Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sau Bữa Tiệc

Tuyết Sinh dịch YUKIO MISHIMA (1925-1970)Yukio Mishima (三島 由紀夫; phiên âm: (Tam Đảo Do Kỷ Phu), tên thật Hiraoka Kimitake (平岡 公威; phiên âm: Bình Cương Công Uy) (14 tháng 1 1925 - 25 tháng 11 1970) là một nhà văn và nhà biên kịch Nhật Bản, nổi tiếng với các tác phẩm như Kinkakuji (1956), bộ bốn tác phẩm "豐饒の海" (Hōjō no Umi, Biển cả muôn màu, 1965-70). Mishima sinh ra tại quận Yotsuya ở Tokyo (ngày nay là một phần của Shinjuku). Cha ông là Azusa Hiraoka, một nhân viên chính phủ, trong khi mẹ ông Shizue, là con một hiệu trưởng tại Tokyo. Ông bà nội của Mashima là Jotarō và Natsuko Hiraoka. Ông có một người em trai tên là Chiyuki và một em gái tên Mitsuko, người qua đời sớm do sốt ban. Tuổi thơ của Mishima bị phủ bóng bởi người bà Natsu, người đã nuôi và cách ly ông khỏi gia đình trong vài năm. Natsu là cháu nuôi của Matsudaira Yoritaka, một daimyo của Shishido tại tỉnh Hitachi và lớn lên trong gia đình công chúa Arisugawa Taruhito; bà vẫn duy trì lễ giáo quý tộc ngay cả sau khi kết hôn với ông của Mishama. Natsu là một người cục cằn và dễ nổi nóng, điều này thường xuyên được ám chỉ trong các tác phẩm của Mishima. Chính qua tìm hiểu Natsu mà một số người đã phát hiện nỗi ám ảnh với cái chết của Mishima. Natsu thường không cho Mishima ra ngoài ánh nắng hay tham gia vào bất hoạt động thể thao nào với các cậu bé khác; điều này khiến ông phải dành phần lớn thời gian một mình hoặc chơi đồ chơi con gái. Mishima trở lại gia đình năm 12 tuổi. Cha ông, một con người của kỉ luật quân đội, đã áp dụng kỉ luật sắt với cậu bé Mishima bằng cách bồng cậu bé lên thành của một con tàu cao tốc; cha của Mishima cũng thường xuyên lùng sục phòng của ông và phát hiện những sở thích "ẻo lả" về văn chương của Mishima và xé các bản thảo đó của ông. Ở tuổi 12, Mishima viết những câu chuyện đầu tiên của ông. Ông đọc ất nhiều các tác phẩm của Oscar Wilde, Rainer Maria Rilke và vô số những tác gia kinh điển Nhật Bản khác. Ông nhập học một trường dành cho tầng lớp quý tộc ở Nhật. Sau sáu năm học, Mishima trở thành thành viên trẻ nhất trong ban biên tập văn học của trường, ông bị cuốn hút bởi các tác phẩm của Tachihara Michizō. Những tác phẩm xuất bản đầu tiên của ông bao gồm thơ Waka, trước khi chuyển hướng sang thể loại văn xuôi. Mishima được mời viết chuyện ngắn văn xuôi cho tạp chí văn học của trường và gửi bản Hanazakari no Mori (花ざかりの森 The Forest in Full Bloom), một câu chuyện trong đó người kể mô tả cảm xúc về những người tổ tiên còn sống trong nội tâm nhân vật. Giáo viên của Mishima rất ấn tượng với câu chuyện và họ giới thiệu nó cho tạp chí văn học uy tín, Bungei-Bunka (文芸文化 Literary Culture). Câu chuyện với ngôn ngữ ẩn dụ và cách ngôn, đã được xuất bản năm 1944, giới hạn trong 4000 bản do việc thiếu nguyên liệu giấy thời chiến tranh. Để bảo vệ ông khỏi phản ừng từ các bạn đồng môn, các giáo viên của Mishima đã đặt cho ông bút danh "Yukio Mishima". Chuyện Tabako (煙草, tạm dịch: Thuốc lá), xuất bản năm 1946, mô tả sự khinh miệt và đối xử mà Mishima gặp phải ở trường khi ông thổ lộ với những thành viên của CLB Rugby trường rằng ông gắn bó với nghề văn chương. Những kí ức này cũng là nguồn tư liệu cho tác phẩm Shi o Kaku Shōnen (詩を書く少年, tạm dịch: Cậu bé làm thơ) sau này, xuất bản năm 1954. Mishima bị gọi kiểm tra sức khỏe quân ngũ trong thế chiến II. Nhưng khi kiểm tra sức khỏe, ông bị cảm lạnh và đã nói dối với bác sĩ quân đội rằng mình bị lao, vì vậy Mishima đã được tuyên bố là không đủ tiêu chuẩn sức khỏe nhập ngũ. Dù cho người cha cấm ông không được viết truyện nữa, nhưng Mishima vẫn tiếp tục bí mật viết vào buổi đêm, dưới sự ủng hộ và bảo vệ của mẹ ông, bà luôn là người đầu tiên đọc một chuyện mới của Mishima. Tham dự các buổi thuyết giảng ban ngày và viết chuyện ban đêm, Mishima tốt nghiệp trường Đại học Tokyo năm 1947. Sau đó ông dành được một vị trí nhân viên bộ tài chính trong chính phủ, một tương lai sáng lạn đang chờ đón. Tuy nhiên, Mishima lại cảm thấy kiệt sức và cha ông đồng ý cho ông từ chức trong năm đầu tiên để tập trung thời gian cho viết lách. Mishima bắt đầu viết chuyện ngắn Misaki nite no Monogatari (岬にての物語 A Story at the Cape) năm 1945 và tiếp tục viết cho đến cuối thế chiến thứ 2. Vào tháng 1 năm 1946, ông tới thăm nhà văn Yasunari Kawabata tại Kamakura và mang theo bản thảo chuyện Chūsei (中世 The Middle Ages) và Tabako, nhằm xin lời khuyên và sự giúp đỡ của Kawabata. Tháng 6 năm 1946, nhờ lời khuyên của Kawabata, Tabako được tạp chí văn chương mới Ningen (人間 Humanity) xuất bản. Cũng trong năm 1946, Mishima bắt đầu viết tiểu thuyết đầu tay, Tōzoku (盗賊 Thieves), trong đó câu chuyện kể về hai thành viên trẻ trong gia đình quý tộc luôn muốn được tự vẫn. Tiểu thuyết này xuất bản năm 1948, nhờ nó mà Mishima đã được xếp vào hàng ngũ thế hệ thứ hai của những nhà văn thời hậu chiến. Sau đó, ông cho ra đời Confessions of a Mask, một tác phẩm bán tự truyện kể về người đồng tình luôn phải lấp sau mặt nạ để hòa nhập vào xã hội. Cuốn tiểu thuyết đã rất thành công và biến Mishima trở thành một nhân vật nổi tiếng ở tuổi 24. Vào khoảng năm 1949, Mishima cho xuất bạn một serie tiểu luận trong Kindai Bungaku về Kawabata Yasunari, người mà ông dành cho một sự ngưỡng mộ sâu sắc. Mishima là một nhà văn đa tài, ông không chỉ viết tiểu thuyết, tiểu thuyết ngắn, chuyện ngắn, tiểu luận mà còn là một nhà biên kịch có tiếng cho sân khấu kịch Kabuki và những phiên bản hiện đại của thể loại kịch Nō. Các tác phẩm của ông đã dành được tiếng vang quốc tế và rất nhiều trong số đó đã được dịch sang tiếng Anh. Mishima đã đi tới rất nhiều nơi; năm 1952, ông tới thăm Hy Lạp, đất nước đã từng làm say đắm ông từ thời thơ ấu. Những kinh nghiệm thu được từ chuyến thăm đã xuất hiện trong Shiosai (Sound of the Waves), xuất bản năm 1954, câu chuyện lấy cảm hứng từ thần thoại Daphnis và Chloe của Hy Lạp. Mishima cũng khắc họa những sự kiện đương thời trong các tác phẩm của mình. The Temple of the Golden Pavilion xuất bản năm 1956, là một câu chuyện tiểu thuyết hóa về vụ cháy ngôi chùa nổi tiếng ở Kyoto. Utage no Ato (After the Banquet), xuất bản năm 1960, bám sát những sự kiện xung quanh chiến dịch tranh cử thị trưởng Tokyo của chính trị gia Hachirō Arita, vì tác phẩm này mà Mishima đã bị kiện vị tội xâm phạm cá nhân. Năm 1962, tác phẩm Utsukushii Hoshi (Beautiful Star), một tác phẩm gần với thể loại khoa học viễn tưởng thời đó, được xuất bản và nhận được những phản ứng trái ngược. Mishima từng ba lần được đề cử giải Nobel và là một nhà văn yêu thích của rất nhiều nhà xuất bản quốc tế. Tuy nhiên, năm 1968, người thầy đầu tiên của ông Kawabata dành được giải Nobel và Mishima hiểu rằng cơ hội nhận được giải thưởng cho người Nhật Bản trong tương lai gần là rất nhỏ. Cũng có tin đồn rằng Mishima muốn chuyển giải thưởng cho bậc lão thành Kawabata, người đã giới thiệu ông tới văn đàn Tokyo trong thập niên 1940. Năm 1955, Mishima tham gia lớp tập thể thao và chế độ dinh dưỡng cho tập luyện ba buổi một tuần được ông tuân thủ trong suốt 15 năm cuối đời. Trong bài tiểu luận xuất bản năm 1968, Sun and Steel, Mishima phàn nàn về việc những nhà trí thức coi trọng đầu óc hơn thân thể. Mishima sau đó đã trở nên rất điêu luyện với môn kendō. Dù cho đã từng thăm các quan bar dành cho gay ở Nhật Bản, vấn đề định hướng giới tính của Mishima hiện vẫn là một chủ đề bàn thảo ở Nhật. Mishima kết hôn với Yoko Sugiyama ngày 11 tháng 6 năm 1958 và có hai con là Noriko (1959) và Lichiro (1962). Năm 1967, Mishima gia nhập Lực lượng phòng vệ đất liền Nhật Bản và trải qua việc tập luyện cơ bản. Một năm sau đó, ông thành lập Tatenokai (Hội lá chắn) nhằm tập hợp các thanh niên trai tráng có võ và thề sẽ bảo vệ Nhật Hoàng. Trong 10 năm cuối cuộc đời, Mishima viết một vài vở kịch và tham gia đóng trong vài bộ phim cũng như đồng chỉ đạo một bộ phim chuyển thể từ một trong những chuyện của ông, Patriotism, the Rite of Love and Death. Ông cũng tiếp tục viết bộ bốn tác phẩm , Hōjō no Umi (Sea of Fertility), những tác phẩm xuất bản theo khổ định kỳ từ tháng 9 năm 1965. Ngày 25 tháng 11 năm 1970, Mishima và bốn thành viên của Hội lá chắn, tới thăm sĩ quan chỉ huy doanh trại Ichigaya, một trụ sở ở Tokyo của Lực lượng phòng vệ Nhật Bản. Bên trong trụ sở, họ dựng chướng ngại vật và trói vị chỉ huy trên ghế. Với một bản tuyên ngôn và khẩu hiệu chuẩn bị sẵn nêu rõ các yêu cầu, Mishima bước ra ban công để hô hào các binh sĩ tụ tập phía dưới và xúi dục họ đảo chính để thiết lập lại sức mạnh của hoàng đế. Tuy nhiên, những lời nói của Mishima chỉ khiến chọc giận các binh sĩ và bản thân ông thì bị chế giễu. Ông hoàn thành bài diễn văn đã chuẩn bị sẵn, trở lại phòng chỉ huy và tự sát theo nghi thức seppuku, nhiệm vụ sau cùng truyền thống của nghi thức này được giao cho thành viên Masakatsu Morita của Hội lá chắn thực hiện, tuy nhiên Morita không đủ khả năng thực hiện điều này và cuối cùng Mishima cho phép một thành viên khác của Hội lá chắn, là Hiroyasu Koga ,chặt đầu ông. Những nghi vấn được đặt ra xung quanh sự tự vẫn của Mishima. Vào thời điểm Mishima qua đời, ông đã hoàn thành tác phẩm cuối cùng The Sea of Fertility. Ông được công nhận là một trong những nhà văn hậu chiến phong cách nhất trong văn học ngôn ngữ Nhật. Mishima viết 40 tiểu thuyết, 18 vở kịch, 20 sách về chuyện ngắn, khoảng 20 sách về tiểu luận cũng như một kịch bản. Phần lớn các tác phẩm này bao gồm những cuốn sách được viết nhanh nhằm thu lợi nhuận, dù chúng bị coi nhẹ nhưng những phần quan trọng của các cuốn sách này vẫn được lưu giữ. Vào cuối đời, Mishima là một người tán dương chủ nghĩa dân tộc. Các nhân vật cánh tả không ưa gì ông, đặc biệt là vì ý tưởng chấn hưng tinh thần võ sĩ đạo (bushidō) của Mishima, ông cũng bị rất nhiều những người theo chủ nghĩa dân tộc chỉ trích vì luận điểm nêu ra trong Bunka Bōeiron (文化防衛論 A Defense of Culture), cho rằng Hirohito nên thoái vị và phải nhận trách nhiệm cho sự chết chóc trong chiến tranh. ∙ Giải Shincho của Nhà xuất bản Shinchosha, 1954, cho The Sound of Waves. ∙ Giải Kishida của Nhà xuát bản Shinchosha cho các tác phẩm kịch, 1955. ∙ Giải Yomiuri của Báo Yomiuri Newspaper Co., cho tiểu thuyết xuất sắc nhất, 1957, The Temple of the Golden Pavilion. ∙ Giải Yomiuri của Báo Yomiuri Newspaper Co., cho vở kịch xuất sắc nhất, 1961, Toka no Kiku. LỜI NGƯỜI DỊCH Từ thế kỷ 15, nước Nhật có một loại nghệ thuật sân khấu giống tương tự như hát bội ở Việt Nam. Những đề tài được bộ môn này đưa lên diễn tả trên sân khấu phần nhiều bắt nguồn từ những chuyện cổ tích Nhật. Nghệ thuật sân khấu này tiếng Nhật gọi là Noh. Sau đây là quang cảnh của một sân khấu hát Noh. Những nhân vật chánh đeo mặt nạ, mặc quần áo đặc biệt tượng trưng cho những vai liên hệ tới đề tài diễn tả. Một ban hợp ca đề xướng lên những bài hát được dùng làm âm thanh phụ hoạ cho những lời nói của nhân vật chánh. Ngoài ra còn có tiếng sáo và tiếng trống đệm. Sau đây là thí dụ về tuồng tích của một tuồng Noh. Chuyện cổ tích có kể rằng: ngày xưa có một chàng trai thuộc dòng dõi nho phong, thanh lịch. Anh ta yêu một thiếu nữ và nàng đặt điều kiện là anh ta phải tới hầu hạ tại nhà nàng trong chín mươi chín đêm liền, để rồi tới đêm thứ 100 thì nàng sẽ ban tình yêu cho. Anh ta đã kiên nhẫn tới nhà nàng liên tiếp trong 99 đêm liền để rồi sau đó lại ra về không. Tới đêm thứ 100, khi sắp sửa tới lúc được quyền yêu nàng, thì anh ta lại chỉ tới để tự tìm cái chết ngay trước mặt nàng. Tên người con trai đó là Fuka-kusa-no- Shosho và người con gái: Kayoi Komachi. Trên đây là đoạn chuyện cổ tích, và tuồng Noh chỉ bắt đầu diễn tả từ khúc nối tiếp vào câu chuyện đó như sau: Khi màn kéo lên, trên sân khấu khán giả thấy một bóng ma đàn bà mặc quần áo đỏ, có hoa sặc sỡ tượng trưng cho gia đình giàu có, đang thơ thẩn hái những hạt đậu. bóng ma đeo mặt nạ đó chính là hồn của Komachi hiện lên. Tiếng sáo và trống dạo đầu rồi ban hợp ca đồng xướng lên những câu hát: “Hỡi nàng con gái kia, nhặt những hạt đậu gì vậy?...” Sau đó xuất hiện một nhà sư đi qua, nhìn thấy biết nàng là hồn ma hiện về, nên đến hỏi han. Nàng liền thú thật mọi chuyện tiền oan, nghiệp chướng đã lỡ gây ra nên bây giờ mặc dầu chết rồi hồn vẫn còn lẩn quẩn với mối tình chốn dương gian. Nghe xong, nhà sư liền niệm Phật, tụng kinh và dùng triết lý khuyên giải để đưa hồn người đàn bà bất hạnh về Tây Trúc. Nhờ đó, hồn nàng mới siêu thoát được và không còn hiện về nữa. Mishima rất thích loại tuồng Noh này, tháng nào cũng đi coi một lần. Và từ đó ông rút ra một quan niệm triết lý về cái Đẹp của nghệ thuật như sau: “Đẹp là cái gì tàn bạo, dũng mãnh để đi tới chỗ tự huỷ hoại.” Theo Mishima, loại văn chương mô tả tâm lý quằn quại đau khổ của con người như văn của Shakespeare chỉ là những món ăn tinh thần của giới trưởng giả “bourgeois”. Loại văn chương đó không thể hiện được cái Đẹp tuyệt đối của sự vật. Cái Đẹp âm thầm, cuối cùng, vĩnh cửu chỉ có thể tìm thấy trong sự bạo động và nhất là trong sự chết. Chính cái Đẹp đó đã được thể hiện trong văn thơ của Thomas Mann với cuốn truyện “Death in Venice” (Bản dịch của Nguyễn Tử Lộc, Trẻ xuất bản) hay Edga Allan Poe trong tập thơ “Con Quạ.” Năm 1970, Mishima có viết một bài nguyên văn bằng Anh ngữ, đăng trong Đặc san “This is Japan” dưới nhan đề Japan Within (Bề trong Nhật Bản) để diễn tả triết lý về cái Đẹp của sự Chết như sau: “Nếu những sự bành trướng, kỹ nghệ và tân tiến hoá, với một đời sống xô bồ gần như điên dại của đám dân thành thị là “bộ mặt bề ngoài” của nước Nhật thì tôi tự cảm thấy cần phải cương quyết bảo vệ và tái lập nội dung “Nhật Bản bên trong”. Tuồng Noh chính là một tiêu chuẩn để tạo ra sự thanh tịnh của tâm hồn. Chính vẻ Đẹp của sự thanh tịnh đó đã lôi kéo tôi rời bỏ đời sống xô bồ hời hợt của nước Nhật bề ngoài hiện nay. Một cái xô bồ bề ngoài đã huỷ hoại những giá trị bên trong –và thúc đẩy tôi tạo ra một bộ mặt mới khác cho Nhật Bản. Và chính sự Chết đã nằm dưới cái Đẹp đó. Một ngày nào đó rất có thể, tôi sẽ đi theo sức lôi cuốn của vẻ đẹp này để tìm tới cái chết trong sự huỷ hoại, im lặng.” Bốn năm sau khi viết câu chuyện này, Mishima đã tự tử theo nghi lễ võ sĩ đạo. Ông sống tất cả 48 năm, kể từ lúc mở mắt chào đời tại Tokyo năm 1925. VÀI ĐIỀU GHI NHẬN VỀ CUỐN TIỂU THUYẾT “SAU BỮA TIỆC” Đây là một cuốn tiểu thuyết luận đề tương tự như loại tiểu thuyết luận đề Đoạn Tuyệt của Nhất Linh. Những luận đề được lồng vào Sau Bữa Tiệc là: Vấn đề đạo đức: Có ba khuôn mặt điển hình, tượng trưng cho 3 quan niệm đạo đức khác nhau: Noguchi. Tượng trưng cho quan niệm Đạo Đức Bổn phận theo kiểu Đạo Đức của Kant. Phải tuân theo những nguyên tắc tối thượng, bất di bất dịch của Đạo Đức. Đây là những nguyên tắc phổ quát chi phối mọi hoạt động của con người. Kazu. Đại diện cho quan niệm đạo đức cởi mở, đạo đức sáng tạo của Bergson. Quan niệm đạo đức này cho rằng phải tuỳ hoàn cảnh mà áp dụng những quy luật đạo đức một cách uyển chuyển, luôn sáng tạo ra những lề luật mới, những cách áp dụng mới. Nagayama. Đại diện cho khuynh hướng đạo đức cá nhân. Câu châm ngôn phát biểu cho quan niệm đạo đức này như ông ta đã nói với Kazu là “Tôi làm việc tôi làm.” Vấn đề Chánh trị. Ông đưa ra hai loại chánh khách: loại chánh khách lý tưởng (Noguchi) và loại chánh khách theo chủ nghĩa Hiện thực – Realism (Yamazaki). Mishima chứng minh sự thất bại của các chánh khách lý tưởng và ca tụng cái đẹp của những chánh khách theo thuyết Hiện thực với nỗ lực tạo ra những “phép lạ chánh trị” và chấp nhận đường lối ma giáo của đối thủ. Đã lao mình vào chánh trường thì phải chấp nhận sự phản bội, tàn bạo của đối phương. Chấp nhận không phải để đi theo, nhưng để nỗ lực bằng đường lối chân chánh ngõ hầu lật ngược thế cờ. Điều đó gọi là những phép lạ chánh trị. Những người chủ trương đường lối đó được gọi là theo Hiện thực chủ nghĩa. Chúng ta thấy Hiện thực có nhiều điểm giống với chủ thuyết Machiavelli nhưng hoàn toàn khác hẳn về căn bản. Vấn đề Gia đình. Tác giả Sau bữa tiệc chủ trương con người cần có một gia đình. Nhưng nếu vợ chồng lấy nhau mà không hợp tánh tình, quan điểm thì nên ly dị. Theo ông nếu không tìm thấy hạnh phúc khi sống chung với nhau thì “chim nào nên trở về tổ nấy”. Như thế là hay hơn cả. Tiếc rằng trong cuốn tiểu thuyết này, vợ chồng Noguchi không có con, nên vấn đề ly dị dễ dàng. Nhưng nếu trong trường hợp có con, không biết tác giả sẽ giải quyết thế nào cho êm đẹp cả. Trong khi đang dịch cuốn truyện này, một người bạn có bảo tôi: “Tiểu thuyết đã hết thời. Bây giờ người ta có phương tiện đi du lịch rộng rãi, nên không cần đọc truyện. Cuộc sống thực tế có phần còn sôi động, gay cấn hơn tiểu thuyết.” Khi đọc xong cuốn truyện của Mishima, chúng tôi thấy tiểu thuyết vẫn là thế giới riêng biệt khác hẳn cuộc sống thực tế. Cuộc sống hàng ngày ví như địa hình, địa vật bên ngoài, và tiểu thuyết là tấm hoạ đồ của địa hình, địa vật đó. Nhiều khi nhờ có bản đồ mà ta tìm ra lối đi bên ngoài. Tiểu thuyết vẫn là một phương tiện suy tư và giáo dục, là một công trình căn bản của truyền thông trong lúc hai phạm vi âm thanh và hình ảnh chỉ là những phương tiện phụ thuộc rút ra từ tiểu thuyết. Không tin, các bạn cứthửđọc cuốn truyện này xem. Saigon, ngày 25 tháng 4 năm 1974 Dịch giả Mời các bạn đón đọc Sau Bữa Tiệc của tác giả Yukio Mishima & Tuyết Sinh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đồi Gió Hú - Emily Bronte
Tên Ebook: Đồi Gió Hú Tác giả:  Emily Bronte   Dịch giả:  Dương Tường Thể Loại: 100 Cuốn sách giá trị nhất thế giới, Tiểu Thuyết, Kinh điển, Văn học phương Tây   Nhà xuất bản liên kết:  Văn học   Ebook: http://www.dtv-ebook.com   Ebook Đồi Gió Hú full prc, epub Tóm tắt tác phẩm Đồi Gió Hú, câu chuyện cổ điển về tình yêu ngang trái và tham vọng chiếm hữu, cuốn tiểu thuyết dữ dội và bí ẩn về Catherine Earnshaw, cô con gái nổi loạn của gia đình Earnshaw, với một gã đàn ông thô ráp và điên rồ mà cha cô mang về nhà rồi đặt tên là Heathcliff, được trình hiện lên trên cái nền những đồng truông, quả đồi nước Anh cô quạnh và ban sơ không kém gì chính tình yêu của họ. Từ nhỏ đến lớn, sự gắn bó của họ ngày càng trở nên ám ảnh. Gia đình, địa vị xã hội và ghen tuông tột độ cùng hủy diệt họ, vậy nên toàn bộ thời gian hai con người yêu nhau đó đã sống trong thù hận và tuyệt vọng, mà cái chết chỉ có ý nghĩa khởi đầu. Một khởi đầu mới để hai linh hồn mãnh liệt đó được tự do tái ngộ, khi những cơn gió hoang vắng và điên cuồng tràn về quanh các lâu đài trong Đồi gió hú Đồi Gió Hú là c uốn tiểu thuyết duy nhất của Emily Bronte, là cuốn sách đã tới tay công chúng với nhiều lời bình trái ngược vào năm 1847, một năm trước khi nữ tác giả qua đời ở tuổi ba mươi. Thông qua mối tình giữa Cathy và Heathcliff, với bối cảnh đồng quê Yorkshire hoang vu trống trải,  Đồi Gió Hú đã tạo nên cả một thế giới riêng với xu hướng bỏ qua lề thói, vươn tới thi ca cũng như tới những chiều sâu tăm tối của lòng người, giúp tác phẩm trở thành một trong những tiểu thuyết vĩ đại nhất, bi thương nhất mà con người từng viết về nỗi đam mê nồng cháy.  Nhận định  "Trên một thế kỷ này, diễn đàn thế giới vẫn còn nhắc tới Emily Bronte và tiểu thuyết  Đồi gió hú, một viên kim cương trong kho tàng văn học Anh"  - Dương Tường Không khó để lý giải tại sao khi ra đời, Đồi gió hú đã gây nên một cơn chấn động dữ dội đến vậy trong giới phê bình cũng như về phía độc giả. Bởi sau hai thế kỷ, sự mãnh liệt và cuồng dại của tình yêu, dục vọng, âm mưu, tội ác...vẫn còn khiến người đọc ngày nay phải ngỡ ngàng. Nổi lên giữa bức tranh của núi đồi, nhà thờ đổ nát, nông trang hoang tàn, của gió, của đá, của những con người chết yểu  ấy là chân dung hai nhân vật chính Catherine Earnshaw và Heathcliff, một tiểu thư đài các, xinh đẹp nhưng nổi loạn, một gã con hoang độc ác man dại, từ nhân hình đến nhân tính  đã bị sự khinh miệt  khổ cực và thù hận biến thành thú vật. Thành công của Emily Bronte, và cũng là điểm khiến bà bị độc giả đương thời khó chấp nhận, có lẽ là việc đã khắc họa sống động hai con người với lối suy nghĩ, hành sử và một tình yêu đi ngược hoàn toàn với những chuẩn mực đạo đức đương thời. Emily Bronte, khi viết về tình yêu của họ, từ những ngày còn thơ bé lang thang bên nhau, cho đến khi bị chia cắt bằng hôn nhân của Catherine Earnshaw, và tới lúc được đoàn tụ bằng cái chết, không hề đứng trên quan điểm đạo đức thông thường để phán xét, trái lại, bà tập trung toàn bộ trí lực, tài năng, và niềm đam mê khác thường để miêu tả và phân tích những diễn biến tâm lý, những biểu hiện khác nhau của hai kẻ tình nhân luôn bị ám ảnh bởi  những cảm xúc yêu đương điên dại, mãnh liệt.  Nhã Nam "Đồi gió hú được đẽo tạc trong một xưởng hoang dại bằng những dụng cụ đơn sơ, từ chất liệu mộc mạc. Nhà điêu khắc thấy một khối đá granit trên một cánh đồng hoang quạnh quẽ: nhìn kỹ chàng thấy từ tảng đá, có thể tạo một cái đầu như thế nào, man rợ, đen đúa, hung hãn, một dáng hình được đắp nặn với ít nhất là một yếu tố của hùng vĩ-sức cường. Chàng đã làm việc với một cái đục thô sơ và không theo mẫu nào ngoài thị ảnh từ những suy tư của chàng. Với thời gian và lao động, khối đá mang hình người. Và kia, nó sừng sững đứng, đồ sộ, đen đúa và cau có, nửa tượng, nửa núi đá: là tượng thì khủng khiếp và giống như quỷ; là núi đá thì hầu như đẹp, vì nó có màu xám dịu và mặc lớp rêu của đồng hoang và đám thạch nam với những chùm hoa hình chuông và hương thơm ngạt ngào của nó, vẫn thủy chung mọc sát dưới chân gã khổng lồ ấy " - Charlotte Bronte "Đồi gió hú là tiểu thuyết duy nhất của Emily Bronte, người đã chết ngay sau khi tác phẩm được xuất bản, ở tuổi ba mươi. Một câu chuyện u sầu vùng Yorkshire về một mối tình mạnh mẽ hơn cả cái chết, cũng là cái nhìn dữ dội về dục vọng siêu hình mà trong đó, cả thiên đường, địa ngục, thiên nhiên và xã hội cùng gắn bó mãnh liệt. Độc nhất, huyền bí, với một văn phong phi thời, tiểu thuyết đã trở thành tác phẩm kinh điển của văn học Anh"  - The Oxford University Press "Không có mấy lời văn về tình yêu thuyết phục hơn, bớt phần bi lụy hơn Đồi gió hú. Đây là câu chuyện về một đứa trẻ khốn khổ bị bỏ rơi đem lòng yêu con gái cha nuôi mình, cũng là câu chuyện về những hành xử hung bạo và khổ đau khởi nguồn từ những khát khao ngang trái họ dành cho nhau...Tựa như Emily Bronte có thể mở toang những gì thuộc về con người, và lấp đầy những khoảng trống không thể nhìn ra được bằng một luồng gió mạnh của cuộc đời" - Virginia Woolf Mời các bạn đón đọc Đồi Gió Hú của tác giả Emily Bronte.
Không gia đình - Hector Malot
“Tôi là một đứa trẻ người ta nhặt được.   Tuy vậy, cho đến năm lên tám, tôi vẫn tưởng tôi có mẹ cũng như mọi đứa trẻ khác, vì mỗi khi tôi khóc thì luôn luôn có một người đàn bà dịu dàng ôm tôi vào lòng, âu yếm ru, khiến cho nước mắt tôi ngừng chảy. Và khi tôi lên giường ngủ, cũng có một người đàn bà đến hôn tôi. Và khi gió rét tháng chạp trát những bông tuyết vào cửa kính trắng xóa, bà ấy vừa ấp ủ chân tôi trong đôi bàn tay trìu mến của bà, vừa hát cho tôi nghe một bài hát mà giờ đây tôi vẫn còn nhớ điệu và lõm bõm vài lời ca…” *** Đó là những lời thì thầm của cậu bé Rêmi, một lời thì thầm ngây thơ, hồn nhiên, trong sáng nhưng chất chứa  niềm khát khao yêu thương.   Và, đó cũng là những lời tâm sự cảm động của cậu bé Rêmi, mở đầu cho tiểu thuyết “Không Gia Đình” của nhà văn Pháp - Hecto Malot. Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2009   “Không Gia Đình” kể về một em bé không cha mẹ, không họ hàng thân thích, đi theo một đoàn xiếc chó, khỉ, rồi cầm đầu đoàn ấy đi lưu lạc khắp nước Pháp, sau đó bị tù ở Anh, cuối cùng tìm thấy mẹ và em. Rêmi đã lớn lên trong gian khổ, em đã chung đụng với mọi hạng người, sống khắp mọi nơi. Em đã lao động mà sống, lúc đầu dưới quyền điều khiển của một ông già từng trải và đạo đức, cụ Vitali, về sau tự lập không những lo cho mình, còn bảo đảm việc biểu diễn và sinh sống cho cả một gánh hát rong. Đã có khi em và cả đoàn lang thang mấy hôm liền không có chút gì trong bụng. Đã có khi em xuýt chết rét. Đã có khi em bị lụt ngầm chôn trong giếng mỏ mười mấy ngày đêm. Đã có khi em mắc oan bị giải ra trước tòa án và bị ở tù. Và cũng có khi em được nuôi nấng đàng hoàng, ấm no... nhưng dù ở đâu Rêmi vẫn giữ cho mình lòng tốt và sự hy sinh. Cuối cùng, qua bao gian khổ, Rêmi gặp được gia đình thật sự, trả ơn cho những người đã giúp đỡ mình trong lúc cơ hàn, và sống hạnh phúc.   Bên cạnh Rêmi còn có chú bé nghệ sĩ Matchia khôn ngoan, linh lợi, tháo vát, tận tình với bạn; Con chó Capi không như người và rất có nghĩa; Con khỉ Giôlicơ liến láu và đáng thương…   Không Gia Đình với những câu chuyện cảm động rơi nước mắt về tình yêu thương con người sâu sắc trong những hoàn cảnh gian nan nhất, tình bạn được đề cao, tình hữu ái giữa những người cùng khổ như Rêmi và Matchia, với gia đình trồng hoa, và một tình yêu chớm nở tinh khôi cùng cô bé câm Lise. Đáng suy nghĩ nhất là lòng tốt của Rêmi dành cho mọi người. Vẫn là một chú bé có vui, có buồn, giận hờn và căm ghét nhưng luôn chân thành và vô tư. Không Gia Đình làm sống lại những hành trình thơ bé mà mỗi chúng ta từng có và từng quên lãng Tác phẩm đã ca ngợi sự lao động bền bỉ, tinh thần tự lập, chịu đựng gian khó, khích lệ tình bạn chân chính. Ca ngợi lòng nhân ái, tình yêu cuộc sống, ý chí vươn lên không ngừng… Ngoài cuộc hành trình đầy gian nan, vất vả của cậu bé Rêmi và những người bạn trong gánh xiếc, truyện còn diễn tả nhiều cảnh thiên nhiên, nhiều cảnh sinh hoạt hấp dẫn ở nông thôn và thành thị, giúp người đọc hứng thú như chính mình cũng đang tham gia cuộc hành trình đó.   Không Gia Đình của Hecto Malot - nhà văn chuyên viết tiểu thuyết Pháp, là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông đã được giải thưởng của Viện Hàn lâm văn học Pháp. Từ hơn một trăm năm nay, tác phẩm này đã trở thành người bạn thân thiết của thiếu nhi và tất cả những người yêu mến trẻ em khắp thế giới. Không Gia Đình vì thế đã vượt qua biên giới nước Pháp và tồn tại lâu dài với thời gian.   Với độ dày 430 trang được in trên nền giấy đẹp, Không Gia Đình giúp chúng ta hiểu thêm về cuộc sống khó nhọc của người lao động và những phẩm chất tốt đẹp của họ và hơn cả là ý chí kiên cường, lòng yêu cuộc sống và trọng ân tình.   Không Gia Đình mang đến một bài học quý giá cho mỗi chúng ta về tình yêu thương giữa con người với con người. Để những ai “có gia đình” suy ngẫm, làm sao sống cho tốt, xứng đáng với cái may mắn mà số phận ban cho. Mời các bạn đón đọc Không Gia Đình của tác giả Hector Malot.  
Chiến Tranh và Hòa Bình
CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH là một bộ tiểu thuyết sử thi được nhà xuất bản Russki Vestnik in lần đầu từ năm 1865 đến 1869. Đây là tác phẩm phản ánh một giai đoạn bi tráng của toàn xã hội Nga, từ giới quý tộc đến nông dân, trong thời đại Napoleon.   CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH không chỉ là một trong những cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất của Lev Tolstoy mà còn cả của nhân loại với hơn 580 nhân vật, trong đó những nhân vật lịch sử và những nhân vật hư cấu đã cùng nhau khắc họa lại một giai đoạn lịch sử hào hùng của nước Nga.   CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH đã thể hiện một cách trọn vẹn nhất tư tưởng của Lev Tolstoy về sự vô nghĩa của chiến tranh và khắc họa được những tính cách điển hình của con người, đất nước Nga. *** Chiến tranh và hòa bình (tiếng Nga: Война и мир, Voyna i mir) là một bộ tiểu thuyết sử thi của Lev Nikolayevich Tolstoy, được nhà xuất bản Russki Vestnik in lần đầu từ năm 1865 đến 1869. Đây là tác phẩm phản ánh một giai đoạn bi tráng của toàn xã hội Nga, từ giới quý tộc đến nông dân, trong thời đại Napoléon, và được coi là một trong hai kiệt tác chính của Tolstoy (tác phẩm thứ hai là Anna Karenina). Chiến tranh và hòa bình cũng đồng thời được đánh giá là một trong những tiểu thuyết vĩ đại nhất của văn học thế giới. Chiến tranh và hòa bình mở đầu với khung cảnh một buổi tiếp tân, nơi có đủ mặt các nhân vật sang trọng của giới quý tộc Nga tại kinh kỳ Sankt-Peterburg. Bên cạnh những câu chuyện thường nhật của giới quý tộc, người ta bắt đầu nhắc đến Hoàng đế Napoléon I và cuộc chiến tranh chống Pháp sắp tới mà Nga sắp tham gia. Trong số những tân khách hôm ấy có công tước Andrei Bolkonsky - một người trẻ tuổi, đẹp trai, giàu có, có cô vợ Liza xinh đẹp mới cưới và đang chờ đón đứa con đầu lòng. Và một vị khách khác là Pierre người con rơi của lão bá tước Bezoukhov, vừa từ nước ngoài trở về. Tuy khác nhau về tính cách, một người khắc khổ về lý trí, một người hồn nhiên sôi nổi song Andrei và Pierre rất quý mến nhau và đều là những chàng trai trung thực, luôn khát khao đi tìm lẽ sống. Andrei tuy giàu có và thành đạt nhưng chán ghét tất cả nên chàng chuẩn bị nhập ngũ với hy vọng tìm được chỗ đứng của một người đàn ông chân chính nơi chiến trường. Còn Pierre từ nước ngoài trở về nước Nga, tham gia vào các cuộc chơi bời và bị trục xuất khỏi Sankt-Peterburg vì tội du đãng. Pierre trở về cố đô Moskva, nơi cha chàng đang sắp chết. Lão bá tước Bezoukhov rất giàu có, không có con, chỉ có Pierre là đứa con rơi mà ông chưa công nhận. Mấy người bà con xa của ông xúm quanh giường bệnh với âm mưu chiếm đoạt gia tài. Pierre đứng ngoài các cuộc tranh chấp đó vì chàng vốn không có tình cảm với cha, nhưng khi chứng kiến cảnh hấp hối của người cha lúc lâm chung thì tình cảm cha con đã làm chàng rơi nước mắt. Lão bá tước mất đi để lại toàn bộ gia sản cho Pierre và công nhận chàng làm con chính thức. Công tước Kuragin không được lợi lộc gì trong cuộc tranh chấp ấy bèn tìm cách dụ dỗ Pierre. Vốn là người nhẹ dạ, cả tin nên Pierre rơi vào bẫy và phải cưới con gái của lão là Hélène, một cô gái có nhan sắc nhưng lẳng lơ và vô đạo đức. Về phần Andrei chàng quyết định gởi vợ cho cha và em chăm sóc sau đó gia nhập Quân đội Nga. Khi lên đường Andrei mang một niềm hy vọng là có thể tìm thấy ý nghĩa cuộc sống cũng như công danh trên chiến trường. Chàng tham chiến trận đánh Austerlitz - nơi Napoléon I đã đánh tan nát quân Liên minh Nga - Áo, bản thân chàng thương nặng, bị bỏ lại chiến trường. Khi tỉnh dậy chàng nhìn thấy bầu trời xanh rộng lớn và sự nhỏ nhoi của con người, kể cả những mơ ước, công danh và kể cả Napoléon I - vốn là một thần tượng của chàng. Andrei được đưa vào trạm quân y và được cứu sống. Sau đó, chàng trở về nhà chứng kiến cái chết đau đớn của người vợ trẻ khi sinh đứa con đầu lòng. Cái chết của Lisa, cùng với vết thương và sự tiêu tan của giấc mơ Toulon - cầu Arcole đã làm cho Andrei tuyệt vọng. Chàng quyết định lui về sống ẩn dật. Có lần Pierre đến thăm Andrei và đã phê phán cách sống đó. Lúc này, Pierre đang tham gia vào hội Tam điểm với mong muốn làm việc có ích cho đời. Một lần, Andrei có việc đến gia đình bá tước Rostov. Tại đây, chàng gặp Natalia (Natasha) con gái gia đình của bá tước Rostov. Chính tâm hồn trong trắng hồn nhiên và lòng yêu đời của nàng đã làm hồi sinh Andrei. Chàng quyết định tham gia vào công cuộc cải cách ở triều đình và cầu hôn Natasha. Chàng đã được gia đình bá tước Rostov chấp nhận, nhưng cha chàng phản đối cuộc hôn nhân này. Bá tước Bolkonsky (cha của Andrei) buộc chàng phải đi trị thương ở nước ngoài trong khoảng thời gian là một năm. Cuối cùng, chàng chấp nhận và xem đó như là thời gian để thử thách Natasha. Chàng nhờ bạn mình là Pierre đến chăm sóc cho Natasha lúc chàng đi vắng. Natasha rất yêu Andrei, song do nhẹ dạ và cả tin nên nàng đã rơi vào bẫy của Anatole con trai của công tước Vassili, nên Natasha và Anatole đã định bỏ trốn nhưng âm mưu bị bại lộ, nàng vô cùng đau khổ và hối hận. Sau khi trở về Andrei biết rõ mọi chuyện nên đã nhờ Pierre đem trả tất cả những kỷ vật cho Natasha. Nàng lâm bệnh, người chăm sóc và thông cảm cho nàng lúc này là Pierre. Vào lúc này, nguy cơ chiến tranh giữa Pháp và Nga ngày càng đến gần. Cuối năm 1811, quân Pháp tiến dần đến biên giới Nga, quân Nga rút lui. Đầu năm 1812, quân Pháp tiến vào lãnh thổ Nga. Cuộc Chiến tranh Vệ quốc Nga bùng nổ. Vị tướng già Mikhail Koutouzov được cử làm Tổng tư lệnh quân đội Nga. Trong khi đó, quý tộc và thương gia được lệnh phải nộp tiền và dân binh. Pierre cũng nộp tiền và hơn một ngàn dân binh cho quân đội. Andrei lại gia nhập quân đội, ban đầu vì muốn trả thù tình địch, nhưng sau đó chàng bị cuốn vào cuộc chiến, bị cuốn vào tinh thần yêu nước của nhân dân. Trong trận Borodino, dưới sự chỉ huy của vị Nguyên soái Koutouzov quân đội Nga đã chiến đấu dũng cảm tuyệt vời, với kết quả là chiến thắng lớn lao về mặt tinh thần. Andrei cũng tham gia trận đánh này và bị thương nặng. Trong lán quân y, chàng gặp lại tình địch của mình cũng đang đau đớn vì vết thương. Mọi nỗi thù hận đều tan biến, chàng chỉ còn thấy một nỗi thương cảm đối với mọi người. Chàng được đưa về địa phương. Trên đường di tản, chàng gặp lại Natasha và tha thứ cho nàng. Và cũng chính Natasha đã chăm sóc cho chàng cho đến khi chàng mất. Sau trận huyết chiến ở Borodino, quân Nga rút khỏi Moskva. Quân Pháp chiếm được Moskva nhưng có tâm trạng vô cùng lo sợ. Pierre trở về Moskva giả dạng thành thường dân để ám sát Napoléon. Nhưng âm mưu chưa thực hiện được thì chàng bị bắt. Trong nhà giam, Pierre gặp lại Platon Karataev, một triết gia nông dân. Bằng những câu chuyện của mình, Platon đã giúp Pierre hiểu thế nào là cuộc sống có nghĩa. Quân Nga bắt đầu phản công và tái chiếm Moskva. Quân Pháp rút lui trong hỗn loạn. Nước Nga thắng lợi bằng chính tinh thần của cả dân tộc Nga chứ không phải do một cá nhân nào, đó là điều Koutouzov hiểu còn Napoléon thì không. Sau chiến thắng, Koutouzov muốn cho nước Nga được nghỉ ngơi chứ chẳng muốn can thiệp thêm gì vào tình hình châu Âu. Trên đường rút lui của quân Pháp, Pierre đã trốn thoát và trở lại Moskva. Chàng hay tin Andrei đã mất và vợ mình cũng vừa mới qua đời vì bệnh. Chàng gặp lại Natasha, một tình cảm mới mẻ giữa hai người bùng nổ. Pierre quyết định cầu hôn Natasha. Năm 1813, hai người tổ chức đám cưới. Bảy năm sau, họ có bốn người con. Natasha lúc này không còn là một cô gái vô tư hồn nhiên mà đã trở thành một người vợ đúng mực. Pierre sống hạnh phúc nhưng không chấp nhận cuộc sống nhàn tản. Chàng tham gia vào những hội kín - đó là các tổ chức cách mạng của những người tháng Chạp. *** Vài lưu ý trong ấn bản eBook này Tên phiên âm đã được chuyển thành tên riêng tiếng Anh dựa trên bản của Huy Hoàng phát hành năm 2017 & bản của Delphi Classics, Complete Works of Leo Tolstoy, xuất bản năm 2012; Những câu in nghiêng được chú thích bằng tiếng Pháp được loại bỏ vì quá nhiều và không ảnh hưởng đến cốt truyện; Lỗi chính tả, hiển nhiên, cũng được sửa theo bản mới; Bìa eBook được lấy trên internet.   amylee tve-4u.org Ngày 10 tháng 09 năm 2022 Những đóng góp cho eBook được hoàn thiện thuộc về: cailubietdi, Anan Két, machine, soloshevcento, amylee v.v. *** LỜI GIỚI THIỆU   Tôi là người học trò nhỏ của nhà văn vĩ đại Tolstoy Hồ Chí Minh   Nguyễn Du từng lo không biết ba trăm năm sau có ai khóc mình không... Nhưng như Tố Hữu viết: Tiếng đàn xưa đứt ngang dây Hai trăm năm lại càng say lòng người   L. Tolstoy cũng đã từng băn khoăn: “Thú thật tôi hoàn toàn không biết một trăm năm sau liệu có ai đọc tác phẩm của tôi không...” (thư ông gửi cho nhà nghiên cứu người Anh William Roston ngày 27-12-1878). Lenin vĩ đại của chúng ta đã giải đáp được nỗi băn khoăn đó: “Tolstoy đã mất rồi và nước Nga trước cách mạng đã chìm vào dĩ vãng. Nhưng trong di sản của ông thì có cái không chìm vào dĩ vãng, có cái thuộc về tương lai. Di sản đó, giai cấp vô sản Nga đón lấy và nghiên cứu nó.” Chiến tranh và hòa bình của L. Tolstoy chính là loại tác phẩm thuộc về tương lai. Trong những ngày đánh trả mãnh liệt cuộc chiến tranh phá hoại man rợ bằng không quân của đế quốc Mỹ xâm lược, trên miền Bắc, sinh viên Việt Nam vẫn viết những đề tài nghiên cứu về chiến tranh nhân dân, về con đường đi tìm lý tưởng của Andrew Bolkonski, Pierre Bezukhov trong tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình. Aragon cho biết: Đã có một thời ở Pháp, người ta không thể đi trên xe lửa mà không thấy những người đọc Chiến tranh và hòa bình của Tolstoy. Cuốn tiểu thuyết này có lẽ là tác phẩm lớn nhất chưa từng thấy, được người Pháp say mê vào những năm 1942-1943. Năm 1943, một nhà thơ lớn, một người cách mạng Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu dịch nửa đầu Chiến tranh và hòa bình ở trong tù. Và kỳ diệu thay, năm 1943, giữa lòng thành phố Leningrad anh hùng đang bị giặc Đức vây hãm ngặt nghèo, Chiến tranh và hòa bình được in lại với số lượng 100.000 cuốn! Năm 1960, một nhà văn Pháp đã nói rất hay về sức sống của tác phẩm Tolstoy: “Khi đọc lại Chiến tranh và hòa bìnhtôi cảm thấy trước mắt tôi không phải là một giai đoạn đã qua mà là bí mật đã mất.”   CON SƯ TỬ CỦA VĂN HỌC NGA   L.N. Tolstoy sinh năm 1828 trong một gia đình quý tộc lâu đời tại trại ấp Yasnaya Polyana (ở gần khu Tula, cách Moskva 200 km về phía nam). Ông bắt tay vào viết bộ Chiến tranh và hòa bình năm 35 tuổi, sau khi cưới vợ được một năm, vào lúc ông cảm thấy hạnh phúc, sung sức cả về trí tuệ lẫn tinh thần. Lúc ấy ông đã bước vào làng văn được mười một năm, có vốn sống và vốn văn hóa khá là phong phú. Trại ấp Yasnaya Polyana đẹp tuyệt vời đã trở thành cái nền thiên nhiên kỳ thú trong tác phẩm Thời thơ ấu. Bạn đọc cũng có thể thấy hình bóng của nó qua những trang miêu tả trại ấp Lysaya Gora trong Chiến tranh và hòa bình. Đến cuối đời Tolstoy, Yasnaya trở thành nơi gặp gỡ của nhiều danh nhân Nga và thế giới với nhà văn vĩ đại, và đó cũng là nơi Tolstoy đã yên giấc ngàn thu. Nhiều bà con thân thích của Tolstoy đã trở thành một phần những nguyên hình, những nguyên mẫu để ông dựa vào đó vẽ nên những nhân vật sinh động trong Chiến tranh và hòa bình. Tolstoy học ở đại học Kazan hai năm rồi bỏ dở, năm 1847 ông trở về Yasnaya Polyana. Từ năm 1851 ông đi Kafka rồi nhập ngũ, chính tại Kafka Tolstoy đã bắt đầu bước vào hoạt động văn học. Tác phẩm đầu tay Thời thơ ấu của ông (1852) được hoan nghênh nhiệt liệt. Ông viết tiếp Thời niên thiếu (1854) và Thời thanh niên (1857). Năm 1856, nhà phê bình dân chủ cách mạnh Chernyshevsky đánh giá cao hai tập đầu trong tác phẩm bộ ba tự thuật này, nêu lên một số đặc điểm của tài năng Tolstoy và tiên đoán: “Chúng tôi nói trước rằng tất cả những gì Tolstoy hiện nay đã đem đến cho văn học chúng ta chỉ là bảo đảm cho những gì ông ta sẽ hoàn thành...”. Sau khi giải ngũ (1856), Tolstoy lo toan nhiều đến việc cải thiện đời sống cho nông dân trong trại ấp của mình. Ông mở trường dạy cho con em nông dân, tự mình viết sách học vỡ lòng, làm giáo viên, ra tạp chí giáo dục mang tên “Yasnaya Polyana”. Khi làm thẩm phán hòa giải ở huyện nhà, Tolstoy bảo vệ quyền lợi nông dân nên bị địa chủ căm ghét. Ông đã đề ra một số dự án cải cách để giải phóng nông nô trong trại ấp của mình (có 330 nông nô) nhưng không thực hiện được. Tolstoy đã sáng suốt tỏ ý “không tin một lời nào” trong bản tuyên ngôn giải phóng nông nô đầy giọng ban ơn hứa hẹn suông của Nga hoàng Alexander II tháng Hai năm 1861. Từ lúc còn trẻ ông đã quan tâm thật sự đến đời sống nhân dân, đã dần dần “am hiểu một cách kỳ diệu nước Nga nông thôn, đời sống của địa chủ và của nông dân” (Lenin). Truyện ngắn Buổi sáng của một địa chủ (1856) của Tolstoy thể hiện những suy nghĩ bước đầu của ông về mỗi quan hệ địa chủ – nông dân. Đó là bức tranh sinh động về cuộc sống tăm tối, bị đè nén của nông dân Nga. Tolstoy ra nước ngoài hai lần (1856-1857 và 1860-1861), đi thăm nhiều nước, tiếp xúc với nhiều nhà hoạt động chính trị, xã hội, giáo dục phương Tây. Chính tại London, ông đã gặp gỡ nhà cách mạng Nga nổi tiếng A.Gercen buộc phải lưu vong. Tolstoy phê phán lối sống ích kỷ tàn nhẫn của giai cấp tư sản phương Tây trong bút ký Luserne (1857). Nhưng cũng chính trong bút ký này Tolstoy đã bộc lộ sự bế tắc của mình trong việc giải quyết những mâu thuẫn xã hội gay gắt diễn ra hàng ngày quanh ông. Ông nêu lên “tinh thần toàn thế giới” như một nguyên tắc tinh thần đạo đức vĩnh cửu chi phối toàn bộ cuộc sống của loài người. Trước khi viết Chiến tranh và hòa bình, Tolstoy đã luyện bút qua nhiều truyện về binh lính và truyện chiến đấu. Ông có mặt từ tháng Mười một năm 1854 đến tháng Tám năm 1855 tại Sevastopol tức là gần suốt thời gian cuộc chiến đấu anh hùng chống quân Anh, Pháp, Thổ trong cuộc chiến tranh Krym (1853-1856). Chính Tolstoy đã cùng binh sĩ chiến đấu dũng cảm tại pháo đài 4 “thần kỳ”. Mời các bạn đón đọc Chiến Tranh và Hòa Bình của tác giả Lev Tolstoy.
Thép Đã Tôi Thế Đấy - Nikolai Alexeevich Ostrovsky
Tên Ebook: Thép Đã Tôi Thế Đấy (full prc, epub) Tác giả: Nhi-Ca-Lai A-Xtơ-Rốp-Xki Thể Loại: Tiểu Thuyết, Sách Hay, Văn học Nga   Dịch giả: Thép Mới, Huy Vân   Nhà xuất bản: NXB văn học   Ebook: http://www.dtv-ebook.com   Ebook Thép Đã Tôi Thế Đấy full prc, epub Giới thiệu về nội dung:   “Thép đã tôi thế đấy” là cuốn tiểu thuyết do Nikolai Alexeev-ich Ostrovsky viết trong thời kỳ Stalin. Cuốn tiểu thuyết đã được dịch ra 70 thứ tiếng và in ra ở hơn 80 nước, trong đó có Việt Nam. Thép đã tôi thế đấy có một địa vị đặc biệt trong lịch sử văn học Liên Xô và nền văn học tiên tiến thế giới. Cách mạng tháng Mười thắng lợi, cuộc chiến đấu vĩ đại chưa từng có bao giờ của nhân dân lao động trên một dải đất Liên bang Xô Viết rộng lớn hàng ngày đề ra và đòi hỏi không biết bao nhiêu là anh hùng. Nhân dân Liên Xô, nhân loại tiến bộ chờ đợi văn học phản ánh và đào sâu cho mình hình ảnh con người anh hùng mới ấy. Lần đầu tiên trong văn học, N. A-xtơ-rốp-xki thu gọn được hình ảnh con người mới trong nhân vật Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin. Pa-ven không những khác hẳn với những anh hùng của các thời đại trước. Khác hẳn với những tác phẩm văn nghệ của những năm đầu cách mạng, thường ca ngợi lòng dũng cảm vô tổ chức, tả sức mạnh tràn trề, lớn khỏe của quần chúng như một sức mạnh bộc phát, tự nhiên. Thép đã tôi thế đấy cho ta thấy từng con người trong một quần chúng rộng lớn nẩy nở như thế nào, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Thép đã tôi thế đấy ghi lại cả một quá trình tôi thép, bước đường gian khổ trưởng thành của thế hệ thanh niên Xô viết đầu tiên.   Đọc Thép đã tôi thế đấy trước hết truyền cho chúng ta lòng ham sống và ham chiến đấu. Đấy là bản chất giai cấp của Pa-ven. Đấy là bản chất thanh niên của Pa-ven. Đấy là phẩm chất cách mạng mà Đảng và đấu tranh thực tế đã xây dựng cho anh. Không phải ngọn lửa rơm sốc nổi hay cái ngang tàng của chủ nghĩa anh hùng cá nhân. Một tinh thần ham sống và ham chiến đấu có nghĩa lý nhất, có cơ sở nhất. Không gì mạnh bằng lòng tin tưởng của Pa-ven ở những mục đích chiến đấu của mình. Pa-ven say mê đem toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, hy sinh cá nhân của mình một cách nồng nhiệt lãng mạn, không bao giờ do dự, không hề tính toán, tất cả vì sự nghiệp giai cấp, vì hạnh phúc nhân loại. Không hiểu mục đích đấu tranh của Pa-ven, đảng tính đấu tranh của Pa-ven thì chỉ cảm thấy đời Paven đau khổ. Không, Paven không cảm thấy đau khổ, Pa-ven chỉ nghĩ đến khắc phục thống khổ. Pa-ven luôn luôn vui sướng vì anh luôn luôn đấu tranh và luôn luôn thắng lợi. Đó là chủ nghĩa lạc quan của Pa-ven. Đó là sức mạnh, đó là hạnh phúc của Pa-ven.   Thép đã tôi thế đấy là một khúc ca tươi đẹp của đời sống. Mỗi trang sách như cuốn thêm máu chảy trong người đọc, nâng cao thêm nhiệt tình cách mạng, thúc giục chiến đấu, thúc giục công tác. Thép đã tôi thế đấy giải quyết cho chúng ta nhiều vấn đề nhân sinh quan mới, dạy chúng ta biết yêu biết ghét một cách chính xác và sâu mạnh, khơi lên ở chúng ta những tình cảm lớn, xây dựng cho chúng ta một quan niệm về tình yêu trong sáng. Thép đã tôi thế đấy còn là một kho báu kinh nghiệm công tác cách mạng rất thực tế để nhìn cho sáng hơn nhiều vấn đề mới mà cuộc sống đề ra cho mỗi tập thể và mỗi con người, để thực hiện “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.   Mời bạn đón đọc Thép Đã Tôi Thế Đấy của tác giả Nhi Ca Lai A Xtơ Rốp Xki.