Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Khởi Nghĩa - Jules Vallès

Tập III Người Khởi Nghĩa , đỉnh cao của bộ tiểu thuyết, trình bày gần như một thiên ký sự lịch sử, viết từng ngày từng tháng, chủ yếu vẽ lên bức tranh hào hùng của Pari thời kỳ tiền khởi nghĩa và trong những ngày khởi nghĩa, từ 18 tháng Ba cho đến 28 tháng Năm 1871. Tính chân thực, tính lịch sử của tập sách đạt đến mức cao. Bên cạnh hình tượng rất sống của những nhân vật nổi tiếng đương thời có thật, như những tay chủ báo tư sản Giracđanh Vilơmexăng, những chính khách tư sản Juyn Ximông, Juyn Fery, Gămbetta... là một loại chân dung gân guốc, rực rỡ của những người cách mạng, của một số lãnh tụ Công xã Pari mà Juyn Valex vẽ nên bằng những nét bút trân trọng, nồng nàn. Trước hết là chân dung người lãnh tụ cách mạng già Blăngki, “con ma của khởi nghĩa, nhà hùng biện đeo găng đen”, “kẻ kích động những biển người”, “nhà toán học lạnh lùng của nổi loạn và trả thù”, bằng một giọng nói bình tĩnh, buông ra những lời như chém xuống, rạch một đường sáng trong đầu óc người dân ngoại ô, và một vệt đỏ trong da thịt bọn tư sản”. Và đây là một số đại biểu Công xã: Briôxnơ, “một Jêxu lác mắt”, đã từng “bị kết án năm năm vì làm hội kín, được thả ra trước vài tháng vì thổ ra huyết, về Pari không một xu dính túi, phổi không lành được, nhưng linh hồn của Cách mạng đóng chốt vào thể xác”... “mỗi buổi tối sống ba giờ hơn kẻ khác sống một năm - bằng tài hùng biện, mở rộng hiện tại; bằng ước mơ lấn tới tương lai; con người bệnh tật đó ném ra lời lẽ lành mạnh cho một binh đoàn công nhân có đôi vai lực sĩ và lồng ngực bằng sắt, họ hết sức xúc động thấy người vô sản không phổi đó tự giết mình để bênh vực quyền lợi của họ”. Lơfrăngxe, cựu giáo viên, đảng viên xã hội, “với bộ mặt vàng vì tư lự, khoét đôi mắt sâu và hiền”“đôi khi, bắt đầu nói tưởng như giảng bài và cầm thước kẻ trong tay; nhưng tới lúc đi vào ruột vấn đề thì quên mất giọng ông giáo và đột nhiên trở thành một kẻ rèn luyện những tư tưởng bốc khói dưới những nhát búa quai thẳng cánh, nện trúng mà sâu; đó là nhà hùng biện ghê gớm nhất, bởi vì có mức độ, có lý lẽ... và mật đắng đầy gan”. Và đây người ủy viên trung ương Công xã phụ trách Bộ Giáo dục, Ruiê, thân hình to lớn, cường tráng, làm nghề đóng giày và làm cách mạng, viết còn sai chính tả, “nhưng người thợ giày ấy còn thông thuộc khoa lịch sử và khoa kinh tế xã hội hơn tất cả những kẻ có bằng cấp đã giữ Bộ đó trước anh gộp lại”... trong những mảnh giấy vò nhàu và nhọ bẩn của anh có cả một chương trình giáo dục về mặt đúng đắn đánh đổ cả mọi giáo điều của những Viện hàn lâm và những Đại hội đồng”. *** Juyn Valex (Jules Vallès) là một nhà văn lớn mà cũng là một chiến sĩ kiên cường của Công xã Pari. Ông sinh năm 1832 ở thị trấn Puy (xứ Ôvecnhơ) nước Pháp và mất năm 1885 tại Pari. Xuất, thân từ một gia đình công chức, Juyn Valex ngay từ thuở bé đã là nạn nhân của một nền giáo dục gia đình khắc nghiệt cũng như một nền giáo dục nhà trường sai lầm. Cha ông làm giám thị, sau làm giáo sư trung học, tuy cũng thương con, nhưng lại là một người nhút nhát, luôn luôn lo sợ cho chức vụ của mình, do đó mà sinh ra khắc nghiệt với con, thậm chí có lần, để khỏi bị liên lụy, đã cho giam con vào một nhà thương điên sau khi Juyn Valex tham gia vào một vụ chống đối cuộc đảo chính của Napôlêông thứ III. Mẹ Juyn Valex xuất thân từ nông dân nhưng có tư tưởng hãnh tiến, học làm sang, muốn cho con làm nên danh giá, và, vì không được toại nguyện, nên trút cả nỗi cay đắng lên đầu con, roi vọt hành hạ con đến tàn nhẫn. Một mặt khác, cha Juyu Valex muốn cho con trở thành giáo sư, nhưng cậu học sinh Juyn Valex, qua tấm gương của bố, đã chán ngấy cái cảnh nhà trường do bọn phản động công giáo thời Đế chính thứ II lũng đoạn, ở đó các giáo sư vừa quỵ lụy, khúm núm trước hiệu trưởng và cấp trên, lại vừa hành hạ học trò bằng đòn và phạt, ở đó người ta dạy cho thanh niên một kiểu học tầm chương trích cú, nô lệ sách cũ người xưa, xa rời thực tế. Chính cái giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường sai lầm, tàn nhẫn ấy đã tác động mạnh tới cậu bé Juyn Valex đa cảm và sớm biến cậu thành một kẻ bất bình, môt con người nổi loạn. *** Nhưng con người bất bình ấy đã trở nên một chiến sĩ cách mạng kiên cường, thì lại là do hoàn cảnh xã hội nước Pháp lúc bấy giờ. Khi Juyn Valex sinh ra thì phong trào công nhân Pháp bắt đầu lên mạnh với công cuộc công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa bắt đầu ở nước Pháp trong những năm 30 thế kỷ XIX, và nó được đánh dấu bằng những cuộc đấu tranh và khởi nghĩa của công nhân ở Lyông (1831, 1834) và ở Pari (1832, 1834). Song giai cấp công nhân Pháp chỉ có thể trưởng thành sau khi nó đã dứt bỏ được mọi ràng buộc với giai cấp tư sản để lần đầu tiên, đứng lên như một lực lượng chính trị độc lập, trực diện đấu tranh chống giai cấp tư sản vào tháng Sáu năm 1848. Và chính là phải trải qua những ngày tháng Sáu đẫm máu ấy nó mới bước đầu rũ bỏ được ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng, của mọi thứ“chủ nghĩa xã hội tư sản và tiểu tư sản”. Tuy nhiên, những năm liền sau khi cách mạng 1848 thất bại ở châu Âu nói chung, chính là “thời đại - như Lênin đã nói,- mà tinh thần cách mạng của phái dân chủ tư sản đã suy vong rồi (ở châu Âu), trong khi đó thì tinh thần cách mạng của giai cấp vô sản xã hội chủ nghĩa chưa tới lúc già dặn” [1] . Riêng ở nước Pháp, trong thời kỳ đầu của nền Đế chính thứ II tối phản động thiết lập từ tháng Chạp 1852, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân bị lắng xuống cho mãi tới những năm 60 nó mới được phục hồi. Và với sự thành lập Chi nhánh Pháp Quốc tế thứ nhất năm 1866, một thời kỳ bão táp cách mạng mới lại mở ra để đến khi giai cấp tư sản thống trị, dưới nhãn hiệu Chính phủ Quốc phòng, đầu hàng quân xâm lược Phổ (tháng Giêng 1871), thì nó lên tới đỉnh cao với phong trào Công xã Pari thiết lập nền chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới trong bảy mươi hai ngày (18 tháng 3 đến 28 tháng 5 năm 1871). *** Juyn Valex sinh ra và lớn lên trong cái hoàn cảnh lịch sử xã hội như thế đó. Thị trấn quê hương ông ở sát cạnh những trung tâm công nghiệp như Xanh-Êchiên (nơi mà cha ông đã từng tới dạy học một thời kỳ), như Lyông, nên không khỏi nhận được âm vang mạnh mẽ của những làn sóng đấu tranh của giai cấp công nhân. Và chàng trai có chí hướng muốn làm thợ đó đã từng đi đầu trong đám thanh niên cộng hòa khi nổ ra cuộc Cách mạng tháng Hai 1848. Sau đó, khi được gia đình gửi lên Pari theo học, Juyn Vanlex, sống nghèo khổ ở thủ đô, lại đã sớm tiếp xúc với phong trào cách mạng trên mảnh đất chôn nhau của cách mạng. “Tôi đã đi vào lịch sử cuộc Cách mạng. Người ta vừa mở ra trước mặt tôi một quyển sách trong đó có nói về bần cùng và đói khát, trong đó tôi thấy diễu qua những bộ mặt làm tôi nhớ đến cha Jôdép hoặc chú Sađơna, những người thợ mộc với chiếc compa mở rộng ra làm vũ khí và những nông dân cầm chĩa sắt có vấy máu ở đầu răng. Có những phụ nữ đi tấn công Vécxay, vừa đi vừa thét lên là bà Vêlô làm nhân dân đói, và ngọn giáo có xiên ổ bánh mì đen - một lá cờ - đâm thủng các trang sách và chọc vào mắt tôi... ... Lần này thì không còn là tiếng La-tinh nữa. Họ nói: “Chúng tôi đói! Chúng tôi muốn tự do!” Tôi đã ăn thử bánh mì quá cay đắng ở gia đình tôi, tôi đã bị hành hạ quá nhiều ở nhà nên những tiếng kêu đó không thể không làm kinh động trái tim tôi”. [2] Juyn Valex đã kể lại như thế cuộc tiếp xúc đầu tiên của mình với phong trào cách mạng Pari qua một cuốn lịch sử cuộc Cách mạng 1789 và người ta đã đưa ông mượn đọc. Và không lạ rằng Juyn Valex đã từ đó tiến tới đứng dưới lá cờ của Công xã Pari để hợp thành cái mà ông gọi là “Cuộc đại liên minh của những đau khổ”. *** Công xã Pari thất bại; Juyn Valex, sau khi chiến đấu đến phút cuối cùng, đã trốn ra được nước ngoài, ông sang Bỉ, Thụy-sĩ, rồi sang Anh. Ở đấy ông sống nghèo khổ bằng nhuận bút của một số bài báo, trang tiểu thuyết đăng trên vài tờ báo cộng hòa xuất bản ít ỏi ở Pari. Đến năm 1880, khi luật ân xá được ban hành, ông trở về nước Pháp, viết sách viết báo cho tới lúc qua đời. Juyn Valex bắt đầu viết từ khoảng cuối những năm 50, sau khi đã chật vật làm đủ nghề để kiếm sống ở Pari. Ông cộng tác với một số tờ báo như Figarô , Biến cố ; ông giao thiệp với Giracđanh, ông vua báo chỉ đương thời, và Vilơmexăng, chủ nhiệm báo Figarô . Trên tờ Figarô ông giữ mục Thị trường chứng khoán là vấn đề mà ông nghiên cứu trong cuốn sách đầu tay của ông nhan đề Tiền bạc (1857). Nhưng ít lâu sau ông bỏ mục đó để cộng tác với những tờ báo không chịu phục tùng nền Đế chính như Tạp chí châu Âu , Tự do , Báo chí , Thời đại ... và chẳng mấy lúc ông nổi tiếng là một nhà văn luận chiến hăng hái và độc lập, một nhà báo trào phúng và chiến đấu, độc đáo và tài năng. Năm 1865, với tác phẩm Những kẻ không phục tùng (Les Réfractai res) tập hợp một số bài báo, ông nhằm đả kích lối sống nghệ sĩ giang hồ mà nhà văn đương thời Hăngri Muyêcgiê đã ca tụng trong cuốn Cảnh đời sống giang hồ có ảnh hưởng xấu tới thanh niên. Năm 1867 ông sáng lập tờ báo Đường phố , trong đó ông đả kích thẳng tay mọi thiết chế chính trị, văn học, nghệ thuật đương thời, đả kích những kẻ mà ông gọi là “bọn giữ đồ thánh trong văn học, chính trị, và cả trong Cách mạng nữa!” Nhưng ra đến số 34 thì tờ báo bị tịch thu và phá sản. Trong thời kỳ Công xã ông thành lập tờ báo Tiếng kêu của dân chúng nó mau chóng trở thành cơ quan chủ yếu của Công xã, trong đó Juyn Valex khích lộ tinh thần kháng chiến đến mức “kiên cường tuyệt vọng”. Nhưng tác phẩm văn học lớn và chủ yếu của Juyn Valex là bộ tiểu thuyết ba tập Jăc Vanhtrax (Jacques Vingtras) mà hai tập đầu ông đã viết và cho đăng báo ngay từ hồi ông còn lưu vong ở Anh (1878 - 1879). Sau khi trở về Pháp ông đã chữa lại hai tập đó và viết tiếp tập ba mà mãi sau khi ông mất, năm 1886, mới được in thành sách. Jăc Vanhtrax là một tiểu thuyết tự truyện thuật lại chính cuộc đời của tác giả và, với nội dung xã hội - chính trị, nó giúp cho chúng ta hiểu khá sâu xã hội Pháp từ sau cuộc cách mạng 1848, trải qua thời Đế chính thứ II cho đến phong trào Công xã Pari. Cùng với tiểu thuyết Jăc Vanhtrax cũng phải kể đến việc Juyn Valex cho xuất bản lại tờ báo Tiếng kêu của dân chúng từ năm 1883, và ông đã làm cho nó thành tờ báo cách mạng lớn đầu tiên của nước Pháp. Tiếng kêu của dân chúng đã tham gia vào tất cả mọi chiến dịch xã hội chủ nghĩa thời bấy giờ, nó đã kịch liệt phản đối những cuộc chinh phục thuộc địa ở Tuynidi và ở Bắc kỳ (Bắc-bộ Việt Nam), nó đã nhiệt liệt ủng hộ những cuộc đình công của thợ mỏ tại Anzin và Đơcazơvilơ. Và điều đáng kể là Juyn Valex đã biết đặt Juyn Ghexđơ (Jules Guesde), vị lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân Pháp đương thời, vào địa vị cây bút số một trong tờ báo của ông. Chính sự hợp tác của Ghexđơ và những đồng chí của ông này đã khiến cho Tiếng kêu của dân chúng trở thành cơ quan ngôn luận lớn nhất của giai cấp công nhân đã xuất hiện ở Pháp từ trước cho đến thời bấy giờ. Juyn Valex qua đời năm 1885, hai năm sau khi Tiếng kêu của dân chúng lại xuất hiện. Hàng chục vạn nhân dân lao động Pari đã đưa tới nghĩa địa Perơ Lasedơ “người ứng cử viên của bần cùng” [3] “người đại biểu của những kẻ bị xử bắn” ấy. Nhân dân Pari đã biểu lộ lòng tôn trọng chính đáng của mình đối với “con người tâm huyết” ấy, “người bạn chân thành của thợ thuyền, người chiến sĩ vẻ vang của Công xã, nhà văn cách mạng lớn của nước Pháp!” *** Tiểu thuyết Jăc Vanhtrax, với ba tập của nó nhan đề lần lượt: - tập I, Chú bé (L’enfant - 1879), - tập II, Cậu tú (Le bachelier - 1881), - tập III, Người khởi nghĩa (L’insurgê - 1886), Jacques Vingtras là một kiệt tác kỳ lạ của Juyn Valex; nó đã đặt ông vào hàng những nhà văn xuôi lớn của nước Pháp thế kỉ XIX. Một mặt, bộ tiểu thuyết vạch rõ bước đường tất yếu của một người trí thức tiểu tư sản, dưới thời Đế chính thứ II, đi đến với cách mạng. Bước đường của Jăc Vanhtrax chính là bước đường của bản thân Juyn Valex. Có thấy hết mọi nỗi nhục nhã, cay đắng vì nghèo khổ, vì hành hạ, vì bất công, mà chú bé Jăc Vanhtrax, cậu tú Jăc Vanhtrax phải chịu đựng trong gia đình, ở nhà trường và ngoài xã hội, có thấy cả cái không khí đấu tranh chính trị ở Pari, dưới thời Đế chính thứ II, khi ngấm ngầm khi công khai, sôi sục, mới hiểu được tại sao Jăc Vanhtrax đã trở thành một kẻ bất bình, và từ một kẻ bất bình trở thành người khởi nghĩa đứng dưới lá cờ của Công xã Pari. Mặt khác, bộ tiểu thuyết cũng đồng thời vừa là một bức tranh sinh động vừa là mội bản cáo trạng nghiêm khắc cái xã hội Pháp đương thời, dưới nền Đế chính thứ II cực kỳ phản động, dưới sự thống trị của giai cấp tư sản, đầy rẫy những tàn ác, bất công trong quan hệ gia đình, quan hệ học đường, quan hệ xã hội. Tập I, Chú bé, với lời đề tặng cho TẤT CẢ NHỮNG AI đã buồn chán đến chết trong trường học hoặc đã phải khóc trong gia đình, những ai, trong thời thơ ấu, bị thầy giáo hành hạ hoặc bị cha mẹ đánh đập”, chính là đã vạch trần những quan hệ gia đình, quan hệ học đường tàn nhẫn đó. Tập II, Cậu tú với lời đề tặng cho “Những ai bụng nhồi đầy tiếng Hy-lạp, tiếng La-tinh mà chết đói”, vừa mỉa mai cái nền giáo dục nhồi sọ, sách vở, xa rời thực tế, vừa tố cáo “cái xã hội chó má nó làm cho những người có học thức và những người can đảm phải chết đói khi họ không muốn làm đầy tớ cho nó”. Đến như tập III, Người khởi nghĩa, với lời đề tặng “Những liệt sĩ năm 1871, những ai là nạn nhân của bất công xã hội, đã cầm vũ khí chống lại một xã hội tổ chức hỏng và họp thành, dưới lá cờ của Công xã, cuộc đại liên minh của những đau khổ”, thì chính là một thiên ký sự lịch sử độc đáo kể lại bước đấu tranh cách mạng tất yếu của Jăc Vanhtrax, và, nhân đó, vẽ lên cả bức tranh nhân dân lao động Pari sôi sục nổi dậy chống chính quyền tư sản đầu hàng giặc, thiết lập Công xã và chiến đấu suốt trong bẩy mươi hai ngày. *** Tiểu thuyết Jăc Vanhtrax , như vậy, với hình tượng nhân vật chủ yếu của nó là Jăc Vanhtrax, bao trùm cả ba tập, vẽ lên thành một điển hình sắc nét của người chiến sĩ Công xã Pari, là một tác phẩm xuất sắc của dòng văn học hiện thực chủ nghĩa nước Pháp, kế tục trực tiếp những truyền thống hiện thực chủ nghĩa của Xtăngđan, của Banzắc mà Juyn Valex đã từng nói đến trong tác phẩm của ông. Tính cách của Jăc Vanhtrax được hình thành và phát triển trong những hoàn cảnh gia đình và xã hội nhất định, đó là điều mà tác giả có ý thức đầy đủ và muốn chứng minh rõ ràng. Song, giá trị hiện thực của bộ tiểu thuyết tăng lên qua ba tập sách với trình độ khái quát hóa càng ngày càng cao thêm. Tập I chủ yếu trình bày cái khung cảnh gia đình và nhà trường tỉnh nhỏ trong đó chú bé Jăc Vanhtrax lớn lên. Trước hết hình tượng bố và mẹ Jăc Vanhtrax cũng đạt tới những nhân vật điển hình sinh động: ông bố tiêu biểu cho một lớp giáo viên không phải thiếu học vấn, thiếu tư tưởng và tinh cảm, nhưng vì nhút nhát, một mặt luôn luôn lo sợ mất chức vụ, mặt khác lại bị bà vợ đành hanh khống chế, nên hóa ra một con người tầm thường, hèn với cấp trên, ác với con; bà mẹ đại diện cho hạng tiểu tư sản xuất thân từ nông dân, với đầu óc hẹp hòi mà hãnh tiến” - muốn đua đòi, bay nhẩy, học làm sang, thậm chí vì không được toại nguyện mà đâm cay nghiệt, tàn ác với con. Bên cạnh hai nhân vật đó tập truyện còn đạt ở một loạt hình tượng chân dung những giáo sư, hiệu trưởng trường trung học, như Tuyếcfanh kiêu căng, hợm hĩnh, khinh người nghèo, hành hạ học trò có học bổng, như Lacbô tâm ngẩm, giảo quyệt, - cóc cần học trò và chỉ dịu dàng với đám con nhà quyền thế, hay như Bécgunha đạo mạo, lạnh lùng, lên mặt triết gia mà độc ác với con như quỷ sứ, thậm chí đã giết con bằng roi vọt tàn bạo, tất cả đều nói lên một chế độ nhà trường ghê tởm, thối tha. Rõ ràng, với những tính cách nhân vật và bức tranh xã hội đạt tới tính chân thực, tính lịch sử và tính khái quát cao, tiểu thuyết Jăc Vanhtrax đã kế tục và phát huy vẻ vang những truyền thống hiện thực chủ nghĩa của Xtăngđan và Banzắc ở nửa sau thế kỷ XIX khi mà chủ nghĩa hiện thực phê phán cổ điển đã bắt đầu xuống dốc với Guyxtavơ Flôbe để mở ra thời kỳ của chủ nghĩa tự nhiên và tiếp theo nó là hàng loạt những trường phái suy đồi đủ loại. Hơn thế nữa, mặc dầu Juyn Valex không vẽ lên một bức tranh xã hội thật rộng lớn, đồ sộ và không đả kích mạnh vào cái mặt cơ cấu của xã hội tư sản là quan hệ tiền bạc như Xtăngđan hay Banzắc, nhưng ông lại vượt hẳn các nhà hiện thực phê phán cổ điển này ở chỗ ông đã mường tượng thấy và đề cập tới người chủ tương lai của xã hội sẽ thay thế cho giai cấp tư sản, đó là giai cấp công nhân. Với ông lần đầu tiên trong văn học Pháp xuất hiện hình ảnh người công nhân, hình ảnh quần chúng nhân dân như những nhân vật anh hùng phần nào với cái tư thế của những người làm nên lịch sử, và ít ra thì cũng đã có lúc họ làm nghiêng ngửa cả uy thế của những tay chính khách tư sản sừng sỏ trong bộ máy thống trị như Juyn Fery, Gămbetta... Và, mặc dầu bộ tiểu thuyết kết thúc bằng sự thất bại của Công xã Pari, người ta không thấy bóng dáng của bi quan thất vọng, trái lại hình ảnh cuối cùng vẫn là hình ảnh của chiến đấu trong tương lai: ... Tôi vừa vượt qua một dòng suối làm biên giới. Chúng nó không bắt được tôi nữa! Và tôi sẽ còn có thế đứng với nhân dân, nếu nhân dân lại bị ném ra ngoài phố và dồn tới chỗ phải chiến đấu. Tôi nhìn trời về phía tôi cảm thấy có Pari. Trời một màu xanh tươi rói, với những đám mây đỏ. Tưởng như một chiếc áo bludơ lớn đẫm máu”. Chính ở những điểm trên đây, tiểu thuyết Jăc Vanhtrax của Juyn Valex, cùng với toàn bộ nền văn học Công xã Pari, đã hé mở ra một bước phát triển mới của văn học hiện thực chủ nghĩa sau này, đó là bước đường đi tới chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta ngày nay. Tháng Năm 1972 TRỌNG ĐỨC Mời các bạn đón đọc Người Khởi Nghĩa của tác giả Jules Vallès.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tấm Ảnh Tình Yêu Và Một Câu Chuyện Khác - Ichikawa Takuji
"Về tình yêu thì tôi có kinh nghiệm đầy mình. Dĩ nhiên phải chú thích là tình yêu đơn phương thôi...   Không phải chỉ những mối tình đơm hoa kết trái mới có ý nghĩa. Tình đơn phương tự bản thân đã là một phần ngoại truyện hoàn mỹ trong cuộc đời." -  Tấm ảnh tình yêu và những câu chuyện khác *** Takuji Ichikawa sinh ngày mùng 7 tháng Mười năm 1962 tại Tokyo. Ông tốt nghiệp trường đại học Dokkyo. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, Separation, xuất bản năm 2002. Cuốn Em sẽ đến cùng cơn mưa (xuất bản tại Nhật với tên Ima Ainiyukimasu) in lần đầu năm 2003, là một trong những tiểu thuyết thành công nhất Nhật Bản, được chuyển thể thành truyện tranh, kịch, phim truyền hình ở Nhật và điện ảnh tại Mỹ. Một số tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt nam: Nơi em quay về có tôi đứng đợi Tôi vẫn nghe tiếng em thầm gọi Nếu gặp người ấy cho tôi gửi lời chào Em sẽ đến cùng cơn mưa Bàn tay cho em Tấm ảnh tình yêu và một câu chuyện khác ... Ichikawa Takuji là một trong những tác gia người Nhật thành công hiện nay, lối viết của ông đặc biệt tạo dấu ấn riêng nhờ tìm được hướng khai thác mới cho những đề tài quen thuộc. Sách của Ichikawa Takuji thiên về tình cảm nhẹ nhàng, nhưng thấm thía và bền vững, thường để lại nhớ thương lâu dài trong lòng người đọc. Độc giả Việt Nam biết đế cái tên Ichikawa Takuji qua hai cuốn tiểu thyết Em sẽ đến cùng cơn mưa và Nếu gặp người ấy cho tôi gửi lời chào. Vẫn giọng văn nhẹ nhàng pha chút hài hước, như thể một cậu bé mới lớn đang thủ thỉ kể chuyện, Ichikawa Takuji một lần nữa khắc họa bức tranh tình yêu và sự chia ly bằng những gam màu trong sáng và thuần khiết. Những tác phẩm của ông khiến tâm hồn người đọc trở nên tươi sáng hơn.   Mời các bạn đón đọc Tấm Ảnh Tình Yêu Và Một Câu Chuyện Khác của tác giả Ichikawa Takuji.
Tiếu Lâm Việt Nam - Cử Tạ
Truyện cười (còn gọi là truyện tiếu lâm) là một lĩnh vực truyện kể dân gian rộng lớn, đa dạng, phức tạp bao gồm những hình thức được gọi bằng những danh từ khác nhau như truyện tiếu lâm, truyện khôi hài, truyện trào phúng, truyện trạng, giai thoại hài hước... Tiếng cười trong sinh học mang tính bản năng, vô thức phát ra do phản ứng của cơ thể một cách đơn thuần. Trong khi, tiếng cười tâm lý xã hội biểu thị thái độ, bộc lộ tư tưởng, tình cảm con người. Tiếng cười tâm lý xã hội có hai loại nhỏ: tiếng cười tán thưởng và tiếng cười phê phán. Tiếu Lâm Việt Nam gồm có: 1. CHẾT VÌ CƯỜI 2. LÀNG SỢ VỢ 3. GIỐNG GIAN TỰU VỊ 4. CUA CẮP 5. GIÁ GẶP TAY TAO 6. PHẢI LÀM THEO 7. THÈM QUÁ 8. CHỒNG NÀO VỢ NẤY 9. TRA CÁN 10. ĂN MẤT RỒI 11. HÂN HẠNH 12. MỒ HÔI MỰC 13. CHỮ ĐIỀN 14. NGHE SAO LÀM VẬY 15. TÀI NÓI LÁO 16. ĐỒ PHẢN CHỦ 17. MÈO HOÀN MÈO 18. VỎ QUÝT DẦY MÓNG TAY NHỌN 19. TIỀN « ĐỒNG-MÔN » 20. QUÝT LÀM CAM CHỊU 21. TƯỚNG CÔNG KỴ BÀ LÃO 22. THIÊN SINH TỰ NHIÊN 23. CẮM CỔ XUỐNG, THÒ ĐẦU RA 24. TAM ĐẠI CON GÀ 25. CHẾT CÒN HƠN 26. CHẾT VẪN LƯỜI 27. CÂY BẤT 28. CÁ RÔ LÁCH NGƯỢC 29. THÀY ĐỒ ĂN VỤNG CHÈ 30. ĐƯỢC CẢ ĐƠN LẪN KÉP 31. ĐÊM KHUYA GÀ GÁY 32. NƯỚC MẮM HÂM 33. HÁN-VƯƠNG ĂN ỚT 34. THUA GÌ ĐƯỜNG HÁN 33. TỘI HÒA THƯỢNG 36. BUÔN VỊT TRỜI 37. HỌC GÌ NỮA 38. SỢ MA 39. GÌ CŨNG ĐƯỢC 40. TRỪ CHỒN 41. GỚM QUÁ 42. NHANH NHẢU ĐOẢNG 43. HẬU UYỂN 44. TRÊN DƯỚI 45. VỊT HAI CHÂN 46. PHÁT ĐIÊN 47. NGŨ PHÚC LÂM MÔN 48. TRỜI SINH THẾ 49. ẤY ĐI XEM 50. THƠ QUAN VÕ 51. ĐƯỜNG LÊN TRỜI 52. NGỦ VỚI AI 53. KIÊNG CỮ 54. THƠ CON CÓC 55. TÔI ĐÁNH CON CHA 56. MUA PHÂN 57. CÂY CỘT MỐI 58. THEO SAO KỊP 59. ĐÊM KHUYA GIÓ LẶNG… 60. TÔI LÀ AI ? 61. CAN CAN ĐAO THỔ… 62. NHƯ MẶT VUA 63. RỂ QUÍ 64. CÁI GÌ CỨNG NHẤT 65. RẮN VUÔNG 66. VỠ VÒ RƯỢU 67. BẮT VỀ CHO TRẺ CHƠI 68. XỎ GẶP XỎ 69. TUẦN TỰ 70. LẨY KIỀU 71. PHÊ ĐƠN 72. KHÔNG CƯỜI, CÓ ÔNG THÁNH !… 73. HỌC ĐI CÀY 74. CHỈ LIẾM THÔI 75. MUỐN CHẾT THÌ ĐÂY 76. HẾT HÁCH !!! 77. VÔ-ĐỊCH 78. ĐỂ ĐO ĐÃ 79. LÁI MỘT CHÚT 80. QUÁ CẨN THẬN 81. MỖI THỨ MỘT NỬA 82. CAN ĐẢM CHƯA ? 83. MÊ NGỦ 84. TRẮC NGHIỆM 85. LẮM THẦY NHIỀU MA 86. ĐỂ VÀO DĨA 87. NGÓN SỞ TRƯỜNG 88. THỰC TẾ 89. GÓP PHẦN 90. CẤP BỰC 91. CẢ ĐỜI NGƯỜI 92. GIỎI LẮM 93. BÍ MẬT NHÀ NGHỀ 94. ÁI TÌNH CAO THƯỢNG Mời các bạn đón đọc Tiếu Lâm Việt Nam của tác giả Cử Tạ​​​​​​​.
Chết Chịu
Thật không dễ bắt đầu với Chết chịu khi thực và mơ đan xen lẫn lộn, khi vô số dấu ba chấm xuất hiện liên tiếp giữa các câu ngắn, gây cảm giác cực kỳ khó chịu. Nhưng một khi đã vượt qua nỗi khó ở ấy thì ta không còn muốn ngừng lại chuyến đi cùng Ferdinand tới khắp các xó xỉnh tối tăm của Paris và Luân Đôn trong tuổi thơ của mình. Ngay từ tác phẩm đầu tiên, Céline nghiễm nhiên đứng vào hàng ngũ những nhà canh tân lớn của văn chương Pháp thế kỷ XX khi đưa ngôn ngữ bình dân vào văn chương đồng thời phá vỡ mọi quy tắc cú pháp truyền thống. Đọc Céline cũng như đang thưởng thức một tách trà nóng bỏng rẫy, ta hãy nhấp từng ngụm để cảm, để thẩm và để thấu… một câu chuyện không đầu không cuối… một bước sa bùn lầy và bạo lực… một tiếng kêu hận thù và tuyệt vọng… một Paris đầu thế kỷ XX đầy biến động trước những tiến bộ khoa học… và một cái chết rất đỗi từ từ của những người buôn bán nhỏ buộc phải thu mình để tồn tại. *** Chết chịu và Hành trình đến tận cùng đêm tối có nhiều điểm chung mà phần lớn độc giả coi Chết chịu là phần tiếp theo của Hành trình. Nếu Hành trình mở đầu bằng việc nhập ngũ tham gia Thế chiến thứ nhất của Ferdinand Bardamu, lần theo nhân vật chính qua những cuộc phiêu lưu ở châu Phi, Mỹ, cuối cùng là cuộc hồi hương về làm bác sĩ ở Paris, thì Chết chịu gần như tiếp nối câu chuyện với nhân vật Ferdinand giờ đây cũng là bác sĩ ở những khu ổ chuột của kinh đô ánh sáng, là cựu quân nhân có vết thương ở đầu sau khi tham gia Thế chiến khiến anh lúc nào cũng gặp hoang tưởng. Tuy nhiên sau đoạn mở đầu giới thiệu nhân vật chính, với rất nhiều nhảy cóc về thời gian đi phiêu lưu về các miền ký ức khác nhau, Chết chịu sau đó phần lớn tập trung vào tuổi ấu thơ của nhân vật Ferdinand ở Paris vào cái thời được gọi là Belle Époque - Thời kỳ tươi đẹp. Căn cứ vào những yếu tố tự thuật đậm đặc, độc giả rất dễ nhận thấy vị bác sĩ Louis Ferdinand Auguste Destouches (tên thật của Céline) đã rút tỉa từ cuộc sống thực của chính mình để đổ ụp vào văn chương. Trong khi đó, Ferdinand của Chết chịu là một nhà văn với rất nhiều tiểu thuyết được xuất bản, thậm chí một nhân vật trong truyện còn đọc cả tác phẩm Hành trình. Vì thế, rốt cuộc có thể nói, Ferdinand là phân thân của tác giả, lần lượt xuất hiện làm nhân vật trong hai tác phẩm nổi tiếng nhất của ông.   Bởi thế mà dịch giả Ralph Manheim lừng danh, người đã chuyển ngữ Chết chịu sang tiếng Anh, coi nó chỉ là tiểu thuyết trên danh nghĩa, đúng hơn phải gọi nó là “những tự thú được sáng tạo”. Céline đã lấy nhiều chi tiết trong ấu thơ của mình đưa thẳng vào tiểu thuyết: một gia đình nghèo đói nợ nần luôn ngấp nghé bờ vực phá sản với một bà mẹ buôn bán đồ đăng ten trong một cửa hàng nhỏ ở một ngõ nhỏ Paris, với ông bố làm cho công ty bán bảo hiểm. Từ những dữ liệu tự thuật ấy, Céline, bằng bàn tay của một phù thủy ngôn ngữ, đã dựng nên một thế giới tuổi thơ dữ dội đầy bạo lực, ở cái ngõ Bérésinas những năm đầu thế kỷ 20, “chốn tù đọng hôi thối không thể tưởng tượng nổi. Đây là nơi được tạo ra cho người ta chết từ từ nhưng chắc chắn, giữa cứt đái của người và của chó, những bãi khạc nhổ và khí gas rò”. Hơn 600 trang sách khổ lớn không phân chia chương hồi, nhưng theo các nhà phê bình, Chết chịu có thể được phân thành 8 phần nhỏ: Phần mở đầu giới thiệu Ferdinand của hiện tại, một bác sĩ kiêm văn sĩ, chuyên khám bệnh không công cho người nghèo, khinh bỉ họ cùng cực, gần như điên loạn vì liên tục nghe thấy đủ loại tạp âm trong đầu. Phần về cuộc sống của Ferdinand lúc còn nhỏ cho đến khi tốt nghiệp tiểu học, quãng 1905, lúc cậu bé tầm 11 tuổi, thường xuyên bị rủa xả và đánh đập trong một gia đình luôn phải chạy đôn chạy đáo kiếm miếng ăn độ nhật. Giai đoạn vào đời với việc chạy chọt kiếm việc, mà phần lớn là chạy việc vặt không công ở cửa hiệu bán ruy băng trang trí và cửa hiệu nạm kim hoàn rồi nhanh chóng bị sa thải. Sang Anh học nội trú ở Trường Meanwell College hơn nửa năm, rồi trường đóng cửa. Quay lại Paris nỗ lực săn việc nhưng lông bông là chính, mâu thuẫn và đánh nhau với bố. Tìm được việc làm trợ lý cho nhà sáng chế Courtial des Pereires ở tòa báo Génitron cho đến khi tòa báo đóng cửa. Đi về vùng ngoại ô Paris cùng nhà sáng chế và vợ của ông. Tham gia dự án ứng dụng khoa học vào nông nghiệp và thất bại thảm hại. Cuối cùng, quay trở lại Paris một mình, tuyệt vọng và quyết định nhập ngũ, vào khoảng năm 1911. Vào cái thời kỳ được coi là đỉnh cao của văn chương, nghệ thuật, khoa học và kỹ thuật ấy ở châu Âu, cuộc sống của Ferdinand hiện lên đầy những túng bấn, bạo lực, tệ nạn, cùng quẫn với những chiếc hoa tai và đồng hồ thường xuyên đi ra tiệm cầm đồ, những bữa ăn lúc có lúc không, những phi vụ buôn bán thường xuyên thất bại của người mẹ tàn tật khi các ngành tiểu thương rơi vào chỗ lụn bại vì lỗi thời, với ông bố chật vật với tiến bộ thời đại, cụ thể ở đây là máy đánh chữ, với ông - nhà sáng chế tin vào khí cầu để rồi sự ra đời của máy bay là chấm dứt cho sự nghiệp của ông. Tất cả đều bị tiến bộ thời đại đè bẹp và đào thải, đẩy một tầng lớp người bị kẹt lại trong kiệt quệ.   Những tưởng câu chuyện như vậy thì văn chương của Céline sẽ nằm gọn đẹp trong trường phái hiện thực tố cáo xã hội (ông là nhà văn yêu thích của phe cánh tả). Nhưng không. Với quan niệm “Tôi không phải là con người của thông điệp, tôi không phải là con người của ý tưởng, tôi là con người của phong cách”, Céline đã đẩy Chết chịu lên đỉnh cao bằng phong cách viết độc nhất vô nhị, một lối viết hiện đại hóa cả nền văn học Pháp. Với ông, “Khởi đầu là cảm xúc, nơi động từ hoàn toàn vắng mặt”, ông viết để chuyển tải cảm xúc, chứ không phải hiện thực. Và đó là thứ cảm xúc quẫn bách, tuyệt vọng, hoảng loạn không lối thoát, một sự hư vô và chán ghét đời sống đến cùng cực. Vào thời kỳ hoàng kim ở Paris, trong những ngõ nhỏ đó, những số phận trả góp cuộc đời mình để nhận phần thưởng cuối cùng là cái chết. Céline viết bằng một thứ sinh ngữ quẫy đạp, gồm những từ ngữ thô kệch sống sít của đường phố, từ lóng của đủ mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt là lớp người dưới đáy, những câu chửi thề, những từ vựng mô tả các hoạt động tính giao... Ông sáng chế một loạt từ vựng mới mà ông tự hào coi là cách mạng trong văn chương. Đặt mình sánh ngang các họa sĩ của chủ nghĩa Ấn tượng hay các nhạc sĩ vĩ đại, những người tạo ra khác biệt lớn bằng việc khuấy đảo màu sắc và âm thanh, Céline xáo đổi trật tự ngôn từ, lén đẩy ngôn ngữ nói vào ngôn ngữ viết. Viết là để cho ngôn ngữ sống, bởi ngôn ngữ chết rất nhanh, và bởi thế, ông ban sự sống cho ngôn ngữ bằng cách cho nó sống khi ông sử dụng nó. Con người của phong cách ấy còn thể hiện mình rõ qua những biện pháp lộng ngôn đến kệch cỡm, biến Chết chịu thành tiểu thuyết bợm nghịch đầy chất uy mua (humour), sánh vai cùng bậc thầy François Rabelais, thậm chí ông còn được coi là người mở đầu cho thể loại hài hước đen (humour noir trong tiếng Pháp). Ranh giới giữa hiện thực và hoang tưởng trong tác phẩm luôn bị làm mờ. Biện pháp lộng ngôn còn được hỗ trợ nhờ các mô típ lặp đi lặp lại về bạo lực mà Ferdinand phải chịu đựng trong gia đình. Các nghịch cảnh bi đát trong Chết chịu (lẫn Hành trình), vì thế, đều được ông viết bằng một thứ văn chương hài hước đến lố bịch. ----------------------------------------------- Điểm đặc biệt nhất về phong cách văn chương của Chết chịu có lẽ nằm ở dấu ba chấm. Đã xuất hiện tương đối nhiều ở tiểu thuyết đầu tay, nhưng đến Chết chịu thì dấu ba chấm mới thực sự trở thành một hình thức cách tân táo bạo. Céline coi dấu ba chấm là tối cần thiết, ông đổ vào tiểu thuyết hơn hai mươi nghìn dấu ba chấm. Tác dụng của nó thì vô cùng: để mô phỏng sự trôi chảy liên tục của ngôn ngữ nói và của ý nghĩ, để tạo nên sự gián đoạn, nhưng đồng thời lại thúc đẩy mạch văn, những dấu ba chấm kích thích độc giả theo đuổi mạch văn như một dòng ý thức, thu hút trọn sự chú ý của người đọc. *** Về #Céline – tác giả #CHẾT_CHỊU - Céline hay Louis-Ferdinand Céline là bút danh của Louis Ferdinand Auguste Destouches (1894-1961). - Céline vốn học ngành y và từng hành nghề bác sĩ trong một thời gian. - Céline là nhà văn Pháp có tác phẩm được dịch và phát hành nhiều nhất thế giới trong thế kỷ 20, chỉ sau Marcel Proust – tác giả bộ sách ĐI TÌM THỜI GIAN ĐÃ MẤT. - Năm 1939, Céline và nhà xuất bản Denoël bị kết tội vu khống, sau khi xuất bản tác phẩm có tên là l'École des cadavres (Tạm dịch: Trường học xác người). Ở đó, có ba trên bốn bài văn đả kích được Céline viết mang đậm tư tưởng bài Do Thái. Công khai các ý tưởng cực hữu, những bài viết này là một chuỗi đả kích nhằm chống lại một thế giới nơi người Do Thái điều hành và khai thác. Ông tỏ rõ thái độ đồng minh với Đức quốc xã và tự coi mình là người cộng tác với phe Quốc xã. Tiểu thuyết đầu tay Hành trình đến tận cùng đêm tối (Voyage au bout de la nuit, 1932/Journey to the End of the Night) ngay lập tức đưa ông lên vị trí ngôi sao trong văn đàn, đến nay vẫn được đánh giá là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của thế kỷ 20.   Ấy vậy mà kỷ niệm 50 năm ngày mất của ông, năm 2011, người ta tuyên bố tên ông không nằm trong danh sách 500 Biểu tượng văn hóa Pháp. Trong câu cửa miệng của người Pháp, ông được gọi là “một thiên tài và một thằng vô lại”. Ông ủng hộ chủ nghĩa phát xít nhiệt thành và là người bài Do Thái triệt để. Nhưng cũng chính ông, trong bữa ăn tối ở Đại sứ quán Đức tại Paris vào tháng 2-1944, đã khăng khăng khẳng định trước mọi quan khách rằng Hitler thật thực ra đã chết và lãnh tụ của Đức quốc xã hiện nay là một Hitler giả do một người Do Thái đóng thế. Mời các bạn đón đọc Chết Chịu của tác giả Louis Ferdinand Céline.  
Cô Nàng Cửa Hàng Tiện Ích
“Sáng ra tôi lại là một nhân viên bán hàng, một bánh răng trong vòng quay của thế giới. Chỉ điều này mới biến tôi thành một con người bình thường.” Furukura Keiko bị coi là một phụ nữ lập dị, vì ở tuổi 36 cô độc thân và làm một công việc khá đáng ngại, nhân viên part time của cửa hàng tiện ích Smile Mart trong suốt 18 năm trời. Cô luôn phải vật lộn từ nhỏ để đóng vai một người bình thường. Keiko thấy bình yên khi ở cửa hàng tiện ích, nơi cô được công nhận, nơi mọi quy tắc đều rõ ràng. Cho đến một ngày, người đàn ông kỳ quặc tên Shiraha xuất hiện, và sự va chạm giữa hai con người khác thường như một tia sét nổ do va chạm điện cực, đẩy Keiko khỏi quỹ đạo quen thuộc, buộc cô nhìn thẳng vào những áp lực cô luôn lẩn tránh… “Khác với các cô gái trẻ trung phấn khởi của Banana Yoshimoto, Keiko gần như bước ra từ một cuốn sách Kafka, chân thành tuyệt đối trong những hoàn cảnh hết sức nghịch dị...”      - Japan Times “Một bản khảo sát khôi hài, tăm tối, gây chấn động sâu sắc về đời sống đương đại, về sự xa lánh, về chủ nghĩa tư bản, ý thức cá nhân, và sự quy hàng các ước lệ xã hội. Dù ở Nhật Bản hay đâu khác, chúng ta đều đã từng đặt chân vào cửa hàng này.”      - Viet Thanh Nguyen, tác giả cuốn The Sympathizer thắng giải Pulitzer Prize *** Một cuốn tiểu thuyết kỳ lạ, về một người phụ nữ hư cấu hết sức kỳ quặc, của một tác giả được xem là một trong những nhà văn thú vị nhất trong nền văn học đương đại Nhật Bản. “Cô nàng cửa hàng tiện ích” (tựa gốc “Konbini Ningen”, tựa tiếng Anh “Convenient Store Woman”) là cuốn tiểu thuyết thứ 10 của Murata Sayaka, ra mắt năm 2016, sách đã giúp cô đạt giải Akutagawa – một giải thưởng văn học danh giá trao cho các tác giả trẻ có những tác phẩm mang giá trị văn học cao. Trong cùng năm, sách cũng mang lại danh hiệu “Người phụ nữ của năm” do tạp chí Vogue bình chọn cho nữ văn sĩ người Nhật này, khiến tên tuổi của Murata Sayaka trở thành cơn sốt tìm kiếm trên mạng xã hội. Như tựa đề, cuốn sách là một câu chuyện lạ kỳ xoay quanh một người tên là Furukura Keiko… Một người phụ nữ 36 tuổi khiếm khuyết về logic trước cuộc đời, không biết gì về các mối quan hệ lãng mạn, đã làm nhân viên bán thời gian ở cửa hàng tiện ích 18 năm và không có dấu hiệu thay đổi – Đó là lý do Keiko bị phán xét khi trưởng thành. Thế nhưng kể từ lúc nghỉ việc để kết hôn và tìm một công việc mới, Keiko hoàn toàn mất phương hướng trong cuộc sống. 18 năm, cô ăn ngủ nghỉ và giữ sức khỏe vì cửa hàng. Nghỉ việc rồi, cô không hiểu mình tiếp thu năng lượng để làm gì nữa. Nhắm mắt lại, âm thanh cửa hàng lại văng vẳng bên tai. Tìm việc khác, cô thực sự hiểu rõ bản thân không giỏi bất kỳ lĩnh vực nào, ngoại trừ là nhân viên cửa hàng tiện ích. Có lẽ nào trên đời lại tồn tại một người phụ nữ dị biệt đến thế Keiko sinh ra dưới hình hài là một con người, nhưng mọi suy nghĩ lại hoàn toàn khác biệt với tiêu chuẩn “bình thường” của con người. Tác giả đã tạo nên một “Ningen” mang tên Furukura Keiko – không có toàn thân màu trắng hay chiều cao gần 30m, nhưng nội tâm là một động vật máu lạnh, tư duy logic khác biệt, không yêu thương, không giận dữ, không cảm xúc. Keiko không biết yêu thương. Hồi còn học mẫu giáo, khi thấy một chú chim nhỏ chết ở công viên, thay vì khóc thương và chôn chú chim đó như những đứa trẻ khác, thì Keiko lại đề nghị với mẹ rằng ăn con chim đó đi. Dù mẹ cô bé khuyên con phải biết tội nghiệp, phải buồn khi chú chim, cũng là một “người bạn” chết đi, nhưng Keiko vẫn không thể lý giải được: “Ai cũng nói con chim đáng thương rồi khóc lóc nhưng lại quay sang giết những bông hoa quanh đó. Cái cảnh tượng mọi người nói ‘Hoa đẹp quá! Chắc con chim nhỏ thích lắm đây!’ trông thật điên rồ.” Lúc mới lên tiểu học, Keiko đã ngăn một vụ ẩu đả bằng cách “nhanh nhất” là lấy một chiếc xẻng dụng cụ làm vườn phang thẳng vào đầu thằng bé đang gây gổ. Nhận thấy hiệu quả ngay tức thì – thằng con trai đó ôm đầu ngã lăn đùng rồi nằm im bất động – Keiko lại giơ cái xẻng lên định ngăn nốt thằng kia. Sau thảm cảnh, dù thầy giáo đã bảo rằng không được dùng vũ lực, nhưng Keiko vẫn không thể hiểu. Cô bé lễ phép giải thích cho vị thầy giáo đang nổi-cáu-một-cách-vô-lý: “Nhưng các bạn bảo ngăn lại cơ mà. Em thấy làm như thế thì bạn Yamazaki và bạn Aoki sẽ dừng ngay thôi ạ.” Đến khi mẹ Keiko cúi gập người xin lỗi trước buổi họp hội đồng, Keiko mới nghĩ có vẻ việc mình làm là sai, nhưng vẫn không thể hiểu vì sao lại sai. Một lần khác, khi thấy cô giáo nổi cáu mất kiểm soát, vừa đập sổ điểm danh vừa gào thét, còn bọn học sinh trong lớp thì bắt đầu khóc lóc… Keiko lập tức chạy tới gần cô, thật nhanh tụt cả váy lẫn quần lót để mong cô ngừng gào thét. Cô giáo bật khóc rồi im lặng. Keiko giải thích rằng, cô bé xem trên tivi thấy con gái bị tụt quần áo thì sẽ im lặng. Trường lại mở cuộc họp hội đồng, mẹ lại phải xin lỗi. Trên đường về, mẹ ôm Keiko thì thào tội nghiệp: “Tại sao, sao con không hiểu hả Keiko…” “Hình như tôi lại làm gì đó sai nhưng vì sao sai thì tôi vẫn không hiểu.” Mọi trường hợp đều kết thúc bằng suy nghĩ như thế trong lòng Keiko. Bố mẹ lo lắng nhưng vẫn thương Keiko, làm mọi cách để “chữa” cho con, thậm chí là tìm bác sĩ tư vấn tâm lý. Dần nhận thức được sự khác biệt của bản thân, dẫu không thể lý giải được, nhưng để bố mẹ không phải buồn, không phải xin lỗi hết người này sang người khác, và để được xem là một người “bình thường”, cô bé Keiko quyết định sẽ chẳng nói chuyện với bất kỳ ai khi ra khỏi nhà, luôn hành động theo hai cách: bắt chước hoặc làm theo chỉ thị. Keiko cứ như vậy mà trưởng thành, cho đến khi làm công việc part-time của cửa hàng tiện ích Smile Mart từ thời còn sinh viên, và yên vị ở đấy 18 năm, không có ý định thay đổi. Vì ở đấy, mọi việc đều nằm trong quy tắc và khuôn khổ, điều đó khiến Keiko cảm thấy bản thân cũng là một mắt xích trong vòng quay thế gian, cũng là một bộ phận của thế giới, quay liên tục, an toàn và không lạc lõng. Ở đấy, cô được hóa thân thành “nhân viên” – loài sinh vật tồn tại vì cửa hàng tiện ích. Keiko là một nhân viên lý tưởng: luôn đi làm đúng giờ, độc thân, không có con, làm việc xuyên suốt kỳ nghỉ và không bao giờ mất bình tĩnh trước khách hàng. Mọi việc đều ổn khi nhìn từ bên ngoài. Thế nhưng, sâu thẳm tận tâm hồn, Keiko 36 tuổi vẫn không thể hiểu vì sao mình phải “tới chơi với cháu mình nhiều hơn” như lời em gái cô nói. Với Keiko, trẻ nhỏ cũng như mèo hoang, nhìn tuy có khác đôi chút nhưng đều thuộc động vật có tên “em bé” mà thôi. Keiko 36 tuổi, khi nhìn thấy em gái dỗ dành đứa con trai bé nhỏ đang khóc, đã nghĩ rằng: “Tôi vừa nhìn con dao nhỏ dùng để cắt bánh đặt trên bàn vừa nghĩ, muốn thằng nhỏ trật tự thì rất đơn giản thôi, vậy mà em tôi vất vả quá. Em gái tôi vẫn cố ôm chặt con vào lòng.” Keiko cũng chẳng biết giận dữ, cô coi những sai phạm của người khác là chuyện bình thường, kiên trì nhắc nhở chứ không bao giờ cáu gắt thực sự – nếu có, đó chẳng qua là sự bắt chước cảm xúc từ những người xung quanh, để bản thân không bị coi là “hàng dỏm”, cô luôn cố gắng để hòa nhập. Rõ ràng là Furukura Keiko không bị thiểu năng trí tuệ, không có vấn đề gì về năng lực suy nghĩ, nhưng logic của cô lại không giống như một “con người” bình thường, không có hỉ nộ ái ố, mà lại căn bản như một động vật máu lạnh –  có thể bắt chước, có thể làm theo chỉ thị, có thể thực hiện theo quy tắc – nhưng không thể lý giải được những suy nghĩ, tình cảm đơn giản của người bình thường. Theo thời gian điều đó vẫn không thay đổi. Cho đến khi cuộc đời Keiko vấp phải gã hèn mọn Shiraha Cuộc đời Keiko và Shiraha va vào nhau vì một quan niệm của xã hội, rằng trưởng thành là phải kết hôn, sinh con. Shiraha là một gã đàn ông tuổi tầm 35, cao cỡ 1m80, gầy đét, dáng đi khúm núm, lòng khòng như cái móc áo, đeo cặp kính trông như sợi dây thép bám lấy mặt, đôi mắt trũng lõm sâu, làn da khô quắt… Shiraha là một tổng thể của mâu thuẫn. Gã xin được làm việc ở cửa hàng tiện ích nhưng lại kỳ thị chính cái nghề này. Gã cho rằng cuộc sống bản thân khó khăn là do quan niệm xã hội về tiêu chuẩn một cuộc sống thành công, nhưng lại lấy chính cái lý luận đó để khinh thường Keiko. Gã ghét cay ghét đắng những cổ hủ của thời Jomon (thời kỳ đồ đá mới ở Nhật Bản) nhưng lại luôn lảm nhảm về nó, thậm chí lấy nó để ngụy biện cho những hành vi sai trái của mình. Khác với Keiko, Shiraha hoàn toàn bình thường, gã có thể hiểu và lý giải mọi logic tình cảm của con người. Nhưng vì bản tính lười biếng, gã không tiền tài, không nghề ngỗng, không chỗ ở. Gã luôn đổ lỗi cho xã hội thay vì cố gắng để đạt được cái mình muốn bằng năng lực của bản thân. Gã luôn giậm chân tại chỗ và ôm cái ý nghĩ “tôi không làm việc nhưng tôi có tầm nhìn, chỉ cần khởi nghiệp là bọn con gái sẽ bám theo cả đàn.”  Rồi khi bám được vào cuộc sống của Keiko, được cô cho ăn ở miễn phí, gã thu mình trong phòng tắm, dự định mọc rễ ở đấy, không ra ngoài, không gặp ai nữa. Gã, thực sự là một gã hèn đúng nghĩa. Dù chưa phải nam chính, nhưng nhờ sự xuất hiện của Shiraha và sau đó là chuỗi ngày cuộc sống đảo trộn vì gã, Keiko đã hiểu được giá trị tồn tại của bản thân trên thế giới này. Bi kịch của cá nhân khi bị đóng khung trong cái nhìn của xã hội  “Thế giới bình thường rất nguyên tắc, nó âm thầm loại bỏ dị vật. Người không ra gì sẽ bị đào thải.” Bi kịch của Keiko và Shiraha diễn ra vì họ không theo đúng quy chuẩn mà xã hội đã áp đặt lên mọi người, cái quy chuẩn tạo nên khuôn khổ của một con người bình thường, một con người thành công, mà nếu như không đi theo quy chuẩn đó, con người sẽ bị lên án, bị kỳ thị, bị đào thải. Sự khác biệt giữa Keiko và Shiraha rất rõ ràng. Dù Keiko bẩm sinh đã khiếm khuyết khả năng lý giải logic tình cảm của con người bình thường, nhưng cô chấp nhận che đậy cái kỳ lạ của bản thân và hóa thân vào một con người bình thường, cố gắng hòa nhập, cuối cùng tìm được giá trị đích thực của bản thân. Còn Shiraha dẫu sinh ra có vẹn toàn cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nhưng với tính cách tích hợp giữa trịch thượng và tự ti, trên tất cả là sự lười biếng và không cầu tiến, gã tự biến mình thành đồ bỏ đi của xã hội. Cửa hàng tiện lợi trong “Konbini Ningen” là tấm gương phản chiếu cuộc sống đời thực, các bộ phận thay đổi, nhưng toàn bộ vẫn giữ nguyên. Và có lẽ con người vẫn bị mắc kẹt trong mô hình xã hội lỗi thời, mặc dù con người hiện đại cảm thấy bản thân tiến hóa hơn người thời đại trước. Có một cuốn cẩm nang được truyền lại từ đời này sang đời khác, là kết hôn, sinh con, và kiếm càng nhiều tiền càng tốt. Bất cứ ai không đáp ứng theo tiêu chuẩn đó sẽ được thuyết phục đi đúng đường hoặc bị tẩy chay. Đó là một xã hội chứa đựng ảo tưởng về những thứ mà nó gọi là bình thường, và những thỏa thuận ngầm của con người về một cuộc sống có thành công hay không. Người ta dựa vào cẩm nang đó, rồi tự cho bản thân cái quyền đánh giá, phán xét về đời tư của người khác. Thế nhưng, thành công và hạnh phúc là khái niệm trừu tượng không thể quy ra bằng tiêu chuẩn kết hôn, sinh con, nhiều tiền. Sống chăm chỉ bằng đồng tiền lương thiện do công sức mình bỏ ra không có gì là sai trái, dẫu đó có là công việc bán thời gian ở cửa hàng tiện lợi. Sống độc thân, và cảm thấy tự do, thỏa mãn, đủ đầy thì cũng không có gì đáng trách cả. Vì sao gọi là dư luận? Vì “luận” nhiều quá cho nên “dư”! Người ta nói nhiều nhưng người ta có sống giùm bản thân người được đâu? Sống mà cứ phải để ý đến ánh mắt người đời thì khó mà hạnh phúc được. Cứ lương thiện mà làm công việc người thích, sống theo cách khiến người thoải mái. Mỗi người đều tìm được an yên trong lòng thì xã hội sẽ bớt “đáng sợ” hơn cái xã hội trong “Konbini Ningen”, hay cũng chính là xã hội ngày nay của con người. Nhà văn Nguyễn Thanh Việt – tác giả cuốn The Sympathizer thắng giải Pulitzer Prize – đã có lời nhận xét về tác phẩm “Konbini Ningen”: “Một bản khảo sát khôi hài, tăm tối, gây chấn động sâu sắc về đời sống đương đại, về sự xa lánh, về chủ nghĩa tư bản, ý thức cá nhân, và sự quy hàng các ước lệ xã hội. Dù ở Nhật Bản hay đâu khác, chúng ta đều đã từng đặt chân vào cửa hàng này.” Giải mã tựa đề gốc của tác phẩm – “Konbini Ningen”  “Konbini” bắt nguồn từ chữ “Konbiniensu sutoa”, tức là “Convenient store” trong tiếng Anh, được người Việt biết đến với phiên âm “Combini” – Cửa hàng tiện ích kiểu Nhật Bản: mở cửa 24 giờ một ngày, bán các loại thực phẩm và vật dụng cá nhân hàng ngày, bao gồm cả đồ ăn nhanh, đồ gia dụng và tạp chí, theo kiểu tự phục vụ, với khu vực kệ hàng chiếm hơn 50% tổng diện tích. “Ningen” là cách phiên âm Romaji, nghĩa tiếng Việt là “con người”. Ngoài ra, ít ai biết rằng “Ningen” còn là tên của một loài sinh vật biển hình người ở Nam Cực. Tương truyền, thủy thủ các tàu đánh cá voi nghiên cứu do chính phủ quản lý đã mục sở thị loài sinh vật được gọi là “Ningen” này, kể lại rằng chúng có cơ thể màu trắng với chiều cao ước chừng 20 đến 30 mét. Những người chứng kiến mô tả “Ningen” có hình dáng giống người, có chân, có tay và bàn tay năm ngón. Đặc điểm về khuôn mặt có thể nhìn thấy là mắt và miệng. (Theo Pink Tentacle) Suốt nhiều năm, ở Nhật Bản lan truyền lời đồn đại về sự tồn tại của sinh vật biển to lớn hình người sống ở Nam Cực, giới khoa học không nghi ngờ gì việc Nhật Bản đang âm thầm nghiên cứu “Ningen” và đặt ra nghi vấn: Bao giờ thì người Nhật tiết lộ “Ningen”? Vậy thì, “Ningen” thể hiện xuyên suốt  trong “Konbini Ningen”, với nghĩa “con người” (hay “cô nàng” như bản dịch tiếng Việt, thậm chí là “woman” trong bản dịch tiếng Anh) có đủ để lột tả được nhân vật mà Murata Sayaka xây dựng hay không? Hay nhân vật chính Furukura Keiko – “Ningen” trong tựa đề của tác giả – đích thị là một cá thể dị biệt trong xã hội loài người? Murata Sayaka – một trong những nhà văn đương đại thú vị nhất Nhật Bản  Nữ văn sĩ Murata Sayaka là một nhà văn, đồng thời cũng là một nhân viên bán thời gian tại cửa hàng tiện lợi. Có lẽ vì thế mà trong tác phẩm “Konbini Ningen”, cô đã cho độc giả cái nhìn rõ nét và chân thực hơn về công việc nhân viên cửa hàng tiện ích nói riêng và cuộc sống của người Nhật Bản nói chung. Sayaka sinh năm 1979 tại thành phố Inzai, tỉnh Chiba. Năm 2003, tiểu thuyết Jyunỹu (Breastfeeding) của cô đã đoạt Giải thưởng Gunzo dành cho nhà văn trẻ. Đến năm 2013, cô giành giải thưởng Mishima Yukio nhờ tác phẩm Shiro-iro no machi no, sono hone no taion no (Of Bones, Of Body Heat, of Whitening City). “Konbini Ningen” là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Sayaka được dịch sang tiếng Anh. Sách đã bán được hơn một triệu bản tại Nhật Bản và sau đó được dịch ra 20 thứ tiếng khác nhau trên thế giới. *** [Review Sách] Cô nàng cửa hàng tiện ích – Murata Sayaka “Cô nàng cửa hàng tiện ích” trong tên sách là Furukura Keiko, một người phụ nữ 36 tuổi đã làm việc ở cửa hàng tiện ích suốt 18 năm kể từ ngày đầu khai trương. “Cô nàng cửa hàng tiện ích” trong tên sách là Furukura Keiko, một người phụ nữ 36 tuổi đã làm việc ở cửa hàng tiện ích suốt 18 năm kể từ ngày đầu khai trương. Nhắc đến việc làm ở cửa hàng tiện ích, những người khác đều chỉ coi đó là công việc tạm thời dành cho sinh viên, các bà nội trợ, hay một vài trường hợp chưa tìm được việc làm ổn định. Thế nhưng, với Keiko, công việc ở cửa hàng tiện ích này là mối liên kết duy nhất giữa cô cùng thế giới xung quanh. Từ nhỏ đến lớn, cô chưa bao giờ được coi là một người bình thường; thậm chí, mỗi lần nhắc về cô, mẹ và em gái lại mắt rơm rớm lệ, chỉ mong một ngày nào đó cô “khỏi bệnh” và trở về ra dáng một người bình thường. Hồi nhỏ, khi thấy một chú chim nhỏ chết ở công viên, thay vì khóc thương và chôn chú chim như những đứa trẻ khác, Keiko lại cầm xác của chú chim đến trước mặt mẹ và ngỏ ý muốn đem xác chim về nướng lên ăn. Trước sự ngạc nhiên cùng sợ hãi quá đỗi của người mẹ, cô vẫn không lý giải được tại sao mình phải chôn chú chim nhỏ, phải biết thương tiếc và buồn đau một sinh mệnh vừa lìa đời. Lần khác, Keiko đã ngăn cản vụ bạo lực ở trường tiểu học bằng cách thức “nhanh nhất”: Cô lấy chiếc xẻng làm vườn phang thẳng vào đầu đứa bạn đang gây gổ. Trong khi xung quanh hét lên ầm ĩ, thầy giáo “nổi cáu một cách vô lý”, còn mẹ không ngừng gập đầu nói lời xin lỗi trước hội đồng, Keiko vẫn chẳng hiểu mình đã làm sai điều gì – vì chẳng phải, đứa trẻ kia ôm đầu, ngã xuống, nằm im bất động, và vụ ẩu đả đã kết thúc sao. Lớn lên, cô chứng kiến cảnh cô giáo mất kiểm soát, đám học sinh khóc thút thít, Keiko đã chạy lên tụt cả váy lẫn quần lót trước mặt cô để cô đừng gào thét thêm nữa. Cô làm vậy vì từng xem chương trình trên TV, người ta sẽ im lặng khi con gái bị tụt quần áo. Mẹ Keiko lại bị gọi lên trường một lần nữa, trên đường về, mẹ vừa ôm cô vừa nghẹn ngào trong câu hỏi không có lời hồi đáp: “Tại sao, sao con không hiểu hả Keiko…”. Giữa tiếng nấc nhói lòng của mẹ, Keiko nhận ra mình lại làm điều gì đó sai, nhưng cô vẫn không thể hiểu và nhận định được mình đã sai ở đâu. Cô dần dần hình thành nhận thức, suy nghĩ về sự khác biệt giữa mình và mọi người. Cô quyết định lựa chọn lặng im không lên tiếng, bởi cô nghĩ nếu không nói sẽ không có sai lầm nào xảy ra, bố mẹ sẽ không phải đi xin lỗi những người khác thêm nữa. Từ nay, Keiko sẽ sống theo 2 cách: Bắt chước hoặc làm theo chỉ thị. Chính lựa chọn cách sống như vậy, cô tìm thấy môi trường sống lý tưởng cho mình, chính là cửa hàng tiện ích. Ở trong không gian được bao bọc bởi 4 lớp kính, sinh vật được gắn mác “nhân viên cửa hàng tiện ích” bắt buộc phải làm mọi thứ theo chỉ thị và khuôn mẫu. Mọi việc diễn ra trong chiếc hộp kính này đều có khuôn khổ và quy tắc rõ ràng, đến cả biểu cảm và cách trò chuyện cũng được xếp đặt sẵn. Nếu lúc trước, cô không biết mình phải bộc lộ cảm xúc thế nào trước mỗi câu chuyện mình nghe, thì giờ đây, cô có thể bắt chước học theo video mẫu. Lần đầu tiên trong cuộc đời, Keiko “được trở thành một bộ phận của thế giới”; trong giây phút ngày mới bắt đầu, thế gian tỉnh giấc, âm thanh hỗn tạp của cửa hàng tiện ích đã “bơm” vào trong cô sự sống – thứ sự sống bình thường mà chưa từng len lỏi trong máu, trong tế bào của cô. Giống như kệ đồ tạp hóa, máy pha cà phê,… Keiko thấy mình chính là một phần của cửa hàng này. Mặc cho vẻ ngoài đã được điểm tô đôi chút bởi dáng dấp của người bình thường, sâu trong Keiko vẫn không có nổi một cảm xúc “bình thường” nào. Cô đi làm đúng giờ, làm việc cả kì nghỉ, không bao giờ tức giận trước khách hàng, càng chưa một lần mất bình tĩnh trước bất cứ ai. Cô có thể bắt chước cách ăn vận và nói năng từ những người đồng nghiệp, có thể giả bộ trở thành một phần trong những buổi nói chuyện của bạn bè, nhưng cô vẫn như vậy: Cô không biết tại sao phải tốn công dỗ đứa bé không khóc nữa, trong khi trên bàn có sẵn con dạo nhọn hoắt. Mọi hành động và phản ứng của cô đều là bản sao cóp nhặt từ nhiều người, để bản thân cô không giống một kẻ ngoài luồng hay bị coi là “hàng dỏm”. Với bản thân, cô cảm thấy mình là một loài động vật máu lạnh, không những chẳng có cảm xúc mà còn chẳng lý giải nổi cảm xúc của người xung quanh. Keiko là một mặt hàng, một thứ đồ vật, một sự tồn tại đang cố gắng bám trụ lại trong xã hội loài người.  Thế nhưng, tất cả đều thay đổi khi gã đàn ông tên Shihara bước vào cuộc đời cô. Gã là một kẻ đớn hèn, không nghề không ngỗng, không biết nỗ lực cố gắng, luôn thù hằn và chỉ trích xã hội một cách không ngừng. Gã giống Keiko ở điểm bị biệt lập bởi những quy chuẩn của xã hội. Gã cho rằng, xã hội hiện đại nào có gì khác xã hội thời Jomon (thời kỳ đồ đá ở Nhật Bản), khi loài người được định nghĩa bởi giống cái - giống đực, khi sự tồn tại của một cá thể chỉ để phục vụ sự sinh sôi nảy nở của bộ tộc, khi chỉ những gã đực rựa săn bắn giỏi mới có được những cô đẹp nhất làng,… Gã khác Keiko ở điểm gã có thể lý giải mọi cảm xúc của con người, gã hoàn toàn không coi mình là mặt hàng, hay đồ vật, hoặc một sinh vật gọi là “nhân viên cửa hàng tiện ích” như Keiko. Vậy mà, gã chỉ được cái miệng luôn nói về lý tưởng khởi nghiệp chắc chắn thành công của mình, nhưng chưa một lần gã thực sự chăm chỉ, phấn đấu cho cái ý tưởng hoàn mỹ của gã.  Shihara lựa chọn cuộc sống ăn bám Keiko, để trốn đi những định kiến xã hội thúc ép gã bấy lâu. Gã đổ mọi tội lỗi lên đầu thứ gọi là “xã hội”, bởi nó là thứ khiến gã buộc phải sống cuộc đời như những người khác: Làm việc, kết hôn, sinh con. Luôn trốn chui trốn lủi những “nghĩa vụ” phải mang, gã hèn mọn đến cùng cực: Một kẻ phẫn hận xã hội loại người, nhưng cũng chính gã lại áp những quy chuẩn ấy lên người Keiko, rồi hả hê đay nghiến, coi thường, và tự nâng vai trò của mình lên. Shihara sinh ra với đủ đầy nhận thức cùng xúc cảm, nhưng gã biếng lười và cố tìm cách đổ lỗi cho mọi sự thành bại, đến cùng cái xã hội gã căm ghét ấy cũng từ chối sự tồn tại của gã. Gã trở thành một kẻ bỏ đi, rồi chính vì sự khước từ đó, gã lại tìm cớ đổ lỗi cho những quy chuẩn của xã hội. Thế nhưng, gã thực sự căm hận cái xã hội ấy sao, hay chăng gã muốn được làm một phần của cái xã hội ấy, nên mỗi câu chửi của gã lại vẽ nên một hình mẫu mẫu mực? Trái ngược gã, Keiko sinh ra với sự khuyết thiếu về mặt cảm xúc, nhưng cô chưa từng ngừng cố gắng hòa nhập, để được trở thành một phần của những người bình thường. Cuối cùng, cô tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời mình ở cửa hàng tiện ích. Đó là thế giới của những quy chuẩn, nguyên tắc, định kiến,… hoặc, có thể nói là của tất cả những gì gò bó nhất. Đồng thời, đó cũng là thế giới bất ổn định trong mắt những người bình thường đang đeo đuổi một cuộc sống hạnh phúc. Hóa ra, hạnh phúc không nằm ở việc ta có bao nhiêu tiền, con của ta học giỏi nhường nào, xã hội trọng vọng ta ra sao,… Hạnh phúc nằm ở việc ta cảm thấy hạnh phúc, cảm thấy được thuộc về, cảm thấy những cố gắng và nỗ lực của mình là xứng đáng.  Mỗi người có một đích đến hạnh phúc khác nhau, mỗi người có một định nghĩa thành công khác nhau, mỗi người có một nỗi đau khôn nguôi khác nhau, mỗi người có một lẽ sống của riêng mình. Xã hội hiện đại khác với xã hội thời Jomon ở chỗ, rất nhiều cuộc sống và mảnh đời không trùng lặp đang cùng tồn tại. Miễn là chúng ta không bỏ cuộc, rồi một ngày chúng ta sẽ tìm được “cửa hàng tiện ích” của mình, giống Keiko đã tìm ra ở cuối truyện. Mời bạn đón đọc Cô Nàng Cửa Hàng Tiện Ích của tác giả Murata Sayaka & An Vy (dịch).