Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Khởi Nghĩa - Jules Vallès

Tập III Người Khởi Nghĩa , đỉnh cao của bộ tiểu thuyết, trình bày gần như một thiên ký sự lịch sử, viết từng ngày từng tháng, chủ yếu vẽ lên bức tranh hào hùng của Pari thời kỳ tiền khởi nghĩa và trong những ngày khởi nghĩa, từ 18 tháng Ba cho đến 28 tháng Năm 1871. Tính chân thực, tính lịch sử của tập sách đạt đến mức cao. Bên cạnh hình tượng rất sống của những nhân vật nổi tiếng đương thời có thật, như những tay chủ báo tư sản Giracđanh Vilơmexăng, những chính khách tư sản Juyn Ximông, Juyn Fery, Gămbetta... là một loại chân dung gân guốc, rực rỡ của những người cách mạng, của một số lãnh tụ Công xã Pari mà Juyn Valex vẽ nên bằng những nét bút trân trọng, nồng nàn. Trước hết là chân dung người lãnh tụ cách mạng già Blăngki, “con ma của khởi nghĩa, nhà hùng biện đeo găng đen”, “kẻ kích động những biển người”, “nhà toán học lạnh lùng của nổi loạn và trả thù”, bằng một giọng nói bình tĩnh, buông ra những lời như chém xuống, rạch một đường sáng trong đầu óc người dân ngoại ô, và một vệt đỏ trong da thịt bọn tư sản”. Và đây là một số đại biểu Công xã: Briôxnơ, “một Jêxu lác mắt”, đã từng “bị kết án năm năm vì làm hội kín, được thả ra trước vài tháng vì thổ ra huyết, về Pari không một xu dính túi, phổi không lành được, nhưng linh hồn của Cách mạng đóng chốt vào thể xác”... “mỗi buổi tối sống ba giờ hơn kẻ khác sống một năm - bằng tài hùng biện, mở rộng hiện tại; bằng ước mơ lấn tới tương lai; con người bệnh tật đó ném ra lời lẽ lành mạnh cho một binh đoàn công nhân có đôi vai lực sĩ và lồng ngực bằng sắt, họ hết sức xúc động thấy người vô sản không phổi đó tự giết mình để bênh vực quyền lợi của họ”. Lơfrăngxe, cựu giáo viên, đảng viên xã hội, “với bộ mặt vàng vì tư lự, khoét đôi mắt sâu và hiền”“đôi khi, bắt đầu nói tưởng như giảng bài và cầm thước kẻ trong tay; nhưng tới lúc đi vào ruột vấn đề thì quên mất giọng ông giáo và đột nhiên trở thành một kẻ rèn luyện những tư tưởng bốc khói dưới những nhát búa quai thẳng cánh, nện trúng mà sâu; đó là nhà hùng biện ghê gớm nhất, bởi vì có mức độ, có lý lẽ... và mật đắng đầy gan”. Và đây người ủy viên trung ương Công xã phụ trách Bộ Giáo dục, Ruiê, thân hình to lớn, cường tráng, làm nghề đóng giày và làm cách mạng, viết còn sai chính tả, “nhưng người thợ giày ấy còn thông thuộc khoa lịch sử và khoa kinh tế xã hội hơn tất cả những kẻ có bằng cấp đã giữ Bộ đó trước anh gộp lại”... trong những mảnh giấy vò nhàu và nhọ bẩn của anh có cả một chương trình giáo dục về mặt đúng đắn đánh đổ cả mọi giáo điều của những Viện hàn lâm và những Đại hội đồng”. *** Juyn Valex (Jules Vallès) là một nhà văn lớn mà cũng là một chiến sĩ kiên cường của Công xã Pari. Ông sinh năm 1832 ở thị trấn Puy (xứ Ôvecnhơ) nước Pháp và mất năm 1885 tại Pari. Xuất, thân từ một gia đình công chức, Juyn Valex ngay từ thuở bé đã là nạn nhân của một nền giáo dục gia đình khắc nghiệt cũng như một nền giáo dục nhà trường sai lầm. Cha ông làm giám thị, sau làm giáo sư trung học, tuy cũng thương con, nhưng lại là một người nhút nhát, luôn luôn lo sợ cho chức vụ của mình, do đó mà sinh ra khắc nghiệt với con, thậm chí có lần, để khỏi bị liên lụy, đã cho giam con vào một nhà thương điên sau khi Juyn Valex tham gia vào một vụ chống đối cuộc đảo chính của Napôlêông thứ III. Mẹ Juyn Valex xuất thân từ nông dân nhưng có tư tưởng hãnh tiến, học làm sang, muốn cho con làm nên danh giá, và, vì không được toại nguyện, nên trút cả nỗi cay đắng lên đầu con, roi vọt hành hạ con đến tàn nhẫn. Một mặt khác, cha Juyu Valex muốn cho con trở thành giáo sư, nhưng cậu học sinh Juyn Valex, qua tấm gương của bố, đã chán ngấy cái cảnh nhà trường do bọn phản động công giáo thời Đế chính thứ II lũng đoạn, ở đó các giáo sư vừa quỵ lụy, khúm núm trước hiệu trưởng và cấp trên, lại vừa hành hạ học trò bằng đòn và phạt, ở đó người ta dạy cho thanh niên một kiểu học tầm chương trích cú, nô lệ sách cũ người xưa, xa rời thực tế. Chính cái giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường sai lầm, tàn nhẫn ấy đã tác động mạnh tới cậu bé Juyn Valex đa cảm và sớm biến cậu thành một kẻ bất bình, môt con người nổi loạn. *** Nhưng con người bất bình ấy đã trở nên một chiến sĩ cách mạng kiên cường, thì lại là do hoàn cảnh xã hội nước Pháp lúc bấy giờ. Khi Juyn Valex sinh ra thì phong trào công nhân Pháp bắt đầu lên mạnh với công cuộc công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa bắt đầu ở nước Pháp trong những năm 30 thế kỷ XIX, và nó được đánh dấu bằng những cuộc đấu tranh và khởi nghĩa của công nhân ở Lyông (1831, 1834) và ở Pari (1832, 1834). Song giai cấp công nhân Pháp chỉ có thể trưởng thành sau khi nó đã dứt bỏ được mọi ràng buộc với giai cấp tư sản để lần đầu tiên, đứng lên như một lực lượng chính trị độc lập, trực diện đấu tranh chống giai cấp tư sản vào tháng Sáu năm 1848. Và chính là phải trải qua những ngày tháng Sáu đẫm máu ấy nó mới bước đầu rũ bỏ được ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng, của mọi thứ“chủ nghĩa xã hội tư sản và tiểu tư sản”. Tuy nhiên, những năm liền sau khi cách mạng 1848 thất bại ở châu Âu nói chung, chính là “thời đại - như Lênin đã nói,- mà tinh thần cách mạng của phái dân chủ tư sản đã suy vong rồi (ở châu Âu), trong khi đó thì tinh thần cách mạng của giai cấp vô sản xã hội chủ nghĩa chưa tới lúc già dặn” [1] . Riêng ở nước Pháp, trong thời kỳ đầu của nền Đế chính thứ II tối phản động thiết lập từ tháng Chạp 1852, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân bị lắng xuống cho mãi tới những năm 60 nó mới được phục hồi. Và với sự thành lập Chi nhánh Pháp Quốc tế thứ nhất năm 1866, một thời kỳ bão táp cách mạng mới lại mở ra để đến khi giai cấp tư sản thống trị, dưới nhãn hiệu Chính phủ Quốc phòng, đầu hàng quân xâm lược Phổ (tháng Giêng 1871), thì nó lên tới đỉnh cao với phong trào Công xã Pari thiết lập nền chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới trong bảy mươi hai ngày (18 tháng 3 đến 28 tháng 5 năm 1871). *** Juyn Valex sinh ra và lớn lên trong cái hoàn cảnh lịch sử xã hội như thế đó. Thị trấn quê hương ông ở sát cạnh những trung tâm công nghiệp như Xanh-Êchiên (nơi mà cha ông đã từng tới dạy học một thời kỳ), như Lyông, nên không khỏi nhận được âm vang mạnh mẽ của những làn sóng đấu tranh của giai cấp công nhân. Và chàng trai có chí hướng muốn làm thợ đó đã từng đi đầu trong đám thanh niên cộng hòa khi nổ ra cuộc Cách mạng tháng Hai 1848. Sau đó, khi được gia đình gửi lên Pari theo học, Juyn Vanlex, sống nghèo khổ ở thủ đô, lại đã sớm tiếp xúc với phong trào cách mạng trên mảnh đất chôn nhau của cách mạng. “Tôi đã đi vào lịch sử cuộc Cách mạng. Người ta vừa mở ra trước mặt tôi một quyển sách trong đó có nói về bần cùng và đói khát, trong đó tôi thấy diễu qua những bộ mặt làm tôi nhớ đến cha Jôdép hoặc chú Sađơna, những người thợ mộc với chiếc compa mở rộng ra làm vũ khí và những nông dân cầm chĩa sắt có vấy máu ở đầu răng. Có những phụ nữ đi tấn công Vécxay, vừa đi vừa thét lên là bà Vêlô làm nhân dân đói, và ngọn giáo có xiên ổ bánh mì đen - một lá cờ - đâm thủng các trang sách và chọc vào mắt tôi... ... Lần này thì không còn là tiếng La-tinh nữa. Họ nói: “Chúng tôi đói! Chúng tôi muốn tự do!” Tôi đã ăn thử bánh mì quá cay đắng ở gia đình tôi, tôi đã bị hành hạ quá nhiều ở nhà nên những tiếng kêu đó không thể không làm kinh động trái tim tôi”. [2] Juyn Valex đã kể lại như thế cuộc tiếp xúc đầu tiên của mình với phong trào cách mạng Pari qua một cuốn lịch sử cuộc Cách mạng 1789 và người ta đã đưa ông mượn đọc. Và không lạ rằng Juyn Valex đã từ đó tiến tới đứng dưới lá cờ của Công xã Pari để hợp thành cái mà ông gọi là “Cuộc đại liên minh của những đau khổ”. *** Công xã Pari thất bại; Juyn Valex, sau khi chiến đấu đến phút cuối cùng, đã trốn ra được nước ngoài, ông sang Bỉ, Thụy-sĩ, rồi sang Anh. Ở đấy ông sống nghèo khổ bằng nhuận bút của một số bài báo, trang tiểu thuyết đăng trên vài tờ báo cộng hòa xuất bản ít ỏi ở Pari. Đến năm 1880, khi luật ân xá được ban hành, ông trở về nước Pháp, viết sách viết báo cho tới lúc qua đời. Juyn Valex bắt đầu viết từ khoảng cuối những năm 50, sau khi đã chật vật làm đủ nghề để kiếm sống ở Pari. Ông cộng tác với một số tờ báo như Figarô , Biến cố ; ông giao thiệp với Giracđanh, ông vua báo chỉ đương thời, và Vilơmexăng, chủ nhiệm báo Figarô . Trên tờ Figarô ông giữ mục Thị trường chứng khoán là vấn đề mà ông nghiên cứu trong cuốn sách đầu tay của ông nhan đề Tiền bạc (1857). Nhưng ít lâu sau ông bỏ mục đó để cộng tác với những tờ báo không chịu phục tùng nền Đế chính như Tạp chí châu Âu , Tự do , Báo chí , Thời đại ... và chẳng mấy lúc ông nổi tiếng là một nhà văn luận chiến hăng hái và độc lập, một nhà báo trào phúng và chiến đấu, độc đáo và tài năng. Năm 1865, với tác phẩm Những kẻ không phục tùng (Les Réfractai res) tập hợp một số bài báo, ông nhằm đả kích lối sống nghệ sĩ giang hồ mà nhà văn đương thời Hăngri Muyêcgiê đã ca tụng trong cuốn Cảnh đời sống giang hồ có ảnh hưởng xấu tới thanh niên. Năm 1867 ông sáng lập tờ báo Đường phố , trong đó ông đả kích thẳng tay mọi thiết chế chính trị, văn học, nghệ thuật đương thời, đả kích những kẻ mà ông gọi là “bọn giữ đồ thánh trong văn học, chính trị, và cả trong Cách mạng nữa!” Nhưng ra đến số 34 thì tờ báo bị tịch thu và phá sản. Trong thời kỳ Công xã ông thành lập tờ báo Tiếng kêu của dân chúng nó mau chóng trở thành cơ quan chủ yếu của Công xã, trong đó Juyn Valex khích lộ tinh thần kháng chiến đến mức “kiên cường tuyệt vọng”. Nhưng tác phẩm văn học lớn và chủ yếu của Juyn Valex là bộ tiểu thuyết ba tập Jăc Vanhtrax (Jacques Vingtras) mà hai tập đầu ông đã viết và cho đăng báo ngay từ hồi ông còn lưu vong ở Anh (1878 - 1879). Sau khi trở về Pháp ông đã chữa lại hai tập đó và viết tiếp tập ba mà mãi sau khi ông mất, năm 1886, mới được in thành sách. Jăc Vanhtrax là một tiểu thuyết tự truyện thuật lại chính cuộc đời của tác giả và, với nội dung xã hội - chính trị, nó giúp cho chúng ta hiểu khá sâu xã hội Pháp từ sau cuộc cách mạng 1848, trải qua thời Đế chính thứ II cho đến phong trào Công xã Pari. Cùng với tiểu thuyết Jăc Vanhtrax cũng phải kể đến việc Juyn Valex cho xuất bản lại tờ báo Tiếng kêu của dân chúng từ năm 1883, và ông đã làm cho nó thành tờ báo cách mạng lớn đầu tiên của nước Pháp. Tiếng kêu của dân chúng đã tham gia vào tất cả mọi chiến dịch xã hội chủ nghĩa thời bấy giờ, nó đã kịch liệt phản đối những cuộc chinh phục thuộc địa ở Tuynidi và ở Bắc kỳ (Bắc-bộ Việt Nam), nó đã nhiệt liệt ủng hộ những cuộc đình công của thợ mỏ tại Anzin và Đơcazơvilơ. Và điều đáng kể là Juyn Valex đã biết đặt Juyn Ghexđơ (Jules Guesde), vị lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân Pháp đương thời, vào địa vị cây bút số một trong tờ báo của ông. Chính sự hợp tác của Ghexđơ và những đồng chí của ông này đã khiến cho Tiếng kêu của dân chúng trở thành cơ quan ngôn luận lớn nhất của giai cấp công nhân đã xuất hiện ở Pháp từ trước cho đến thời bấy giờ. Juyn Valex qua đời năm 1885, hai năm sau khi Tiếng kêu của dân chúng lại xuất hiện. Hàng chục vạn nhân dân lao động Pari đã đưa tới nghĩa địa Perơ Lasedơ “người ứng cử viên của bần cùng” [3] “người đại biểu của những kẻ bị xử bắn” ấy. Nhân dân Pari đã biểu lộ lòng tôn trọng chính đáng của mình đối với “con người tâm huyết” ấy, “người bạn chân thành của thợ thuyền, người chiến sĩ vẻ vang của Công xã, nhà văn cách mạng lớn của nước Pháp!” *** Tiểu thuyết Jăc Vanhtrax, với ba tập của nó nhan đề lần lượt: - tập I, Chú bé (L’enfant - 1879), - tập II, Cậu tú (Le bachelier - 1881), - tập III, Người khởi nghĩa (L’insurgê - 1886), Jacques Vingtras là một kiệt tác kỳ lạ của Juyn Valex; nó đã đặt ông vào hàng những nhà văn xuôi lớn của nước Pháp thế kỉ XIX. Một mặt, bộ tiểu thuyết vạch rõ bước đường tất yếu của một người trí thức tiểu tư sản, dưới thời Đế chính thứ II, đi đến với cách mạng. Bước đường của Jăc Vanhtrax chính là bước đường của bản thân Juyn Valex. Có thấy hết mọi nỗi nhục nhã, cay đắng vì nghèo khổ, vì hành hạ, vì bất công, mà chú bé Jăc Vanhtrax, cậu tú Jăc Vanhtrax phải chịu đựng trong gia đình, ở nhà trường và ngoài xã hội, có thấy cả cái không khí đấu tranh chính trị ở Pari, dưới thời Đế chính thứ II, khi ngấm ngầm khi công khai, sôi sục, mới hiểu được tại sao Jăc Vanhtrax đã trở thành một kẻ bất bình, và từ một kẻ bất bình trở thành người khởi nghĩa đứng dưới lá cờ của Công xã Pari. Mặt khác, bộ tiểu thuyết cũng đồng thời vừa là một bức tranh sinh động vừa là mội bản cáo trạng nghiêm khắc cái xã hội Pháp đương thời, dưới nền Đế chính thứ II cực kỳ phản động, dưới sự thống trị của giai cấp tư sản, đầy rẫy những tàn ác, bất công trong quan hệ gia đình, quan hệ học đường, quan hệ xã hội. Tập I, Chú bé, với lời đề tặng cho TẤT CẢ NHỮNG AI đã buồn chán đến chết trong trường học hoặc đã phải khóc trong gia đình, những ai, trong thời thơ ấu, bị thầy giáo hành hạ hoặc bị cha mẹ đánh đập”, chính là đã vạch trần những quan hệ gia đình, quan hệ học đường tàn nhẫn đó. Tập II, Cậu tú với lời đề tặng cho “Những ai bụng nhồi đầy tiếng Hy-lạp, tiếng La-tinh mà chết đói”, vừa mỉa mai cái nền giáo dục nhồi sọ, sách vở, xa rời thực tế, vừa tố cáo “cái xã hội chó má nó làm cho những người có học thức và những người can đảm phải chết đói khi họ không muốn làm đầy tớ cho nó”. Đến như tập III, Người khởi nghĩa, với lời đề tặng “Những liệt sĩ năm 1871, những ai là nạn nhân của bất công xã hội, đã cầm vũ khí chống lại một xã hội tổ chức hỏng và họp thành, dưới lá cờ của Công xã, cuộc đại liên minh của những đau khổ”, thì chính là một thiên ký sự lịch sử độc đáo kể lại bước đấu tranh cách mạng tất yếu của Jăc Vanhtrax, và, nhân đó, vẽ lên cả bức tranh nhân dân lao động Pari sôi sục nổi dậy chống chính quyền tư sản đầu hàng giặc, thiết lập Công xã và chiến đấu suốt trong bẩy mươi hai ngày. *** Tiểu thuyết Jăc Vanhtrax , như vậy, với hình tượng nhân vật chủ yếu của nó là Jăc Vanhtrax, bao trùm cả ba tập, vẽ lên thành một điển hình sắc nét của người chiến sĩ Công xã Pari, là một tác phẩm xuất sắc của dòng văn học hiện thực chủ nghĩa nước Pháp, kế tục trực tiếp những truyền thống hiện thực chủ nghĩa của Xtăngđan, của Banzắc mà Juyn Valex đã từng nói đến trong tác phẩm của ông. Tính cách của Jăc Vanhtrax được hình thành và phát triển trong những hoàn cảnh gia đình và xã hội nhất định, đó là điều mà tác giả có ý thức đầy đủ và muốn chứng minh rõ ràng. Song, giá trị hiện thực của bộ tiểu thuyết tăng lên qua ba tập sách với trình độ khái quát hóa càng ngày càng cao thêm. Tập I chủ yếu trình bày cái khung cảnh gia đình và nhà trường tỉnh nhỏ trong đó chú bé Jăc Vanhtrax lớn lên. Trước hết hình tượng bố và mẹ Jăc Vanhtrax cũng đạt tới những nhân vật điển hình sinh động: ông bố tiêu biểu cho một lớp giáo viên không phải thiếu học vấn, thiếu tư tưởng và tinh cảm, nhưng vì nhút nhát, một mặt luôn luôn lo sợ mất chức vụ, mặt khác lại bị bà vợ đành hanh khống chế, nên hóa ra một con người tầm thường, hèn với cấp trên, ác với con; bà mẹ đại diện cho hạng tiểu tư sản xuất thân từ nông dân, với đầu óc hẹp hòi mà hãnh tiến” - muốn đua đòi, bay nhẩy, học làm sang, thậm chí vì không được toại nguyện mà đâm cay nghiệt, tàn ác với con. Bên cạnh hai nhân vật đó tập truyện còn đạt ở một loạt hình tượng chân dung những giáo sư, hiệu trưởng trường trung học, như Tuyếcfanh kiêu căng, hợm hĩnh, khinh người nghèo, hành hạ học trò có học bổng, như Lacbô tâm ngẩm, giảo quyệt, - cóc cần học trò và chỉ dịu dàng với đám con nhà quyền thế, hay như Bécgunha đạo mạo, lạnh lùng, lên mặt triết gia mà độc ác với con như quỷ sứ, thậm chí đã giết con bằng roi vọt tàn bạo, tất cả đều nói lên một chế độ nhà trường ghê tởm, thối tha. Rõ ràng, với những tính cách nhân vật và bức tranh xã hội đạt tới tính chân thực, tính lịch sử và tính khái quát cao, tiểu thuyết Jăc Vanhtrax đã kế tục và phát huy vẻ vang những truyền thống hiện thực chủ nghĩa của Xtăngđan và Banzắc ở nửa sau thế kỷ XIX khi mà chủ nghĩa hiện thực phê phán cổ điển đã bắt đầu xuống dốc với Guyxtavơ Flôbe để mở ra thời kỳ của chủ nghĩa tự nhiên và tiếp theo nó là hàng loạt những trường phái suy đồi đủ loại. Hơn thế nữa, mặc dầu Juyn Valex không vẽ lên một bức tranh xã hội thật rộng lớn, đồ sộ và không đả kích mạnh vào cái mặt cơ cấu của xã hội tư sản là quan hệ tiền bạc như Xtăngđan hay Banzắc, nhưng ông lại vượt hẳn các nhà hiện thực phê phán cổ điển này ở chỗ ông đã mường tượng thấy và đề cập tới người chủ tương lai của xã hội sẽ thay thế cho giai cấp tư sản, đó là giai cấp công nhân. Với ông lần đầu tiên trong văn học Pháp xuất hiện hình ảnh người công nhân, hình ảnh quần chúng nhân dân như những nhân vật anh hùng phần nào với cái tư thế của những người làm nên lịch sử, và ít ra thì cũng đã có lúc họ làm nghiêng ngửa cả uy thế của những tay chính khách tư sản sừng sỏ trong bộ máy thống trị như Juyn Fery, Gămbetta... Và, mặc dầu bộ tiểu thuyết kết thúc bằng sự thất bại của Công xã Pari, người ta không thấy bóng dáng của bi quan thất vọng, trái lại hình ảnh cuối cùng vẫn là hình ảnh của chiến đấu trong tương lai: ... Tôi vừa vượt qua một dòng suối làm biên giới. Chúng nó không bắt được tôi nữa! Và tôi sẽ còn có thế đứng với nhân dân, nếu nhân dân lại bị ném ra ngoài phố và dồn tới chỗ phải chiến đấu. Tôi nhìn trời về phía tôi cảm thấy có Pari. Trời một màu xanh tươi rói, với những đám mây đỏ. Tưởng như một chiếc áo bludơ lớn đẫm máu”. Chính ở những điểm trên đây, tiểu thuyết Jăc Vanhtrax của Juyn Valex, cùng với toàn bộ nền văn học Công xã Pari, đã hé mở ra một bước phát triển mới của văn học hiện thực chủ nghĩa sau này, đó là bước đường đi tới chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta ngày nay. Tháng Năm 1972 TRỌNG ĐỨC Mời các bạn đón đọc Người Khởi Nghĩa của tác giả Jules Vallès.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nam Tước Phôn Gôn-rinh - Yuri Dold-Mikhajlik
Câu chuyện kể về sĩ quan tình báo Liên Xô, Lieutenant Goncharenko, dưới cái lốt là Nam tước Heinrich von Goldring, được cử thâm nhập sâu vào sào huyệt của Đức. Anh đã trải qua nhiều tình huống hiểm nguy và căng thẳng trên địa bàn hoạt động rộng khắp: Đức, Pháp, Ý,… Bên cạnh những cuộc đấu trí, những âm mưu, câu chuyện còn kể lại câu chuyện về tình yêu thời chiến. Cũng như những tiểu thuyết tình báo, phản gián khác, việc thưởng thức từng chi tiết và sự gay cấn là quan trọng, chứ không chỉ hiểu tóm tắt nội dung. Nam tước Phôn Gôn Rinh (И один в поле воин) – Iuri Dold-Mikhajlik (Юрий Дольд-Михайлик) Thật ra tựa đề Nam tước Phôn Gôn-rinh (Von Goldring) là do Nhà xuất bản đặt cho bản dịch tiếng Việt. Tựa gốc tiếng Nga có nghĩa là “Một mình trên chiến trường vẫn là chiến sĩ”. Đây là cuốn tiểu thuyết tình báo của Liên Xô, viết về thời kỳ chiến tranh với Đức Quốc xã. Tôi chưa có điều kiện để tìm hiểu xem tác phẩm này có nằm trong danh sách những tiểu thuyết tình báo hay nhất hay không, nhưng có thể nói đây là cuốn sách kinh điển trong thể loại này. Tác giả là nhà văn người Ukraine, cho nên tôi gặp nhiều kiểu phiên âm tên trong tiếng Anh (và cả trong tiếng Việt, tất nhiên). Mikhajlik, Mykhailyk hay Mikhailik đều được dùng, và hình như tác phẩm này chưa được dịch ra tiếng Anh. (Đây cũng chính là điểm thú vị của người đọc sách Việt Nam: sách Nga Xô hay Âu Mỹ gì cũng có cả!?). Cuốn sách này cũng đã được dựng thành phim tên “Xa Tổ quốc” (Вдали от Родины / Far from the Motherland) năm 1960. Tôi đọc bản tiếng Việt do NXB Thanh Niên tái bản năm 1982, gồm 2 tập dày cộp, do Trọng Phan – Hà Bắc dịch. Đã gần 30 năm nên giấy đã trở nên đen, chữ khá nhòe. Hy vọng sẽ có những lần tái bản đẹp hơn để các bạn thưởng thức. ***     Cách đây hơn 40 năm, năm 1960, lần đầu tiên cuốn "Nam tước Phôn Gôn-rinh" của Mỉ-khai-lich in ra đã gây được dư luận tốt trong đông đảo bạn đọc trẻ tuổi nước ta. Đây là một trong mười chuyện tình báo hay nhất của Liên Xô cũ, trước năm 1959.         Nội dung chủ yếu của cuốn sách: Dựa vào một chuyện có thật, tác giả dựng nên hình tượng người báo Xô-viết nhân vật Nam tước Phôn Gôn-rinh - nhận mệnh lệnh tình báo chiến lược của Bộ Tư lệnh Hồng quân Liên Xô vào hoạt động tận sào huyệt của bọn phát-xít Đức, trong Chiến tranh thế giới thứ hai.         Một mình hoạt động trên một chiến trường rất rộng, từ Liên Xô qua Đức, sang Pháp, đến I-ta-li-a, người tình báo Xô-viết gặp vô vàn khó khăn, nhiều lúc tính mệnh tưởng chừng như nghìn cân treo sợi tóc. Nhưng nhờ vào thông minh và lòng dũng cảm, người chiến sĩ ấy đã chiến đấu và thắng trở trong niềm hân hoan của nhân dân và Hồng quân Liên Xô.         Tục ngữ Nga có câu: "Một trên chiến trường không phải là chiến sĩ".Tác giả viết tác phẩm này, xây dựng nên hình tượng Nam tước Phôn Gôn-rinh và đặt tên cho tác phẩm của mình: "Một mình trên chiến trường vẫn là chiến sĩ"  (И один в поле воин). Tên sách "Nam tước Phôn Gôn-rinh" là Nhà xuất bản chúng tôi đặt năm 1960. Điều đó biểu thị thái độ của người đã khẳng định bản lĩnh của con người Xô-viết, khẳng định sức mạnh chân lý và chính nghĩa của cuộc chiến tranh chống phát-xít, do Liên Xô cũ tiến hành, để cứu loài người khỏi họa diệt vong.         Và, điều đáng nói hơn cả ở cuốn này tác giả lý giải cái cội nguồn làm nên bản lĩnh và mạnh của người báo Xô-viết. Đó là tình yêu nồng nàn đối với Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và tình cảm quốc tế thắm thiết. Như thế, yêu tổ quốc và tình cảm quốc tế trong sáng là nội dung tư tưởng chủ đê nổi bật của tác phẩm. Tác phẩm này đã được xưởng Mốtxphim đưa lên màn ảnh với cái tên "Xa Tổ quốc", do Bôn-đa-súc, một nhà hoạt động nổi tiếng của nền điện ảnh Xô-viết đạo diễn.         Cuốn "Nam tước Phôn Gôn-rinh" lần đầu ra ở nước ta cách đây đã hơn 40 năm. Nhưng dư âm của nó vẫn còn vang vọng, chúng tôi cho tái bản cuốn sách với hy vọng bạn đọc vẫn tìm được ở đây sự say mê với nhân vật "Nam tước Phôn Gôn-rinh". NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN          Mời các bạn đón đọc Nam Tước Phôn Gôn-rinh của tác giả Yuri Dold-Mikhajlik.
Võ Sĩ Lên Đài - Ma Văn Kháng
Võ sĩ lên đài là tiểu thuyết với những câu chuyện và chi tiết có thật, hấp dẫn... ít ai biết về tuổi trẻ của một thời hào hùng. Chuyện xảy ra tại Hà Nội những năm chống thực dân Pháp sau ngày toàn quốc kháng chiến. Cuộc đấu tranh của các thanh thiếu niên Việt Nam yêu nước chống bọn thực dân cùng những kẻ cơ hội thông qua môn thể thao quyền Anh, âm thầm và quyết liệt. Các thiếu niên, theo năm tháng dần trở thành thanh niên, giàu tình cảm và sâu sắc, một mặt chăm chỉ học hành, mặt khác bí mật tham gia các hoạt động yêu nước, chống xâm lược và việt gian ngay trong thành phố. Trong cuộc chiến vì cái đẹp của môn quyền Anh, một biểu trưng của tinh thần thượng võ, lòng can đảm, tinh thần bất khuất của ông cha đã được thấm nhuần và thể hiện qua các cuộc giao đấu của Nhân và Tùng, có cả thắng và thua, nhưng họ đã tìm thấy bài học lớn: có thể thất bại để tìm lại sức mạnh nội lực của mình. Tiểu thuyết dựa trên những chi tiết có thật về cuộc đời của Phạm Xuân Nhàn, võ sĩ quyền Anh nổi tiếng những năm 50 của thế kỷ trước (ông đã từng là võ sĩ vô địch quốc gia, tham dự Á vận hội năm 1954 tại Manila, Philipinnes). Một giai đoạn kháng chiến với cách thể hiện sinh động cuộc sống học đường của thiếu niên học sinh Hà Nội đô thành trong thời kỳ Pháp tạm chiếm, các hoạt động thể thao, thi đấu, những câu chuyện và chi tiết có thật ít ai biết vì chưa có tài liệu sách báo nào nói tới…, tất cả đã làm nên giá trị đặc biệt cho cuốn tiểu thuyết mới của nhà văn Ma Văn Kháng. *** Cuốn sách đã được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt thành, đặc biệt về mặt cung cấp và hiệu đính các tư liệu chuyên môn, kỹ thuật của bác sĩ y học thể dục thể thao Phạm Xuân Nhàn, cựu võ sĩ quyền Anh, vô địch Quốc Gia, tham dự Á Vận Hội năm 1954 tại Manila-Philippin. Được xuất bản lần này, cuốn sách một lần nữa là lời tri ân của tác giả với bác sĩ - võ sĩ Phạm Xuân Nhàn. *** Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ Mời các bạn đón đọc Võ Sĩ Lên Đài của tác giả Ma Văn Kháng.
Đường Một Chiều - Nguyễn Mộng Giác
Đường Một Chiều là một cuốn tiểu thuyết tình cảm, phản ảnh một góc nhỏ xã hội miền Nam trong thời chinh chiến, tất cả xoay quanh câu chuyện về một vụ thảm sát khó hiểu diễn ra ngay trong nhà của thiếu tá Lộc.  Nhân vật chính là một sĩ quan cấp tá của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông đồn trú xa nhà với chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng một tiểu đoàn tác chiến. Gia đình ông gồm Thúy, vợ ông, bé Ly, 14 tuổi con riêng của bà Thúy và 2 đứa con nhỏ. Ngoài ra, hạ sĩ Ninh, được vợ chồng ông xem như em, ở chung nhà, vừa làm nhiệm vụ tài xế vừa làm quản gia cho gia đình. Chính Ninh là người mở ra thảm kịch gia đình cho thiếu tá Lộc. Toàn bộ nội dung cuốn sách là những phiên xử, những góc khuất trong mối quan hệ của Ninh với các thành viên trong gia đình Lộc, những suy nghĩ của người nhà nạn nhân cũng như bị can, những tình tiết giả thiết mà báo chí, luật sư thêm vào trong vụ thảm sát. Sự việc cuối cùng rồi sẽ ra sao? Liệu Lộc có tha thứ cho cấp dưới của mình? Liệu Ninh có bị xử đúng tội theo như pháp luật? Liệu các con của Thúy có thôi ám ảnh trước cái chết của mẹ mình? Đường Một Chiều là một tác phẩm khá nổi bật của Nguyễn Mộng Giác và xứng đáng là một trong những tác phẩm xuất sắc của nền văn học chế độ Sài Gòn cũ. *** Nguyễn Mộng Giác (1940 - 2012) là nhà văn Việt Nam. Năm 1981, ông rời quê hương, định cư tại Hoa Kỳ vào cuối năm 1982, và rồi mất tại đây vào tháng 7 năm 2012. Ông sinh ngày 4 tháng 1 năm 1940 tại thôn Xuân Hòa, xã Bình Phú, quận Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn), tỉnh Bình Định, miền Trung Việt Nam. Thời kháng chiến chống Pháp 1946 đến 1954, ông học tiểu học và trung học tại vùng kháng chiến. Sau Hiệp định Genève 1954, ông tiếp tục học tại trường Cường Để (Quy Nhơn), trường Võ Tánh (Nha Trang), rồi học năm chót của bậc trung học tại trường Chu Văn An (Sài Gòn). Sau khi học một năm ở Đại học Văn Khoa Sài Gòn, ông ra Huế học Đại học Sư phạm ban Việt-Hán. Năm 1963, ông tốt nghiệp thủ khoa, khóa Nguyễn Du. Ngay năm ấy, ông được điều đến giảng dạy tại trường Đồng Khánh ở Huế. Năm 1965, đổi ông vào Quy Nhơn làm Hiệu trưởng trường Cường Để. Năm 1973, thăng ông làm Chánh sở Học chánh tỉnh Bình Định. Năm 1974, chuyển ông vào Sài Gòn làm chuyên viên nghiên cứu giáo dục Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa cho đến 1975. Về sự nghiệp văn chương, ông bắt đầu viết văn từ năm 1971, đã cộng tác với các tạp chí: Bách Khoa, Văn, Thời Tập, Ý Thức. Năm 1974, truyện dài Đường một chiều của ông được giải thưởng Văn Bút Việt Nam dưới thời Việt Nam Cộng hòa . Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, việc sáng tác của ông tạm gián đoạn. Đến năm 1977, ông cầm bút trở lại, và bắt đầu viết bộ trường thiên tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ, và hoàn thành vào năm 1981. Tháng 11 năm đó (tức sau khi vừa viết xong bộ truyện trên), ông cùng con trai vượt biển. Chuyến vượt biển thành công, ông đã đến được đảo Kuku của Indonesia. Trong mấy tháng ở đây, ông đã viết được một số truyện ngắn mà sau này xuất bản thành cuốn Ngựa nản chân bon, và tập I của bộ trường thiên tiểu thuyết Mùa biển động. Tháng 11 năm 1982, ông đến Hoa Kỳ, định cư tại Nam California[3], rồi cộng tác với các báo: Đồng Nai, Việt Nam Tự Do, Người Việt, Văn, Văn Học Nghệ thuật ở nước ngoài. Từ năm 1986, ông làm Chủ bút tạp chí Văn Học ở California, Hoa Kỳ. Đến tháng 8 năm 2004, ông phải ngưng công việc làm báo vì phát hiện mình bị ung thư gan. Sau nhiều năm dài chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo, ông đã qua đời lúc 22 giờ 15 phút ngày 2 tháng 7 năm 2012 (ngày giờ địa phương ở California, tức sáng ngày 3 tháng 7 năm 2012 giờ Việt Nam) tại tư gia ở thành phố Westminster (Orange County, California, Hoa Kỳ), thọ 72 tuổi.   Mời các bạn đón đọc Đường Một Chiều của tác giả Nguyễn Mộng Giác.
Bức Chân Dung - Nikolai Gogol
Nikolai Vasilyevich Gogol (tiếng Ukraina: Микола Васильович Гоголь, tiếng Nga: Николай Васильевич Гоголь, tiếng Ba Lan: Nikołaj Wasiljewicz Gogol; 1 tháng 4 năm 1809 – 4 tháng 3 năm 1852) là một nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng Nga và Ukraina. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông Những linh hồn chết, được xem là cuốn tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của văn học Nga và Ukraina. Trong các tác phẩm của mình, ông không chừa ai cả, từ hoàng đế đến quan lại, từ trí thức đến bình dân, từ giới địa chủ đến giới nông nô, tất cả đều là mục tiêu châm chích cho ngòi bút ông. Người ta đã gọi những tác phẩm đó là "những bức hí họa về nước Nga và người Nga". Tuy nhiên cũng nhờ tính sinh động và sức thuyết phục nảy sinh từ ngòi bút, ông đã làm mờ nhạt đi bộ mặt thật kinh khủng của nó, để lôi cuốn không ngừng đôi mắt độc giả theo một mặt trái ẩn tàng những hình nét đáng cảm động hơn. Vào những ngày cuối đời, ông bị một căn bệnh kỳ lạ ở mũi và phải dùng đỉa để chữa bệnh cho mình. Ông đã phải chịu đựng sự đau đớn vì kiểu chữa bệnh đó cho đến lúc chết. Ba nhân vật vĩ đại nhất của văn học Nga thế kỷ 19 từng định đoạt sự phát triển tinh thần của nhân dân trong thế kỷ 19 và 20 là Gogol, Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, Lev Nikolayevich Tolstoy - không chỉ là những nhà văn cực lớn của nước Nga, của nhân loại, mà còn là những nhà tư tưởng lớn nhất của nước Nga thế kỷ 19. *** Không có nơi nào đông người đứng lại xem như trước gian hàng bán tranh trong khu chợ lợp Shchukin. Đúng thế, ở đây tập hợp hết sức linh tinh đủ các thứ lạ mắt, phần lớn là những bức tranh dầu, phủ một lớp tráng bóng màu lục thẫm, trong những chiếc khung hào nhoáng màu vàng đậm. Mùa đông với những cây trắng xóa, cảnh mặt trời lặn đỏ ối trong như ánh lửa rực lên từ một đám cháy, một bác nông dân xứ Flandre, mồm ngậm tẩu, cánh tay cong vẹo, trông giống một con gà tây mặc áo hơn là một con người – đề tài của những bức tranh ấy thường là như vậy, thêm vào đấy là mấy bức tranh khắc gỗ: Chân dung Khozrev-Mirza[1] đội mũ lông cừu, chân dung mấy vị tướng đội mũ ba sừng, cái mũi cong lệch. Ngoài ra, cánh cửa loại gian hàng này thường lấp kín sau những tập tranh dân gian rộng khổ, in thứ tranh ảnh thể hiện cái thiên tư của người dân Nga. Một bức vẽ nàng công chúa Miliktrisa Kirbitievna; một bức vẽ thành Jerusalem, màu đỏ tràn lên mấy ngôi nhà và nhà thờ, quệt đỏ ngầu cả một khoảng đất, và hai người mu gích[2] Nga đang cầu nguyện, tay đeo bao. Người mua những bức tranh này thường chẳng có mấy nhưng người xem thì đông vô kể. Trong đám này thế nào cũng có một gã hầu phòng nát rượu đứng xem, mồm há hốc, tay cầm thức ăn vừa mua ở hiệu về cho chủ: chủ nó chắc chắn sẽ không phải bỏng mồm vì món xúp. Lại thế nào cũng có một anh lính, nhân vật chính của các chợ tầm tầm, tay cầm vẻn vẹn chỉ có hai con dao nhíp để chào khách, hoặc giả một chị bán hàng rong bưng một hộp đầy ních những giày. Mỗi người thưởng thức tranh một cách riêng; mấy bác mu gích giơ tay chỉ trỏ, mấy anh lính xem xét tận nơi, vẻ nghiêm trang; mấy thằng bé đi ở, mấy chú học nghề cười đùa chỉ trỏ cho nhau xem những bức biếm họa để rồi trêu nhau; những bác hầu phòng có tuổi khoác áo dạ thô thì chỉ cốt đứng lại để ngáp; còn những cô bán hàng rong, đúng kiểu các bà mẹ nhà quê Nga, do bản năng cũng chạy đến để nghe thiên hạ bàn tán và xem người ta đang làm gì. Đúng lúc ấy, Chartkov, một họa sĩ trẻ tuổi, đi ngang qua trước gian hàng, bất giác cũng dừng lại. Nhìn chiếc áo khoác cũ kỹ và bộ quần áo không chút cầu kỳ ta biết anh ta thuộc hạng người sống chỉ vì công việc, không có thì giờ nghĩ đến trang phục, tuy món này vốn là thứ hấp dẫn đám thanh niên lạ thường. Anh ta lúc đầu dừng chân trước gian hàng chỉ để cười thầm những bức tranh xấu xí nọ. Nhưng rồi sau, bất giác, anh trở nên đăm chiêu tư lự; anh băn khoăn không hiểu những bức tranh này liệu có ai cần đến. Ừ, người dân Nga ưa chuộng những bức thư Yeruslan Lazarevich, Ngốn khỏe và Nốc khỏe, Foma và Yerema điều đó anh chẳng lấy làm lạ; những đề tài ấy rất đơn giản và dễ hiểu, nhưng còn những mớ tranh tồi quét sơn dầu, màu sặc sỡ và bẩn thỉu kia thì ai mua? Ai là người cần đến bức chân dung bác nông dân xứ Flandre ... Mời các bạn đón đọc Bức Chân Dung của tác giả Nikolai Gogol.