Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Các Hung Thần Lên Cơn Khát

Anatole France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, ông sinh ở Paris ngày 16 tháng 4 năm 1844, ngày 13 tháng 10 năm 1924 ở Tours, Indre-et-Loire, Pháp. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì "những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực"… Đến năm 1922, sách của ông đã nằm trong danh sách cấm của Giáo Hội Công Giáo La Mã, bởi trước tác của ông chống lại sự mê hoặc tôn giáo, giáo điều chủ nghĩa; dưới ngòi bút châm biếm đả kích, trào lộng, A. France mỉa mai những luận điệu thần thánh, những thiết chế Nhà nước, những thối nát của nhà thờ cùng với sự đớn hèn của loài người. Các hung thần lên cơn khát là một thiên hùng ca bi tráng về thời kỳ Công xã Paris. Nhân vật chính của câu chuyện là Évariste Gamelin, một họa sĩ trẻ tràn trề sức sống và lý tưởng, một người con hiếu thảo sống cùng mẹ già nghèo khó, một người bạn vô hại dễ thương, một công dân nhiệt tình yêu nước, một chiến sĩ tuyệt đối trung thành với Cách mạng được bổ nhiệm làm hội thẩm của Tòa án Cách mạng Pháp. Tư tưởng cực đoan và sự sùng bái cá nhân của Gamelin đối với các nhà lãnh đạo công xã Robespierre, Marat,... và cơn ghen cuồng điên trong mối tình si chớm nở đã từng bước đưa anh từ một nghệ sĩ mộng mơ thành một tên giết người hàng loạt. Vì chế độ Cộng hòa, anh hy sinh không hối tiếc bao nhiêu sinh mạng, kể cả bạn bè, và nếu cần, cả em gái mình để làm lễ dâng lên bàn thờ Tổ quốc. Điều gì sẽ đến khi lý tưởng trở thành ngọn hải đăng tỏa sáng dẫn đường, khi lý tưởng trở thành vị thần được tôn thờ mù quáng, khi lý tưởng được sùng bái một cách bất khả tư nghị? Và chuyện gì sẽ xảy ra khi con người trở thành nô lệ của dư luận, khi suy nghĩ bị dẫn dắt bởi đám đông. Đó là khi máy chém sẽ trở thành vị chủ tế, mạng sống và máu của con người được xem như vật hiến sinh, những buổi hành hình trở thành lễ hội náo nhiệt. Khi sự phi lý trở nên bình thường, khi quyền lực trao tay những kẻ vô tri, con người trở thành điên rồ và khát máu. Các hung thần lên cơn khát, một kiệt tác của A.France không chỉ là một tiểu thuyết lịch sử cách mạng. Dưới ngòi bút của một thiên tài, một xã hội thị dân Paris với đầy đủ các cung bậc cuộc sống, tình yêu, dục vọng, với ghen tuông được tái hiện. Các hung thần lên cơn khát còn là một bản trường ca về sự giao hòa giữa lý tưởng và tình người, về cách mạng và nhân văn, giữa duy tâm với duy vật, cả thánh thiện và tàn ác, về chiến thắng và chiến bại, về sự sống cùng cái chết, tất cả đã được Anatole France dệt thành một câu chuyện đa sắc sinh động. *** Anatole France (1844-1924) là một nhà văn vĩ đại của nước Pháp, thành viên Viện Hàn lâm và nhận giải thưởng Nobel Văn học năm 1921. Sự nghiệp văn chương của ông thực đồ sộ và mang dấu ấn những quan điểm của ông trong từng thời kỳ. Khi còn trẻ, với các tác phẩm “Sách của bạn tôi”, “Tội ác của Sylvestre Bonnard”, “Bông huệ đỏ”, “Khu vườn của Epicure”,… Anatole France nổi tiếng là một nghệ sĩ đơn thuần, một nhà nhân văn cá nhân chủ nghĩa ít quan tâm đến cuộc đời. Nhưng khi đã đứng tuổi, ông bắt đầu chú ý đến những vấn đề thời đại, những nỗi băn khoăn, lo lắng của con người. Ông tham gia bảo vệ Dreyfus, một sĩ quan Pháp bị kết án oan về tội làm gián điệp. Trong số các tác phẩm ông viết trong thời kỳ này ta có thể kể: “Chiếc vòng thạch anh xanh”, “Ông Bergerer ở Paris”,… Đặc biệt trong các cuốn “Thiên thần nổi loạn” và “Các hung thần lên cơn khát”, ông đã tố cáo bạo lực và chuyên chế, phản đối những hành động quá khích phát sinh từ cách mạng. Luôn luôn tranh đấu cho một xã hội công bằng và nhân đạo, Anatole France đứng vào hàng ngũ các chiến sĩ cực tả. Ông quan niệm tự do là tài sản quý nhất của con người, nhưng không thể có tự do khi một giai cấp còn bị một giai cấp khác nô dịch. Ông mơ ước một nhà nước thực sự dân chủ không vi phạm quyền của mỗi công dân và bảo đảm hạnh phúc cho từng cá nhân trong xã hội. Là người vô thần, ông phản đối cả cuồng tín tôn giáo lẫn cuồng tín chính trị; là nghệ sĩ, ông luôn luôn để lòng mình rung động xen lẫn xót xa trước những niềm vui mong manh, giúp ta trong giây phút quên đi nỗi đau đớn của thân phận con người. Tiểu thuyết “Các hung thần lên cơn khát” (1912) là một trong những tác phẩm hàng đầu của Anatole France. Câu chuyện xảy ra trong thời kỳ thứ ba của Cuộc cách mạng 1789 Pháp, “Thời kỳ chuyên chính Jacobin” bắt đầu từ tháng sáu năm 1793 đến hết tháng bảy năm 1794. Đó là thời kỳ cuộc cách mạng nằm trong tình thế thù trong giặc ngoài cực kỳ hiểm nghèo. Để đối phó, một mặt Quốc ước tung quân chống ngoại xâm, dẹp bạo loạn trong nước, mặt khác, bên cạnh những biện pháp nhằm ổn định đời sống, đã dùng Tòa án Cách mạng làm công cụ thực hiện quốc sách khủng bố các phe phái, cá nhân chống đối. Và vì bản thân phái Jacobin cũng phân hóa, khủng bố lan tràn vào ngay nội bộ những người cách mạng trung kiên nhất. Đó là thời kỳ rối ren nhất, đẫm máu nhất trong cuộc Cách mạng 1789. Có thể gọi “Các hung thần lên cơn khát” là một tiểu thuyết lịch sử: Một loạt sự kiện được mô tả khá đầy đủ, chính xác đến từng ngày, nhiều nhân vật lịch sử được nhắc đến trong đó một số lãnh đạo vĩ đại của Cách mạng, như Robespierre, như Marat, được phác họa bằng ngòi bút tài tình khiến người đọc có thể hình dung được cả hình dáng lẫn tâm hồn họ. Trong bối cảnh lịch sử ấy, Anatole France đưa lên sân khấu cả một đám thị dân Paris bình thường, để cho họ sinh hoạt, yêu đương, chơi bời, hy vọng, đau khổ… cả bọn đục nước béo cò thời nào cũng có. Khi nói đến những con người bình thường, tính hoài nghi cố hữu của ông thường kết hợp với sự cảm thông sâu sắc với nỗi đau nhân thế. Và mỗi lần như vậy, bút pháp bình dị của ông tự nhiên sống động, ấm áp hẳn lên. Đó là nỗi khổ đau triền miên của bà cụ Gamelin sống giữa người con trai đã mất tính người và người con gái tội lỗi đang lẩn trốn; bà cụ sợ từng tiếng động nhỏ, “vì địa vị thấp kém,… coi hèn nhát là một nghĩa vụ.” Chúng ta phải buồn cười với cô Élodie đa tình quyết tâm “đi nửa quãng đường, hoặc hơn nữa” để chinh phục người yêu. Để mô tả tâm hồn trong trắng của một cô gái điếm, tác giả đã để cho “mặt trăng lên cao rọi vào gian phòng sát mái một tia bạc làm bừng sáng mớ tóc bồng bềnh, từng chiếc mi vàng, cái mũi thanh tú, cái miệng tròn và đỏ của Athénaïs đang ngủ ngon giấc, hai bàn tay nắm chặt.” Ông đã dùng những lời lẽ thực trang trọng, đầy xúc động khi nói đến Fortuné Trubert, người chiến sĩ được giao trọng trách không hề cảm thấy “sự nhỏ bé của các phương tiện sẵn có” vì “đời sống của anh hòa nhập với đời sống của một dân tộc vĩ đại”. Nhưng ông đã dành nhiều trang nhất để diễn tả hai nhân vật trung tâm, hai con người có cá tính thực đặc biệt. Một người là họa sĩ Évariste Gamelin, người con hiếu thảo, hội thẩm Tòa án Cách mạng. Anh là một công dân nhiệt tình yêu nước, một chiến sĩ tuyệt đối trung thành với cách mạng. Vì chế độ Cộng hòa, anh hy sinh không hối tiếc bao nhiêu sinh mạng, kể cả bạn bè, nếu cần, cả em gái mình để làm lễ dâng lên bàn thờ Tổ quốc. Anh nghĩ, mỉa mai thay, làm thế để mai đây “mọi người Pháp sẽ ôm hôn nhau trong hạnh phúc”. Người kia là ông già Brotteaux nguyên là nhà quý tộc, yêu thiên nhiên, luôn luôn xúc động trước cảnh đẹp, môn đệ của Épicure. Tác giả đặt ông vào bao nhiêu tình huống, cho ông gặp bao nhiêu con người để ông có dịp nêu lên những ý nghĩ, những tình cảm của mình, của một người vô thần nhưng không cuồng tín, chống mọi hình thức chuyên chế hay bạo lực. Những ý nghĩ, những tình cảm đó được bộc lộ đôi khi mơ mộng, thường thường nhẹ nhàng, châm biếm, có lúc lố bịch, che giấu một tấm lòng cực kỳ nhân hậu, nhạy cảm, vị tha. Thế là rõ, Anatole France đã gián tiếp nêu lên quan điểm của mình. Đó là một quan điểm và còn có những quan điểm khác: bao nhiêu sử gia và nhà nghiên cứu đã viết và còn viết để đánh giá cuộc cách mạng Pháp. Giới thiệu với bạn đọc cuốn tiểu thuyết này, chúng tôi cũng mong góp phần nhỏ bé kỷ niệm một cuộc cách mạng vĩ đại mà những lý tưởng vẫn luôn luôn thôi thúc loài người. Người dịch Trần Mai Châu ***   Sáng sớm hôm đó, Évariste Gamelin, họa sĩ, học trò của David*, thành viên phân khu Cầu mới, trước đây là phân khu Henri IV, đến nhà thờ dòng Barnabites. Từ ngày 21 tháng 5 năm 1790 cách đây ba năm, nhà thờ này được dùng làm trụ sở các đại hội của phân khu. Nó vươn cao trên một quảng trường hẹp và tối, gần hàng rào Tòa án. Mặt tiền nhà thờ có hai cây cột kiến trúc cổ điển với những công-xôn đảo ngược và bình lửa cháy đã dầu dãi với thời gian và bị con người xúc phạm. Người ta đã lấy búa đập các biểu tượng tôn giáo và thay bằng những châm ngôn Cộng hòa với dòng chữ đen tô đậm trên cửa chính: “Tự do, Bình đẳng, Bác ái hay là Chết”. Évariste Gamelin bước vào gian giữa: các vòm nhà thờ trước kia bao lần vang lên lời ca của các tu sĩ bận áo thụng trắng thuộc giáo đoàn Saint Paul thì nay chứng kiến các công dân yêu nước đội mũ chụp đỏ hội họp bầu các thẩm phán của thành phố và thảo luận về công việc của phân khu. Các vị thánh đã bị lôi ra khỏi bệ; thay vào đó là tượng bán thân của Brutus, Jean-Jacques và Le Peltier. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền đặt sừng sững trên bàn thờ để trống. Jacques-Louis David (1748-1825): là họa sĩ thời cách mạng Pháp, đứng đầu trường phái Tân cổ điển. Chính tại gian giữa này, mỗi tuần hai lần, từ năm giờ chiều đến mười một giờ đêm, tiến hành các hội nghị công khai. Giảng đài có trang trí một lá quốc kì, được dùng làm diễn đàn kêu gọi quần chúng. Đối diện với giảng đài là một chiếc bục sơ sài làm bằng gỗ thô dành làm chỗ đứng cho đàn bà, trẻ con, thường đến khá đông, dự các buổi họp. Sáng hôm ấy, đứng trước một chiếc bàn kê ngay ở chân giảng đài là công dân Dupont-anh, mình mặc áo vét ngắn, đầu đội mũ chụp đỏ, làm nghề thợ mộc ở quảng trường Thionville, hiện là một trong mười hai ủy viên của ủy ban Giám sát. Trên bàn có bày một cái chai, mấy cái ly, một hộp bút và một quyển vở trong viết sẵn một kiến nghị đòi Hội đồng Quốc ước* trục xuất hai mươi hai đại biểu bất xứng. Hội đồng Quốc ước: là nghị viện cách mạng thay thế Quốc hội lập pháp từ ngày 21-9-1792 và cai trị nước Pháp cho đến ngày 26-10-1795. Évariste Gamelin cầm bút ký. “Tôi biết chắc, công dân Gamelin, cậu thế nào cũng ký, - ông ủy viên kiêm thợ thủ công nói. - Cậu là một phần tử trung kiên. Nhưng dân ở đây không nhiệt tình, lại thiếu đạo đức. Tôi đã đề nghị ban Thanh tra không cấp chứng chỉ ái quốc cho những người không ký.” “Tôi sẵn sàng dùng máu của mình ký vào kiến nghị đặt ra ngoài vòng pháp luật bọn phản quốc theo chủ nghĩa liên bang*. Họ đã muốn Marat* chết thì chính họ phải bị tiêu diệt.” Trong thời cách mạng Pháp, đây là những người chống lại những kẻ thù của tự do. Jean-Paul Marat (1743-1793): đại biểu phái Montagne trong Hội đồng Quốc ước, kịch liệt lên án và đòi chém đầu Louis XVI, bị một phụ nữ là Charlotte Corday ám sát năm 1793. “Điều nguy hiểm đối với ta chính là chủ nghĩa bàng quan. Phân khu này gồm chín trăm công dân có quyền bỏ phiếu nhưng chưa tới năm mươi người đi họp. Hôm qua lại chỉ có hai mươi tám người.” “Vậy phải bắt họ đến, nếu không thì nộp phạt.” “Này, này, - anh thợ mộc nhíu mày đáp, - nhưng nếu họ đến cả, công dân yêu nước chúng ta sẽ bị thiểu số… Công dân Gamelin, cậu có muốn làm một chén rượu chúc mừng những người cách mạng chân chính không?…” Trên tường nhà thờ, phía bên Phúc âm*, có những dòng chữ sau đây, kèm theo hình một bàn tay màu đen, ngón trỏ chỉ đường ra hành lang: Ủy ban dân sự, Ủy ban thanh tra, Ủy ban cứu trợ. Đi qua vài bước là cửa một phòng trước đây còn là gian nhà áo*, trên có ghi: Ủy ban quân sự. Gamelin đẩy cửa và thấy anh thư ký Ủy ban thanh tra đang ngồi viết trước một chiếc bàn bừa bộn sách vở, giấy tờ, thỏi thép, vỏ đạn và những mẩu đất chứa diêm tiêu. Côté de L’Évangile: Phía bên Phúc âm. Phía bên trái bàn thờ, đối với vị chủ tế. Nhà áo: là nơi các linh mục chuẩn bị trước khi làm lễ. “Công dân Trubert, chào cậu. Cậu khỏe không?” “Mình ấy à?… Mình rất khỏe…” Fortuné Robert trả lời những ai quan tâm đến sức khỏe của mình bằng một câu bất di bất dịch, muốn cho người ta biết về tình trạng của mình thì ít, mà muốn cắt đứt câu chuyện về đề tài đó thì nhiều. Anh ta mới hai mươi tám tuổi mà da đã khô, tóc thưa, gò má đỏ, lưng còng. Làm nghề bán kính ở bến Kim hoàn, anh là chủ nhân một tiệm có từ lâu đời, nhưng năm 1791 anh đã nhượng lại cho một viên thầy ký già để có thể toàn tâm làm nhiệm vụ của anh trong thành phố. Mẹ anh, một phụ nữ duyên dáng, chết lúc hai mươi tuổi mà các cụ già trong khu phố vẫn còn nhớ lại những kỷ niệm xúc động, đã để lại cho anh đôi mắt dịu dàng, đắm đuối, nước da xanh xao, tính tình rụt rè, nhút nhát. Còn tính chính xác, cần cù thì anh đã kế thừa của cha anh, kỹ sư quang học, người cung cấp vật dụng cho hoàng gia, qua đời cùng một căn bệnh khi chưa đầy ba mươi tuổi. Vẫn tiếp tục làm việc, anh hỏi: “Còn cậu, công dân, cậu thế nào?” “Tớ khỏe. Có gì mới không cậu?” “Không, không có gì mới. Cậu thấy đấy: Ở đây, tất cả đều yên tĩnh.” “Thế còn tình hình?” “Tình hình vẫn thế.” Tình hình thực khủng khiếp. Đạo quân tinh nhuệ nhất của nền Cộng hòa phải đưa vào cố thủ Mayence; Valenciennes bị bao vây; dân Vendée* chiếm Fontenay; Lyon làm loạn; Cévennes nổi dậy, biên giới với Tây Ban Nha bỏ trống; hai phần ba các quận bị xâm lăng hay nổi dậy; còn Paris không tiền bạc, thiếu cả bánh mì thì nằm trong tầm đại bác của bọn Áo. Một số dân vùng Vendée và những nơi khác chống lại cách mạng vì chính sách dân sự hóa Giáo hội và bắt lính hàng loạt của chính quyền cách mạng. Fortuné Trubert vẫn yên lặng ngồi viết, chiếu theo quyết định của Công xã* giao cho các phân khu trách nhiệm động viên mười hai nghìn người để cứu viện Vendée, anh đang thảo các chỉ thị về việc tuyển quân và cung cấp vũ khí thuộc phạm vi phân khu Cầu Mới. Tất cả súng trường sẽ được giao cho những người được trưng dụng. Đội Vệ quốc của phân khu chỉ còn súng săn và giáo mác. Công xã: là chính quyền thành phố Paris thời kỳ Cách mạng. Từ ngày 10-8-1792, công xã áp dụng chính sách khủng bố. Gamelin nói: “Mình mang lại cho cậu báo cáo về tình trạng các quả chuông phải gửi đi Luxembourg để đúc đại bác.” Mặc dầu không có một xu trong túi, Évariste Gamelin vẫn được ghi vào danh sách những thành viên tích cực của phân khu: luật chỉ ban đặc quyền đó cho các công dân tương đối giàu, đã đóng góp số tiền bằng ba ngày lao động; và muốn là ứng cử viên thì phải đóng góp mười ngày. Nhưng muốn phát huy quyền bình đẳng và giữ vững tính tự trị, phân khu Cầu Mới cho phép các công dân nào chịu bỏ tiền túi sắm đồng phục Vệ quốc được quyền bầu cử và ứng cử. Đó là trường hợp Gamelin, công dân tích cực, thành viên ủy ban quân sự. Trubert đặt bút xuống nói: “Công dân Évariste, cậu hãy qua bên Quốc ước đề nghị họ gửi cho chúng ta chỉ thị đào xới các hang động, lọc đất đá để sản xuất diêm tiêu. Có đại bác đâu đã đủ, còn cần thuốc súng nữa.” Một chàng gù bé nhỏ, bút giắt tai, tay cầm giấy tờ, bước vào. Đó là công dân Beauvisage, trong ban Thanh tra. Anh ta nói: “Này các công dân, chúng ta vừa nhận được tin xấu. Custine đã rút khỏi Landau.” “Custine là tên phản bội!” Gamelin thét lên. “Phải chém cổ hắn,” Beauvisage nói. Bằng một giọng hơi hổn hển, Trubert bình tĩnh phát biểu: “Quốc ước đâu có thành lập ủy ban cứu quốc để chơi. Hành động của Custine sẽ được đem ra xét xử. Bất lực hay phản bội, cũng phải thay y bằng một vị tướng có quyết tâm chiến thắng. Rồi sẽ ổn cả thôi!” Anh lật các giấy tờ và đọc lướt bằng cặp mắt mệt mỏi: “Muốn cho binh sĩ của ta hoàn thành nhiệm vụ, không rối loạn, không chùn bước, cần làm cho anh em hiểu rằng đời sống những người thân của họ được bảo đảm. Nếu cậu đồng ý, công dân Gamelin, trong phiên họp tới, cậu sẽ cùng mình đề nghị ủy ban cứu trợ phối hợp với bên quân sự giúp đỡ những gia đình khó khăn có con em tại ngũ.” Anh mỉm cười và ngân nga: “Sẽ ổn cả! Ổn cả!…” Như vậy là làm việc từ mười hai đến mười bốn giờ mỗi ngày trước một chiếc bàn mộc, để bảo vệ Tổ quốc lâm nguy, viên thư ký tầm thường của một ban trong phân khu không hề cảm thấy sự chênh lệch giữa mức độ to lớn của nhiệm vụ và sự nhỏ bé của phương tiện: anh cảm thấy sức mình hòa với nỗ lực chung của các công dân yêu nước, anh và đất nước là một, đời sống của anh hòa nhập vào đời sống của một dân tộc vĩ đại. Anh thuộc hạng người nhiệt tình và kiên nhẫn, sau mỗi thất bại lại chuẩn bị cho chiến thắng dường như không thể có được nhưng lại chắc chắn vô cùng. Họ phải thắng! Những con người chẳng là gì cả đó, những người đã đạp đổ vương quyền, cái anh Trubert, kỹ sư quang học tầm thường, cái anh Gamelin, họa sĩ vô danh, không thể chờ đợi sự khoan dung của kẻ thù. Họ chỉ có thể lựa chọn giữa chiến thắng và chết. Do đó họ đầy nhiệt tình và cũng vô cùng thanh thản.   Mời các bạn đón đọc Các Hung Thần Lên Cơn Khát của tác giả Anatole France & Trần Mai Châu (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Kẻ Tủi Nhục - Fyodor Dostoyevsky
Tiểu thuyết "Những Kẻ Tủi Nhục" lấy khung cảnh là thành phố Peterburg, trung tâm chính trị, kinh tế, hành chính, văn hóa,... của nước Nga Sa hoàng. Dưới ngòi bút của tác giả, Peterburg không còn là những lâu đài tráng lệ, thành phố của những tượng đài và nhà bảo tàng nguy nga, của những ngựa xe như nước, những công hầu bá tước, trai thanh gái lịch, với những dạ hội và những buổi tiếp tân như trong "Chiến Tranh Và Hoà Bình" của L.Tônxtôi. Thế giới của Đốxtôiepxki là những tầng hầm tối tăm , ẩm thấp, những căn gác áp mái lạnh lẽo, là sương mù, mưa, tuyết với những con người khốn khổ cùng: ăn đói, mặc rách, ho lao, động kinh, những kẻ ma cô, đĩ điếm, ăn mày... Tóm lại đấy là một bức tranh đầy, phản ánh cái mâu thuẫn âm ỷ nhưng quyết liệt của một chế độ thối nát tập trung trong một thành phố khổng lồ mà nhân vật Ivan Petrovits gọi là "Dở điên, dở khùng". Một trong những nét hấp dẫn và làm nên đặc thù của Đốxt là tài phân tích, mổ xẻ tâm lý con người. Có thể nói, đây là sở trường đặc biệt và cũng là niềm hứng thú bất tận của Đốxt. Cũng như ở các tác phẩm khác, "Những Kẻ Tủi Nhục" có rất nhiều đoạn phân tích tâm lý hết sức sâu sắc, tinh tế, chứng tỏ một khả năng quan sát, suy ngẫm, một vốn sống phong phú, lịch lãm của một tài năng bậc thầy. Hứng thú này làm cho ngòi bút của ông có lúc sa đã thậm chí có chỗ lắp khép khiên cưỡng. Tuy nhiên, người đọc vẫn rất thú vị vì những nhận xét, mổ xẻ lòng người rất đỗi tinh vi và có sức khái quát cao, giúp cho ta khám phá sâu sắc thế giới nội tâm của chính mình mà nhiều lúc ta cũng không hiểu nổi. Từ những bối cảnh, những con người của một thời, tác phẩm của Đốxt đã vượt qua biên giới của không gian và thời gian để trường tồn cùng nhân loại. *** Dos[1], như cách gọi thân mật tên Dostoevsky của bạn đọc Việt Nam, là một nhà văn thực sự vĩ đại của cả nhân loại, hơn thế nữa, không như những nhà văn vĩ đại khác mà tác phẩm chỉ có ý nghĩa lịch sử như những chứng nhân của một nền văn minh đã qua, Dos luôn luôn đồng hành cùng nhân loại, thậm chí càng ngày Dos càng trở nên vĩ đại hơn. Sức sống vượt thời gian đó của Dos tựa hồ như là do sự lựa chọn của số phận; cuộc đời Dos, cũng như cuộc đời của Jesus, đã chịu đựng tất cả những đau khổ điển hình của con người, và trí tuệ, tình cảm của ông lại được trang bị để cảm nhận và biểu hiện cuộc đời ấy đầy đủ và sinh động nhất với sức mạnh chín muồi của một cây bút mà lịch sử đã đặt vào tay ông. Dos (1821–1881) bắt đầu cuộc đời sáng tác văn học vào quãng giữa thế kỷ XIX (tác phẩm đầu tay của Dos Những người nghèo khổ in năm 1845), lúc mà xã hội Nga đang có những biến chuyển mạnh mẽ – cái cũ đã suy thoái cùng cực, phơi bày tất cả mặt trái xấu xa và những mâu thuẫn không thể giải quyết nổi; cái mới đang manh nha, đang lần hồi định hướng – đó là một giai đoạn phức tạp và đau khổ trong lịch sử phát triển của xã hội Nga. Tuy nhiên “cùng tắc biến”, chính trong tột đỉnh đau thương và phức tạp ấy, những tư tưởng lớn lao sẽ ra đời, những nhân cách vĩ đại sẽ tự khẳng định. Đối với văn học cũng vậy: xã hội càng nhiễu nhương, văn chương – nếu vượt qua được ranh giới của thứ văn chương bồi bút – lại càng phong phú và có ích. Dos thuộc số những nhà văn mang trong mình một nhà tư tưởng và một con người hành động – ông là nghệ sĩ và cũng là một chiến sĩ. Vì vậy, không chỉ viết văn, ông còn tham gia hoạt động chính trị, và hậu quả của việc này là cái án tử hình mà phải đến tận phút chót trước giờ hành quyết mới được giảm xuống thành khổ sai ở Xibir. Sau bốn năm lưu đày, Dos tiếp tục bị sung vào quân dịch làm lính trơn, rồi sau đó bị cấm cả tự do cư trú lẫn sáng tác. Trong suốt cuộc đời của mình, Dos luôn luôn bị cuộc sống thúc bách, nợ nần như chúa chổm, phải viết văn như “một thứ ngựa trạm” để kiếm sống và trả nợ, sức khỏe kém sút, chứng động kinh luôn luôn hành hạ... Đó là hình ảnh xám xịt phủ lên toàn bộ cuộc đời nhà văn mà bạn đọc sẽ bắt gặp đó đây qua những nhân vật trí thức nghèo trong các tác phẩn của Dos, chẳng hạn Raskolnikov trong Tội ác và hình phạt, và nhất là nhân vật Ivan Petrovich của cuốn sách này. Chính vì phải sống một cuộc đời làm lũ ở giữa đám “thập loại chúng sinh” như vậy, cộng với một trái tim nhân hậu và một trí tuệ sâu sắc bẩm sinh, Dos đã trở thành lương tâm của những người “hạ đẳng”, nhà văn của những kẻ bị áp bức và sỉ nhục. Qua nhân vật Ivan Petrovich trong cuốn sách này, một nhân vật có rất nhiều nét gần gũi với đời riêng tác giả, ta thấy một nhân cách làm người, một phẩm chất nhà văn rất cao thượng: luôn luôn đồng cảm, yêu thương, xả thân vì những đồng loại bất hạnh đến mức quên mình. Trong cuộc đời tăm tối thuở ấy, nhân cách của ông, nghĩa cử của ông lóe lên như một tia sáng rực rỡ, ấm áp như một ngọn lửa mà đến trăm năm sau bạn đọc còn cảm nhận được giữa những trang sách. Đằng sau tất cả những tư tưởng và triết lý có những điều đúng đắn và sâu sắc, nhưng cũng có cả những sai lầm, thậm chí phản động, cái còn lại và làm nên chân dung đặc thù của Dos chính là tấm lòng ưu ái này của ông. Người ta kể rằng, trong đám tang của ông, những người đi đưa tang đã tự đeo những cái gông cổ, những cái còng tay, những dây xích tượng trưng... để nói lên phẩm chất của người quá cố là nhà văn của những người bị xích xiềng và chà đạp. Tác phẩm mà bạn đọc đang có trong tay là một chứng minh cụ thể cho những phẩm chất ấy của Dos. Có thể nói, tiểu thuyết Những kẻ tủi nhục[2] tuy không phải là tác phẩm tiêu biểu về chiều sâu tư tưởng và độ chín của bút pháp của nhà văn, nhưng vẫn phản ánh rất đúng Dos về hai mặt: chủ đề và văn phong. Nhà văn viết tác phẩm này năm 1861 (sau mười năm đi đày và lưu lạc vừa trở về Petersburg), và cho in lên ngay số đầu tiên của tờ tạp chí Thời Đại (Valkovskyrêmia) do ông và người anh trai chủ trương mà trong đó thực chất ông là linh hồn. Sau những bước thăng trầm dữ dội, những khủng hoảng nghiêm trọng trong tư tưởng, thế giới quan của Dos chao đảo. Ông hoài nghi con đường cách mạng xã hội của những người cách mạng dân chủ và rơi vào những tư tưởng duy tâm: muốn kêu gọi sự thức tỉnh của lương tâm, dùng cái đẹp để cải tạo thế giới. Ông phát biểu chính kiến này trong loạt tác phẩm tiêu biểu ở giai đoạn cuối đời, như Tội ác và hình phạt, Lũ người quỉ ám, Thằng ngốc, Anh em nhà Karamazov... Tiểu thuyết Những kẻ tủi nhục nằm vào giữa giai đoạn giao thời này của Dos. Ở đây đã bắt đầu xuất hiện hệ tư tưởng mới của ông trong cách phân tích và giải quyết các tình huống và số phận nhân vật. Tuy nhiên, về cơ bản tác phẩm vẫn tiếp tục đi nốt con đường của những tác phẩm trước đây, mở đầu bằng Những người nghèo khổ. Chính vì lẽ đó, người đọc và giới phê bình Nga vẫn coi Những kẻ tủi nhục như tập tiếp theo trong loạt chủ đề của Những người nghèo khổ, vẫn chịu ảnh hưởng của Belinskij trong những tư tưởng cuối cùng mà Dobroljubov gọi là “khuynh hướng nhân đạo”. Khung cảnh của câu chuyện là thành phố Petersburg, trung tâm chính trị, kinh tế, hành chánh, văn hóa của nước Nga sa hoàng. Dưới ngòi bút của Dos, Petersburg không còn là những lâu đài tráng lệ, thành phố của những tượng đài và nhà bảo tàng xa hoa, của những ngựa xe như nước, những công hầu bá tước, trai thanh gái lịch, với những dạ hội và những buổi tiếp tân như trong Chiến tranh và hòa bình của L. Tolstoy. Thế giới của Dos là những tầng hầm tối tăm ẩm thấp, những căn gác áp mái lạnh lẽo, là sương mù, mưa, tuyết với những con người khốn cùng: ăn đói, mặc rách, ho lao, động kinh, những kẻ ma cô, đĩ điếm, ăn mày... Tóm lại, đấy là một bức tranh đầy mâu thuẫn, phản ánh cái mâu thuẫn âm ỉ nhưng quyết liệt của một chế độ thối nát tập trung trong một thành phố khổng lồ mà nhân vật Ivan Petrovich gọi là “dở điên dở khùng”. Toàn bộ cốt truyện gồm có hai tuyến: Một phía là gia đình Ikhmenev, một địa chủ nhỏ bị sỉ nhục và phá sản, bị thua kiện, mất đất mất của, con gái lại bỏ nhà theo nhân tình – vốn là con trai của kẻ thù của mình. Một phía khác là gia đình ông già Smith: cô con gái cũng bị quyến rũ và bỏ nhà theo trai, mang theo toàn bộ tiền nong và lúc mang thai thì bị người tình ruồng bỏ, phải sống cầu bơ cầu bất trong cảnh ốm đau và bị người bố nguyền rủa cho đến tận lúc chết, để lại đứa con gái bé bỏng, côi cút giữa nanh vuốt của bọn người tàn ác bất lương... Tuy cùng là những người bị chà đạp, sỉ nhục đến cùng cực, nhưng mỗi nhân vật đều có một cách phản ứng riêng, một thế giới nội tâm riêng. Hai ông bà Ikhmenev mang bản chất của những người Nga trung lưu đang bị bần cùng hóa: chân chất, trong sạch, giàu lòng thương nhưng cũng đầy tự ái và sỉ diện. Họ không có cách nào chống trả hữu hiệu đối với những kẻ thù đích thực của mình và quay ra trút lên đầu nhau tất cả sự bất hạnh mà mỗi người không đáng phải chịu, và hành hạ nhau nhiều khi bằng chính lòng tốt của mình. Cô Natasha, con gái của họ, tỏ ra quyết liệt hơn trong mọi cách xử thế. Mặc dù hơi có nét lãng mạn kiểu cũ, tính cách Natasha cơ bản là tính cách hành động và thực tế: cô biết yêu và dám dũng cảm lao vào tình yêu, giành lấy hạnh phúc cá nhân, bất chấp mọi hoàn cảnh éo le, có lúc đi ngược lại cả những tín điều vốn thiêng liêng nhất trong lòng cô. Lúc gặp trắc trở, cô biết chấp nhận sự thật và tỉnh táo vượt qua nó. Cô cũng là người duy nhất biết và dám đánh trả trực diện và quyết liệt kẻ thù bằng những lý lẽ tinh tế và xác đáng. Hai bố con ông già Smith được tác giả miêu tả sơ lược hơn và có phần được sử dụng để minh họa cho những tư tưởng của tác giả. Ngược lại nhân vật Nenli, em bé gái côi cút, là cả một phát hiện sâu sắc của Dos về tâm lý, vừa đơn giản vừa phức tạp, vừa bí ẩn vừa rõ ràng... của một đứa trẻ bị chà đạp từ thuở ấu thơ, luôn nghi ngờ và thù hận tất cả mọi người, nhưng thực chất vẫn mang trong đáy lòng những tình cảm yêu thương đầm ấm và khát khao hướng tới cái thiện. Nenli cũng là nhân vật trong suốt và minh bạch nhất trong mọi quan hệ. Với bản năng thiên bẩm của đứa trẻ và sự từng trải trước tuổi, em đã phân biệt chính xác cái tốt và cái xấu, cái có thể tha thứ và cái không thể tha thứ. Cho đến phút chót của cuộc đời ngắn ngủi, trái tim kiêu hãnh ấy đã kiên trì một thái độ không khoan nhượng trước cái xấu bản chất – em đã chết đi mà tự mình không tha thứ cho kẻ đã gây nên bất hạnh cho cả gia đình em và bao nhiêu người khác, dù kẻ ấy là bố đẻ của em đi nữa! Có thể nói hình tượng nghệ thuật này đã phần nào vượt qua ý định luân lý của tác giả, và một ông Dos nghệ sĩ ở đây đã chiến thắng một ông Dos nhà tư tưởng cứng ngắc. Nhân vật móc nối hai tuyến nhân vật nói trên và là nguyên nhân gây ra tất cả mọi bất hạnh cho mọi người là công tước Valkovsky. Đây là một kẻ quí tộc đã tư sản hóa, sản phẩm của một xã hội hưởng thụ mà đồng tiền là thước đo của mọi nhân cách, cái thời mà “vị công tước chân chính duy nhất là Rôtsin” (một nhà triệu phú, tư bản ngân hàng Pháp). Nói đúng hơn, Valkovsky chỉ còn quí tộc ở cái vỏ ngoài hào hoa, tao nhã. Còn thực chất, lão là một kẻ nô lệ của đồng tiền, một tên gian manh, đàng điếm, hiếu sắc, du côn với một tâm địa cực kỳ tàn ác và nham hiểm. Lão là một tên đê tiện có ý thức, thậm chí còn biết khái quát hóa hành động xấu xa thành lý thuyết. Tự nhận định về cuốn sách này, Dos có nói rằng trong đó “có độ năm mươi trang rất đáng tự hào” – theo tôi trong số năm mươi trang này chắc hẳn có đoạn bộc bạch của công tước Valkovsky với nhân vật nhà văn Ivan Petrovich. Trong đoạn tự bạch này, lão công tước đã tự lật mặt nạ, bày tỏ tất cả những hành vi xấu xa mà lão đã làm, đồng thời đúc kết thành lý luận và hi vọng một ngày nào đó sẽ đem ra truyền bá! Đó là một thứ chủ nghĩa vị kỷ tư sản dưới dạng cổ điển nhất. Lý thuyết của lão gói gọn trong mấy câu: “Tất cả là để cho tôi, toàn thế giới được tạo ra cho tôi”, “Tôi chỉ coi là có bổn phận chừng nào có lợi cho tôi”. Khẩu hiệu của lão là: “Hãy yêu lấy chính mình!” Cách lập luận của lão không phải là không sâu sắc và có sức thuyết phục. Tuy nhiên chỉ cần với lý trí tỉnh táo bình thường, đã có thể thấy ngay được tất cả mặt trái tồi tệ của ý thức hệ tư sản ngay trong những ngày đầu hình thành của nó. Chủ nghĩa vị kỷ và tham vọng tự do cực đoan đã chà đạp lên mọi nguyên tắc nhân bản trong quan hệ giữa người với người và trở thành một mảnh đất tốt cho tội ác chà đạp đồng loại tự do phát triển. Tính chất trắng trợn và quyết liệt của nó thực sự là hồi chuông báo động cho lương tri của loài người. Trước cái hình ảnh ghê tởm của con quái vật hai chân này, tác giả đã tỏ thái độ qua lời của nhân vật Ivan Petrovich: “Lão gợi lên cho tôi ấn tượng về một loài bò sát, một con nhện khổng lồ mà tôi ao ước được đập cho chết tươi”. Như trên đã nói, trong hoàn ảnh giao thời của xã hội Nga giữa thế kỷ XIX, khi mà cái cũ đang sụp đổ, nhưng cái mới cũng chưa định hướng xong, nhất là phải trải qua một cuộc đời đầy thử thách khắc nghiệt, thế giới quan của Dos lúc này đang chao đảo dữ dội và thể hiện ra đầy mâu thuẫn. Một mặt, bằng trái tim tha thiết yêu người, lo lắng cho số phận của những đồng loại đau khổ, ông đã lên tiếng tố cáo thực trạng bất công của xã hội bằng cách vẽ lên một bức tranh chân thực cà sinh động về một cuộc sống tăm tối, bế tắc của nhân dân bị áp bức. Ngỡ như trái tim ông rỉ máu trên từng trang viết và đến trăm năm sau ta còn nghe rõ những tiếng đập quằn quại của nó. Tuy nhiên, một mặt khác, những kết luận mà ông hướng người đọc đi tới lại mang đầy cảm tính sai lầm. Xa rời tư tưởng thực tế của cuộc cách mạng xã hội. Dos đi tìm lối giải thoát cho mọi mâu thuẫn xã hội bằng con đường duy tâm, tôn giáo. Ông kêu gọi sám hối và tha thứ. Kết cục đoàn viên ở cuối truyện này là một dẫn chứng cho những tư tưởng ấy của Dos. Tác giả tạo ra một sự đối chứng giữa hai cách giải quyết mâu thuẫn: ông già Smith khăng khăng không tha thứ cho con gái, thì rốt cuộc người chết, kẻ phát điên, bố con, ông cháu đều rơi vào thảm cảnh; ngược lại ông già Ikhmenev cuối cùng đã tha thứ cho cô con gái Natasha thì toàn gia đoàn tụ, mọi người đều hạnh phúc. Tác giả đã đặt vào miệng của ông già này những lời hùng hồn thực ra chỉ để tuyên dương một chiến thắng giả tạo: “Mặc cho chúng ta bị sỉ nhục, mặc cho chúng ta bị lăng mạ, nhưng chúng ta lại bên nhau, và mặc cho lúc này những kẻ kiêu ngạo và hợm hĩnh, những kẻ đã sỉ nhục và lăng mạ chúng ta đang ca khúc khải hoàn! Mặc cho chúng ném ta vào đá! Đừng sợ” – Một thắng lợi đầy chất A.Q. Mặc dù có những hạn chế như vậy trong tư tưởng, Những kẻ tủi nhục vẫn là một tác phẩm tích cực và có sức cuốn hút mạnh mẽ. Trước hết, cũng như nhiều tác phẩm khác của Dos, tính chất chân thực của cuốn tiểu thuyết rất cao. Dos bao giờ cũng viết bởi một thúc bách nội tâm mãnh liệt, ông không e ngại biểu hiện chính mình lên mặt giấy, mà ngược lại. Vì vậy, có cái đúng và cái sai, cả cái hay và cái dở ở ông đều rất chân thực. Đọc ông, ta bắt gặp một cuộc sống ngồn ngộn, chồng chất, hối hả, lúc ồn ào, lúc sâu lắng... ngỡ như vượt qua cả câu chữ, văn chương. Do đó, văn của ông dù nhiều lúc rườm rà, rắc rối, thậm chí cẩu thả, nhưng vẫn cuốn hút người đọc nhờ cái dòng chảy xiết dào dạt của cuộc sống. Mặt khác, một trong những nét hấp dẫn và làm nên đặc thù của Dos là tài phân tích mổ xẻ tâm lý con người. Có thể nói đây là sở trường đặc biệt và cũng là niềm hứng thú bất tận của Dos. Cũng như ở các tác phẩm khác, Những kẻ tủi nhục có rất nhiều đoạn phân tích tâm lý hết sức sâu sắc, tinh tế, chứng tỏ một khả năng quan sát, suy ngẫm, một vốn sống phong phú, lịch lãm của một tài năng bậc thầy. Hứng thú này làm cho ngòi bút của ông đôi lúc sa đà, thậm chí có chỗ lắp ghép khiên cưỡng. Tuy nhiên, người đọc vẫn rất thú vị vì những nhận xét, mổ xẻ lòng người rất đỗi tinh vi và có sức khái quát cao, giúp cho ta khám phá sâu sắc thế giới nội tâm của chính mình mà nhiều lúc chính ta cũng không hiểu nổi. Từ những bối cảnh, những con người của một thời, tác phẩm của Dos đã vượt qua biên giới của không gian và thời gian để trường tồn cùng nhân loại. Chính vì những lẽ trên, chúng tôi rất vui mừng được chuyển đến các bạn thêm một tác phẩm nữa của Dos để các bạn có dịp tìm hiểu tiếp một nhà văn vĩ đại mà chúng ta hằng yêu mến, kính trọng và luôn khao khát được thưởng thức. Hà Nội ngày 20–11–1986 Anh Ngọc [1] Cách gọi ngắn gọn này của người đọc Việt Nam đối với Dostoevsky thể hiện một tình cảm đặc biệt rất đáng quí. Về tiểu sử của Dos, xin xem thêm ở “Tội ác và hình phạt” (NXB Văn Học - 1982) [2] Nguyên văn tiếng Nga - Униженные и оскорблённые: Những kẻ bị sỉ nhục và lăng mạ. *** Fyodor Mikhailovich Dostoevsky (1821- 1881), sinh ngày 11.11.1821, là nhà văn nổi tiếng người Nga. Cùng với Gogol, L. Toystol, ông được xem là một trong ba văn hào vĩ đại của Nga thế kỉ 19. Dostoevsky sinh tại thành phố Moscow, là con trai thứ hai trong 7 người con của ông Mikhail, một bác sĩ quân y được biệt phái qua phục vụ tại Bệnh Viện Maryinski chuyên chữa trị các người nghèo. Ông Mikhail là một con người cứng rắn, thẳng thắn trong khi bà mẹ lại có bản tính trái ngược, bà ta rất thụ động, tử tế và rộng lượng. Các sự kiện của gia đình quý tộc xa xưa này với cha mẹ có một vùng đất và hơn một trăm nông nô, đã là hình ảnh của các nhân vật với các bản tính thái cực trong các cuốn tiểu thuyết của Dostoevsky sau này. Trong thời gian Fyodor đi học xa nhà, ông Mikhail đã bị giết chết do các nông nô trong vùng nổi loạn và hình ảnh giết người bất ngờ và tàn bạo này luôn luôn ám ảnh Fyodor Dostoevsky khiến cho các tác phẩm của ông thường dùng đề tài là các tội ác. Và vào cuối cuộc đời, cái chết của người cha đã là căn bản cho tác phẩm danh tiếng Anh Em Nhà Karamazov. Fyodor Dostoevsky rất yêu thích văn chương. Vào tuổi 25, Fyodor đã cầm bút, sáng tác ra cuốn tiểu thuyết đầu tiên với tên là Những kẻ bần hàn xuất bản vào năm 1846. Đây là một câu chuyện tình cảm mô tả một cách bóng bẩy các cảnh tàn phá của kiếp nghèo. Cuốn truyện này đã được các nhà phê bình khen ngợi, đặc biệt là Vissarion Belinsky, và nhà văn trẻ tuổi Dostoevsky được gọi là một "Gogol mới", tác phẩm của ông trở nên bán chạy nhất, bởi vì từ xưa tới nay chưa có một nhà văn người Nga nào cứu xét một cách kỹ càng sự phức tạp tâm lý của các cảm xúc bên trong tâm hồn con người. Fyodor Dostoevsky đã dùng tới phương pháp phân tích tâm lý để tìm hiểu các hoạt động rất tinh tế của tâm lý mọi người. Sau tác phẩm Những kẻ bần hàn , Fyodor Dostoevsky sáng tác ra cuốn Con người kép đề cập tới sự phân đôi cá tính và đây là căn bản dùng cho nhân vật Raskolnikov của đại tác phẩm Tội Ác và Trừng Phạt. Qua tác phẩm này, Fyodor Dostoevsky được toàn thế giới công nhận là một trong các Đại Văn Hào của nước Nga, được xem là người sáng lập hay là người báo trước cho chủ nghĩa hiện sinh thế kỷ 20. Tác phẩm tiêu biểu: Chàng Ngốc Những kẻ bần hàn (1846) Con người kép (1846) Đêm trắng (1848) Ghi chép từ Ngôi nhà chết (1862) Những kẻ tủi nhục (1861) Con bạc (1867) Hồi Ký Viết Dưới Hầm (1864) Tội ác và trừng phạt (1866) Gã Khờ (1868) Lũ người quỷ ám (1872) Anh em nhà Karamazov (1880) Là Bóng Hay Là Hình Chàng Thiếu Niên Người Chồng Vĩnh Cửu  Mời các bạn đón đọc Những Kẻ Tủi Nhục của tác giả Fyodor Dostoyevsky.
Những Điều Chúng Ta Làm Vì Yêu - Kristin Hannah
Một câu chuyện tôn vinh sự kỳ diệu của tình mẫu tử Cuộc hôn nhân của Angela DeSaria Malone và chồng tan vỡ sau nhiều năm cố gắng đến mức tuyệt vọng để có được một đứa con và vỡ mộng ước về việc nhận con nuôi. Sau khi ly dị, Angie đã tìm thấy được ở quê nhà West End một người đàn ông đã một lần nữa, mở rộng trái tim đón cô… và Lauren -một cô gái đã khiến cuộc đời cô thay đổi. Angie tìm cờ quen Lauren Ribido - một cô gái 18 tuổi sống trong cảnh nghèo khó, bị một bà mẹ nát rượu bỏ rơi, đang phải vật lộn giữa học tập và mưu sinh, giữa việc làm mẹ đơn thân với việc tiếp tục theo đuổi ước mơ đại học. Angie và Lauren sẽ phải thử thách về việc làm mẹ và con gái như thế nào. Họ cùng nhau bước những bước đi có tính chất quyết định trên một chuyến hành trình đầy cảm xúc tiến tới gần hơn với những gì mang ý nghĩa gia đình. *** NHỮNG LỜI KHEN TẶNG DÀNH CHO KRISTIN HANNAH VÀ CUỐN SÁCH NHỮNG ĐIỀU CHÚNG TA LÀM VÌ YÊU “H annah nắm bắt được niềm vui và nỗi đau trong một gia đình khi cuốn hút người đọc vào cuộc đời các nhân vật của cô và khiến họ cảm thấy như những người bạn thân quen, một lần nữa chứng tỏ cô là ngôi sao trong thể loại văn học hư cấu về người phụ nữ. Booklist “Hannah rất giỏi đi sâu vào tâm lý của các nhân vật chính và khắc họa những sắc thái của cảm xúc.” The Washington Post Book World “Vô cùng thú vị… Hannah có đôi tai nhạy cảm với lời thoại và khả năng thiên phú đưa người đọc xâm nhập vào trong đầu nhân vật.” The Seattle Times “Hannah viết về tình yêu bằng sự cảm thông và lòng tin tưởng.” LUANNE RICE, tác giả cuốn The Secret Hour “Cuốn sách tuyệt vời này là một ví dụ kinh điển cho những câu chuyện vô cùng xúc động đã kích thích tư duy, sở trường của Hannah. Sự ấm áp và đa dạng của các nhân vật đã chạm tới được những cảm xúc sâu kín nhất.” Romantic Times. NHỮNG ĐIỀU CHÚNG TA LÀM VÌ YÊU Những điều chúng ta làm vì yêu là một tác phẩm hư cấu. Tên tuổi, nhân vật, địa điểm và các sự kiện là sản phẩm từ trí tưởng tượng của tác giả. Mọi sự trùng hợp với các sự kiện, địa điểm hay cá nhân nào có thực, còn sống hay đã mất, hoàn toàn là sự trùng hợp. Một lần nữa, thân tặng Benjamin và Tucker Tặng những người bạn tốt: Holly và Gerald, Mark và Monica, Tom và Lori, Megan và Kanty, Steve và Jill Và cuối cùng, xin chuyển lời cảm ơn đặc biệt tới Linda Marrow, bởi những nỗ lực vượt lên trên trách nhiệm thông thường. Mọi thứ không thay đổi; chúng ta thay đổi. - HENRY DAVID THOREAU Mời các bạn đón đọc Những Điều Chúng Ta Làm Vì Yêu của tác giả Kristin Hannah.
Vòm Rừng
Vòm Rừng – tiểu thuyết giành giải thưởng danh giá Pulitzer 2019 của Richard Powers là một câu chuyện phi thường, đáng kinh ngạc, đưa người đọc từ một New York xa xưa, đi khắp Bắc Mỹ, qua bán đảo Đông Dương đến thung lũng Silicon giữa thế kỷ 21, để kể về mối quan hệ gắn kết kì diệu giữa con người và thiên nhiên hùng vĩ.   Từ ký ức ngàn xưa, con người và cây cối đã có những mối liên kết hết sức đặc biệt. Song song với thế giới loài người, có một thế giới vô hình nhưng rất sống động của cây cối đang tồn tại, và chỉ những ai thực sự lắng nghe mới có thể chạm tay vào thế giới ấy. Bắt đầu khi gốc rễ sâu trong lòng đất, đến thân, ngọn và trở lại hạt giống, cây cối như một triết gia ẩn thân, chứa đầy điều kỳ diệu, những bài học mà con người qua bao thế hệ chưa chắc đã hiểu hết được. Nhưng con người đã làm gì với ngôi nhà của tổ tiên? Những cây xanh bị đốn ngã theo nhiều thập kỷ, những thảm xanh lục bát ngát đang dần biến mất. 9 người Mỹ với những trải nghiệm đời sống độc đáo khác nhau, đã có mối gắn kết từ tận sâu bên trong với từng loại cây riêng. Như gia đình Hoels với nhiều đời thế hệ sống cùng cây hạt dẻ, một trong vài cây hiếm hoi trên khắp nước Mỹ chống chọi được bệnh đốm cam, căn bệnh đã khiến hơn bốn tỷ cây hạt dẻ diệt vọng. Hay bi kịch của người cha Mimi Ma, người trồng cây dâu tằm để vinh danh gia tộc sau khi ông trốn thoát khỏi Trung Quốc, cuối cùng đã tử tự khi cây dâu tằm mục ruỗng… Bằng tình yêu với thiên nhiên, cây cối, những con người đó với những cách khác nhau, gắn kết lại cùng nhau trong một sứ mệnh lớn lao, bảo vệ thiên nhiên, chống nạn phá rừng, cứu lấy sự sống còn của cây, trước khi những cây cổ thụ hàng triệu năm cuối cùng ngã xuống. Vòm rừng là “một bản trường ca cuồng nộ, hùng tráng dành cho sự kỳ vĩ của Mẹ Thiên Nhiên” (Dan Cryer), “cuốn tiểu thuyết hay nhất viết về cây cối, và thực sự, là một trong những cuốn tiểu thuyết tuyệt đỉnh nhất” (Ann Patchett). Một cuốn sách sẽ khiến bạn ngỡ ngàng, xúc động, đau nhói, gào thét, tuyệt vọng và cũng hy vọng. Vòm rừng cũng đã lọt vào danh sách chung khảo rút gọn của giải thưởng Man Booker, được bình chọn là một trong những cuốn sách hay nhất năm 2018 của các báo lớn ở Mỹ như New York Times, Washington Post và nhiều báo khác. *** RICHARD POWERS (sinh năm 1957) Là nhà văn người Mỹ và là giáo sư tiếng Anh tại Đại học Stanford. Sự nghiệp viết văn của ông bắt đầu từ năm 1985. Tính đến năm 2018, ông đã có 12 tiểu thuyết với nhiều giải thưởng đặc sắc cho các tác phẩm của mình. VÒM RỪNG là tiểu thuyết thứ 12 của Richard Powers, xuất bản năm 2018. Là tác phẩm đoạt giải Pulitzer 2019 cho tiểu thuyết. Là tác phẩm vào chung kết Giải thưởng Sách PEN/Jean Stein 2019, chung kết Giải thưởng PEN/Faulkner 2019 Là tác phẩm lọt danh sách rút gọn của Giải thưởng Man Booker 2018 Nhận Huy chương William Dean Howells 2020, dành cho cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Mỹ. *** Điều đầu tiên người ta muốn làm sau khi đọc Walden của Henry David Thoreau đó là đi vào rừng và sống. Đó cũng là điều đầu tiên người ta sẽ nghĩ đến sau khi đọc gần 700 trang tiểu thuyết Overstory của Richard Powers (hay Vòm rừng, theo bản dịch tiếng Việt của Hà Uy Linh). Nhưng, một nhà phê bình từng nói: “có lẽ điều lạ nhất, buồn nhất về Walden là, nó là một cuốn sách về cách sống, song lại không nói gì về cách sống với những người khác”. Không có gì hay trong người khác, “người khác là địa ngục” (theo Sartre). Vòm rừng thì không như vậy, nó không né tránh người khác, cũng không tránh được, bởi dù dấn mình vào nơi sâu nhất trong rừng thẳm ta cũng sẽ nhận ra nơi đây đã hằn vết tay người. Và tuy người khác vẫn là địa ngục, nhưng địa ngục, rồi ta thấy, nhốt cả thiên thần. Đồ sộ như bản thân nó đã là một cánh rừng nguyên thủy, cuốn truyện của Richard Powers vươn dài với ngàn ngàn cành nhánh trổ ra từ mầm đất, đâm túa vào nhau, xào xạc. Một kiểu tiểu thuyết với rất nhiều mạch truyện riêng trùng trùng điệp điệp, song song, đan cắt, mở ra, khép lại, nhưng luôn bất tận. Như câu cuối cùng của nó: “Thứ này sẽ không bao giờ kết thúc”. Có tất cả mọi loại người trong đó: một nhà thực vật học dành cả đời mình để nghe cây, một ông chủ tại thung lũng Silicon chưa từng đứng lên khỏi xe lăn từ khi bị một cây sồi hất xuống, một gia đình nhập cư từ Đông Á, những người đã sống cả cuộc đời mình ở làng, một cặp vợ chồng mà thoạt nhiên cây cối không có nghĩa lí gì với họ,... Các nhân vật này, họ đến từ mọi ngả đường trên thế gian, để đều nhận ra rằng mọi ngả đường đều ứa tràn thực vật, và con người chúng ta chỉ đang tranh đoạt một thế giới vốn dĩ không thuộc về mình. Dù sự so sánh này nghe có vẻ trái khoáy, nhưng có lẽ cuốn đại tiểu thuyết của Powers giống như những mụ phù thủy trong vở Macbeth của Shakespeare. Nó tuyên ra những lời sấm với thế hệ này - thế hệ của những Macbeth với quá nhiều kiêu hãnh và tự huyễn, đắc thắng khi tin rằng lời tiên tri “ngươi sẽ chẳng bao giờ chiến bại trừ phi khu rừng Birham đi về phía đồi để chống lại ngươi” đồng nghĩa với sự vô địch, thống trị và bá chủ, bởi rừng làm sao có thể đi?, rừng chỉ vô tri và cam chịu. Ảo tưởng ấy là cái hố ta tự đào lên rồi nhốt mình trong đó. Thật khờ dại khi ta nghĩ mình có thể “phá hủy” hay “bảo vệ” tự nhiên Vòm rừng xoáy tròn như thân gỗ, và ở mỗi thớ truyện, dường như các nhân vật không chủ động “một mình sống trong rừng” hay “vào trong hoang dã”. Ngược lại, tự nhiên luôn sừng sững ở đó, hoang dã luôn tràn trề ở đó, trong công viên, trên đường, trong vườn, trong kịch, trong tranh vẽ, con người mới là kẻ tình cờ lọt vào dòng chảy vĩnh hằng của hành tinh, văn minh chỉ là lớp ngụy trang mỏng có thể bị cào rách bất cứ lúc nào. Thật khờ dại khi ta nghĩ mình có thể “phá hủy” hay “bảo vệ” tự nhiên. Có hai phân cảnh trong cuốn tiểu thuyết này mà tôi nghĩ, phi thường nhất. Một phân cảnh, một gia đình nông dân từ đời cụ kỵ tổ tông đã giao ước sẽ chụp tấm ảnh của cây dẻ trước nhà, mỗi tháng một lần, để rồi sau cả trăm năm, khi những thế hệ cứ lần lượt tan vào thinh không, tập ảnh vẫn cứ còn đó, ngày một dày lên, như một thước phim hằng viễn. Phân cảnh thứ hai, trên tán một cây cổ thụ gỗ đỏ khổng lồ mang tên Mimas, cái cây linh thiêng của rừng già, có hai con người kia, sống trên đó trong hơn một năm trời, và nhận ra dưới vòm xanh ấy, bão tố của trời đất không làm gì được họ. Nỗi khốn khổ lớn nhất của con người là ẩn ức tự ti về kích thước tí hon của mình, luôn phải cố gào lên khua khoắng chứng minh mình có những chiều kích dồi dào hơn thế, phô phang như thể mình vượt trội và chìm đắm trong cảm giác tự tôn giả tạo. Còn ở đây, các nhân vật hạnh phúc vì thấy mình bé nhỏ, từ chối gồng mình để đấu trí và chống lại tự nhiên. Khiến ta nhớ đến Thoreau đã viết: “Đừng gắn trái tim bạn với cái gì nhất thời; vì con sông Dijlah, hay Tigris, sẽ tiếp tục chảy qua Baghdad sau khi nòi giống các vua Hồi đã tuyệt diệt…” Chắc chắn không phải trùng hợp khi người ta trao cho Vòm rừng giải Pulitzer hạng mục văn chương hư cấu vào năm 2019, cái năm mà bỗng nhiên, một cô bé 16 tuổi bỏ học xuất hiện, chỉ thẳng mặt vào những nhà lãnh đạo khả kính mà rằng “Các ông khiến chúng tôi thất vọng” trong bài phát biểu về biến đổi khí hậu tại Liên Hợp Quốc. Có những động cơ chính trị trong cuốn tiểu thuyết, nhưng ngay cả sự chính trị hóa đúng thời điểm cũng không khiến cho nó mất đi vẻ đẹp cừ khôi của văn chương. Đó không phải một thứ tiểu thuyết tuyên truyền thông thường với những nhân vật hai chiều phẳng lì di động như Pavel Korchagin, tiêu biến trong lý tưởng và hoàn toàn triệt tiêu những thăng giáng bí ẩn của một con người. Con đường đến phẩm hạnh không có đường tắt hay đường thẳng, nó là những đường vòng cung đầy khúc ngoặt mà đôi khi, người ta nhận ra những điều tưởng là lẽ phải lại là sự hư trá. Các nhân vật của Richard Powers là những thiên thần, nhưng là những thiên thần mắc đọa, họ phập phồng sự sống, họ chống lại cái ác bên ngoài và chống lại cả cái bất-thiện ở bên trong, mà cái thứ hai mới là cái vô phương chống đỡ. Không phải sự đàn áp phi nhân đã gián đoạn những sứ mệnh lớn lao của họ, sứ mệnh ấy chỉ bị nhiễu loạn bởi đam mê thể xác, bởi tội lỗi không ai dám nhận, bởi ngay cả khi họ biết điều mình làm là vì một cái gì thực sự vĩ đại, họ vẫn không ngừng hổ thẹn vì điều đó. Bởi chúng ta là người nên sau rốt chúng ta chỉ có thể suy nghĩ như một con người, với tất cả giới hạn của trí tuệ và đạo đức. Trớ trêu làm sao, những nhân vật của Richard Powers đã lẳng lặng kết thúc công cuộc bảo vệ rừng sau khi ngộ sát một người cộng sự. Đạo đức của con người quá chật chội so với đạo đức của cây, giống loài luôn luôn hào phóng, cao thượng, không biết đến tội lỗi, không bao giờ tự phụ nhưng cũng không bao giờ mặc cảm, chúng có thể đổ xuống, chết đi, nhưng ngay cả khi chết vẫn sẵn sàng bao dung sự sống của vạn triệu sinh thể khác. Đạo đức của con người quá chật chội so với đạo đức của cây, giống loài luôn luôn hào phóng, cao thượng, không biết đến tội lỗi, không bao giờ tự phụ nhưng cũng không bao giờ mặc cảm, chúng có thể đổ xuống, chết đi, nhưng ngay cả khi chết vẫn sẵn sàng bao dung sự sống của vạn triệu sinh thể khác Trong một tập truyện ngắn của nhà văn Primo Levi chỉ được xuất bản sau khi ông đã qua đời, Vizio di forma and Storie naturali (hay Một ngôi sao tĩnh lặng, theo bản dịch của Nguyễn Huy Hoàng), ông đã nói về sự thất bại của ngôn ngữ con người khi đem ra mô tả những ngôi sao xa xôi nơi đầu kia vũ trụ. Bởi ngôn ngữ chỉ nảy sinh trong đời sống nghèo nàn, tủn mủn, ngô nghê của những sinh vật còi cọc, hữu hạn như ta. Còn những vì sao thì khổng lồ, vĩ đại và vô hạn. Nhưng ngay cả những tính từ như khổng lồ và vĩ đại và vô hạn cũng chỉ khởi phát từ đầu óc u mê và hiểu biết mơ hồ của ta về thế giới. Hay nói cách khác, không ngôn từ gì xứng hợp để mô tả vũ trụ. Và tôi đã nghĩ đến Vòm rừng khi đọc câu chuyện đó. Một tập tiểu thuyết đồ sộ như thế, nhưng sự đồ sộ ấy cũng vẫn chỉ là trẻ con, là trò cười đối với sự đồ sộ của tự nhiên. Sự uyên áo của Richard Powers cũng chỉ là những mảnh sò vất vưởng trên bờ cát của đại dương khôn cùng. Nhưng được bé nhỏ cũng là một niềm hạnh phúc đáng để hàm ơn. Theo Hiền Trang/Tạp chí Tia Sáng *** "Vòm rừng xoáy tròn như thân gỗ, và ở mỗi thớ truyện, dường như các nhân vật không chủ động “một mình sống trong rừng” hay “vào trong hoang dã”. Ngược lại, tự nhiên luôn sừng sững ở đó, hoang dã luôn tràn trề ở đó, trong công viên, trên đường, trong vườn, trong kịch, trong tranh vẽ, con người mới là kẻ tình cờ lọt vào dòng chảy vĩnh hằng của hành tinh, văn minh chỉ là lớp ngụy trang mỏng có thể bị cào rách bất cứ lúc nào. Thật khờ dại khi ta nghĩ mình có thể “phá hủy” hay “bảo vệ” tự nhiên. Có hai phân cảnh trong cuốn tiểu thuyết này mà tôi nghĩ, phi thường nhất. Một phân cảnh, một gia đình nông dân từ đời cụ kỵ tổ tông đã giao ước sẽ chụp tấm ảnh của cây dẻ trước nhà, mỗi tháng một lần, để rồi sau cả trăm năm, khi những thế hệ cứ lần lượt tan vào thinh không, tập ảnh vẫn cứ còn đó, ngày một dày lên, như một thước phim hằng viễn. Phân cảnh thứ hai, trên tán một cây cổ thụ gỗ đỏ khổng lồ mang tên Mimas, cái cây linh thiêng của rừng già, có hai con người kia, sống trên đó trong hơn một năm trời, và nhận ra dưới vòm xanh ấy, bão tố của trời đất không làm gì được họ. Nỗi khốn khổ lớn nhất của con người là ẩn ức tự ti về kích thước tí hon của mình, luôn phải cố gào lên khua khoắng chứng minh mình có những chiều kích dồi dào hơn thế, phô phang như thể mình vượt trội và chìm đắm trong cảm giác tự tôn giả tạo. Còn ở đây, các nhân vật hạnh phúc vì thấy mình bé nhỏ, từ chối gồng mình để đấu trí và chống lại tự nhiên. Khiến ta nhớ đến Thoreau đã viết: “Đừng gắn trái tim bạn với cái gì nhất thời; vì con sông Dijlah, hay Tigris, sẽ tiếp tục chảy qua Baghdad sau khi nòi giống các vua Hồi đã tuyệt diệt…”. (Hiền Trang) Hiền Trang là nhà văn 9X đời đầu mang trong mình ngọn lửa văn chương hừng hực và ở cô có sự mài dũa tri thức chỉn chu trong từng nghiên cứu cho sách của mình, nhà văn từng cho ra cuốn "Tuổi trẻ lạc lối và những cuốn sách của tôi", mà những tựa được nhắc đến trong đó không hề xa lạ với thế hệ 8x, 9x, đọc cuốn sách ấy còn như để "hiểu về chính người cảm nhận tác phẩm, một người trẻ đang đến với văn chương, đắm vào văn chương ra sao". Đối với VÒM RỪNG Hiền Trang cũng lấy làm quan tâm, cá nhân tôi thì đã đón chờ Tác phẩm dịch này từ rất lâu sau khi nhận được tin công bố giải thưởng Pulitzer năm 2019 ở hạng mục tiểu thuyết hư cấu gọi tên "The Overstory và tác giả Richard Power". VÒM RỪNG như là lời cầu ước được đáp lại của tôi về chủ đề: giá trị sống của con người trong mối tương quan với tự nhiên, và thứ hai nhưng không kém phần quan trọng đó là VÒM RỪNG được một tác giả ở thời đại gần với nhận thức của tôi viết ra. Nhà văn Richard Power sinh năm 1957, từng có không dưới 10 tiểu thuyết đã xuất bản trước VÒM RỪNG và đến lượt đứa con tinh thần này ông đã dâng hiến toàn lực trong 5 năm, khi phát biểu với tờ The New York Times, nhà văn đầy nghi ngại mình khó có thể viết tiếp. Thật may cho chúng ta, những người vốn ham thích văn chương và đặc biệt là sự uyên áo cừ khôi của Richard Power, tác giả sẽ tiếp tục đưa người đọc đến với "Bewilderment", là tựa đề cuốn sách tiếp theo của ông, hy vọng chúng ta sẽ được trên tay một ngày không xa.   Mời các bạn đón đọc Vòm Rừng của tác giả Richard Powers & Hà Uy Linh (dịch).
Xanh Một Màu Xanh Khác - Fumio Yamamoto
Một câu chuyện tình yêu không đáng tin, nhưng chắc chắn nó sẽ cuốn hút bạn từ đầu đến cuối! Soko, nhân vật chính, 23 tuổi, phải đối diện với lựa chọn khó khăn: Kết hôn với ai? Một người là Sasaki, làm việc cho một công ty quảng cáo, phóng khoáng, dịu dàng và một người là Kawami, anh chàng đầu bếp chăm chỉ, chung thủy. Và câu chuyện huyền bí đã xảy ra khi có một bản phân thân khác sống cuộc đời mà nhân vật chính từ bỏ. Rồi sau đó họ gặp lại và tráo đổi cuộc sống cho nhau. Những trải nghiệm của cuộc sống khác khiến nhân vật hiểu ra: lựa chọn nào cũng đúng, khi xưa phải có lý do nào đó mình mới quyết định như vậy. Truyện ly kỳ ở chỗ: bản phân thân không muốn trở về vị trí vốn có của mình, cô ta đã có thai với người tình của nhân vật chính và trở thành nhân vật chính. Họ có ý định giết hại lẫn nhau để có thể đường hoàng sống cuộc sống của mình.... Liệu rằng họ có nhận ra đâu mới là ý nghĩa cuộc đời của chính họ? *** Lựa chọn, một sự lựa chọn khác Tôi đã từng nghĩ: Không hiểu có ai đó hiếu kỳ đi tiến hành một cuộc điều tra, thống kê rằng trong cuộc đời của một người bình thường có bao nhiêu thời gian rơi vào trạng thái không vui vẻ chưa nhỉ? Từ trước đến giờ tôi chưa từng thấy loại báo cáo nào như vậy, thế nên đành tự thống kê chính bản thân mình - tôi, sáu mươi phần trăm thời gian, rất không vui, hoặc cực kỳ không vui; ba mươi lăm phần trăm thời gian, rất bình lặng, hoặc có chút chết lặng; năm phần trăm thời gian còn lại tạm coi là vui vẻ. Có lẽ tôi không được coi là một kẻ khác người, vậy thì những sự không vui vẻ ấy rốt cuộc bắt nguồn từ đâu nhỉ? Khi tôi cứ đặt ra giả thiết, rằng giả sử lúc đầu tôi không từ bỏ người ấy, từ bỏ việc theo đuổi chuyện ấy... Có phải giờ tôi đã có thể trở nên vui vẻ hơn hay không? Kiểu vấn đề “lựa chọn” và “một sự lựa chọn khác” này, cho đến cuối cùng tôi vẫn không thể tìm được đáp án. Và tôi cũng phát hiện ra rằng, những người xung quanh tôi hình như cũng có chung một nỗi hoang mang giống như tôi vậy. Sự vui vẻ của tôi được góp nhặt từng chút qua những trang sách về thế giới hư cấu. Mãi cho đến một ngày, khi đọc được cuốn tiểu thuyết Xanh một màu xanh khác của nữ nhà văn Fumio Yamamoto - tác giả của những cuốn sách bán chạy tại Nhật Bản - tôi mới cảm thấy mình đã tìm được đáp án mà bản thân khổ sở tìm kiếm bấy lâu nay: không có sự lựa chọn khác, tất thảy lựa chọn hiện có của bạn đều là lựa chọn đúng đắn. Nó giống như tình cảm của con người, không cần thiết phải có giả thiết, bởi vì dù có đặt giả thiết như thế nào đi chăng nữa, thì giả thiết ấy cũng đều không bao giờ được thực thi. Xanh một màu xanh khác là một cuốn tiểu thuyết viết về tình yêu vô cùng thú vị. Nó kể một câu chuyện tuy không có thật nhưng chắc chắn sẽ cuốn hút bạn từ đầu đến cuối. Soko kết hôn đã sáu năm, luôn phân phòng ngủ riêng với chồng, và có một tình nhân nhỏ tuổi hơn mình. Chồng cô cũng có nhân tình và anh ta thường xuyên qua đêm ở bên ngoài. Dẫu vậy, bởi sự sung túc của cuộc sống hiện tại, Soko vẫn không bao giờ nghĩ đến chuyện ly hôn. Một hôm, trên chuyến du lịch từ nước ngoài trở về, Soko và cậu tình nhân nhỏ tuổi gặp phải cơn bão, máy bay buộc phải hạ cánh khẩn cấp xuống sân bay Fukuoka. Bởi người yêu cũ - một sự lựa chọn khác mà cô từng vứt bỏ trước khi kết hôn - hiện đang sống ở đây, nên cô đã quyết định dừng chân lại đây một đêm. Thật tình cờ, cô gặp lại người yêu cũ, và còn phát hiện ra người phụ nữ bên cạnh anh ta giống hệt bản thân mình, cũng mang tên Soko. Người phụ nữ này chính là “phân thân” của Soko - Soko B. Và rồi, hai người họ nảy sinh ý nghĩ hão huyền, bắt đầu tráo đổi thân phận, thể nghiệm cuộc sống của nhau... Mời các bạn đón đọc Xanh Một Màu Xanh Khác của tác giả Fumio Yamamoto.