Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đời Bình An (1972)

Thể loại: Tình cảm lãng mạn, truyện vừa, thời chiến, HE... Số chương: 5 chương full Lần đầu gặp nhau, không hiểu sao anh ấy lại la tôi, thế nhưng sau lại cứu tôi. Lần thứ hai gặp nhau, anh lại mở lời với tôi, nhưng lại hỏi một câu mà tôi chẳng biết nên trả lời thế nào. Anh nói:  - Tôi muốn đồng chí Hoa bày tỏ với người đồng chí thầm thương. Làm sao mà tôi nói được, người tôi thầm thương vừa mới nói như vậy xong, sao tôi có thể bày tỏ bây giờ. Nhưng mà anh không biết tôi có tình cảm với anh sao?! Đến lần gặp thứ mấy cũng không nhớ nữa, anh hôn tôi xong lại hỏi: "Đồng chí Hoa đồng ý nhập hộ khẩu vô nhà tôi không?" với lời hứa "cho em sống đời bình an". Rồi đêm tân hôn, tôi ôm anh khóc lớn, nói anh hứa không bắt nạt em mà! Anh cười bảo, khờ quá làm chuyện vợ chồng thì đàn bà phải đau... Câu chuyện tình đáng yêu và dễ thương của cô quân y với anh chàng Tiểu đội trưởng, lấy bối cảnh năm 1972 trước ngày giải phóng mùa xuân năm 1975. Về thanh xuân, về tình yêu và tình vợ chồng trong thời chiến, đáng trân trọng lẫn gìn giữ. Cùng những sự kiện nổi bật diễn ra ở miền Nam suốt 3 năm trước khi đất nước thống nhất, như Mùa hè đỏ lửa hay việc Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa... ...... *Tư liệu tham khảo: Wiki tiếng Việt "Chiến tranh Việt Nam". *** Đó là đầu xuân 1972, năm ấy tôi mười tám tuổi, làm y tá trong quân y rồi theo phẫu sư đoàn đóng trong rừng An Giang dưới miền Tây. Tôi băng bó và chăm sóc vết thương cho nhiều thương binh cả nam lẫn nữ nhưng chung quy tôi vẫn là đứa con gái mới lớn, chưa từng tiếp xúc gần gũi với đàn ông, dù bác sĩ giao việc gì tôi cũng cố gắng làm hết, duy cái chuyện lau rửa vết thương nơi chỗ kín cho nam thương binh nằm liệt giường thì tôi không làm được! Tôi cố chấp lắc đầu trước mặt bác sĩ, và trước mặt anh chàng Tiểu đội trưởng. Tiểu đội hơn chục người vừa bị địch xung kích, mấy đồng đội của anh ta bị thương nặng do trúng đạn hoặc trúng bom mới được khiêng về đây hai hôm trước. Đây là lần đầu chúng tôi giáp mặt nhau. Anh ta cao phải tới thước tám, thân hình to lớn trong áo bộ đội lấm đất, đầu đội nón kết, khuôn mặt sáng sủa ưa nhìn với nước da hơi ngăm, ánh mắt hướng vào tôi nghiêm nghị khó chịu: - Tại sao đồng chí không làm? - Tiểu đội trưởng, em là gái chưa chồng, chỗ đó của đàn ông... sao em có thể? - Đã gia nhập quân ngũ, chấp nhận làm y tá thì đồng chí phải săn sóc thương binh dù với mọi vết thương, ở bất cứ vị trí nào. Đồng đội tôi xả thân chiến đấu, còn đồng chí ở đây phân biệt nam nữ, vậy có đúng không? Tôi nhìn anh ta, thầm nghĩ ngoài chiến trường có cái khổ của chiến trường, nơi quân y cũng có cái khó của quân y, anh ta tại sao không thể thông cảm cho một đứa con gái mới làm y tá hơn một năm như tôi? Bác sĩ đứng giữa khó xử, anh Khánh từ đâu chạy lại, bảo để anh làm giúp tôi vì anh là y tá nam, sẽ dễ hơn! Tôi thấy anh cười gật đầu với mình, liền nói câu cảm ơn. - Đồng chí cứ vậy sao thành y tá thành thạo được? Tôi không thích đứa con gái suốt ngày chỉ biết khóc khi ở ngoài chiến trường khói lửa này. Tiểu đội trưởng quay lưng rời đi, tôi bặm môi, chị Miên đứng kế bên an ủi: - Thôi để ý chi, người ta là Tiểu đội trưởng, đòi hỏi nghiêm khắc là chuyện thường. Nghe đâu, tiểu đội anh ta cũng khá lắm đó. Giỏi vậy sao bị địch xung kích bị thương tới mấy người? Tôi không nói ra lời đó chỉ quay lại công việc của mình, trước khi rời lán, tôi còn nghe loáng thoáng chị Miên nói với anh Khánh, Tiểu đội trưởng hình như tên Khởi! Tôi biết anh ta đề cập đến chuyện khi nãy tôi đứng trong góc bếp khóc thầm. Tôi khóc vì nhớ nhà chứ không phải vì tôi sợ! Tía tôi hi sinh trong một lần làm nhiệm vụ, mùa đó miền Tây địch bắn phá cầu đường dữ dội hòng ngăn tiếp tế từ quân ta, tía tôi cùng mấy đồng chí giao thông chung vai quyết giữ đường lên biên giới. Cả đời tía tôi bảo vệ những con đường, những vòng bánh xe chở quân, chuyển hàng từ hậu cần ra tiền tuyến. Má có mình tôi, hồi đó đi làm ruộng má đau đẻ giữa chừng. Má nói lúc mở mắt ra thì nghe tiếng tôi khóc rồi, xung quanh thấy mấy bông dại nở nhụy, thế là đặt luôn cái tên Nhụy Hoa. Nhiều người đọc trại, cứ gọi tôi là nhị này nhị nọ miết. Má bảo tôi hãy như hoa dại, kiên cường khoe sắc, cả đời vui vẻ hồn nhiên. Mong mỏi của má khó thành khi năm mười bảy, tôi xin má đi bộ đội, má không nói gì ngoài việc đồng ý. Má biết thời chiến tranh, những lứa thanh niên luôn xung phong đi bộ đội, góp sức mình trong việc giải phóng nước nhà. Má bảo tôi cẩn thận với con trai, đừng quên nhiệm vụ của mình, môi trường quân đội kỷ luật, đứa con gái như tôi sẽ được rèn giũa nghiêm khắc. Tôi kiên quyết là vậy, thế mà ngày ra đi nước mắt chảy mãi không ngừng. Tôi chọn quân y, chẳng cần phải ra tận chiến trường cầm súng giết địch, ở đây tôi có thể chăm sóc cho nhiều người, giúp họ xoa dịu những cơn đau do chiến tranh bom đạn khốc liệt gây ra. Tôi học trong lớp y tá quen được nhiều đồng chí nữ, có người đang độ xuân xanh cũng có người đã lấy chồng đẻ con. Lớp học nam nữ học chung, và tôi biết anh Khánh. Người đen nhẻm, tốt tính, hay cười. Anh chăm lo cho tôi lắm, tôi xem anh như anh trai. Cái duyên thế nào khi khóa học trôi qua, tôi với anh lại về cùng một đơn vị, thế là thân càng thêm thân. Tôi hay gửi thư cho má, lúc đầu ở đây tôi nhớ nhà lắm, dần dần thì nguôi ngoai. Quân y làm việc liên tục, ca trực không lúc nào ngơi nghỉ, nhiều đêm vừa đặt lưng xuống chiếu nhắm mắt chưa bao lâu đã nghe tiếng bom dội lại, biết ngay thể nào cũng có thương binh chở đến. Hơn một năm, qua những ca trực vất vả tới sáng, tôi cũng quen rồi. Chiều chiều ngơi tay chút, chị Miên rủ tôi qua lán mấy anh nam nói chuyện cho vui. Nơi đây chỗ nào tôi cũng dám đi, riêng có chỗ này thì e dè, vì mỗi lần tới đây đều thấy toàn đàn ông con trai, họ thấy tụi tui lại chọc ghẹo liên tục. Vài lần tôi từ chối mà chị Miên có chịu đâu, bảo anh Khánh ở bển trông em qua đấy hoài! Tôi sang đó chỉ nói được dăm ba câu với ảnh, chẳng làm gì khác. Hôm nay qua tới nơi, tôi không những thấy mấy anh quân y mà còn vài bộ đội chiến đấu với cả Tiểu đội trưởng tên Khởi kia. Nhóm bộ đội thân thiện nói râm ran kể đủ thứ chuyện đánh Mỹ, anh chàng Tiểu đội trưởng ở trong lán, lâu lâu nhìn ra ngoài và vừa thấy tôi lại quay mặt đi. Chị Miên để ý người ta hay sao mà cứ hỏi: - Ảnh ít nói quá hả? - Anh Khởi cũng hòa đồng lắm, không xét nét cấp trên cấp dưới, bình thường thì vui vẻ nhưng ra tới chiến trường thì nghiêm túc dữ thần. - Ảnh nhiêu tuổi, có vợ chưa? - Mới ngoài hai mươi, chưa vợ. Nhiều cô đòi thương mà ảnh từ chối hoài hà. - Thế chị hỏi kỹ vậy, định hỏi cưới Tiểu đội trưởng tụi này hả? - Ờ thì ảnh gật cái là tui hỏi cưới liền! Chị Miên bông đùa, ai nấy đều cười rần rần trước tánh bạo dạn của chị. Từ trong lán Tiểu đội trưởng đi ra, tôi thấy mọi người lập tức im bặt, chắc sợ đội trưởng la cho một trận vì biết nãy giờ mình trở thành mục tiêu bị bàn tán cỡ nào. - Tôi vô rừng có chút việc, mấy đồng chí ngồi đây coi mắt tới đồ đạc giúp tôi. - Đồ quan trọng lắm hả Tiểu đội trưởng? - Mấy cái đó mất, tôi không làm lại được. Dõi theo bóng dáng anh ta khuất sâu trong rừng, mọi người tiếp tục câu chuyện dở ban nãy. Tự dưng tôi tò mò nhìn vô lán, trên chiếc bàn nứa ọp ẹp là một cuốn sổ cũ, mấy lá thư rồi vài thứ lỉnh kỉnh. Tôi nghĩ chắc thư tình của anh ta. Không khí đang vui vẻ thì thình lình máy bay đến. Đằng sau những ngọn cây cao vút, bọn địch ập tới chẳng khác gì sấm sét. Một bộ đội liền đứng dậy nói rõ ràng nhưng không quá lớn: "Chúng đánh tọa độ đó!", một thứ ánh sáng lạnh chớp giật, đất bên dưới rùng mình một cái. Tất cả chúng tôi nằm sát xuống nín thở, tiếp theo đất đá cùng mấy cành cây lớn từ trên đầu đổ ào xuống. Máy bay địch vẫn ở trên cao, hết đợt này lại đến đợt khác! Loạt bom không thả trực tiếp xuống chỗ này, mà cách một khoảng nhưng đủ để rung chuyển mấy cái lán dựng siêu vẹo tại đây. Không ai bảo ai, chúng tôi lập tức đi tìm chỗ nấp. Trong đầu tôi khi ấy bất giác nhớ tới Tiểu đội trưởng, phía rừng nơi anh ta vừa đi về gần với chỗ đánh tọa độ của địch, không biết anh ta may mắn thoát được không. Rồi mắt liếc nhanh về bàn nứa, có mấy thứ đồ quan trọng anh ta nói giữ hộ. Mặc xung quanh cây lớn đổ ào, tôi chui vô lán, quýnh quáng lấy cuốn sổ với thư từ, kèm theo vài thứ khác. Một tiếng bom dội ầm, tôi giật mình thụp xuống, chợt có ai đó nắm vội tay tôi kéo giật lại, nhìn qua mới phát hiện là Tiểu đội trưởng. "Chạy mau!", anh ôm chặt lấy tôi chạy vội ra khỏi lán. Máy bay địch còn quay mòng trên đầu kèm theo từng đợt pháo sáng rực. Tìm được khe đá an toàn, anh ta đẩy tôi vào bên trong núp, còn mình đứng nửa thân ngoài nửa thân trong. Tiếng ầm ầm dội ở ngoài, địch bắn hai mươi ly nghe rát cả tai. Khe đá chật chội tối om, và tôi cảm nhận hơi ấm truyền vào lòng bàn tay mình. Vai tôi với vai Tiểu đội trưởng đụng nhau, tay anh ta vẫn nắm chặt tay tôi, đây là lần đầu tiên tôi tiếp xúc gần gũi với con trai đến vậy. Tôi nhìn sang bên, ánh sáng yếu ớt của buổi chiều cùng pháo sáng trên cao giúp tôi nhìn rõ bóng dáng to lớn đang che chắn ngoài cửa khe. Vị đội trưởng trong tấm áo bộ đội mạnh mẽ lẫn quyết liệt khi bảo vệ tôi. Hình ảnh đó như đập vào trong tâm trí tôi, rất lâu về sau... Máy bay cuối cùng cũng bay đi. Bắt đầu nghe âm thanh lào xào, chắc mọi người đã trở lại dãy lán, tôi với Tiểu đội trưởng cũng đi ra. Không bị dội bom nhưng cành cây đổ xuống làm vài cái lán bị sụp. Chúng tôi nhanh chóng chạy về chỗ lán của phẫu sư đoàn, may chỗ này chưa bị thiệt hại nhiều. Đứng một lúc, tôi phát hiện vai phải của Tiểu đội trưởng chảy máu, màu đỏ thấm đẫm vải áo. - Tiểu đội trưởng, anh bị thương rồi kìa! - Vết thương nhẹ thôi, không sao. - Rồi anh ta nhìn tôi - Nghe tiếng máy bay, tôi chạy vội về thấy ai nấy đều tìm chỗ nấp, sao đồng chí còn chạy vô lán? Bấy giờ mới sực nhớ, tôi đưa ra cái túi vải cũ sờn mà ban nãy kịp bỏ đồ vào trong đó, trả lại cho anh ta và nói rõ: - Hồi nãy anh đi có nhờ coi giúp những thứ này, anh nói rất quan trọng nên em mới quay vô lán để lấy cho anh. Tôi thấy Tiểu đội trưởng ngây người một thoáng, vẻ mặt giống kiểu vừa bất ngờ vừa ngạc nhiên, tiếp theo anh ta đón lấy cái túi vải rồi mở ra xem, tôi nghĩ là mình đã lấy đủ hết. Sau đó anh ta nhìn lại tôi, giọng dường như nhẹ nhàng hơn chút: - Đây là nhật ký của tôi với mấy lá thư gia đình gửi, vài kỷ vật của đồng đội, đúng là quan trọng nhưng không đến mức khiến đồng chí phải mạo hiểm như vậy. Nghe anh ta nói thế bất giác tôi thấy chàng trai này hiền lành đến lạ, lúc này trông anh thật khác với sáng nay khi quở trách tôi. - Tại em nghĩ chạy vô lấy ít đồ chắc cũng không sao. - Đồng chí nhỏ nhắn vậy mà gan lớn quá. - Nhưng hồi sáng Tiểu đội trưởng nói em chỉ biết khóc. Thật tình tôi chỉ buột miệng nhắc lại thôi, nào ngờ Tiểu đội trưởng trở nên khó xử liền đưa tay lên gãi đầu, nhưng anh ta quên mất mình đang đội nón kết thành ra càng thêm bối rối, tôi trông thế mà buồn cười vô cùng. - Sáng nay tôi không đúng khi nặng lời với đồng chí. Tôi thấy đồng đội đau đớn vì bị thương nên sốt ruột, không thông cảm khi đồng chí là một cô gái. - Cái đó em hiểu, điều em không thích là Tiểu đội trưởng nói em chỉ biết khóc. - Ban nãy thấy đồng chí liều mình thì tôi biết cô can đảm cỡ nào rồi. Không nghĩ Tiểu đội trưởng khó tính đó lại khen mình, tôi ngượng ngùng cười. - Đồng chí tên gì? - Nhụy Hoa, cái tên nghe hơi buồn cười, má đẻ em trong bụi hoa dại nên đặt vậy. - Tôi thấy cũng hay, thế đồng chí biết tên tôi chưa? - Nghe mọi người nói Tiểu đội trưởng tên Khởi. - Phong Khởi, là nổi gió đó. Đồng chí thấy ở đâu nổi gió thì ở đấy có tôi. - Tiểu đội trưởng cũng biết nói đùa nghen. - Quê đồng chí Hoa ở đâu? - Em ở Vĩnh Long. - Ủa vậy là đồng hương rồi, tôi cũng ở Vĩnh Long đây. Tôi nghe tiếng anh cười khẽ, cùng lúc một đồng chí bộ đội đi tới hỏi về hành trình ngày mai, anh gật đầu xong quay qua tôi nói rằng: - Mai tiểu đội tôi phải rời khỏi đây, chẳng biết chúng ta có còn gặp lại không. - Quân y tụi em thường đâu có ở một nơi, chỗ này bị địch đánh tọa độ lần thứ ba rồi, có lẽ sẽ phải dời đi chỗ khác. Phong Khởi tỏ vẻ tiếc nuối, mà cũng lạ, lòng tôi cũng mang chút nuối tiếc. - Thôi, trong thời chiến gặp gỡ nhau vậy cũng là cái duyên. Đồng chí bảo trọng, mong có ngày gặp lại, đến lúc đó hi vọng đồng chí trở thành y tá giỏi giang. - Tiểu đội trưởng, anh cũng bảo trọng. Tôi dứt lời, Phong Khởi liền đưa tay lên mái tóc rối của tôi, khoảnh khắc ấy tim tôi đập nhanh kỳ lạ. Mãi đến khi anh lấy xuống một bông hoa dại vô tình vướng vào tóc lúc nào chẳng hay, thả rơi nó vào lòng bàn tay tôi. Anh cười, nhìn thật duyên, đôi mắt long lanh hơn cả những vì sao trên trời đang dần về đêm. Lúc anh quay đi, tôi không hiểu cảm giác xao xuyến này của mình là gì... Chỉ biết rằng, tôi đã ép khô bông hoa dại ấy, cất vào sổ tay giữ cho riêng mình. Hôm sau, Phong Khởi cùng tiểu đội lên đường, còn rất nhiều những trận chiến đang chờ đợi họ. Phẫu sư đoàn chúng tôi cũng chuyển đến chỗ khác. Sau lần đó, lòng tôi tràn đầy hi vọng lẫn chờ đợi, dẫu thứ mình đợi thật mơ hồ. Thời chiến, gặp gỡ rồi chia xa là điều rất hiển nhiên. Không ai trong chúng tôi biết được định mệnh phía trước của mình là gì, sẽ ra sao. Dù vậy, những con người mang trong mình trái tim thanh xuân này vẫn tiếp tục hành trình gian khổ vì lý tưởng lẫn khát vọng về một tương lai hòa bình. ...[Và năm ấy, xảy ra một sự kiện lớn, đó là Chiến dịch Xuân - Hè, còn gọi là "Mùa hè đỏ lửa 1972", bước ngoặt vô cùng quan trọng gần như thay đổi cục diện chiến tranh miền Nam bấy giờ. Chiến dịch kéo dài gần một năm, bắt đầu từ tháng ba năm 1972 đến tháng giêng năm 1973 do Quân Giải phóng miền Nam hòng chống lại chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa. Cuộc tấn công diễn ra với quy mô lớn, tiến thẳng vào tuyến phòng ngự quan trọng ở Quảng Trị - Thừa Thiên Huế, Bắc Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ. Thời điểm đó mây Quảng Trị nhuộm một màu đỏ, Tây Nguyên khói lửa ngày đêm, những con đường miền Tây ngập tràn lửa đạn, một phần các tỉnh Bình Long, Phước Long, Tây Ninh được giải phóng với mười tám tháng ròng rã của chiến dịch Nguyễn Huệ trước khi Hiệp định Paris 1973 được ký kết.] ... Thắng trận nhưng thương vong cũng không ít. Ngoài tiền tuyến bộ đội chiến đấu ngày đêm, nơi hậu cần quân y chúng tôi không biết một ngày phải tiếp nhận bao nhiêu thương binh, trải qua bao nhiêu cuộc phẫu thuật xuyên đêm. Kỳ lạ thay, dù mệt mỏi đến đâu, hay trong những giấc ngủ chập chờn, thì tôi vẫn luôn nhớ về một hình bóng rất xa xôi. Nhớ ngày hôm đó, hình ảnh chàng trai đẩy tôi vào khe đá và đứng chắn bên ngoài bảo vệ, nhớ nụ cười của anh, đôi mắt sáng lấp lánh, cả bông hoa dại anh lấy xuống từ mái tóc tôi... Thời chiến đầy gian khổ mà cũng kỳ diệu thay, người ta có thể mang trong mình bóng hình không bao giờ gặp lại, hay một lời hứa chưa từng được nói ra, vậy mà vẫn chẳng cách nào quên được. Mời các bạn đón đọc Đời Bình An (1972) của tác giả Võ Anh Thơ.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ma Lực Tình Yêu - Johanna Lindsey
Cô ấy còn trẻ, ngọt ngào, là người thích hợp để lấy làm vợ, nhưng người đàn bà hấp dẫn anh phải trưởng thành, trần tục, kiểu người hiểu rằng anh sẽ chẳng bao giờ cho họ danh phận và sẽ không bao giờ như thế. Một khi anh rời bỏ họ, anh sẽ quên ngay và không bao giờ bận tâm để rồi tự hỏi bản thân liệu anh có bỏ lại họ trong đau khổ. Họ đã khuất khỏi tầm mắt, ra khỏi trí nhớ và không bao giờ thích hợp để nhét vào. - Chính những suy nghĩ đó về Amy Malory đã khiến Warren phủ nhận tình cảm của bản thân và từ chối tình yêu của cô giành cho anh. Thế nhưng, mặc cho anh cố gắng từ chối tất cả những cảm xúc khi nghĩ về Amy thì cô vẫn “cứ nấn ná lại một cách mạnh mẽ trong tâm trí anh”. Warren Anderson, người đàn ông 36 tuổi hấp dẫn nhất mà Amy Malory từng gặp, một thương nhân người Mỹ và cũng là anh vợ của chú cô. Anh nóng nảy, thích giễu cợt, ghét phụ nữ, ghét người Anh và đặc biệt, anh ghét người nhà Malory. Rõ ràng trong tất cả những người đàn ông độc thân xuất hiện trước Amy thì anh là người ít thích hợp với cô nhất. Thế nhưng Warren lại chính là người duy nhất khuấy lên cảm xúc của Amy, khiến cô không cần một quả cầu tiên tri cũng có thể tin tưởng rằng anh chính là người ông của đời mình. Amy xinh đẹp đã bị Warren hút hồn ngay từ những lần gặp đầu tiên. Nhưng mặc cho cô hấp dẫn và quyến rũ đến mức độ nào thì Warren vẫn đối xử với cô bằng một sự chán ghét và thái độ gay gắt. Với bản tính chinh phục và sự bướng bỉnh đến táo tợn đặc trưng của người nhà Malory, Amy đã tìm mọi cách để tiếp cận được trái tim của Warren. Qua câu chuyện của Georgina - em gái của anh (nữ chính trong cuốn “Gã cướp biển quý tộc”), Amy đã biết được về quá khứ của anh, về người đàn bà mà anh từng yêu và muốn kết hôn đã phản bội anh đi theo kẻ thù của anh như thế nào. Càng tìm hiểu về Warren, Amy càng bị thôi thúc bởi ý nghĩ muốn biến Warren trở lại là người đàn ông ngọt ngào và đầy lãng mạng như trước đây. Nhưng cuộc chiến giành giật trái tim của anh là không hề dễ dàng. Sự phản đối của dòng họ Malory tuy có gay gắt, âm mưu của những kẻ thù địch Warren tuy có độc ác nhưng cũng không khó vượt qua bằng chính Warren với ý chí sắt đá, sự cứng đầu quyết không chịu thừa nhận tình cảm thực sự của mình mặc cho cô có cố quyến rũ anh bằng cách nào đi nữa. *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã và sẽ được Bách Việt xuất bản: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. *** London, năm 1819. Cô hầu bàn mấy lần thở dài thườn thượt bởi ba quý ông trẻ tuổi và cực kỳ đẹp trai đã không yêu cầu thêm rượu, mặc cho cô ta đã cố hết sức thể hiện là mình luôn sẵn sàng phục vụ. Ấy thế mà cô ta vẫn lượn lờ quanh bàn họ, hy vọng rằng biết đâu một trong ba người lại thay đổi ý định, nhất là anh chàng có mái tóc vàng và đôi mắt xanh đầy gợi cảm kia, đôi mắt ấy hứa hẹn những khoái cảm tuyệt vời nếu tay cô ả có thể chạm vào người anh ta. Derek, mọi người thường gọi anh như vậy và trái tim cô ta đã nhảy múa ngay khi anh bước qua cánh cửa. Cô ta chưa bao giờ thấy người đàn ông nào đẹp trai như thế, cho đến khi chàng trai trẻ nhất trong ba người bước vào. Thật đáng xấu hổ, bởi người đó còn quá trẻ, mà với sự từng trải của cô ta thì những chàng trai cỡ tuổi này chẳng có chút hấp dẫn nào cả. Mặt khác, tia nhìn ranh mãnh lóe lên trong ánh mắt cậu ta làm cô hầu bàn thắc mắc, liệu cậu ta có biết cách làm cho phụ nữ sung sướng cho dù tuổi đời còn non trẻ hay không? Thực ra cậu ta có vóc người to cao hơn hẳn hai người bạn đồng hành, với mái tóc nhuốm màu đêm và đôi mắt xanh thẫm trong vắt, cậu ta nhìn hấp dẫn đến nỗi cô ta khao khát được khám phá. Chàng trai thứ ba trông có vẻ già dặn nhất, tuy không được đẹp trai như hai người kia, song cũng rất bảnh. Cô gái lại thở dài lần nữa, chờ đợi, hy vọng, rõ là thèm thuồng nhưng e rằng đêm nay cô ta đã đến giới hạn cuối cùng của sự chán nản, họ chỉ quan tâm đến rượu và câu chuyện của họ mà thôi. Lờ đi những ham muốn thường có trong suy nghĩ - những điều chẳng có gì mới với cả ba - họ đột ngột thay đổi chủ đề dưới cái nhìn khao khát của cô hầu bàn. “Cậu ta làm điều đó như thế nào, Derek?” Percy phàn nàn bằng cái giọng lè nhè. Anh ta đang ám chỉ đến người trẻ nhất trong nhóm, cậu em họ Jeremy của Derek. “Thằng nhóc này đang cụng ly với chúng ta, quỷ tha ma bắt cậu đi nếu cậu ta không làm thế, như thể ngồi đây chẳng có gì sai trái vậy.” Hai anh em nhà Malory cười nhe răng với nhau. Percy không hề biết rằng những tên cướp biển đã dạy cho Jeremy mọi thứ về rượu và đàn bà. Nhưng nó chẳng khác kiến thức gia truyền là bao, cũng không phải do cha của Jeremy, James Malory - Tử tước của dòng họ Ryding, đã từng là kẻ cầm đầu toán cướp biển với cái tên Hawke, mà là vì Percyval Alden hay Percy - cái tên mà bạn bè vẫn thường gọi, chưa bao giờ được nghe kể về điều đó. Percy già tốt bụng không thể giữ nổi bí mật để cứu rỗi linh hồn mình. “Cậu không biết chú James đã từng cảnh cáo mình về việc làm giảm số rượu của chú ấy à.” Derek nói dối một cách trắng trợn bằng vẻ mặt hết sức nghiêm túc. “Hay nói cách khác, những đứa nhỏ không được phép ra ngoài với mình.” “Trời, thật đáng sợ làm sao.” Percy đổi giọng, tỏ vẻ ái ngại khi thấy bạn mình cam đoan một thằng nhóc mười tám tuổi sẽ không được uống rượu ở cái bàn này. ... Mời các bạn đón đọc Ma Lực Tình Yêu của tác giả Johanna Lindsey.
Bão Thép - Nguyễn Khắc Nguyệt
Bão Thép - Tiểu thuyết viết về Binh chủng Tăng thiết giáp, gồm có:  +  Tập 1 –  Cơn lốc đầu mùa    ( 2009 )  +  Tập 2 – Áp thấp Đường số 9 ( 2010 )  +  Tập 3 – Tâm bão                     (  2011 )  +  Tập 4 – Trận cuồng phong    (  2012 ) *** Với tầm mắt nhìn xa trông rộng, ngay sau khi kết thúc thắng lợi chín năm kháng chiến chống Pháp, nửa nước được độc lập, tự do Đảng và Bác Hồ kính yêu đã nghĩ đến việc xây dựng một quân đội chính quy, hiện đại, đủ sức cùng toàn dân hoàn thành nhiệm vụ giải phóng nửa nước thân yêu và bảo vệ vững chắc độc lập, tự do của Tổ quốc.    Trong bối cảnh đó gần ba trăm cán bộ, chiến sĩ từ khắp các đơn vị đã được tuyển chọn để cử đi nước ngoài học tập về xe tăng, thiết giáp, một binh chủng hiện đại của lục quân. Và ngày 5 tháng 10 năm 1959 trung đoàn xe tăng đầu tiên của QĐNDVN đã được thành lập tại Quế Lâm, Trung Quốc. Đúng 17 giờ ngày 13 tháng 7 năm 1960 những chiếc xe tăng đầu tiên của QĐNDVN đã lăn vết xích đầu tiên trên Đất Mẹ thân yêu. Từ giờ phút đó bộ đội xe tăng đã có mặt trong đội ngũ điệp trùng của LLVT, cùng các quân binh chủng bạn thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng của LLVT cách mạng. Với những ưu việt của mình, ngay từ khi mới ra đời xe tăng thiết giáp đã được xác định là lực lượng đột kích quan trọng của lục quân. Tuy nhiên, vì nhiều lý do cả chủ quan lẫn khách quan phải sau gần 10 năm thành lập, trải qua những cuộc đấu tranh rất gay gắt về quan điểm lực lượng TTG Việt Nam mới ra quân và đánh thắng trận đầu ở Tà Mây- Làng Vây tháng 2 năm 1968. Chiến thắng oanh liệt này đã mở ra một trang sử mới trong lịch sử chiến tranh Việt Nam và dựng xây lên truyền thống vẻ vang “Đã ra quân là đánh thắng” của binh chủng TTG. Những năm tiếp theo xe tăng thiết giáp đã từng bước khẳng định vị thế của mình trong các chiến dịch Đường Chín- Nam Lào, Cánh Đồng Chum năm 1971 và Quảng Trị, Tây Nguyên, Nam Bộ năm 1972. Từ đó binh chủng TTG đã có sự phát triển lực lượng vượt bậc, lớn nhanh như Phù Đổng, có mặt trên khắp các chiến trường. Cho đến cuộc Tổng tiến công nổi dạy Mùa Xuân 1975 Tăng Thiết giáp đã tham gia ngay từ trận mở màn ở Buôn Ma Thuột, các chiến dịch Huế- Đà Nẵng, Phan Rang- Hàm Tân và đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Trong chiến dịch này TTG- như một cơn bão của thép và lửa- đã dẫn đầu 5 cánh quân tiến công Sài Gòn, dinh lũy cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn. Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng Tư năm 1975 hai chiếc xe tăng 843 và 390 đã húc tung cánh cổng Dinh Độc Lập, đại đội trưởng xe tăng Bùi Quang Thận cắm lá cờ chiến thắng lên nóc Dinh, chính ủy lữ đoàn xe tăng 203 thay mặt Quân giải phóng tiếp nhận sự đầu hàng vô điều kiện của chính phủ ngụy quyền Dương Văn Minh, viết nên trang sử hết sức hào hùng và oanh liệt.    Cuốn sách được viết ra nhằm tái hiện quá trình phát triển và trưởng thành của binh chủng TTG trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thần thánh của dân tộc ta. Thông qua đó ngợi ca tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lòng dũng cảm vô song và tinh thần lao động sáng tạo không ngừng của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ xe tăng Việt Nam. Đồng thời cũng góp phần làm sáng tỏ một nguyên lý: “vũ khí dù có hiện đại đến đâu cũng chỉ giữ vai trò quan trọng, còn quyết định vẫn là những con người sử dụng vũ khí đó”.    Năm 2009 là năm kỷ niệm 50 năm ngày thành lập binh chủng TTG, đồng thời cũng là năm kỷ niệm 65 năm thành lập QĐND Việt Nam. Cuốn sách này do một chiến sĩ xe tăng viết ra như một lời tri ân với Đảng, Bác Hồ, với các thế hệ đi trước đã dày công vun đắp nên truyền thống vẻ vang của binh chủng Tăng Thiết giáp, như một nén tâm nhang thắp cho những đồng đội đã hy sinh và cũng là món quà đối với tất cả những ai yêu mến binh chủng “Thép” anh hùng.  *** Những ngày cuối năm trôi qua thật nhanh. Chẳng mấy mà cái Tết Ất Mão đã tới sau lưng. Có vẻ như năm nay kinh tế khá hơn nên các phiên chợ cuối năm hàng hóa phong phú hơn hẳn. Bất chấp cảnh mưa phùn, gió bấc người ta lũ lượt kéo nhau đi chợ sắm Tết. Mà hình như năm nay bộ đội được về phép Tết nhiều hơn thì phải. Chợ nào cũng thấy nhan nhản những bóng áo xanh của lính. Biết tư lệnh Đào đã mấy năm không ăn Tết cùng gia đình nên chính ủy Sính gợi ý năm nay ông nên nghỉ mấy ngày phép vào dịp Tết. Trước thiện ý của người đồng cấp, ông Đào vui vẻ nhận lời. Ông dự định sẽ xin nghỉ phép trước Tết độ một tuần, đến Mồng Hai sẽ lên cơ quan trực thay cho các đồng chí khác đi nghỉ. Một phần vì đã lâu ông được ăn Tết cùng gia đình. Một phần vì thằng Hưng, cái thằng con nuôi của ông bà dạo vừa rồi bất ngờ viết thư lên thông báo với bố là ra Tết sẽ nhập ngũ. Cái thằng này ngày bé xanh xao, còi cọc lắm nhưng hai năm nay lớn phổng hẳn lên, trông cũng ra dáng đàn ông ra phết. Việc nó tự giác đi khám sức khỏe và chấp hành mọi quyết định của địa phương làm ông thấy phấn khởi. Như thế nghĩa là nó cũng biết nghĩ, biết bổn phận của mình với đất nước. Thực tình, bố con ông cũng ít khi nói chuyện với nhau nhưng ông tin rằng chính sự giáo dục bằng tấm gương của bản thân mình còn hơn vạn lần những câu giảng giải lý thuyết suông. Chuyện nó nhập ngũ ông cũng không có ý kiến gì, cũng chẳng tác động với địa phương hay xin cho nó về đơn vị mình. Ông muốn con đi lên bằng chính đôi chân của mình, không phải dựa dẫm vào ai. Và bước đầu nó đã làm được như vậy. Bà Hạnh thì không quan tâm nhiều lắm tới những chuyện xa xôi đó. Nó lớn rồi thì nó phải đi. Nó đi bộ đội thì cũng như cha nó, như biết bao thanh niên trai tráng ở cái làng này, ở đất nước này. Chỉ biết Tết này ông ấy được nghỉ hẳn một tuần và cả nhà đoàn tụ là bà vui rồi. Ngay từ hôm biết ông về ăn Tết bà đã đăng ký với ông anh họ xin đụng hẳn một góc con lợn hơn bốn chục cân. Gạo nếp, đỗ xanh, măng miến… cũng đã chuẩn bị đủ cả. Bà muốn cái Tết này phải thật tươm tất. Mọi năm ông ấy đi vắng, chỉ có mấy mẹ con ở nhà thì đơn giản một chút cũng được. Còn năm nay dứt khoát phải đàng hoàng hơn. Về nhà, thấy bà săm sắn chuẩn bị Tết ông cũng thấy vui vui. Cho đến lúc này ông mới thấy để chuẩn bị cho cái Tết của một gia đình không hề đơn giản một chút nào. Thời buổi chiến tranh, cái gì cũng khó kiếm, có thứ bà phải tích trữ từ mấy tháng trước rồi. Thằng Hưng thì đang bận đi thăm và chia tay bạn bè để chuẩn bị lên đường. Mấy đứa con gái thì mắt trước, mắt sau nhấp nhỉnh lên chợ thị trấn chơi. Thấy các con như vậy, ông bảo chúng cứ đi đi, năm nay đã có bố về, có việc gì bố sẽ làm cho. Nói như vậy, nhưng đến lúc vào việc thì ông cứ lúng ta, lúng túng như gà mắc tóc. Có bó giang bà bảo ông chẻ lạt gói bánh mà loay hoay mãi, được một bó lạt thì trăm cái lẹm cả chín chục. Bảo ông đi xiết đỗ thì đỗ cứ lăn lung tung, hạt vỡ vụn, hạt lại còn nguyên trông đến chán. Cuối cùng bà giao cho ông mỗi việc rửa lá dong. Ông vừa ngồi tỷ mẩn rửa lá, vừa nhìn bà tất bật đãi gạo, thổi đỗ, ướp thịt… vừa lẩm bẩm: “Thì ra, để làm được một cái bánh chưng thơm ngon, béo ngậy mà ông vẫn ăn ấy lại phức tạp đến thế. Cả một quy trình khép kín không thể bỏ qua một công đoạn nào”. Nghĩ đến đây, chợt ông nhớ lại hồi mới đi học lái xe tăng. Quy tắc lái thì học thuộc lòng rồi, bất cứ yếu lĩnh nào cũng phải thực hiện hàng loạt các động tác, thao tác theo một thứ tự nhất định. Nổ máy thì 13 thao tác. Khởi xe thì 5 thao tác v.v… Ấy thế nhưng anh em nhà ta lại hay khôn vặt, chỉ nhăm nhăm “ăn cắp động tác”. Chả là làm như thế thì vừa nhanh, đạt chỉ tiêu về thời gian vừa đỡ mệt. Trợ giáo của bạn nhắc mãi vẫn không chừa. Thế rồi, hiệu quả nhãn tiền của cái trò làm tắt ấy đã hiển hiện. Trong một lần lái xe, quy định khi sang số phải đạp “hai ly hợp” nhưng lính ta chỉ đạp một lần và kết quả là cái hộp số vỡ tung. Thế mới biết không phải ngẫu nhiên mà người ta lại đề ra cả một mớ quy trình, quy phạm rắc rối đến thế. Sau đận ấy, đoàn phải họp và ra nghị quyết kiên quyết chống làm bừa, làm ấu, chấp hành nghiêm mọi quy định trong quy tắc sử dụng trang bị. Nghĩ đến đây, ông bật cười. Thấy ông cười, bà ngẩng lên nhìn rồi nhăn nhó: “Rửa như ông thì ăn cả đất à”. Rồi bà nhặt lấy một cái lá, hướng dẫn ông từng động tác lau sao cho sạch mà không bị rách. Ông chỉ biết cười rồi lẩm bẩm: “Phức tạp đến thế kia à?”. Đúng là cả đời làm lính nên những việc thông thường nhất ông cũng không biết. ... Mời các bạn đón đọc Bão Thép của tác giả Nguyễn Khắc Nguyệt.
Cú Hích - Richard H. Thaler & Cass R. Sunstein
Mỗi ngày, chúng ta thực hiện đủ loại quyết định, nhưng đáng tiếc là chúng ta thường có những lựa chọn tồi tệ. Lý do, theo các tác giả, là vì con người dễ bị tác động bởi nhiều định kiến khác nhau, mà lắm lúc chúng làm ta trở nên thật ngớ ngẩn. Thaler và Sunstein mời chúng ta bước vào thế giới của những lựa chọn, một thế giới xem nhân tính là một vật phẩm được ban tặng. Các tác giả cho thấy bằng cách tìm hiểu suy nghĩ của người khác, chúng ta có thể thiết kế các môi trường lựa chọn giúp họ dễ dàng tìm được những gì tốt nhất cho mình. Sử dụng nhiều ví dụ sống động từ những mặt quan trọng nhất trong đời sống, Thaler và Sunstein cho chúng ta thấy làm thế nào một” kiến trúc lựa chọn” tinh tường có thể hích con người theo những hướng có lợi mà không hạn chế quyền tự do lựa chọn của chúng ta. Đây là một trong những cuốn sách hấp dẫn và kích thích tư duy sáng tạo nhất trong những năm gần đây. “Cú hích” rất có giá trị và tạo nên sự khác biệt sâu sắc. Một cuốn sách mà theo Steven Levitt - đồng tác giả cuốn Kinh tế học kỳ quái – Freakonomics “là tác phẩm đã làm thay đổi hoàn toàn thế giới quan của tôi”. "Bạn đã từng đọc một cuốn sách nhiều ý tưởng cảm hứng, thú vị và thực tế chưa? Đây chính là một cuốn sách như vậy! Bên trong quyển sách này là viên ngọc sáng nhất của kinh tế học hành vi. Đây là cuốn sách phải đọc đối với bất kỳ những ai muốn tạo nên sự khác biệt và làm cho những sự việc xung quang chúng ta vận hành hiệu quả hơn. Chắc chắn nó sẽ nâng tầm các quyết định của bạn thông minh hơn và làm cho cuộc sống chính bạn sáng tạo, tốt đẹp hơn." *** Quán ăn tự phục vụ Carolyn là giám đốc của một công ty chuyên cung cấp thực phẩm cho một chuỗi trường học tại một thành phố lớn. Cô chịu trách nhiệm cung cấp thức ăn tại hàng trăm ngôi trường với hàng ngàn cô cậu học trò nhỏ ăn uống trong các tiệm ăn của cô mỗi ngày. Carolyn thường xuyên tổ chức những buổi huấn luyện về kiến thức dinh dưỡng (cô có bằng thạc sĩ của một trường đại học công lập) cho nhân viên của mình. Cô thuộc loại người năng động sáng tạo và thích nghĩ về mọi thứ theo phong cách phi truyền thống. Một buổi chiều nọ, bên chai rượu vang hảo hạng, cô và anh bạn Adam, một nhà tư vấn quản trị định hướng thống kê bỗng nảy ra một ý tưởng mới lạ: Không cần thay đổi thực đơn hàng ngày, liệu bọn trẻ trong các trường học mà cô phục vụ có bị tác động và thay đổi quyết định chọn món ăn qua cách trưng bày hay không? Rồi cô chọn một số trường làm thí nghiệm. Nơi thì cô bày món tráng miệng ra trước các món chính, nơi lại dọn ra cuối cùng, có nơi lại xếp thành một dãy riêng. Vị trí bày các món ăn cũng khác nhau giữa các trường: nơi thì món khoai tây chiên được bày ở đầu bàn, nơi thì những thanh cà-rốt được trưng bày trước và ngang tầm mắt của các em. Qua kinh nghiệm thiết kế trưng bày sản phẩm cho các siêu thị, Adam cho rằng kết quả thu được sẽ rất ngoạn mục. Và anh đã đúng. Chỉ đơn giản thiết kế lại tiệm ăn, Carolyn có thể làm tăng hoặc giảm số lượng thức ăn bán ra đến 25%! Từ đó, cô rút ra được bài học lớn: học sinh tiểu học, cũng giống như người lớn, có thể bị tác động lớn bởi những thay đổi nhỏ của hoàn cảnh. Sự ảnh hưởng đó có thể tốt hoặc xấu. Chẳng hạn, Carolyn biết rõ cô có thể tăng lượng tiêu thụ các loại thức ăn có lợi cho sức khỏe và giảm những món không tốt cho sức khỏe. Giờ đây, Carolyn tin rằng cô đang nắm trong tay một “quyền lực” lớn để tác động đến những thứ mà bọn trẻ ăn hàng ngày. Carolyn đang cân nhắc về những việc cô có thể làm với quyền lực mới này. Dưới đây là một vài đề nghị từ phía bạn bè và cả những người làm việc cùng cô: 1. Bày các món ăn sao cho học sinh được hưởng lợi ích cao nhất. 2. Giúp việc chọn thức ăn được thực hiện một cách ngẫu nhiên. 3. Cố sắp xếp các món ăn theo đúng cách bọn trẻ tự chọn khi không có sự can thiệp nào. 4. Tối đa hóa doanh số bán hàng đối với các nhà cung cấp muốn đề nghị những khoản hoa hồng cao nhất. 5. Tối đa hóa lợi nhuận, và chấm hết. Phương án 1 rõ ràng hấp dẫn, nhưng có phần áp đặt, thậm chí mang tính gia trưởng. Phương án 2 có thể xem là công bằng, hợp lý và trung lập. Phương án 3 dường như là một nỗ lực đáng khen khi cố tránh lối tiếp cận áp đặt: bắt chước cách chọn món ăn của bọn trẻ. Nếu chịu khó suy nghĩ một chút thì phương án này cũng không dễ thực hiện, vì theo Adam, bọn trẻ chọn món ăn theo thứ tự trưng bày. Vậy đâu là tiêu chí lựa chọn của các học sinh tiểu học? Liệu có ý nghĩa gì không khi nói rằng Carolyn phải tìm hiểu trước xem bọn trẻ thường chọn những gì? Ngoài ra, trong một tiệm ăn tự phục vụ, chúng ta không thể tránh một số kiểu trưng bày nào đó. Phương án 4 có thể thu hút sự chú ý của những người thích lợi dụng công việc của Carolyn và dùng mánh khóe để đảo lộn thứ tự các món ăn nhằm đạt mục tiêu kinh tế. Nhưng Carolyn là người uy tín và trung thực nên cô không để ý đến phương án này. Cuối cùng, phương án 5, giống phương án 2 và 3, cho thấy có sức hấp dẫn riêng của nó, đặc biệt nếu Carolyn nghĩ rằng một tiệm ăn hiệu quả nhất là tiệm làm ra nhiều tiền nhất. Nhưng Carolyn có thật sự muốn tối đa hóa lợi nhuận, trong khi lại làm cho sức khỏe của các em học sinh sút kém đi bởi những loại thực phẩm không lành mạnh? ... Mời các bạn đón đọc Cú Hích của tác giả Richard H. Thaler & Cass R. Sunstein.
Con Mèo Tự Dưng Biết Nói - Claude Roy
Bí mật của mọi bí mật, đó chính là tất cả các con mèo đều biết nói. Có những loài mèo biết nói ngay từ khi mới sinh ra. Và tất nhiên, có những con mèo chậm nói hơn... vào thời điểm này của cuộc đời, chúng chẳng còn gì là không biết cả, kể cả lời nói. Đúng vậy đấy, loài mèo biết nói. Nhưng chúng chỉ quá khôn ngoan và quá kín đáo không để chúng ta nhìn thấy. Quá thận trọng và quá khiêm nhường không để chúng ta biết. Loài mèo nói - mỗi khi chúng ta không có ở đó. (Con mèo tự dưng biết nói) *** Claude Roy sinh ra tại Paris ngày 28 tháng 8 năm 1915. Thuở nhỏ, ông sống tại Jarnac, rồi sau đó chuyển tới Paris và bắt đầu học luật. Trong chiến tranh, ông tham gia vào tổ chức Kháng chiến và đã gặp gỡ nhiều đại văn hào Pháp như Louis Aragon, Elsa Triolet, André Gide và Jean Giraudoux. Sau cách mạng, ông là một trong những trí thức nổi tiếng nhất tại Pháp Là một nhà thơ, một tiểu thuyết gia, và một người ưa chu du khám phá, ông không cho rằng một nhà văn phải nói với trẻ em giống như là với những kẻ chậm hiểu và nói với người lớn như là họ đã mãi mãi hết tuổi thơ. Các tác phẩm dành cho người lớn của ông, và bộ tác phẩm dành cho độc giả từ 4-104 tuổi: Ngôi nhà biết bay, Chú mèo dễ thương, Con mèo tự dưng biết nói… Năm 1985, Viện hàn lâm Goncourt đã trao giải nhất Goncourt Thơ cho ông, và đến năm 1995, ông đã nhận giải Guillaume Apollinaire cho sự nghiệp sáng tác của mình. Claude Roy mất ngày 13 tháng 12 năm 1997. *** Chàng mèo Gaspard Mac Kitycat, bạn chí cốt của Thomas, một hôm bỗng tự dưng biết nói. Chuyện đến tự nhiên như không. Gaspard mang dòng máu Scotland thừa hưởng từ bố, một danh miêu tiếng nổi như cồn trong loài Mèo Xanh của Anh, còn ở Pháp thì được gọi là mèo sác-trơ, thế nhưng màu lông lại xám xịt chứ không như cái tên. Tristram Mac Kittycat, tức công tước thứ mười ba của dòng họ Garth (một dòng họ lâu đời xứ Ê-cốt), ngay từ cái nhìn đầu tiên đã phải lòng một nàng mèo Pháp màu xám cũng dòng sác-trơ quyến rũ bậc nhất thiên hạ tên là Mouflette de Vaneau, nam tước Flon. (Nàng là hậu duệ của ngài Flonflon lừng danh đã tham gia chuyến tàu chở quân trang phục vụ Đại Quân. Vị tướng mèo này được Napoléon Đệ nhất đích thân phong tước nam tước trên chiến trường Austerlitz. Vinh dự này tưởng thưởng việc ngài đã có công giúp thống chế Murat diệt trừ lũ chuột đã dám to gan ra răng nghiến ngấu cả toa yến mạch của quân đội.) Cuộc hôn nhân mỹ mãn của công tước Tristram xứ Scotland và nữ nam tước Flon lần lượt cho ra đời bốn nhóc mèo nhà nòi. Gaspard Mac Kitycat, kẻ được định sẵn sau này sẽ kế tục cương vị Công tước thứ mười bốn dòng họ Garth, là anh cả. Người thân gọi cậu là Gaspard. Gaspard là một chú mèo can trường có bộ lông màu xám sac-trơ đặc trưng. Những kẻ ngù ngờ vẫn hay bảo: “Đó là một con mèo xám lông chuột”, dù rằng thật thiếu văn hóa mới đi so sánh một chú mèo với một con chuột. Gaspard mê tít trò vờn nhay-rí rách-nhấm nháp đám cỏ mọc cuối vườn. Một buổi sớm giống như bao buổi khác, Gaspard ngồi ăn sáng với Thomas. Khi Thomas đi học, Gaspard còn tiễn cậu chủ nhỏ ra tận cửa và đúng thủ tục tạm biệt hàng ngày, chú nói “Tạm biệt!” bằng một tiếng meo khe khẽ và một tiếng gừ gừ mãnh liệt. Gaspard nổi tiếng trong giới mèo là được trời phú một chất giọng mê ly. Tuy nhiên, có vẻ ý kiến của loài người về vấn đề này lại không được thống nhất cho lắm. Thomas quả quyết rằng Gaspard có một điệu meo meo tuyệt vời, và một âm meo hay lịm người. Nhưng bố của Thomas, lúc nào đang đọc báo mà nghe tiếng Gaspard nhặng lên đòi ăn tối là y như rằng khăng khăng: “Con mèo này có tiếng kêu y như tiếng cửa xát.” Nhưng dù gì, Thomas cũng luôn bảo vệ Gaspard đến cùng mỗi khi có ai nói xấu mèo cưng của cậu. Ngay từ hồi còn bé, Thomas đã luôn đối xử tốt với Gaspard. Cậu không bao giờ kéo đuôi, giật râu hay vuốt ngược lông Gaspard. Cậu cho Gaspard ăn, nói chuyện với Gaspard bằng giọng tôn trọng và trìu mến. Tóm lại, cậu đối xử với chú mèo của mình chẳng khác gì một con người, mà lại còn như người bạn thân nhất. Vậy là, sáng hôm đó, sau khi Thomas ra khỏi nhà, Gaspard lang thang trong vườn và lại bắt đầu chơi trò vờn nhay-nhấm nhẳng-nhí nhách với đám cỏ. Có một loại cỏ cậu chàng chưa bao giờ nhìn thấy nhưng trông lại có vẻ đúng loại khoái khẩu. Gaspard xông vào vờn, nhai, nhí nhách, nhấm nháp và cuối cùng nuốt chửng lấy nó. Vừa nuốt qua khỏi cổ họng, Gaspard đột nhiên thấy như có một dòng điện kỳ lạ chạy rần rật từ vòm miệng xuống dạ dày. Một giây sau, một con bướm bay vèo qua râu chú ta và Gaspard, khi nhảy lên bắt bướm, nghe thấy một giọng nói nhỏ giống hệt tiếng một cây vĩ cầm đồ chơi. Cái giọng đó thì thầm: “Bướm kia, tao mà bắt được mày, tao chén thịt không tha!” “Ai đang nói thế nhỉ?” Gaspard nhìn quanh quất, tự hỏi. Chú chẳng thấy bóng ai, nhưng lại nghe thấy giọng khe khẽ nói tướng lên suy nghĩ thầm kín của chú: “Ai đang nói thế nhỉ?” “Chẳng có ai đang nói cả, vì làm gì có ai”, Gaspard tự nhủ. Và cùng lúc đó, chú vẫn lại nghe thấy cái tiếng nói bé tí, hao hao tiếng cây vĩ cầm đồ chơi. Nó lại nhại: “Chẳng có ai đang nói cả, vì làm gì có ai.” “Chả đúng thế còn gì. Gaspard tự nhủ. Chẳng ai nói gì bởi vì làm gì có ai ngoài mình, và bởi vì mình thuộc họ nhà mèo, là mèo thì làm sao nói được chứ. Ấy thế mà mình lại nghe thấy ai đó nói: “Chẳng có ai nói cả, vì làm gì có ai.” Thế thì phải có một ai đó. Vì theo lẽ thường mà nói, không có người làm sao có tiếng.” ... Mời các bạn đón đọc Con Mèo Tự Dưng Biết Nói của tác giả Claude Roy.