Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chú Nhóc Gavroche - Victor Hugo

Sau cái chết của tướng Lamarque, người duy nhất trong giới lãnh đạo Pháp có cảm tình với giai cấp lao động, nhóm sinh viên đứng đầu là Enjolras tức giận với chế độ đã chuẩn bị cho một cuộc cách mạng vào đêm ngày mùng 5, rạng sáng mùng 6 tháng 6 năm 1832. Cuộc cách mạng cũng có sự tham gia của những người nghèo khổ, trong đó có cậu bé lang thang Gavroche (Ga-vơ-rốt). Một trong những người tham gia cách mạng là Marius Pontmercy, một sinh viên bị gia đình xa lánh vì quan điểm tự do của mình, anh đã đem lòng yêu Cosette, bây giờ đã trở thành một thiếu nữ hết sức xinh đẹp. Gia đình nhà Thénardier cũng đã chuyển tới Paris, trở thành những kẻ lang thang trộm cắp, sau khi thỏa thuận với Javert về việc giao nộp Vanjean cho hắn, bọn họ đã tìm cách đột nhập nhà của Valjean trong khi Marius đang đến thăm Cosette. Tuy nhiên con gái của Thénardier là Éponine cũng đã đem lòng yêu người sinh viên và cô đã thuyết phục bọn chúng rời khỏi đó. Ngày hôm sau cuộc cách mạng nổ ra, những sinh viên bắt đầu dựng chiến lũy trên những con phố hẹp ở Paris. Javert đã trà trộn vào hàng ngũ sinh viên nhưng bị Gavroche phát hiện và Enjolras (Ăng-giô-rát) đã bắt giữ hắn. Khi biết người yêu của Cosette cũng tham gia nổi dậy, Valjean đã gia nhập với họ, bởi vì ông muốn bảo vệ Marius. Ông đã xin Enjolras thả Javert. Éponine cũng đứng vào hàng ngũ khởi nghĩa để bảo vệ Marius và cô đã chết hạnh phúc trên tay Marius sau khi hứng một viên đạn thay anh. Trong trận chiến tiếp theo, Valjean cứu sống Javert khỏi tay những người sinh viên và để viên thanh tra đi. Ông cũng cứu được Marius khi đó đã bị thương, nhưng tất cả những người khác, kể cả Enjolras và Gavroche đều đã bị giết. Valjean vác theo Marius chạy trốn theo những đường cống ngầm ở Paris, khi ra đến miệng cống ông chạm trán Javert, ông cố gắng thuyết phục Javert cho mình thời gian để trả Marius về gia đình của anh. Javert đồng ý đề nghị của Jean và nhận ra rằng ông ta đang bị kẹt giữa niềm tin vào luật pháp và niềm tin vào lòng tốt của con người mà Valjean đã cho viên thanh tra thấy, Javert cũng hiểu rằng ông không bao giờ có thể nộp Valjean cho chính quyền được nữa. Không thể chịu đựng nổi tình trạng khó xử này, Javert nhảy xuống sông Seine tự vẫn. ... *** Trên một lối đi của vườn Luxembourg, một người đàn ông đã già cùng một cô thiếu nữ đang đi dạo như thường ngày. Người đàn ông tóc bạc trắng, trạc sáu mươi tuổi. ông có vẻ buồn và nghiêm nghị, người vạm vỡ và dáng mệt mỏi như các quân nhân về hưu. Trông ông có vẻ tốt bụng, nhưng khó gần. Jean Valjean - bởi vì đó chính là ông ta -mặc một chiếc quần màu xanh, một áo rơ-đanh-gốt cùng màu, đội một chiếc mũ rộng vành. Chiếc cà-vạt đen nổi bật trên chiếc áo sơ mi bằng vải toan thô màu trắng. Cô thiếu nữ đi cùng với ông chẳng phải ai khác chính là Cosette. Nàng có thái độ vừa già vừa trẻ con của các học sinh nội trú trong ký túc xá bà xơ. Hai người có vẻ như cha và con. Một chàng thanh niên tầm vóc trung bình, tóc đen dày, trán cao thông minh, vẻ hăng say và hơi kiêu kỳ, cũng có thói quen đi dạo trên lối đi ấy. Chàng tên là Marius de Pontmercy. Lúc nào chàng cũng thấy họ ở đấy. Trong hai ba ngày liền, Marius để ý tìm hiểu người đàn ông có tuổi nhưng chưa phải là một ông già và cô thiếu nữ chưa có vẻ một cô gái trưởng thành ấy. Jean Valjean và Cosette làm như không nhìn thấy chàng, họ trò chuyện với nhau với vẻ bình thản và lãnh đạm. Cô gái thì vui vẻ ríu rít không ngừng. Người đàn ông thì ít nói, thỉnh thoảng lại nhìn cô gái với đôi mắt chứa chan tình phụ tử khó nói nên lời. Ngạc nhiên vì bộ tóc trắng của người đàn ông, Marius đặt tên cho ông ta là Leblanc, tên này hợp quá đến nỗi mặc dầu không ai biết họ, người ta đều nói: - A! ông Leblanc đã đến ghế mình ngồi rồi kìa! Suốt trong một năm đầu tiên ngày nào Marius cũng trông thấy họ như vậy vào cùng một giờ ấy. Chàng thấy người đàn ông thì còn được chứ cô gái thì hơi có vẻ cau có..Sang năm thứ hai, ông ta không có thói quen đến vườn Luxembourg nữa. Marius chẳng hiểu tại sao. Cuối cùng một hôm ông ta trở lại. Đó là một sáng mùa hè trong trẻo, Marius vui lắm. Chàng đi thẳng tới lối đi của mình và nhìn thấy hai người quen biết vẫn ngồi trên chiếc ghế ấy. Khi lại gần, chàng nhận ra vẫn là người đàn ông cũ nhưng cô gái thì hình như không phải. Lúc này chàng nhìn thấy là một cô gái đẹp, cao ráo, có bộ tóc tuyệt vời với đôi má ửng hồng và cái miệng thanh tú thoát ra một tiếng cườn giòn giã. Một bức chân dung thực sự của Raphael. Khi Marius đi qua bên cô, chàng trông thấy hai hàng mi dài buông trên đôi mắt nhìn xuống. ông Leblanc để ý thủ đoạn của chàng trai trẻ và có vẻ khá tức giận. ông muốn bảo vệ Cosette... Marius quyết định đi theo họ. Hai người ở phố Phía Tây, trong một ngôi nhà mới ba tầng, bên ngoài trông nhũn nhặn. Vừa thấy họ khuất sau chiếc cổng xe, Marius bèn đi vào hỏi người gác cổng: - Thưa, có phải ông ở tầng một vừa mới đi vào không ạ? - Không. - Người gác cổng trả lời. - Đó là ông ở tầng ba. Marius tiếp tục hỏi: - ông ấy là người thế nào ấy nhỉ? - Sống bằng lợi tức. Một con người tốt lắm, chuyên làm việc thiện cho kẻ nghèo tuy chẳng giàu có gì. Marius ra đi lòng phơi phới. Ngày hôm sau ông Leblanc và con gái chỉ xuất hiện ở vườn Luxembourg có một lát. Họ ra về lúc trời còn sáng trưng. Marius đi theo họ về phố Phía Tây như mọi khi. Tới cổng xe, ông Leblanc để con gái đi trước, rồi dừng lại trước khi bước qua ngưỡng cửa, quay lại nhìn Marius chằm chằm. Ngày hôm sau, họ không đến vườn Luxem-bourg nữa. Suốt ngày Marius chờ đợi vô ích. Đêm xuống, chàng tới phố Phía Tây và nhìn thấy ánh đèn trên cửa sổ tầng ba. Chàng dạo chơi dưới mấy cửa sổ đó cho tới lúc ánh đèn tắt. Hôm sau nữa, không thấy họ đến vườn Lux-embourg, Marius chờ suốt ngày, đêm thì lại làm.nhiệm vụ canh gác dưới mấy cái cửa sổ cho đến mười giờ. Suốt tám ngày như thế. ông Leblanc và con gái không đến vườn Luxembourg nữa. Buổi tối các cửa sổ tầng ba cũng không còn sáng đèn và cũng không thấy ai đi vào trong nhà nữa. Ngày hôm sau, hai cha con không đến vườn Luxembourg, ở cửa sổ cũng không có ánh đèn. Rèm cửa sổ khép kín và tầng ba tối om. Marius gõ vào cổng xe, chàng vào hỏi người gác cổng: - ông ở tầng ba đâu rồi hả ông? - Dọn nhà đi rồi. - Người gác cổng trả lời. - Thế bây giờ ông ta ở đâu ạ? - Tôi có biết gì đâu. - Thế ông ấy không để lại địa chỉ ạ? - Không. Thế là Marius mất dấu vết của người mà chàng yêu... Hè qua, thu lại, rồi mùa đông tới. Cả ông Leblanc lẫn cô thiếu nữ, không ai đặt chân đến vườn Luxembourg nữa. Marius chỉ có mỗi một ý nghĩ: nhìn lại khuôn mặt dịu hiền dễ thương ấy. Chàng tìm mãi, tìm khắp nơi, mà không thấy. Chàng không còn là Marius nữa, không còn là con người mơ mộng đam mê, quả quyết, hăng hái và kiên định, kẻ dũng cảm thách thức số mệnh nữa. Chàng sa vào nỗi buồn trầm uất. Thế là hết, chàng không muốn làm việc, đi dạo làm chàng mệt mỏi, nỗi cô đơn làm chàng chán ngán. Hình như mọi thứ đều đã biến mất hết. Marius vẫn ở căn nhà nát Gorbeau. Chàng chẳng chú ý đến một ai. Thực ra thì thời kỳ này trong căn nhà chẳng còn ai trừ chàng và gia đình Jondrette mà chàng đã một lần thanh toán hộ tiền nhà nhưng không hề nói chuyện với ông bố, bà mẹ và hai đứa con gái. Những người thuê nhà khác đều đã dọn đi, đã chết hoặc bị đuổi vì không trả tiền nhà. Một ngày mùa đông năm đó, đầu buổi chiều hơi có chút ánh nắng tuy nhiên mới là ngày mồng hai tháng hai. Marius chầm chậm thả bộ trên đại lộ về phía thanh chắn đường để tới phố Saint Jacques. Chàng vừa đi vừa cúi đầu nghĩ ngợi..Bỗng nhiên trong sương mù chàng cảm thấy có ai huých khuỷu tay vào mình. Ngoảnh lại chàng trông thấy hai cô ăn mặc rách rưới, một cô cao gầy, cô kia thấp hơn, chạy qua rất nhanh, thở hổn hển, hoảng hốt như chạy trốn. Hai cô chạy về phía chàng nhưng vì không trông thấy nên va vào chàng. Trong ánh hoàng hôn, Marius nhận ra hai bộ mặt nhợt nhạt, đầu tóc rối tung, mũ mãng thảm hại, sống váy tả tơi và hai đôi chân trần. Vừa chạy hai cô vừa trò chuyện với nhau. Qua những tiếng lóng độc địa Marius hiểu là cảnh sát thành phố đã bắt hụt hai người, chúng thoát được. Marius dừng lại một lát. Chàng đang định đi tiếp thì trông thấy ở dưới đất ngay dưới chân mình một gói nhỏ màu xám. Chàng cúi xuống nhặt lên. Đó là một chiếc phong bì bên trong đựng giấy tờ gì đó. - ái chà, - Chàng lẩm bẩm. - hai cô nàng khốn khổ đánh rơi cái này đây! Chàng quay lại gọi nhưng không thấy họ đâu nữa. Cho rằng họ đã đi xa, chàng bỏ chiếc phong bì vào túi, đi ăn tối. Chàng lại nghĩ tới sáu tháng yêu đương hạnh phúc đã qua giữa không gian và ánh sáng mênh mông dưới cây cối vườn Luxembourg. Buổi tối khi cởi áo đi ngủ, tay chàng sờ phải túi áo trong có cái gói nhặt được trên đại lộ. Chàng đã quên mất nó. Chàng nghĩ nên mở ra thì hơn bởi vì có thể trong gói có địa chỉ của các cô gái. Thực tế nếu nó thuộc về các cô thì ít nhất cũng có những thông tin cần thiết để hoàn trả cho người mất. Chàng mở phong bì ra. Phong bì không dán, trong có bốn lá thư, cũng không dán nốt. Trên có địa chỉ. Cả bốn lá thư đều xộc lên mùi thuốc lá nồng nặc. Bốn lá thư do cùng một người viết, gửi lời đề nghị cứu giúp tới một bà hầu tước, một bà bá tước, một nhà buôn và ông Làm Phúc ở Nhà thờ Saint - Jacques - du - Haut - Pas. Có điều lạ là bên dưới bốn lời nài nỉ được ký bốn tên khác nhau: Don Alvarès, Người đàn bà Balizard, Genflot và Fabantou..Hơn nữa không có gì tỏ ra những lá thư trên thuộc về hai cô gái mà Marius đã gặp ở đại lộ. Cuối cùng thì cũng chỉ là những giấy tờ vô giá trị. Marius cất lại những lá thư vào trong phong bì, vứt tất cả vào một xó rồi đi ngủ. Khoảng bảy giờ sáng hôm sau, chàng vừa dậy và ăn sáng xong, đang cố gắng ngồi vào làm việc thì có tiếng gõ cửa khe khẽ. - Mời vào. - Marius nói. Cửa mở ra. - Bà cần gì ạ, thưa bà Bougon? - Marius nói tiếp, mắt không rời sách vở và bản thảo trên bàn. Một giọng không phải của bà Bougon trả lời: - Xin lỗi, thưa ông... Marius quay ngay lại và thấy một cô gái. Một cô gái trẻ măng đứng giữa cánh cửa hé mở. ánh sáng ban ngày qua chiếc cửa sổ con của gian phòng áp mái chiếu vào đúng trước cửa ra vào, soi tỏ bộ mặt nhợt nhạt của cô ta. Một cô gái xanh xao, hốc hác, gầy còm, mặc mỗi một chiếc áo sơ mi với một chiếc váy mỏng che tấm thân hở hang run rẩy, lạnh giá. Marius đứng dậy, ngạc nhiên ngắm con người không khác gì cái bóng thoáng qua trong giấc mơ. Nhưng bộ mặt này không phải hoàn toàn xa lạ đối với chàng. Chàng như đã trông thấy ở đâu rồi. - Thưa cô, cô cần gì ạ? - Chàng hỏi. Cô gái trả lời với giọng lè nhè sinh ra từ cuộc sống khổ cực. - Có thư cho ông, ông Marius. Cô gọi tên chàng, vậy thì đúng cô có việc với chàng rồi, nhưng cô ta là ai? Sao lại biết tên chàng? Chẳng chờ được mời, cô ta bước vào. Cô bước vào với vẻ kiên quyết và nhìn toàn bộ gian phòng cùng cái giường chưa xếp dọn với một vẻ tự tin đến não lòng. Cô đi chân đất. Những lỗ thủng lớn trên váy cô để lộ ra đôi chân dài và đôi đầu gối còm cõi. Cô run lập cập. Quả thật, tay cô cầm một bức thư giơ ra cho Marius. Mở bức thư, Marius nhận thấy tảng xi dùng dán thư, rộng và to tướng vẫn còn ẩm. Bức thư không phải từ xa tới. Chàng đọc:.Tôi biết ông có lòng tốt với tôi, đã chi trả tiền nhà hộ cho tôi cách đây sáu tháng. Trời phù hộ cho ông, chàng trai trẻ. Cô con gái đầu lòng của tôi sẽ thưa với ông là hai ngày nay chúng tôi không còn lấy một mẩu bánh, mà vợ tôi lại ốm. Nếu lòng tôi không tuyệt vọng như thế này, tôi đâu dám hy vọng trái tim bao dung của ông sẽ thấu tình nhân đạo trước sự trình bày của tôi mà vui lòng độ trì cho tôi, hạ cố cho tôi chút ân huệ. Xin ông nhận ở đây lời chào trân trọng đối với tất cả những người làm việc thiện của toàn nhân loại. Jondrette Tái bút: Con gái tôi chờ lệnh ông, ông Marius kính mến. Mọi việc đột nhiên thế là sáng tỏ. Lá thư này đến từ chỗ bốn lá thư trước. Cùng chữ viết, cùng giọng văn, cùng một thứ chính tả, cùng một thứ giấy, cùng một mùi thuốc lá. Như vậy là năm bức thư, năm câu chuyện, năm tên, năm chữ ký mà chỉ một người ký: Jondrette, nếu như quả thật ông ta tên là Jon-drette. Đã khá lâu rồi, kể từ ngày Marius tới ở căn nhà nát này, chàng rất hiếm khi có dịp gặp người hàng xóm và nhìn rõ mặt ông ta. Có thể vài lần chàng chạm trán Jondrette ngoài hành lang hoặc trên cầu thang, nhưng đối với chàng đó chỉ là những chiếc bóng, chàng đâu có để ý, thế cho nên chiều tối qua ở đại lộ chàng gặp mà không nhận ra hai đứa con gái của Jondrette, bởi vì chính là chúng, vì thế cho nên khi cô gái này thoạt bước vào phòng chàng, mặc dù kinh tởm và thương hại, chàng đã lờ mờ nhận ra mình từng có lần gặp cô ta. Đến giờ thì chàng nhìn sự việc thật tỏ tường. Chàng hiểu ông láng giềng Jondrette trong nỗi tuyệt vọng đã làm ăn trên cơ sở khai thác tình thương ở những con người từ thiện. Hắn tìm kiếm các địa chỉ, dưới các tên giả hắn viết thư cho những người hắn cho là giàu có và có lòng thương người, những bức thư này hắn sai hai đứa con gái mang đi, có nghĩa là đưa con gái vào những việc liều lĩnh nguy hiểm: thì cha chúng liều mạng thí chúng mà lại. Hắn đã đánh bạc với số phận và đem hai con gái mình vào cuộc. Marius hiểu rằng rất có thể, cứ xem như tối qua.chúng trốn chạy hổn hển, hãi hùng và qua những tiếng lóng chàng nghe được, chúng còn làm những việc đen tối khác nữa, kết quả là từ tất cả những cái đó - trong cái xã hội của giống người mà chúng được tạo ra, chúng đã trở thành hai kẻ khốn cùng, trẻ con không phải trẻ con, thiếu nữ không phải thiếu nữ, đàn bà không phải đàn bà, một loại quỷ ô trọc nhưng lại rất đỗi ngây thơ, sản phẩm của nghèo khổ cơ cực. Nhưng mà, trong khi Marius nhìn cô gái một cái nhìn vừa kinh ngạc vừa thống khổ, thì cô gái vẫn cứ đi lại trong căn phòng áp mái với vẻ mạnh dạn của bóng ma. Marius suy nghĩ và để cho cô gái làm gì thì làm. Cô đến gần bàn: - A! - Cô nói. - Sách! Một tia sáng lướt qua con mắt lờ đờ của cô. Cô tiếp tục nói, giọng biểu thị niềm hạnh phúc được khoe khoang một điều mà khi nghe thấy, không ai đã là con người lại có thể vô cảm. - Em biết đọc đấy nhé! Em ấy! Cả biết viết nữa! Cô nhúng bút vào mực và quay về phía Marius: - ông muốn xem không? Lại đây mà xem, em viết một chữ cho coi. Và trước khi chàng kịp trả lời, cô viết luôn lên một trang giấy trắng để ở giữa bàn: Bọn cớm đấy. Rồi vứt bút: - Không có lỗi chính tả đâu nhé. ông coi mà xem. Em và em gái em cũng đã được học hành đấy chứ, không phải lúc nào cũng như bây giờ đâu. Cô đến bên Marius và đặt một bàn tay lên vai chàng. - ông không để ý đến em chứ em thì em biết ông, ông Marius ạ. Em gặp ông ở cầu thang, rồi em thấy ông vào nhà cái ông gọi là bố Mabeuf ở phía Austerlitz ấy, thỉnh thoảng em đi chơi phía ấy mà. Tóc ông bù lên như thế này nom hay quá nhỉ. Giọng cô dịu dàng hẳn đi chỉ còn nghe khe khẽ. Marius hơi lùi lại..- Thưa cô, - Giọng chàng trang trọng và lạnh lẽo. - tôi nhặt được cái gói này có lẽ của cô. Xin cho tôi hoàn lại cô. Và chàng đưa ra chiếc phong bì trong có bốn bức thư. Cô gái vỗ hai tay vào nhau, reo lên: - Chúng em tìm khắp nơi. Rồi cô ta cầm ngay lấy gói thư, mở ra. - Trời ơi là trời! Thế mà hai chị em em cứ tìm mãi. Té ra ông tìm thấy ư? Trên đại lộ, đúng không nào? Con em cận thị của em chẳng được việc gì. Về đến nhà không thấy đâu nữa. Để khỏi phải đánh, chẳng được ích gì, chúng em bảo là đã đưa thư đến những người đó nhưng họ không cho gì. Tuy nhiên cô giở lá thư thỉnh cầu gửi đến "ạng làm phúc ở Nhà thờ Saint - Jacques - du - Haut - Pas" ra. - Đây này! Thư này là cho ông già vẫn đi lễ này. à, nhưng mà về việc này thì đến giờ rồi. Em mang thư đi đây. Có thể ông ta sẽ cho chút gì mà ăn. Thế là Marius nhớ lại mục đích cô gái khốn khổ đến tìm chàng. Chàng tìm trong túi áo ghi-lê, chẳng thấy gì cả. Lục sâu mãi hết túi nọ đến túi kia, cuối cùng Marius tìm được năm frăng mười sáu xu. Đó là tất cả những gì mà lúc này chàng có trên đời. Chàng giữ lại mười sáu xu, đưa năm frăng cho cô gái. Cô gái cầm lấy đồng năm frăng. - Tốt rồi! - Cô nói. - Thế là có nắng rồi! Cô xốc áo sơ mi lên hai vai, cung kính chào Marius, rồi thân mật vẫy tay, vừa đi ra cửa vừa nói: - Chào ông nhé. Dù sao cũng có chút gì. Em đi tìm ông già đây. Này ông Marius, ông biết không, em vẫn thấy ông đi theo ông già ấy với cô con gái ông ta ở vườn Luxembourg thời gian gần đây... Marius giật nẩy mình: - Em biết họ ư? Em có biết họ ở đâu không? Bảo tôi với nào! Muốn gì em cũng có..- Đấy nhé, em biết ông quá rõ nhé! - Cô đáp. - Còn địa chỉ họ ấy à, để em xem... Khi đi ngang qua tủ com-mốt, cô thấy một mẩu bánh mì đã khô, phát mốc lên trong bụi, cô bèn chớp lấy, rồi đi ra. ... Mời các bạn đón đọc Chú Nhóc Gavroche của tác giả Victor Hugo.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

3.3.3.9 Những Mảnh Hồn Trần
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách 3.3.3.9 Những Mảnh Hồn Trần của tác giả Đặng Thân. Đỗ Lai Thúy (Nhà lý luận phê bình văn học) Trước Đổi mới và Mở cửa, 1986, một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu như “Bến quê”, “Bức tranh”, “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”… gây cho người đọc nhiều băn khoăn, bối rối. Báo Văn nghệ bấy giờ, tôi nhớ, đã mở một hội thảo, triệu các nhà văn, nhà phê bình khả kính về để cùng đọc cho ra. Vốn quen với những truyện có cốt truyện, con người có tính cách, nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, chủ đề tư tưởng rõ ràng…, nay đọc Nguyễn Minh Châu thấy khó hiểu cũng phải. Đọc văn mới, quả thực, phải có mã đọc mới, mà mã đọc này, xét cho cùng, lại phụ thuộc vào mã văn hóa thời đại. Công lao của Đổi mới, có thể nói, đã mở ra một thức nhận: không có mã đọc vĩnh cửu, thời nào có mã đọc ấy. Chả thế, chỉ một hai năm sau đó, các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài được người đọc tiếp nhận một cách dễ dàng, hồ hởi, mặc dù “khó đọc” hơn Nguyễn Minh Châu nhiều. Ấy vậy mà hiện nay, chỉ chừng khoảng hai mươi năm sau, người đọc lại đang đứng trước một thách đố mới. Văn mới mới (nếu có thể gọi như vậy) xuất hiện ngày một nhiều. Mà khởi xướng cho lần này đa số là các nhà văn trẻ, thậm chí rất trẻ. Các tác phẩm của họ đa số là tiểu thuyết, một thể loại vốn quá ngưỡng với tư duy văn học Việt Nam… Chừng ấy những cái “ngoại biên”, “phi/chưa chính thống”, “giải trung tâm”… đó càng làm khó cho sự tiếp nhận văn học hậu-Đổi mới, tức đổi mới (không viết hoa) từ dưới lên, này. Tiểu thuyết 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] của Đặng Thân là điển hình của văn chương hậu-Đổi mới. Nó có đầy đủ những đặc điểm của tiểu thuyết hậu-hiện đại. Ở đây, tôi chỉ xin nêu ra hai đặc điểm: sự phân mảnh và tính diễu nhại. Sự phân mảnh này làm cho cái Một, cái Duy nhất trở thành cái nhiều, chứ không phải cái-không-có-gì. Một câu truyện, mà thường là “chuyện lớn”, trở thành nhiều câu chuyện, một trung tâm trở thành nhiều trung tâm, một tư tưởng trở thành nhiều tư tưởng. Mà câu chuyện nào, trung tâm nào, tư tưởng nào cũng đều quan trọng như nhau cả, nếu có hơn kém là tùy ở hệ quy chiếu của người đọc. Nhân vật của 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] cũng vậy, thực ảo lẫn lộn. Trong đó, tác giả không phải chỉ là kẻ dẫn chuyện, mà là một nhân vật trong truyện, như các nhân vật khác. Có thể, vị thế “chân trong chân ngoài”, hoặc hoàn toàn là “người trong cuộc” này làm cho tính diễu nhại Đặng Thân trở thành tự diễu nhại. Người đọc cũng tự diễu nhại. Biết nhìn mình như một kẻ khác, nhất là có thái độ với mình vừa nghiêm túc vừa hài hước, bao dung là bước đầu của sự thức tỉnh. Tiểu thuyết Đặng Thân, tuy là một cuốn sách in để đọc, nhưng lại có kết cấu như thể của một tiểu thuyết mạng. Câu chuyện trôi chảy tự nhiên, nhiều khi phụ thuộc vào những nhân vật chen ngang. Đó là một tác phẩm mở. Nếu coi những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là văn chương hiện đại, thì tiểu thuyết Đặng Thân là hậu-hiện đại. Xã hội ta chưa đi hết con đường hiện đại hóa. Hiện đại vẫn vừa là ga đến cũng lại là ga đi. Nên, người đọc Đặng Thân hôm nay mới bước đầu có sự bức xúc xã hội và những bức xúc thẩm mỹ hậu-hiện đại, chưa có được bề dày như của người đọc Nguyễn Huy Thiệp ngày xưa. Nhưng, công nghệ tin học bây giờ đang san phẳng thế giới. Một mã đọc mới phù hợp với thời-hiện-nay đã hình thành trong văn học thế giới và đang hình thành trong văn học Việt Nam. Nên điều không thể, hoặc tưởng như không thể, đang lừng lững trở thành có thể. 1/2010 – Đ.L.T *** Tóm tắt 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] là một tiểu thuyết hậu hiện đại của nhà văn Đặng Thân, được xuất bản năm 2009. Tác phẩm gồm 60 chương, được viết theo lối phân mảnh, không có cốt truyện thống nhất, nhân vật không có tính cách rõ ràng, không có chủ đề tư tưởng rõ ràng. Câu chuyện xoay quanh một nhóm bạn trẻ, gồm: Thiện: Một nhà văn trẻ, đang vật lộn với cuộc sống và sự nghiệp của mình. Trang: Một cô gái xinh đẹp, nhưng có cuộc sống nội tâm phức tạp. Dũng: Một chàng trai giàu có, nhưng có lối sống buông thả. Quyên: Một cô gái ngây thơ, nhưng có trái tim nhân hậu. Bên cạnh đó, tác phẩm còn có sự xuất hiện của nhiều nhân vật khác, như: Nhà tiên tri: Một người đàn ông bí ẩn, luôn xuất hiện trong những giấc mơ của Thiện. Cô gái trong gương: Một hình ảnh phản chiếu của Thiện, tượng trưng cho những mặt tối trong tâm hồn anh. Chú mèo đen: Một biểu tượng của sự ma mị và bí ẩn. Review Theo nhà lý luận phê bình văn học Đỗ Lai Thúy, 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] là một tác phẩm điển hình của văn chương hậu hiện đại. Nó có hai đặc điểm nổi bật là sự phân mảnh và tính diễu nhại. Sự phân mảnh thể hiện ở chỗ tác phẩm không có cốt truyện thống nhất, không có nhân vật chính, không có chủ đề tư tưởng rõ ràng. Câu chuyện được kể theo lối đa tuyến, nhiều nhân vật, nhiều tình tiết, không theo một trật tự nhất định. Điều này khiến cho người đọc phải tự tìm cách giải mã, liên kết các mảnh ghép lại với nhau để tạo thành một bức tranh toàn cảnh. Tính diễu nhại thể hiện ở chỗ tác phẩm sử dụng nhiều thủ pháp trào lộng, giễu cợt để châm biếm, đả kích những thói hư tật xấu của xã hội. Tác giả đã sử dụng nhiều hình ảnh, ngôn từ gây sốc để tạo ra hiệu quả châm biếm mạnh mẽ. Ý nghĩa 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] là một tác phẩm mang tính chất phản ánh hiện thực xã hội một cách sâu sắc và đa diện. Tác phẩm đã thể hiện một cách chân thực những mâu thuẫn, xung đột trong cuộc sống của con người hiện đại. Bên cạnh đó, tác phẩm còn mang tính chất phê phán, lên án những thói hư tật xấu của xã hội. Đánh giá 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] là một tác phẩm văn học xuất sắc, có giá trị nghệ thuật và tư tưởng cao. Tác phẩm đã góp phần làm phong phú thêm nền văn học Việt Nam đương đại. Tuy nhiên, tác phẩm cũng có một số hạn chế, như: Nội dung và ý nghĩa của tác phẩm còn khá mơ hồ, khó hiểu đối với một số người đọc. Tác phẩm sử dụng nhiều ngôn từ gây sốc, có thể khiến một số người đọc cảm thấy khó chịu. Nhìn chung, 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] là một tác phẩm đáng đọc, đặc biệt là đối với những người yêu thích văn học hậu hiện đại.   Mời các bạn mượn đọc sách 3.3.3.9 Những Mảnh Hồn Trần của tác giả Đặng Thân.
Thoạt Kỳ Thủy
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Thoạt Kỳ Thủy của tác giả Nguyễn Bình Phương. Thoạt kỳ thủy, tác phẩm mới nhất của Nguyễn Bình Phương, viết xong từ tháng 8 năm 1995, nhưng đến tám năm sau, tháng 8 năm 2003, tác giả mới "chỉnh sửa" lại để in và để được in, nhà xuất bản Hội Nhà Văn đã phát hành tại Hà Nội đầu năm 2004. Nghe đâu, phần "chỉnh sửa" cũng mất hàng trăm trang. Đối với một cuốn sách nhỏ, 163 trang, "chỉnh sửa" như thế là nhiều và có lẽ đó là một trong những lý do khiến người đọc đôi lúc có cảm tưởng hụt hẫng, không hiểu gì cả. Nếu Thoạt kỳ thủy được in cùng thời với tập trường ca Khách của trần gian (nxb Văn Học, Hà Nội, 1996) thì có lẽ người đọc dễ tiếp nhận hơn, vì thơ "dẫn" cho văn, văn "vận" vào thơ, bởi Bình Phương là nhà văn có "căn" thơ và giữa hai tác phẩm lấp ló những đầu mối chung của một "luận đề", nếu chúng ta công nhận có một luận đề trong Thoạt kỳ thuỷ. Thoạt kỳ thủy là một cuốn tiểu thuyết khác thường, khó đọc, bởi lối hành văn và cấu trúc truyện rất lạ, một thứ "thoạt kỳ thủy" trong văn chương mang dấu ấn sáng tạo. Nhưng sáng tạo nếu chỉ lạ, chỉ kỳ không chưa đủ, còn phải có gì khác nữa. Vậy đâu là những yếu tố "khác" trong tác phẩm "kỳ thủy" này? Trước tiên, trong Thoạt kỳ thủy, Bình Phương không liên lạc sự kiện, diễn biến với nhau. Trước mỗi bối cảnh, người viết như muốn ở cùng vị trí với người đọc, để cùng quan sát, tiếp thị. Tác giả không đứng ở vị thế chủ thể sáng tạo, mà chỉ muốn là một kẻ ghi chép, không hơn không kém. Mấy ai để ý đến những đứa trẻ? Đến những đứa trẻ chết già này? Ai biết Bình Phương sinh ngày 29/12/1965? Ai biết bối cảnh vào đời, hay vào cõi của những người khách trần gian cùng chung một "thoại kỳ thủy" như Tính? Vậy bây giờ chúng tôi mời bạn vào thăm vùng đất ấy, vùng chôn rau cắt rốn của Tính và những đứa trẻ chết già: Thoạt kỳ thủy, màn mở, chưa thấy người, nhưng bạo lực đã xuất hiện: con cú bị một vật gì bằng ngón tay cái ném trúng ngực, rơi xuống sông, và dòng nước -vẫn thong thả chảy như chẳng có chuyện gì xảy ra- vô tình băng bó vết thương cho con vật. Rồi người xuất hiện, với cử chỉ thô tục (vạch quần đái) làm ô uế dòng nước, làm vẩn đục môi trường, làm tha hóa dương gian với những cục cằn và tàn nhẫn, bằng lời nói và hành động. Phước, người cha, kẻ thống trị trong gia đình, hơi có máu điên, là một tay nghiện ngập, thô lỗ, chỉ biết thượng cẳng chân hạ cẳng tay, lúc thèm rượu gặm đít chén canh cách, sẵn sàng tặng cho con (còn trong bụng mẹ) những cú đá điếng người và thích cho nó nghe (vẫn từ trong bụng mẹ) những âm thanh cục cằn, những lời lẽ coi rẻ mạng người như rác. Những lời khinh mạn khi nói về mạng người "Thiếu đếch gì, còn khối!", vừa như muốn dọa trước: mày còn muốn "chào đời" nữa không? vừa biểu hiện "mặt bằng" của một xã hội lúc nào cũng sẵn sàng hy sinh nhân mạng, bởi từ trên xuống dưới, chẳng ai coi mạng người ra "cái đếch" gì. Liên, người mẹ, sau khi bị đánh, đi vào núi Hột đập đá. Và nàng cứ chung thân sống kiếp khổ sai đập đá. Liên không có khả năng phản hồi, trong nàng, tất cả đều tê liệt. Trăm phầm trăm tê liệt: Liên thuộc lớp người cầu an, thấp cổ bé miệng, bị ngược đãi, bị bạo hành, nhưng không có cách gì khác ngoài việc cộng sinh với kẻ bạo hành, đẻ ra đứa con là Tính. Liên và Hiền, vợ Tính sau này, là hai người phụ nữ, biểu dương tâm thức cộng đồng, tâm thức bầy đàn, chịu trận. Muốn yên, họ đành câm nín, chịu đựng, sống cho qua ngày. Người tạo ra bạo lực, người dồn nhau trong bạo lực, người sống trong bạo lực, nhưng không chỉ có người dồn người trong bạo lực. Ở đây, cả đến cây, cỏ, chim chóc, cả đá cũng bị bạo hành. Núi Hột bị đập, bị khoét vẹt một nửa "như một cơ thể bị mất thịt, rướm máu".  Thoạt kỳ thủy là một bài thơ dài đẫm máu và nước mắt, đẫm tang thương, đầy huyễn mộng, viết về hành trình của một cộng đồng, dù đã nửa phần điên loạn, vẫn không biết mình đang đi dần đến toàn phần điên loạn. Khởi đi từ cá nhân một đứa trẻ, lọt lòng mẹ vô tội, đến trưởng thành máu mê, tự diệt. Thoạt kỳ thủy là hậu quả việc trồng người trong môi trường thường trực kích động chiến tranh. Là chuyện nhỡn tiền nhân quả. Là thế giới con người trong vòng u mê, tử khí. Thoạt kỳ thủy khởi tố những cách dìu dắt trẻ thơ về những con đường chém giết, là hồi chuông cảnh tỉnh, báo hiệu những nguy cơ của mảnh trần gian lấy bạo lực và dốt nát làm cẩm nang giáo dục con người. *** Tiểu sử     Ông Phước: Người nhỏ, đầu nhỏ, tóc cứng. Cao 1 mét 50, tiếng khàn, da tái, có ba nốt ruồi ở dái tai phải. Nguồn gốc gia đình không rõ. Chết vì cảm lạnh. Thọ 53 tuổi.   Bà Liên: Cao, đẫy, tóc dài, cằm nhọn, mặt nhiều nếp nhăn. Xuất thân từ gia đình công nhân. Sơ tán sang Linh Sơn cùng cô Nheo. Kém ông Phước 4 tuổi. Cuối đời bị mù. Chết vào 2 giờ sáng ngày 8 tháng Chín. Thọ 58 tuổi.   Ông Sung: Chức vụ: Xã đội trưởng. Vợ liệt, không con, không họ hàng thân thích. Ghét rượu, ghét đàn bà. Thích súng và có nhu cầu được trọng vọng. Sau đợt đưa tân binh lên biên giới phía Bắc, không thấy quay về xã.   Cô Nheo: Người như củ nhân sâm. Sơ tán sang Linh Sơn cùng bà Liên. Không có đặc điểm gì đáng chú ý. Chết vì bệnh.   Ông Ðiện: Thấp, da hồng hào, bóng, một mắt mắc tật nháy. Giỏi nghề mổ lợn. Yêu quý vợ, con. Chết cháy.   Nam: Trẻ, thực dụng. Nghe đồn hy sinh ở Trùng Khánh.   Ông Thụy: Bần cố nông, quê gốc ở Thanh Hóa. Từng đi phu cho Pháp. Mắt dài, tai to, răng móm. Chân rộng bản, thẳng, chắc. Sau khi ông Ðiên chết thì ông Thuỵ chính thức trở thành người giết lợn thuê cho cả vùng.   Ông Mịch: Cao, trắng, đẹp trai, giọng nhỏ nhẹ, kỹ tính. Sở trường: Giỏi trồng mía, trồng cà phê.   Ông Bồi: Cả gia đình sống bám vào chiếc bè vó lênh đênh trên sông, ngoài ra còn tăng gia thêm rau xanh. Không rõ nguyên nhân què. Hiện còn sống.   Bà Châu Cải: Gầy, trắng xanh. Gia đình tư sản thất thế. Sống độc thân. Mất cùng ngày, cùng giờ với ông Phước. Chôn tại bãi Nghiền sàng.   Ông Khoa: Gia đình công giáo duy nhất ở xã. Người dong dỏng, mắt sáng, cử chỉ chậm chạp. Thích nhịn. Kiếm sống thêm bằng nghề hoạn lợn.   Chú Mười: To, khỏe, da đồng hun, mũi sư tử, răng hô. Dáng ngũ đoản. Ðộc thân. Hiện còn sống.   Hưng: Con trai duy nhất của ông bà Xuân. Thương binh chống Mỹ, nhưng không có thẻ, nhiều người nghi là thương binh giả. Sống độc thân. Ðôi khi sốt đột ngột.   Hiền: Tóc đen, dày. Vai tròn, hông nở, trán mịn, đuôi mắt vút dài, hơi nheo ở cuối. Tròng mắt đen pha nâu. Khi bà Liên chết, Hiền bỏ đi đâu, không ai rõ.   Tính: Cao 1 mét 68, nặng 56 ki-lô-gam. Tai dài, lưng dài, chân ngắn. Lông tay đỏ hồng, ngón không phân đốt. Lông mày nhạt, hình vòng cung ôm nửa mắt. Tai nhỏ, mồm rộng, răng cải mả. Tiếng nói đục. Ði như vượn, ngồi như gấu. Không biết chữ.   Cú mèo: Lông hoa mơ, sải cánh dài 40 phân. Mỏ khoằm, sắc. Bị bắn rụng lúc 11 giờ 15. Bay lên lúc 12 giờ. Không rõ bay tới đâu.   Ông Phùng: Nhà văn ở Hà Nội đi kháng chiến. Sau hoà bình lập lại, không về, làm lều ở Linh Sơn để sáng tác. Có lời nguyền là khi nào đoạt giải thưởng thì mới về Hà Nội. Hình dáng ông Phùng biến hóa, không ai nhớ nổi. Bản thảo sáng tác trong thời gian sống ở Linh Sơn đã bị thất lạc hết, chỉ tìm thấy duy nhất một truyện có tên là Và cỏ.   Cô Nhai: Người quắt, giọng kim, da đồi mồi. Mắc tật hay nhổ nước bọt bậy. Hiện còn sống. Mời các bạn mượn đọc sách Thoạt Kỳ Thủy của tác giả Nguyễn Bình Phương.
Ông Bạn Đẹp
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Ông Bạn Đẹp của tác giả Guy de Maupassant & Phùng Văn Tửu (dịch). Lời giễu nhại sâu cay ẩn giấu sau một câu chuyện đời kỳ lạ và phi thường. Georges Duroy, nhân vật chính của câu chuyện, là một người... Lời giễu nhại sâu cay ẩn giấu sau một câu chuyện đời kỳ lạ và phi thường. Georges Duroy, nhân vật chính của câu chuyện, là một người đàn ông có ngoại hình xuất sắc, tương phản với tài năng và phẩm chất của anh. Vốn là điển hình của những tấm gương thất bại, anh ham vật chất, trọng sắc đẹp, yêu thích sự thoải mái, ham muốn giàu sang nhưng lại không cần mẫn và thiếu khả năng làm việc. Trong một lần được người bạn giới thiệu vào bữa tiệc của giới thượng lưu, Duroy nhận được cơ hội viết báo nhờ khả năng nói chuyện đầy thu hút của mình. Tuy nhiên, anh nhận ra mình không có sở trường về viết lách và cuối cùng anh phải nhờ đến sự trợ giúp của người vợ anh bạn thân Forestier. Bài báo đạt được tiếng vang nhất định khiến anh ngủ quên trên chiến thắng, rũ bỏ quá khứ và tiêu xài đồng lương một cách phung phí mà quên mất rằng, thành công của anh vốn không phải do một mình anh tạo nên. Từng chương truyện là từng nấc thang leo lên cấp bậc cao hơn của cuộc đời Georges Duroy. Có thể nói, đây như một phiên bản Lộc Đỉnh Ký của người Pháp, với toàn bộ giễu nhại sâu cay và những lời mỉa mai lên án thời đại. Ở đây, một người tầm thường như Duroy, nhờ những lời ngon ngọt và khuôn mặt đầy mê hoặc của mình, đã xóa bỏ lằn ranh giàu nghèo, vượt qua cả giai cấp để gặt hái địa vị và thành công trong cuộc sống. Những thứ Duroy muốn, anh luôn đạt được một cách vô cùng dễ dàng. Các thiếu nữ đổ rạp dưới chân anh, những bà quý tộc quyền quý thầm ao ước anh, cả những cô gái nhỏ cũng nghe lời anh. Phải nói, thành công lớn nhất của Duroy chính là sở hữu một khuôn mặt đẹp để trở thành "Ông bạn đẹp" của tất cả mọi người. Ở một mặt nào đó, truyện phản ánh bản chất thật sự của con người: luôn yêu thích cái đẹp. Vì vậy, trong xã hội, dù là Pháp hay Việt Nam, dù là cận đại hay hiện đại, những người có ngoại hình đẹp và một chút tài ăn nói sẽ dễ dàng có được cảm tình của người khác và đạt được nhiều thành công hơn. Đây chính là một câu chuyện mang phong cách hiện thực, với đủ loại gia vị của cuộc sống hiện đại. Nếu ai mong chờ một nhân vật chính hoàn mỹ, thành công nhờ sự cố gắng và năng lực của bản thân, có lẽ quyển truyện này sẽ không phù hợp với bạn. Qua câu chuyện, ta còn thấy được sự mục nát của giai cấp thượng lưu trong xã hội Pháp nửa sau thế kỉ XIX. Những người phụ nữ có chồng dễ dàng yếu lòng có người tình, những ông chồng nhắm mắt vờ như không hay biết, những cái nắm tay bí mật, câu chuyện trò lén lút trong những bữa tiệc xa hoa nhằm xây dựng quan hệ. Dường như những hào nhoáng bên ngoài đã khiến mọi người xem nhẹ các giá trị tinh thần và tình cảm, khiến sự mất mát khi một con người lìa đời cũng chỉ như một cái chớp mắt. Đây là một tác phẩm thú vị, hài hước, nhẹ nhàng nhưng cũng đầy thâm thúy. Không chỉ ở thế kỉ XIX tại nước Pháp ta mới có thể thấy được "Ông bạn đẹp", mà chắc hẳn lẩn khuất đâu đó trong xã hội hiện đại, đã và đang có những "Ông bạn đẹp" khác đi lên nhờ nhan sắc, cũng như tồn tại đó những môi trường mà khuôn mặt của bạn sẽ quan trọng hơn hết thảy những thứ khác. *** Tóm tắt Ông bạn đẹp là một tiểu thuyết hiện thực của nhà văn người Pháp Guy de Maupassant, được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1885. Tác phẩm kể về câu chuyện của Georges Duroy, một người đàn ông trẻ tuổi có ngoại hình đẹp đẽ nhưng thiếu tài năng và phẩm chất. Nhờ vào ngoại hình và khả năng nói chuyện khéo léo, Duroy đã nhanh chóng thăng tiến trong xã hội, từ một người lính vô danh trở thành một nhà báo nổi tiếng, một nghị sĩ và cuối cùng là một thượng nghị sĩ. Đánh giá Ông bạn đẹp là một tác phẩm giàu ý nghĩa, mang đến cho người đọc nhiều bài học sâu sắc. Trước hết, tác phẩm là một lời phê phán gay gắt về xã hội thượng lưu Pháp nửa sau thế kỷ XIX, nơi mà con người bị tha hóa bởi vật chất và danh vọng. Trong xã hội đó, những người có ngoại hình đẹp đẽ và khả năng nói chuyện khéo léo có thể dễ dàng đạt được thành công, bất kể họ có tài năng hay phẩm chất như thế nào. Thứ hai, tác phẩm cũng là một lời cảnh tỉnh về sự nguy hiểm của việc chạy theo vật chất và danh vọng. Duroy đã đánh mất bản thân và trở thành một con người hoàn toàn khác khi đạt được thành công. Anh ta trở nên ích kỷ, tham lam và sẵn sàng làm mọi thứ để đạt được mục đích của mình. Cuối cùng, tác phẩm cũng là một lời khẳng định về sức mạnh của ngoại hình. Trong xã hội hiện đại, ngoại hình vẫn là một yếu tố quan trọng giúp con người đạt được thành công. Tuy nhiên, chúng ta cần phải hiểu rằng ngoại hình chỉ là một phần, và tài năng và phẩm chất mới là những yếu tố quyết định thành công của mỗi người. Ưu điểm Truyện có tình tiết hấp dẫn, lôi cuốn, khiến người đọc không thể rời mắt. Nhân vật Duroy được xây dựng một cách chân thực, sinh động, phản ánh những mặt trái của xã hội thượng lưu Pháp nửa sau thế kỷ XIX. Tác phẩm có nhiều bài học sâu sắc về cuộc sống. Nhược điểm Một số chi tiết trong truyện có thể khiến người đọc cảm thấy khó chịu. Truyện có thể gây nhàm chán đối với những người không thích thể loại hiện thực. Kết luận Ông bạn đẹp là một tác phẩm đáng đọc, mang đến cho người đọc nhiều bài học sâu sắc về cuộc sống. Mời các bạn mượn đọc sách Ông Bạn Đẹp của tác giả Guy de Maupassant & Phùng Văn Tửu (dịch).
Những Đứa Trẻ Chết Già
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Những Đứa Trẻ Chết Già của tác giả Nguyễn Bình Phương. Tiểu thuyết Những đứa trẻ chết già của Nguyễn Bình Phương khắc họa cuộc đời của những con người có cảnh sống éo le, đồng thời đặt ra câu hỏi dường như không bao giờ cũ về sự tồn tại, cái hữu hạn của đời người trong thời gian vô hạn. Văn phong đậm chất Việt, nhưng không thiếu những phẩm chất chung của các tác phẩm văn chương thế giới, kết hợp tài tình giữa cái huyền ảo hoang đường và hiện thực trần trụi, Những đứa trẻ chết già thực sự là một tác phẩm xuất sắc trong dòng tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Nếu bạn từng thích Garcia Marquez hay thấy gần gũi với những nhân vật của Nam Cao, hẳn là bạn sẽ thích Những đứa trẻ chết già của Nguyễn Bình Phương. *** Nguyễn Bình Phương sinh tại Thái Nguyên từng nhiều năm công tác tại biên giới phía Bắc. Từng biên kịch tại đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị, biên tập văn học tại Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. Hiện công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội.  Nguyễn Bình Phương xuất thân lính. Thi đậu trường viết văn Nguyễn Du khóa 4 anh vẫn mang quân phục lính. Ra trường chuyển về đoàn kịch quân đội, và sau đó là Nhà Xuất bản QÐND. Ở cương vị này Nguyễn Bình Phương là bà đỡ cho nhiều nhà văn với mảng văn học chiến tranh.  Những năm 90, “Những đứa trẻ chết già” là một bước tiến vượt bậc của Nguyễn Bình Phương nhưng giới văn chương tiếp nhận dè dặt, cánh phê bình im tiếng. Chỉ khi Phương thành danh với một loạt tiểu thuyết không lẫn vào ai thì họ mới ào ạt tiếp cận với đủ chủng loại lý luận gán vào thậm chí là phong thánh cho tác giả một mình một ngựa một con đường này. Sau “Những đứa trẻ chết già”, Phương tiếp tục cho ra đời một loạt tiểu thuyết cùng một phong cách không lẫn vào người khác như “Người đi vắng”, “Thoạt kỳ thủy”, “Ngồi”…và mới nhất là cuốn tiểu thuyết có số phận kỳ lạ, “Mình và họ”. Ðây là cuốn tiểu thuyết được Phương viết xong năm 2010 nhưng bị các nhà xuất bản trong nước từ chối in ấn và nó được xuất bản ở Mỹ dưới cái tên “Xe lên xe xuống”. Mãi đến năm 2014 nó mới được nhà xuất bản Trẻ chấp nhận. Ngay lập tức “Mình và họ” nhận được hoan nghênh hưởng ứng của giới văn chương và độc giả.  Mời các bạn mượn đọc sách Những Đứa Trẻ Chết Già của tác giả Nguyễn Bình Phương.