh. Sắp ra phim Người Mỹ trầm lặng. Đợi tao về đi xem cùng nhé. Thằng Vĩnh gửi đến nhà tao. Bà dì tao sẽ lại cho cả ba thằng ăn chim quay. Nhưng hắn bảo hắn thích gọi điện cho tôi hơn. Mày có cái mặt khó đăm đăm nhưng giọng không đến nỗi. Thậm chí được. Tiếng Pháp của mày pha nhiều tạp âm lắm. Nào Việt. Nào Liên Xô. Nào Hà Nội. Nào Leningrad. Năm năm học tiếng Anh ở Nga không được dạy đại học Thanh Xuân thì làm giáo viên cấp hai ngoại ô Paris cũng được. Làm giáo viên cấp hai còn hơn làm thành viên hội năm triệu người Pháp thất nghiệp. Tao thấy giọng mày không đến nỗi. Nói chuyện với mày qua điện thoại đỡ mệt hơn là nhìn cái mặt khó đăm đăm của mày. Stress lắm. Bốn chín đồng nghiệp trường mày đều nói thế à. Hắn bảo hắn được mỗi cái nhớ dai. Lý lịch tôi hắn đọc vanh vách. Sinh nhật tôi, sinh nhật thằng Vĩnh, cả tôi lẫn thằng Vĩnh đều quên. Hắn nhớ tất. Không cần sổ tay hắn cũng nhớ tất. Không cần đọc giấy khai sinh, hắn cũng biết tôi sinh ở bệnh viện Bảo vệ bà mẹ và trẻ em, thằng Vĩnh sinh ở bệnh viện Nhi Thụy Điển, nặng hai cân chín, dài sáu mươi phân. Mười hai năm sau, thằng Vĩnh cao thêm một mét, nặng gấp mười lần, đi giày số ba chín. Mười hai năm sau, một giờ trưa Chủ nhật thằng Vĩnh đòi ăn chim quay. Nó bảo cơm Việt Nam có món chim quay cung cấp đủ ca lo như bữa trưa căng tin trường nó. Nghỉ hè nghỉ tết về Việt Nam nó thích ăn trưa phố Tạ Hiền. Anh phục vụ thấy nó đến là mang ra ba suất chim quay, một suất cơm rang. Anh phục vụ biết cả nó không ăn củ kiệu, không uống bia Shingtao mà uống Coca Cola. Coca Cola nhà máy rượu bia Hà Nội liên doanh với công ty cổ phần hữu hạn Tai Feng bà nội nó làm đại diện. Bà nội nó ngày nó ra đời chỉ đợi cuối tháng đi lĩnh hưu non cùng ông nội nó, cùng chín ông bạn chín bà bạn nữa của phố Lương Ngọc Quyến, hai mươi cán bộ công nhân viên bốn mươi lăm tuổi đã được phòng tổ chức khuyên viết đơn xin thôi việc. Mười hai năm sau, một giờ trưa Chủ nhật, tôi bảo thằng Vĩnh mẹ mệt lắm tuần sau mới mua được ba con chim bồ câu về quay húng lìu. Nó khóc lóc mẹ lúc nào cũng kêu mệt. Nếu mẹ hết tiền, con cho mẹ vay. Tiền của Thụy cho nó. Tôi không động đến. Nó bảo con muốn độc lập. Mười tám tuổi là con đi làm. Mười tám tuổi là con có hộ chiếu. Một hộ chiếu Việt. Một hộ chiếu Pháp. Một hộ chiếu Trung Hoa. Con sẽ nói ba thứ tiếng. Lúc đó tiếng Hoa sẽ mạnh hơn tiếng Anh. Un milliard de chinois. Et moi. Et moi. Et moi. Tôi trêu thằng Vĩnh. Tôi biết nó thích tôi trêu thế. Tôi biết nó thể nào cũng lăn ra ngủ. Nó vẫn còn mệt vì trận nhảy dù cùng thằng Paul và thằng Arthur hôm qua. Hai thằng này rủ sáu năm nữa đi nghĩa vụ quân sự ở Irak. Thằng Vĩnh phẩy tay. Sáu năm nữa, chiến tranh Irak còn hay hết, nó cũng mang hộ chiếu Trung Hoa nhảy dù xuống Bagdad. Sáu năm đủ để các doanh nghiệp Trung Hoa qua mặt các đối thủ Hoa Kỳ và Anh Quốc, đủ để công ty cổ phần Tai Feng của bà nội nó mở thêm mấy chục chi nhánh ở Vùng Vịnh. Sáu năm nữa tôi bốn lăm tuổi. Thụy bốn lăm tuổi. Tương lai tôi còn hai mươi năm dạy học để cuối đời hưởng lương hưu Bộ Giáo dục. Tương lai Thụy có thể là Hồng Kông, Irak, Hoa Kỳ hay Rwanda. Tiếng Hoa của Thụy sáu năm nữa sẽ có giá thêm sáu lần. Họ Âu của Thụy sáu năm nữa sẽ đông thêm sáu lần. Thằng Vĩnh ngủ. Tôi ngủ gục bên cạnh. Tôi đang định làm một giấc mơ xem Thụy và tôi dắt tay nhau đi lĩnh lương hưu thì hắn gọi điện. Hắn đánh thức cả tôi lẫn thằng Vĩnh. Không cần nhấc máy tôi đã biết là hắn. Chủ nhật bốn giờ chiều. Nếu không chẳng may qua đời, như hắn thường nói, hắn sẽ còn tiếp tục gọi điện cho tôi. Chủ nhật bốn giờ chiều. Ngay cả khi hắn đi chơi xa. Ngay cả khi hắn về quê ở Rennes. Ngay cả khi trời ở đấy mưa cả ngày hay nhiệt độ trung bình ba mươi lăm, biển không xa, rất xanh và ít sóng. Ngay cả dưới mặt trời Củ Chi, Yên Bái, Cà Mau. Chủ nhật bốn giờ chiều. Hắn quen tất cả các nhân viên điện đài. Hắn biết nói chào anh chào chị lúc đến. Chào anh chào chị lúc đi. Các nhân viên khách sạn nhìn hắn lắc đầu nhưng các nhân viên điện đài tỉnh lẻ cả ngày ngồi rít thuốc lào thấy hắn cũng hay hay. Các nhân viên điện đài tỉnh lẻ gọi hắn là anh người Pháp. Anh người Pháp vào làm cốc nước chè. Anh người Pháp đến gọi điện cho bạn gái đấy hả. Cụm từ tây ba lô năm hai nghìn linh ba vẫn chưa vượt biên khỏi Hà Nội và Sài Gòn. Người Củ Chi, Yên Bái, Cà Mau vẫn vừa vặn ngây thơ để tin các anh người Pháp đều dân tư bản. Không tư bản mà trả hai trăm nghìn đồng mười phút điện thoại. Hai trăm nghìn đồng không đủ nghe Thanh Lam song ca với Hồng Nhung ở cả Hà Nội lẫn Sài Gòn nhưng hai trăm nghìn đồng đủ mua bốn mươi cân ngô ở Yên Bái, bốn mươi cân sắn ở Củ Chi, bốn mươi cân bột mì ở Rạch Giá. Lần cuối cùng hắn gọi điện ở cafénet phố Hàm Long. Năm ngoái hai trăm nghìn đồng mười phút đi EU. Năm nay quân đội cạnh tranh nhà nước hạ giá một nửa. Nguyên phố Hàm Long có tới năm cafénet. Hắn hét thi cùng ba người bên cạnh cũng gọi đi EU. Cổ họng Pháp nhỏ hơn cổ họng Việt nên tôi được nghe hai người đi Đức, một người đi Pháp. Cả ba cùng bàn cách gửi con du học. Cả ba cùng trằn trọc tiếng Đức tiếng Pháp sau này biết nói với ai, bằng Đức bằng Pháp sau này làm công ty nào. Cả ba cùng nhất trí trường Đức trường Pháp còn rẻ hơn đại học trong nước. Ở Đức ở Pháp không có ngày hiến chương các nhà giáo, phụ huynh cũng đỡ phải bắt máy bay Vietnam Airlines sang Đức sang Pháp mà kỷ niệm, mà vác cam đến nhà giáo viên. Bốn giờ chiều Hà Nội. Mười một giờ trưa Paris. Mười một giờ trưa hè Paris. Tôi nằm trong chăn. Hắn quần soóc áo may ô 39 độ. Tôi ôm máy vào lòng nghe hắn thi hét. Hai mươi phút hét hắn lạc cả giọng. Ba người bên cạnh chắc vẫn còn hét vài lần mười phút nữa. Hắn bảo hắn thích gọi điện cho tôi hơn là viết mail. Mặt mày khó chịu lắm nhưng giọng thì không đến nỗi. Bốn tạp âm trộn vào nhau như cơm rang thập cẩm nhưng tao hiểu được. Không đến nỗi. Thậm chí được. Chủ nhật bốn giờ chiều. Chưa cần nhấc máy, tôi đã biết là hắn. Mới nghe hắn chào, tôi đã biết hắn sẽ đề nghị chạy ba vòng công viên Belleville. Tôi phẩy tay. Cả tao và thằng Vĩnh đều bận. Bà nội nó sang họp với đại diện công ty Tai Feng ở Pháp. Bà nội nó mang cho nó một két Coca Cola để uống với chim quay. Bà nội nó bảo bao giờ về, lại cho một két nữa mang đi, cho cả ba con chim quay Tạ Hiện lên máy bay mà ăn. Một đĩa cơm rang Vietnam Airlines với hai lát giò lụa toàn bột mì và mì chính không đủ ca lo cho nó. Hắn bảo tôi cứ ở nhà mà lo cung cấp ca lo cho bà nội thằng Vĩnh. Hắn không chào. Hắn đặt máy xuống. Lần nào đến Hà Nội, hắn chẳng ghé nhà tôi, lần nào bố mẹ tôi chẳng tranh thủ tâm sự tôi và thằng Vĩnh bị Thụy và bố mẹ Thụy bỏ rơi ra làm sao. Lần nào kèm theo quà cũng có thư, kèm theo thư có câu hỏi bao giờ tôi và hắn cưới nhau, bao giờ tôi về Việt Nam cùng hắn để ra mắt họ hàng. Ra mắt họ hàng là quan trọng nhất. Mười hai lần đi Việt Nam hắn thừa biết. Mười hai lần đi Việt Nam hắn đủ khôn để biện hộ với bố mẹ tôi. Để bố mẹ tôi hôm sau biện hộ lại với họ hàng. Một cháu mới chuyển trường. Một cháu mới chuyển cơ quan. Một cháu đang đi học tại chức. Một cháu đang đi công tác nước ngoài. Ông cụ bên ấy mệt. Bà cụ bên ấy không được khỏe. Thằng Vĩnh về Việt Nam hè năm ngoái. Sáu trăm euro vé khứ hồi. Một trăm euro tiền tiêu vặt. Nửa tháng lương của tôi. Ông bà nội thằng Vĩnh không cho được nó nửa tháng lương nhưng đem ô tô ra tận sân bay đón. Cũng để ra mắt họ hàng. Tiếng Việt của thằng Vĩnh không trôi chảy. Nhưng dạ thưa tiếng Hoa của nó lại rất trơn tru. Cái lưỡi của nó cũng vẫn hợp chim quay Tạ Hiện. Tình hình Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nó nói đâu trúng đấy. Ông bà nội nó biết lương giáo viên cấp hai của tôi không đủ thuê nhà quận Mười Ba. Nhưng thằng Vĩnh chiều thứ Tư đi học tiếng Hoa ở phố Tolbiac. Tiếng Hoa quận Mười Ba không là tiếng Bắc Kinh nhưng người Bắc Kinh bây giờ cũng không nói tiếng Bắc Kinh. Người Hà Nội bây giờ cũng không nói tiếng Hà Nội. Ông bà nội nó thấy không có gì đáng phàn nàn về nó, không có gì đáng phàn nàn về tôi. Bố mẹ Thụy không bao giờ phàn nàn về tôi. Không bao giờ. Bố mẹ Thụy đến tận nhà hộ sinh đón tôi. Bố Thụy bế thằng Vĩnh đi trước. Mẹ Thụy cầm tay tôi đi sau. Bố Thụy đặt tên nó là Vĩnh. Bố tên Thụy. Con tên Vĩnh. Vĩnh Thụy trước đây là phạm thượng. Mẹ Thụy áy náy. Bố Thụy bảo Vĩnh tiếng Hoa là vĩnh cửu. Bố là Âu Phương Thụy. Con là Âu Phương Vĩnh. Sau này có con gái đặt tên là Hằng. Hằng cũng như Vĩnh. Hằng cũng đẹp bằng Vĩnh. Bố mẹ Thụy bàn tương lai. Cháu nội trai tên Vĩnh. Cháu nội gái tên Hằng. Kế hoạch hóa gia đình Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chặt gấp đôi kế hoạch hóa gia đình Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Con gái Trung Hoa sau này hiếm lắm. Con gái Trung Hoa sau này muốn lấy ai cũng được. Hằng họ Âu, mắt xếch, tiếng Hoa. Hộ chiếu Trung Hoa hay không không quan trọng. Un milliard de chinois. Et moi. Et moi. Et moi. Hằng đến tuổi vị thành niên một tỉ người Hoa thành một tỉ rưỡi. Trung Hoa thành quốc gia không biên giới. Cả Hằng lẫn Vĩnh đi đâu cũng không sợ mất gốc, mất tiếng, mất món chim quay Tạ Hiện. Bố mẹ Thụy bàn tương lai. Bố mẹ Thụy bàn giao tôi và thằng Vĩnh cho bố mẹ tôi. Một tuần sau khi tôi ra viện. Bố mẹ thấy không có gì phàn nàn về con. Duyên số các con không thành đừng trách bố mẹ. Tôi không bao giờ trách bố mẹ Thụy. Tôi không bao giờ trách Thụy. Mười hai năm tôi không hết nhớ Thụy. Tôi để hắn một mình ra Bắc vào Nam bằng xe máy Liên Xô làm tây ba lô ăn đường ngủ chợ, về đến Charles De Gaulle còn mỗi quần soóc áo may ô. Hôm ra đón thằng Vĩnh, tóc vẫn còn dài tới vai. Người vẫn còn đầy nốt muỗi đốt. Tôi hỏi hắn đày đọa thân mình bao nhiêu cho vừa. Hắn hỏi tôi mày tưởng mày hơn tao. Thằng Vĩnh chưa kịp chào đã phát biểu mẹ cắt đầu gì kinh thế, đừng để cô Feng Xiao tự do thái quá. Nó chỉ thằng bé bên cạnh bảo đây là thằng Hao Peng bạn con. Tôi đã nghe nói nhiều về thằng Hao Peng. Thằng Hao Peng cùng học với thằng Vĩnh một lớp tiếng Hoa ở phố Tolbiac. Hai thằng hẹn nhau ở phòng đợi sân bay Băng Cốc. Thằng Vĩnh xuất phát từ Hà Nội. Thằng Hao Peng xuất phát từ Bắc Kinh. Mười hai tiếng máy bay về Paris đủ để thằng Hao Peng cho thằng Vĩnh một vòng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thượng Hải bây giờ như Chicago. Tàu điện ngầm vừa mới vừa êm không có ăn mày hát xin tiền bao giờ. Quảng Đông mới xử một vụ hối lộ lớn chưa từng thấy, năm tử hình mười tù chung thân. Côn Minh tháng sau sẽ khánh thành nhà máy điện nguyên tử công suất lớn nhất thế giới. Đại hội toán học quốc tế năm ngoái ở Bắc Kinh, đích thân chủ tịch Giang Trạch Dân cắt băng khai mạc. Quảng Đông được vào từ điển Guinness nhờ đứng đầu tỉ số cao lâu trên đầu người, đứng đầu tỉ số chim quay bán ra trong tháng. Hàng Châu nhà tao xây khách sạn nổi, mỗi phòng một sân gôn, một bể bơi ngoài trời, bể bơi còn cao hơn mặt nước biển. Hồ Nan nhà mày cũng phát triển lắm. Nghe nói đang xây xa lộ cầu vồng sáu làn xe, xuyên từ ủy ban nhân dân tỉnh tới quảng trường Thiên An Môn. Tứ Xuyên nhà cô Feng Xiao sắp tới sẽ kỷ niệm trọng thể mười năm ngày mất Đặng Tiểu Bình, cả tỉnh dự định nhập về tám triệu cái bình nhỏ để xây đài tưởng niệm cho cố chủ tịch vĩ đại nhất Trung Hoa. Mười hai tiếng đủ cho thằng Vĩnh tim nhảy thình thịch. Máy bay hạ cánh thằng Vĩnh thấy thằng Hao Peng đáng chơi nhất trong số bạn bè ở Paris. Thằng Hao Peng không bao giờ đến lớp muộn. Thằng Hao Peng nói tiếng Quan Thoại. Thằng Hao Peng dịch từ Hoa sang Pháp nhanh hơn cả cô giáo.    Mời các bạn đón đọc Phố Tàu Chinatown của tác giả Thuận.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Gái Điếm
Là một cô gái đã bộc phát bản năng của mình. Vì số tiền nợ của bố mình mà cô bị bán vào quán Bar. Còn anh là chàng trai lạnh lùng, không thích sự náo nhiệt nhưng nguyên nhân do đâu làm anh và cô gặp nhau và đến bên nhau vậy? *** Từ ngày hôm ấy, tôi bị bán vào quán bar, tôi buồn lắm! Cũng từ ngày hôm ấy, tôi bị bắt đi nhiều nơi để phục vụ cho khách nam. Cái nghề này, tôi phải đi bán trinh tiết của phụ nữ để thỏa mãn dục vọng của đàn ông. Hôm ấy, tôi được mời đến một căn biệt thự rất lớn để..... Bước qua cánh cửa chính là một người con trai đẹp như tranh vậy! Anh ta nhìn tôi với một vẻ mỉa mai nhưng tôi cảm thấy khá quen thuộc với ánh mắt ấy. Tôi vội mỉm cười nhẹ rồi nhanh chóng bước ra khỏi cửa. - Cô định đi đâu chứ? Tôi thuê cô đến đây để làm gì cô nên nhớ! -Là anh thuê tôi sao? Tôi bước vào cánh cửa ấy đầy sự u tối. Tôi cởi từng chiếc cúc trên chiếc áo của mình ra..... Tôi tự tủi thân cho bản thân mình phải đi làm cái nghề bôi nhọ trinh tiết thế này! Mời các bạn đón đọc Gái Điếm của tác giả Mây+.
Bí Ẩn Thanh Minh Thượng Hà Đồ
Đằng sau mỗi món đồ cổ, là tầng tầng lớp lớp lịch sử và văn hóa truyền thừa bao đời; Đằng sau mỗi món đồ giả, là mánh lới tính toán tinh vi cùng cạm bẫy khó bề tưởng tượng. Hứa Nguyện rửa được nỗi oan cho ông nội, nổi lên như một anh hùng đánh hàng giả trên thị trường cổ ngoạn, song lòng vẫn canh cánh mối thù gia tộc với Lão Triều Phụng - bàn tay đen đứng sau bi kịch bao đời nhà họ Hứa. “Tình cờ” thay, mọi manh mối về kẻ cầm đầu dòng chảy ngầm lớn nhất giới cổ vật này đều dẫn gã đến với quốc bảo Trung Hoa - Thanh minh thượng hà đồ. Một lần nữa Hứa Nguyện đơn thương độc mã dấn thân trên con đường trừ giả giữ thật mà không lường đến những gì mình sẽ phải đương đầu. Lôi Lão Triều Phụng ra ánh sáng, bảo vệ Minh Nhãn Mai Hoa trước nguy cơ lụi bại, giữ vững tôn chỉ của người giám định… ngần ấy nhiệm vụ hệ trọng dường như quá sức với một kẻ đang nôn nóng báo thù như gã. Bởi trong khi con người giám định cổ vật, cổ vật cũng giám định con người… *** Nửa đêm trộm mộ “ăn trên chiếu” Chơi đồ cổ quan trọng nhất là gì? Người nói là mắt nhìn, kẻ lại bảo là quan hệ, thực ra đều không chính xác. Ngành này xét đến cùng phải chú trọng hai chữ: “duyên phận”. Thế nên người chơi đồ cổ thế hệ trước phần nhiều đều tin số mệnh, cho rằng số đã có ắt có, số không có thì đừng cố. Nếu không có duyên với một món đồ mà cứ cố giành về tay, gọi là đi ngược ý trời, sẽ dẫn tới hậu họa khôn lường, món đồ ấy không còn là hàng tốt nữa, mà trở thành vật dữ cắn chủ, nhẹ thì thân bại danh liệt, nặng thì nguy tới tính mạng. Có điều đây đều là cách nói từ xưa, được quy vào mê tín dị đoan. Thời bây giờ ai cũng tiếp thu mấy chục năm giáo dục theo chủ nghĩa duy vật, chẳng tin mấy lời đó nữa. Hễ có tiền đưa tới tay thì bất chấp quy củ cách thức, ta cứ thế xông lên phá vỡ đạp bằng, chẳng sợ gì sất. Thần tài ngồi trên, yêu ma quỷ quái cũng phải đứng sang một bên. Ví như mấy người ngồi cùng xe với tôi hiện giờ, rõ ràng không phải hạng con buôn cổ hủ trọng truyền thống. Tôi đang ngồi trong một chiếc van Toyota chín chỗ cũ nát, ngoài lái xe ra tổng cộng có năm người. Bên trong xe lặng phắc như tờ, chẳng ai bắt chuyện, cũng chẳng ai hàn huyên. Bốn người kia đều ngồi im tại chỗ, trưng ra vẻ mặt hờ hững khó gần. Chỉ khi xe thình lình xóc nẩy lên, họ mới đảo mắt thật nhanh, vờ như vô tình liếc nhau một cái sắc lẻm. Tôi cảm giác được họ không giống mình. Tôi là chủ một tiệm đồ cổ nhỏ trong thành phố, còn họ là con buôn cổ vật chuyên thu mua đồ cũ từ nông thôn. Những người này quanh năm suốt tháng lê la dưới quê, qua lại với đám nông dân vừa chất phác vừa gian xảo nên người cũng thoang thoảng mùi bùn đất và sát khí. Bọn họ là ai? Xe chạy đi đâu? Tôi hoàn toàn không biết. Cửa xe đóng kín, bên ngoài đêm tối như mực, không trông rõ được cảnh vật. Chỉ có tiếng động cơ chạy ì ì cho thấy chúng tôi đang tiến tới một mục tiêu nào đó. Tôi cũng chẳng buồn nghĩ nhiều, dựa đầu vào cửa kính lạnh lẽo, huyệt Thái Dương tì vào chốt cửa, gà gật ngủ. Xe chạy lắc lư tròng trành dữ dội, trong lúc mê man, tôi chợt có một ảo giác lạ lùng: thùng xe chẳng khác nào cỗ áo quan khổng lồ vừa đóng đinh, kín mít không lọt một tia sáng. Tôi nằm trong, bên ngoài có mười sáu người khiêng quan tài băng qua nghĩa địa, bước xuống lối vào mộ, tiến về phía huyệt mộ cuối cùng... Phải rồi, quên chưa tự giới thiệu. Tôi tên Hứa Nguyện, hơn ba mươi, là một tay buôn cổ vật cò con dưới chân hoàng thành. Tôi có một cửa tiệm nhỏ ở Lưu Ly Xưởng, buôn bán kim thạch ngọc khí, gọi là Tứ Hối Trai. Tứ hối là gì? Chính là hối người, hối việc, hối lỗi, hối lòng. Đây là lời trăng trối của bố tôi, dạo Cách mạng Văn hóa, ông bị hãm hại phải nhảy xuống hồ Thái Bình tự tử, chỉ để lại tám chữ này. Song đằng sau đó còn ẩn giấu một câu chuyện dài. Tổ tiên tôi là một chi trong “Minh Nhãn Mai Hoa” gồm năm gia tộc lâu đời trong ngành cổ vật, mỗi nhà sở trường giám định một loại đồ cổ, có địa vị cực cao trong giới sưu tầm. Sau giải phóng, Minh Nhãn Mai Hoa cải tổ thành Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, vẫn có sức ảnh hưởng không nhỏ. Hứa Nhất Thành, ông nội tôi là chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa thời Dân Quốc, xuất thân Bạch môn, về sau vì đánh cắp đầu Phật ngọc ở minh đường Võ Tắc Thiên tuồn cho người Nhật nên bị coi là Hán gian đem xử bắn. Từ đó nhà tôi cũng sa sút không gượng dậy nổi, rút lui khỏi Minh Nhãn Mai Hoa. Vào ngày sinh nhật ba mươi tuổi, do sự thúc đẩy của những người cố ý, tôi đã rơi vào vòng xoáy này. Trải qua một phen bôn ba trắc trở, cuối cùng xem như tôi cũng giải oan được cho ông nội, đưa đầu Phật về nước, kết thúc mối dây dưa ngàn năm giữa nhà họ Hứa và đầu Phật ngọc. Sau khi xong việc, tôi quay về Tứ Hối Trai, tiếp tục buôn đồ cổ, sống lặng lẽ. Đột nhiên nghe phanh két một tiếng, người tôi đổ nhào về phía trước, sực tỉnh khỏi dòng ký ức. Xe đã dừng lại, tôi mở mắt ra, lắc lắc đầu. Ngờ đâu vừa quay đầu sang, tôi chợt thấy một gương mặt trắng bệch với đôi mắt cực kỳ quái dị hiện lên giữa bóng tối bên ngoài xe, một bên to tướng như mắt trâu, lòng đen ít lòng trắng nhiều, bên kia lại nhỏ xíu, thi trừng mắt với rùa chưa chắc đã thắng nổi. Cặp mắt một to một nhỏ này, trông như lúc nào cũng đang ngắm bắn. Tôi giật thót mình, vô thức rụt người lại, suýt nữa ngã nhào khỏi ghế. Bốn kẻ cùng xe cười nửa miệng, lộ vẻ khinh bỉ. Bấy giờ tôi mới nhớ ra, gương mặt này hẳn là của tài xế. Chẳng để tôi nghĩ nhiều, cửa xe đã bị kéo đánh “xạch”, tài xế ló đầu vào, đảo tròn con mắt to rồi làm động tác mời, giọng khàn khàn, “Tôi tên Mắt Trố, làm chân chạy bàn, mời các vị theo tôi.” Tôi vội điều hòa hơi thở, theo bốn người kia xuống xe. Vừa đặt chân xuống đất đã thấy mùi cỏ dại và cành thông xộc vào mũi man mát. Khỏi cần hỏi cũng biết, đây là mùi đặc trưng của chốn đồng không mông quạnh, hơn nữa còn là nơi hết sức hoang vu. Tôi nhìn quanh, lờ mờ thấy mấy ngọn núi đằng xa, trông như thú dữ mai phục trong đêm, có thể nhào tới bất cứ lúc nào. Mắt Trố bảo bọn tôi theo sát sau y. Mây đen đang bao phủ bầu trời, che khuất mặt trăng, chỉ có ngọn đèn pin loang loáng thoắt sáng thoắt tối trong tay Mắt Trố soi đường. Cây đèn pin của y có vẻ rất được chăm chút, bóng đèn bọc một khoanh giấy bìa cứng, như vậy cột sáng chỉ tập trung vào phía trước, không chiếu sang hai bên, nên cách hơi xa sẽ không thấy được. Chúng tôi bước thấp bước cao trên triền núi theo y chừng hơn mười phút, rẽ ngoặt liên tục, còn băng qua hai khoảng rừng. Rốt cuộc một người không kìm được lên tiếng hỏi, “Anh đưa chúng tôi đến đâu đây? Cỗ ở đâu vậy?” Mắt Trố quay lại nhe răng cười đáp, “Nôn nóng làm gì, chủ đâu có rời chiếu cỗ được.” Nói đoạn còn cười khà, tiếng cười như quạ. Y vừa cười, nhiệt độ xung quanh chợt hạ xuống, lạnh buốt cả người. Kẻ kia không dám hỏi thêm nữa, đành “hừm” một tiếng rồi đi tiếp. Đám chúng tôi đi chừng hơn nửa tiếng thì tới một khe núi vắng. Khe núi bị hai dãy núi cao ngất kẹp vào giữa, tạo nên một bình nguyên dưới chân núi. Từ đằng xa loáng thoáng nghe thấy tiếng nước chảy róc rách, hẳn là dòng suối từ trên núi chảy xuống, uốn quanh chỗ này, cắt khe núi thành hình tam giác. Khe suối là đáy, hai dãy núi sừng sững hai bên. Địa hình này trong phong thủy gọi là hai rồng xuống nước, là đất lành hợp xây mồ mả. Mắt Trố tiến vào khe núi thì dừng chân, rọi đèn pin về phía trước. “Bên này.” Chúng tôi nhìn theo ánh đèn, thấy thấp thoáng đằng xa một người trẻ tuổi mặc đồ rằn ri đang ngồi trước mặt là một cái hố rộng chừng nửa mét, mép hố còn gác ba chiếc xẻng cán thép và cả đống đất mới đào. Khỏi cần hỏi cũng biết ở nơi đất báu phong thủy thế này đào sâu ba thước ắt có mồ mả, có mồ mả tất có trộm mộ đánh hơi được kéo đến. “Đào tới đâu rồi?” Một tên mặt sẹo đi cùng tôi hỏi. Mắt Trố di chân xuống đất, hể hả đáp, “Tìm ra vị trí mộ rồi, vừa rồi chúng tôi mới đào đến vách sau, chỉ một nhát nữa là tới cửa thôi, đợi các vị đến mở chiếu đấy.” Mấy người đi cùng tôi đến trước hố đất, gạt lớp đất mới đào ra, vẻ mặt không ai giống ai. Nghe nói trộm mộ lâu năm chỉ cần nhìn đất là biết niên đại mộ. Có điều tôi chẳng có tài ấy, chắc hẳn mấy kẻ đi cùng cũng chẳng khá hơn. Chúng nhìn đất chỉ để yên tâm chứ đâu nhận ra cái gì. Kiểm tra đất xong, Mắt Trố cười khì, “Các vị may thật đấy, món lần này là thịt kho của bếp trưởng. Nếu không có gì thắc mắc thì lên món nhé?” Cả năm chúng tôi đồng loạt gật đầu, đứng tránh ra một quãng. Mắt Trố soi đèn pin về phía kia, hô “mở bát”, tức thì tên chạy bàn mặc đồ rằn ri đứng dậy, cầm chùy sắt và xẻng lên. Dáng gã gầy gò, lách vào hầm dễ như bỡn. Mắt Trố rút trong ngực áo ra một chai rượu trắng hàng chiết lẻ và năm cái chén, lần lượt đưa cho năm chúng tôi, “Trong núi sương dày lạnh giá, làm ít rượu trắng cho ấm người, phải chờ một lúc nữa cơ.” Không nói thì thôi, y vừa nói tôi liền thấy gió lạnh bốn bề, sương mù bảng lảng, vô thức liếc nhìn vào cánh rừng tối om. Mắt Trố đưa chén tới trước mặt tôi cười, “Chú em lần đầu ăn trên chiếu à?” Thấy tôi cười ngượng, y nói, “Ăn quen bén mùi, anh em mình vất vả một tí, nhưng chắc ăn hơn, có phải không?” Tôi gật đầu lia lịa, đón lấy chén rượu uống cạn, rượu trắng cay nồng như ngọn lửa cháy lan theo cổ họng xuống tận dạ dày, song mắt tôi vẫn dán vào đống bùn đất đang không ngừng đùn ra từ cửa hầm, lòng quặn lên. “Ăn trên chiếu” như lời Mắt Trố là một hoạt động khá kín đáo trong giới đồ cổ, trước đây tôi chỉ nghe nói, không ngờ hôm nay cũng được tận mắt chứng kiến. Phần lớn đồ cổ đến từ hai nguồn: một là đồ gia truyền đời đời lưu giữ, hai là đồ tùy táng bị đào ra. Loại trước được truyền đời rõ ràng, nhưng loại sau hơi khó phân định thật giả. Anh bảo món đồ này đào được trong mộ ra, bằng chứng đâu? Lỡ lừa gạt người ta thì sao? Phải biết có những món đồ cổ bản thân nó hoàn toàn không đáng tiền, tất cả giá trị đều nằm ở xuất xứ. Cùng một hạt dưa, mua từ hàng tạp hóa thì chẳng đáng một xu, nhưng nếu từ trong bụng xác nữ ở gò Mã Vương thì nghìn vàng chưa mua nổi. Thế là có kẻ nảy ra một cách, thăm dò xác định vị trí mộ đâu vào đấy, đào đường hầm đến cạnh mộ rồi để đó, mời vài người mua đến hiện trường, mở cửa mộ ngay trước mặt họ, đào lên bán sang tay luôn. Người mua chính mắt thấy đồ được đào dưới mộ lên, dĩ nhiên khỏi cần lo hàng giả. Trò này trong ngành đồ cổ gọi là “ăn trên chiếu”, không phải chiếu rượu, mà là chiếu cói, chiếu cói để làm gì? Thời xưa người ta dùng chiếu cói bọc xác chết, nên nó ý chỉ mồ mả. Những người mua như chúng tôi gọi là “khách”, trộm mộ thì gọi là “chạy bàn”, dĩ nhiên “chủ” chỉ người chết trong mộ. Bởi vậy vừa rồi Mắt Trố nói “chủ không rời được chiếu cỗ” khiến mấy người kia sợ quá nín thít. Mời bạn đón đọc Bí Ẩn Thanh Minh Thượng Hà Đồ của tác giả Mã Bá Dung & Tố Hinh (dịch).
Tiệm Bá Nghệ Tada Trước Ga Mahoro
Tada Keisuke, một nhân viên bán ô tô quyết định bỏ nghề, mở tiệm bá nghệ. Gyoten Haruhiko, một nhà nghiên cứu bệnh lý bỗng nhiên bỏ việc, lang bạt nay đây mai đó. Hai người bạn cấp ba chung lớp chưa một lần trò chuyện và chẳng khác nào hai đường thẳng song song ấy chỉ vì một lần trùng phùng nơi trạm xe buýt mà bước vào cuộc sống của nhau. Để rồi, ngày ngày họ rong ruổi khắp những con phố ở Mahoro trên chiếc xe tải nhẹ, làm đủ loại việc vặt mà khách yêu cầu; dắt chó đi dạo, thăm nom người ốm, quét dọn vườn tược, sửa chữa chuồng chó… Hai con người với hai tâm hồn cô độc chưa bao giờ cố để hiểu nhau, càng chẳng đòi hỏi gì ở đối phương, chỉ lặng lẽ sống như vậy qua ngày. Bởi họ biết rằng, một ngày nào đấy, hạnh phúc nhất định sẽ lại tìm đến mình dưới một hình hài nào đó thật khác. *** Miura Shion Cô sinh năm 1976 tại Tokyo, là con gái một học giả cổ điển nổi tiếng của Nhật Bản, vì vậy tình yêu với sách của tác giả được nảy sinh từ khi còn rất trẻ . Khi còn là sinh viên năm cuối khoa Văn Thư tại Đại học Waseda, cô bắt đầu tìm kiếm cho mình một vị trí biên tập, một công ty văn học đã nhận ra được tài năng viết lách của cô và thuê cô để bắt đầu viết một cột nhận xét sách trực tuyến ngay cả trước khi cô tốt nghiệp. Cô đã giành được nhiều giải thưởng lớn như:  Giải thưởng Naoki lần thứ 135.   Giải thưởng Oda Sakunosuke và Giải thưởng Nhà sách Nhật Bản năm 2012.   Một số các phẩm của cô đã được chuyển thể cho phim ngắn hoặc phim truyền hình. Sách của cô đã được dịch sang tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Đức và tiếng Ý. Tác phẩm: Bước Chạy Thanh Xuân Người Đan Chữ Xếp Thuyền Tiệm Bá Nghệ Tada Trước Ga Mahoro Những Vị Khách Của Tiệm Bá Nghệ Tada ... *** Bà Soneda đã tiên đoán như vậy “Sang năm là mầy bận rộn lắm đó con.” Vào buổi chiều một ngày cuối năm nọ, bầu trời quang đãng, bà Soneda đã buông một câu như vậy. Phòng khách của bệnh viện yên ắng quá đỗi. Ngoài khung cửa là bãi cỏ khô và những lùm cây rụng lá. Hai chiếc ti vi cỡ lớn đều giảm âm lượng xuống mức tối thiểu, một chiếc đang phát lại phim truyền hình dài tập, chiếc khác thì chiếu trận đua ngựa. Các ông già bà cả tập trung ngoài phòng khách thích ngồi bàn nào thì ngồi bàn đó, tự chia làm hai tốp rồi dán mắt vào một trong hai chiếc ti vi. Thi thoảng đâu đó sẽ vang lên những tiếng thọc tay vào gói bánh kiều mạch mang từ phòng bệnh tới hay tiếng bánh xe lăn kêu ken két. “Chả có nhẽ lại buôn may bán đắt nhỉ?” Tada Keisuke vừa cắt nhỏ bánh bông lan mật ong mua tới làm quà ra cho vừa miệng, vừa hỏi lại. Bà Soneda thì còn đang bận gườm chiếc bánh bằng cặp mắt sáng quắc như hổ rình mồi. Tada chỉ cắt ra hai miếng để vào đĩa giấy trên bàn rồi cất phần còn lại vào trong hộp nhựa, miệng căn dặn bà già: “Mẹ không thể ăn hết cả cái cùng lúc đâu! Đợi đến giờ ăn vặt rồi chia cho các bạn cùng phòng nhé.” Hắn rót trà nóng mua ở máy bán hàng tự động vào cốc giấy rồi đưa cho bà già. Bà nhúng bánh bông lan vào trà cho mềm ra rồi khởi sự ăn. “Buôn bán thì chả khác gì năm nay đâu! Mầy bận là bận chuyện của mầy ấy!” Bà già lại nói. “Không khéo mất luôn con vợ cũng chẳng biết chừng!” Vợ thì con bỏ từ đời rồi bà ơi! Tada nghĩ thầm trong bụng, song cũng chỉ im lặng nghe bà già nói tiếp. “Tiếp nhé, rồi mầy còn sẽ bắt đầu một cuộc thiên di, khóc khóc cười cười nữa cơ.” “Thiên di? Đi đâu cơ?” “Một nơi rất xa, rất xa. Xa như trong thẳm sâu trái tim mầy vậy.” Kể từ sau cái hồi bị bác sĩ phán rằng: “Những con ma xuất hiện vào ban đêm ấy thực chất chỉ là tâm cảnh của bà thôi, chúng được sinh ra từ trong lòng bà, bà Soneda à...” thì bà già đã không còn mấy lòng tin vào con tim mình nữa. Nên hẳn nơi mà bà nhắc đến phải xa cỡ nước ngoài, nơi người ta nói thứ ngôn ngữ hắn nghe không hiểu một chữ. “Ái chà, bà Kiku lại đang tiên tri kìa.” Nghe một giọng khàn đột ngột cất lên sau lưng, Tada ngoái lại. Ông lão hắn hay thấy trong bệnh viện với cây treo túi truyền dịch kiêm gậy batoong đang đứng đó. “Như nào rồi? Như nào rồi?” Ông lắc đầu, bỏ về phía chiếc ti vi. Bà già tiếp tục xì xụp hớp hết cốc trà. “Tóm lại là mầy sẽ bận bịu lên đấy, và không còn đến chỗ này mấy nữa.” “Kìa mẹ, chẳng có chuyện như vậy đâu!” Những lời sau đó nghẹn lại nơi cuống họng Tada. Hắn đã không thể thốt ra nổi một câu rằng: “Con sẽ lại đến.” Để xua đi giây phút ngượng ngập, hắn đề xuất: “Mình quay về phòng thôi nhỉ?” Nghe hắn nói vậy, bà Soneda chỉ lẳng lặng gật đầu. Bà già lững thững bước trên hành lang, Tada kiên nhẫn bước theo. Bà đã ngót nghét chín mươi đâm lưng còng xuống chỉ còn cao đến thắt lưng Tada. Phòng bệnh của bà là phòng cho sáu người, mỗi bên kê ba giường, giường của bà nằm ở giữa một bên. Tada lại giúp bà thật cẩn thận, cẩn thận, trèo lên giường. Bà già ngồi quỳ gối trên đó, cuộn người lại nom chẳng khác gì miếng bánh giầy Đại Phúc nhỏ bé. Tada đặt hộp nhựa đựng bánh bông lan lên chiếc tủ thép đầu giường rồi tính chào tạm biệt. Vừa lúc một y tá bước vào, khẽ gật đầu chào hắn, và thế là hắn để lỡ mất cơ hội chuồn cho nhanh của mình. Y tá vui vẻ bắt chuyện với bà lão. “Ôi! Bà Soneda có anh con trai ngoan quá. Anh lại đến thăm bà đấy à?” Đoạn cô ghé vào tai cụ già nằm giường trong cùng không rõ là ông lão hay bà lão, hét thật to: “Bác đau lưng ạ? Để cháu đổi tư thế cho bác nhé?” Rồi kéo roẹt tấm rèm ngăn hai giường lại. Có vẻ như ở phía bên kia rèm, cô y tá đang lật người cho cụ già, tránh để cụ bị loét lở vì nằm liệt. Tóc bà Soneda đã bạc trắng, còn lưa thưa có vài sợi. Tada cứ đứng đó hồi lâu nhìn xuống cái xoáy trên đầu bà, cuối cùng hắn nói. “Thế mẹ nhé, mẹ đón năm mới vui vẻ.” “Ừ.” Bà nói như đang thì thầm. Lúc nào chia tay bà cũng trở nên lầm lì ít nói. Tada bước vội ra ngoài hành lang, lúc đi khỏi cửa, hắn còn ngoái lại, bà lão vẫn cứ y chiếc bánh Đại Phúc ở trên giường, cúi gằm mặt xuống. Nếu thật sự là một “đứa con ngoan” thì đã chẳng để mặc bà mẹ già ốm o của mình lủi thà lủi thủi trong bệnh viện đón năm mới, càng chẳng để một người dưng nước lã tới thăm bà thay cho mình. Tuy nghĩ vậy nhưng Tada cũng hiểu chính vì bản thân hắn là một người xa lạ cho nên mới có thể nói ra những lời đãi bôi một cách vô tư như thế. Đến khi leo lên chiếc xe tải nhẹ màu trắng đậu trong bãi, hắn mới có thể thở phào nhẹ nhõm. Cho dẫu những bức tường kia có được sơn bằng màu kem tươi sáng cỡ nào chăng nữa, thì bầu không khí bên trong bệnh viện vẫn khiến tâm trạng người ta u sầu ủ dột chẳng rõ tại làm sao. Tada xoay chìa khóa khởi động xe, và trong lúc chờ hệ thống sưởi hoạt động, hắn đốt một điếu thuốc lá. Hỗn hợp mùi amoniac và thuốc sát trùng vẫn còn đẫm trong cuống mũi hắn. Hắn mở hé cửa sổ xe, đẩy tất cả theo làn khói thuốc thoát ra ngoài. Rút điện thoại khỏi túi áo khoác, hắn gọi vào một dãy số. Phải đến lần gọi thứ năm, hắn mới nghe được giọng một phụ nữ trung niên bắt máy. “Cửa hàng xây dựng Soneda xin nghe.” “Tôi là Tada bên tiệm bá nghệ, cho hỏi anh Masatoshi có đó không ạ?” “Ảnh đi ra ngoài rồi, cậu thăm bệnh xong rồi đó hả?” “Vâng, vừa mới xong.” “Cảm ơn cậu nhé. Tôi sẽ báo lại với chồng tôi.” Ê chị, cẩn thận đi thì hơn, năm sau có lẽ hai người sẽ ly hôn đấy.Hắn còn chẳng kịp nói những lời này thì điện thoại đã bị ngắt cái rụp. Thôi bỏ đi, hắn nghĩ, rồi gập điện thoại lại. Đương nhiên lời bà Soneda cũng có phải lời sấm truyền gì đâu, chỉ là chút thở than của người già thôi mà. Ngày mai hắn sẽ có năm đơn treo cây nêu ngày Tết, một đơn tổng vệ sinh nhà cửa. Tada lái con xe tải nhẹ, quay trở về văn phòng làm việc của mình nằm ở trước ga Mahoro. Mời bạn đón đọc Tiệm Bá Nghệ Tada Trước Ga Mahoro của tác giả Shion Miura & Phong (dịch).
Chiếc Vòng Thạch Lựu
Chiếc vòng thạch lựu, dịch giả Đoàn Tử Huyến. Tình yêu không vụ lợi là đây, đây là 1 trong những tác phẩm tình yêu hiếm hoi mình yêu thích   "Một trong những truyện ngát hương thơm và đầy day dứt về tình yêu - và buồn thảm nhất - đó là truyện Chiếc vòng thạch lựu của Cuprin" (Pauxtopxki) Chiếc vòng thạch lựu là thiên truyện tình hay nhất của nhà văn A. Cuprin, một mối tình trong sáng, mãnh liệt, cao cả, đẹp và buồn, sẵn sàng hi sinh bản thân bởi tình yêu, câu chuyện nhẹ nhàng đầy tính chất nhân văn. K. Pautovski từng nói về Cuprin rằng: "Chúng ta cần phải biết ơn Cuprin vì tất cả - vì tấm lòng nhân hậu sâu sắc của ông, vì tài năng vô cùng tinh tế của ông, vì tình yêu đối với tổ quốc và niềm tin không gì lay chuyển nổi vào hạnh phúc của dân tộc mình, và cuối cùng, vì khả năng không bao giờ mất đi ở ông, cái khả năng cháy lên từ những lần tiếp xúc dù ngắn ngủi nhất với chất thơ của cuộc sống, và viết về điều đó một cách thoải mái nhẹ nhàng." *** Aleksandr Kuprin là một trong những nhà văn Nga xuất sắc hồi cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20. Ở Việt Nam, ông được độc giả biết đến qua tác phẩm "Chiếc vòng thạch lựu" và "Người tình của vua Sô lô mông" (Суламифь). Aleksandr Ivanovich Kuprin (1870 - 1938) là một trong những đại diện cuối cùng của thế hệ bạc (Sliver Age) của dòng văn học Nga lãng mạn trước Cách mạng. Văn của ông có giọng điệu riêng và chiếm vị trí đặc biệt trong lòng độc giả Nga, ông được gọi một cách yêu quý là “Nhà văn của dân nghèo”.  Trong hơn 40 năm lao động sáng tác, ông đã để lại cho văn học Nga và thế giới một di sản đồ sộ với khoảng 300 tác phẩm lớn nhỏ. Các tác phẩm của ông bao quát nhiều lĩnh vực trong đời sống Nga cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Ông tập trung viết về cuộc sống đời thường, chủ đề tình yêu vẫn chiếm vị trí trung tâm. Các mối tình trong truyện của ông giản dị, không có kết thúc quá bi thảm, nhưng đa số đều không trọn vẹn, và đôi khi rất bất ngờ, để lại trong tâm trí người đọc một câu hỏi tuy chỉ thoáng qua nhưng day dứt. *** Vào giữa tháng tám, vừa mới bắt đầu có trăng non, thời tiết bỗng trở nên tồi tệ, như thường vẫn gặp ở vùng duyên hải bắc biển Đen. Khi thì một màn sương mù dày đặc suốt mấy ngày liền nặng nề bao trùm khắp mặt đất và mặt biển, và lúc đó chiếc còi lớn trên ngọn hải đăng ngày đêm rống lên như một gã trâu điên; khi thì ngày này sang ngày khác mưa phùn dai dẳng không dứt, biến các con đường đất sét lớn nhỏ thành bãi lầy đặc sệt, làm những cỗ xe ngựa chở khách và chở hàng thụt xuống mãi không lên được. Lại có khi một cơn bão tuyết hung dữ từ đồng cỏ hướng tây bắc tràn về, các ngọn cây ngả nghiêng, nằm rạp xuống rồi lại đứng thẳng lên như những cơn sóng biển trong dông tố; đêm đêm, mái nhà bằng sắt tây của các nhà nghỉ ngoại thành rung lên kêu loảng xoảng chắng khác gì có người đi ủng đế sắt chạy trên đó; những khung cửa sổ, của chính bị giật liên hồi; gió hú man dại trong các ống khói lò sưởi. Đã có mấy chiếc xuồng máy đánh cá bị lạc ngoài khơi, và hai chiếc vĩnh viễn không bao giờ về nữa; phải một tuần sau, sóng mới đánh dạt mấy xác người lên bờ ở những chỗ khác nhau. Những người trong khu nhà nghỉ ngoại ô cạnh bờ biển - phần lớn là dân Hi Lạp và Do Thái, yêu đời và cả lo như tất cả những người sống ở phương Nam - vội vã trở về thành phố. Dọc theo con đường cái lớn lầy lội, những đoàn xe bốn bánh chở hàng kéo dài tưởng như vô tận; trên xe chất đầy các vật dụng trong nhà - nệm giường, đi văng, hòm xiểng, bàn ghế, chậu rửa mặt, ấm xamôva. Vừa buốn, vừa thương hại, vừa khó chịu khi nhìn đoàn xe lôi thôi lốc thốc đến tồi tàn, bẩn thiửu và thê lương này qua màn mưa đục; nhìn đám hầu phòng và đầu bếp gái ngồi đè lên những tấm vải bạt ướt phía trên xe, tay giữ khư khư mấy chiếc bàn là, hộp sắt tây hoặc làn giỏ; nhìn những con ngựa kiệt sức, mình đẫm mồ hôi, thỉnh thoảng dừng lại, đầu gối run rẩy, hơi nước bốc lên như khói, cặp sườn thở gấp phập phồng; nhìn những người đánh xe quấn kín mình trong các tấm vải bố và chửi nhau đến khản cả giọng. Nhưng còn đáng buồn hơn nữa khi nhìn những ngôi nhà nghỉ đột ngột trở nên hoang vắng với những bồn hoa bị dẫm nát, những cửa kính bị vỡ toang, những con chó không chủ và đủ các thứ rác rưởi của đám người đi nghỉ bỏ lại - tàn thuốc lá, giấy lộn, mảnh gốm, vỏ diêm và ve lọ đựng thuốc ngổn ngang khắp nơi.   Mời các bạn đón đọc Chiếc Vòng Thạch Lựu của tác giả Aleksandr Kuprin.