Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vì Sao Chúng Ta Làm Việc

Vì Sao Chúng Ta Làm Việc đưa ta đến lời giải cho bí mật của hạnh phúc nơi làm việc. Sau tất cả, Barry Schwartz đã chứng minh cho chúng ta thấy gốc rễ của thành công trong lao động hiếm khi được khuyến khích, trong khi chúng ta lại cố gắng làm những việc chỉ đem lại kết quả xấu. Tại sao chúng ta làm việc? Tại sao mỗi sáng ta lại phải kéo lê mình ra khỏi giường thay vì sống cuộc đời ngập tràn niềm vui với hết trò này đến trò khác? Nhưng câu hỏi tưởng như thật đơn giản và ai cũng dễ dàng trả lời. Nhưng Giáo sư Barry Schwartz lại chứng minh rằng thật ra câu trả lời chi nó lại vô cùng phức tạp, đáng kinh ngạc và vô cùng khẩn cấp. Ta làm việc vì ta phải kiếm sống. Chắc chắn rồi, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tất nhiên là không rồi. Khi bạn hỏi những người hài lòng với công việc tại sao họ làm công việc ấy, thì gần như tiền không phải là câu trả lời. Danh sách những lý do phi-tiền-bạc rất dài và rất thú vị. Nhiều người làm việc vì họ thấy vui. Những người hài lòng với công việc lao động vì thấy có trách nhiệm. Những người khác làm việc vì đó là cơ hội để hòa nhập cộng đồng. Nhiều người làm việc vì họ cảm thấy việc mình làm thật ý nghĩa. Những nguyên nhân phong phú khiến chúng ta thỏa mãn với công việc kể trên đã dấy lên một số vấn đề rất lớn. Tại sao trên thế giới này có vô vàn người mà công việc của họ lại chẳng có nhiều hoặc hoàn toàn vắng bóng những đặc tính này? Tại sao với hầu hết chúng ta, công việc thật là đơn điệu, vô vị và mòn mỏi? Tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển lại tạo ra một mô hình làm việc hạn chế hoặc triệt tiêu các cơ hội nuôi dưỡng sự hài lòng phi vật chất tiềm năng – mà chính nó sẽ khuyến khích người ta làm việc tốt hơn? *** Vấn đề mấu chốt Tại sao chúng ta làm việc? Tại sao mỗi sáng ta lại phải kéo lê mình ra khỏi giường thay vì sống cuộc đời ngập tràn niềm vui với hết trò này đến trò khác? Thật là câu hỏi ngớ ngẩn. Ta làm việc vì ta phải kiếm sống. Chắc chắn rồi, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tất nhiên là không rồi. Khi bạn hỏi những người hài lòng với công việc tại sao họ làm công việc ấy, thì gần như tiền không phải là câu trả lời. Danh sách những lý do phi-tiền-bạc rất dài và rất thú vị. Người nào hài lòng với công việc thì lao động say mê. Họ làm việc quên mình. Tất nhiên không phải lúc nào cũng thế, nhưng cũng đủ để điều đó trở thành đặc điểm nổi bật của họ. Những người này được khơi gợi tinh thần thử thách. Công việc buộc họ phát huy khả năng – bước ra ngoài vùng an toàn của mình. Những người may mắn này cho rằng làm việc thật là vui, vui như chơi trò đoán ô chữ hay Sudoku vậy. Con người làm việc còn vì lẽ gì nữa? Những người hài lòng với công việc lao động vì thấy có trách nhiệm. Công việc cho họ phương tiện để có quyền độc lập và tự quyết. Và họ sử dụng quyền ấy để nâng cao khả năng của bản thân. Họ học những điều mới mẻ, phát triển bản thân cả trong công việc lẫn đời sống. Những người này làm việc vì đó là cơ hội để hòa nhập cộng đồng. Họ làm nhiều việc với tư cách là một thành viên nhóm, và ngay cả khi làm việc một mình, trong những lúc tĩnh lặng, họ vẫn có nhiều cơ hội tương tác với bên ngoài. Cuối cùng, những người này hài lòng với công việc vì họ cảm thấy việc mình làm thật ý nghĩa. Có thể là, công việc của họ khiến thế giới thay đổi. Nó khiến cuộc sống của những người khác tốt đẹp hơn. Và thậm chí theo những cách đầy ý nghĩa. Tất nhiên, chẳng có nhiều công việc, và tôi nghi ngờ là không có công việc nào, lúc nào cũng hội tụ tất cả những đặc điểm này. Nhưng những đặc trưng nghề nghiệp như thế này chính là điều sút ta ra khỏi nhà, thúc ta cõng việc về nhà, huých ta nói về công việc của mình với những người khác, và khiến ta ngần ngừ không muốn nghỉ hưu. Ta sẽ không làm việc nếu không được trả công, nhưng đó không phải là lý do mấu chốt. Và ta hay nghĩ vật chất là một lý do làm việc chẳng đẹp đẽ gì. Thật vậy, khi nói ai đó “làm việc vì tiền”, ta không chỉ đơn thuần là giới thiệu, mà còn có ý đánh giá nữa. Những nguyên nhân phong phú khiến chúng ta thỏa mãn với công việc kể trên đã dấy lên một số vấn đề rất lớn. Tại sao trên thế giới này có vô vàn người mà công việc của họ lại chẳng có nhiều hoặc hoàn toàn vắng bóng những đặc tính này? Tại sao với hầu hết chúng ta, công việc thật là đơn điệu, vô vị và mòn mỏi? Tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển lại tạo ra một mô hình làm việc hạn chế hoặc triệt tiêu các cơ hội nuôi dưỡng sự hài lòng phi vật chất tiềm năng – mà chính nó sẽ khuyến khích người ta làm việc tốt hơn? Những người làm kiểu công việc này – dù trong nhà máy, cửa hàng thức ăn nhanh, kho hàng bán theo yêu cầu, hay quả thực, trong những công ty luật, lớp học, phòng khám và văn phòng – là làm vì tiền. Dù có cố gắng tìm kiếm ý nghĩa, thử thách, và không gian để được tự quyết đến đâu, thì họ cũng phải đầu hàng trước điều kiện làm việc. Cách thức công việc của họ được tổ chức thực sự chẳng cho họ một lý do ý nghĩa nào ngoại trừ tiền lương. Theo một báo cáo diện rộng do Gallup, một tổ chức thăm dò ý kiến có trụ sở tại Washington, D.C xuất bản vào năm 2013, số người lao động “chống đối” trên thế giới nhiều gấp đôi so với những người lao động “gắn bó” với công việc của mình. Gallup đã đo lường sự hài lòng với công việc trên toàn cầu trong gần hai thập kỷ. Tổng cộng họ đã khảo sát 25 triệu người lao động ở 189 quốc gia khác nhau. Trong những phiên bản mới đây nhất, họ thu thập thông tin từ 230.000 người lao động làm việc toàn thời gian và bán thời gian ở 142 quốc gia. Nhìn chung, Gallup đã nhận ra chỉ có 13% số người cảm thấy gắn bó với công việc của mình. Những người này làm việc đam mê và dành trọn thời gian để thúc đẩy công ty, doanh nghiệp mình tiến lên. Phần lớn chúng ta, khoảng 63%, không cảm thấy yêu công việc. Chúng ta lờ đờ, nửa tỉnh nửa mê lê lết qua hết một ngày dài, chẳng đầu tư công sức gì lắm cho công việc. Và số người còn lại thì làm việc cực kỳ chống đối, thực sự ghét việc. Nói cách khác, công việc thường xuyên là một nguồn khó chịu hơn là nguồn vui sướng cho gần 90% người lao động trên thế giới. Hãy nghĩ đến sự lãng phí các dịch vụ xã hội, lãng phí cảm xúc và có lẽ lãng phí cả tiền bạc mà con số thể hiện. 90% người trưởng thành dành một nửa thời gian thức để làm những việc họ không muốn làm và ở những nơi mà họ không muốn ở. Những câu hỏi khảo sát của Gallup đã nắm bắt được nhiều lý do làm việc mà tôi vừa liệt kê. Những khía cạnh công việc mà bài khảo sát nói đến là: cơ hội làm việc một cách “tương xứng”, hết sức mình; cơ hội để có hứng thú học hỏi và phát triển bản thân; để cảm thấy cảm kích, vui vẻ với đồng nghiệp và quản lý; để cảm thấy được tôn trọng ý kiến; để cảm thấy công sức mình bỏ ra là cần thiết; và để có những người bạn tốt ở nơi làm việc. Và đối với phần đông áp đảo, công việc của họ thiếu – thiếu nhiều – những điều đó. Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao? Cuốn sách này sẽ đưa ra một câu trả lời. *** Quan niệm sai lầm Hơn hai thế kỷ nay, cả xã hội và từng cá nhân chúng ta đã thấm nhuần một số quan niệm sai lầm về quan hệ của con người với công việc. Đó là một nguyên lý kinh tế học đã được chấp nhận từ lâu, được một số học thuyết tâm lý bồi thêm cho vững chắc. Nguyên lý ấy là: nếu bạn muốn có một ai đó – nhân viên, sinh viên, quan chức chính phủ hay con cái của bạn – làm một việc gì đó, thì bạn phải đền bù xứng đáng cho họ. Con người làm việc vì được thúc đẩy, vì phần thưởng, vì tiền. Bạn có thể thấy quan điểm này vận hành trong phương pháp “cà rốt và cây gậy”, một phương pháp chủ yếu trong những nỗ lực giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính hiện thời của thế giới. Để tránh tình trạng khủng hoảng tài chính tái diễn, người ta cho rằng cần phải thay thế những động cơ làm việc “ngớ ngẩn”, thủ phạm dẫn tới tình trạng khủng hoảng đó, bằng những động cơ “thông minh hơn”. Chúng ta phải có những động cơ đúng. Những thứ khác không thực sự quan trọng. Quan niệm này đã làm sống lại quan niệm của người phát kiến ý tưởng về thị trường tự do, Adam Smith. Trong cuốn Của cải của các quốc gia (The Wealth of Nations), xuất bản năm 1776, ông viết: Con người ta vốn thích được sống sung sướng nhất có thể; và nếu tiền lương vẫn như vậy dù anh ta có làm việc chăm chỉ hay không, thì anh ta sẽ lơ là và lười biếng vì được cho phép. Nói cách khác, con người làm việc vì tiền – chẳng hơn mà cũng chẳng kém. Niềm tin của Smith vào sức mạnh thúc đẩy của đồng tiền dẫn ông tới chỗ bênh vực cho cách thức phân chia công việc thành những thao tác nhỏ, lặp lại dễ dàng, cơ bản là vô nghĩa. Miễn là được trả lương, còn lại công việc đó tạo ra sản phẩm gì thì người ta chẳng quan tâm nhiều lắm. Và bằng cách phân chia công việc thành những thao tác nhỏ, xã hội sẽ đạt được năng suất làm việc khổng lồ. Để tán dương lợi ích của chuyên môn hóa, Smith đưa ra một ví dụ nổi tiếng, miêu tả một nhà máy sản xuất đinh: Một người kéo sợi dây ra, người khác lần theo nó, người thứ ba cắt, người thứ tư chộp lấy mẩu cắt ấy, người thứ năm tán cái đầu nó ra để tạo phần mũ... Tôi đã nhìn một phân xưởng nhỏ làm việc kiểu ấy, họ chỉ thuê có 10 người... Bọn họ có thể làm ra được hơn 48.000 cái đinh một ngày... Nhưng nếu cho làm việc riêng rẽ và độc lập... thì chắc mỗi người không làm nổi được 20 cái. Như chúng ta sẽ thấy sau này, quan điểm của Smith về loài người tinh vi hơn, phức tạp hơn và giàu sắc thái hơn nội dung vừa trích dẫn. Ông ta không tin rằng “con người trong công việc” nói lên toàn bộ câu chuyện, hay thậm chí là chuyện mấu chốt nhất, về bản chất con người. Nhưng dưới bàn tay những kẻ hậu bối của Smith, quan niệm đó đã mai một đi phần lớn độ tinh vi và khía cạnh phức tạp của nó. Hơn một thế kỷ sau, các quan điểm của Smith đã dẫn đường chỉ lối cho cha đẻ của cái được gọi là phong trào “quản lý khoa học”, Frederick Winslow Taylor. Taylor nghiên cứu tỉ mỉ về thời gian và cử động để tinh giản nhà máy, như cách Smith hình dung, để biến nhân công thành một bộ phận của một bộ máy vận hành trơn tru. Và ông ta đã đặt ra những cơ chế khen thưởng để thúc đẩy nhân công làm việc chăm hơn, nhanh hơn, và chính xác hơn. Không lâu sau đó, quan điểm của Smith đã tác động đến suy nghĩ của một nhân vật tiếng tăm trong giới tâm lý học giữa thế kỷ 20, B. F. Skinner. Các nghiên cứu của Skinner trên chuột và bồ câu – qua những thí nghiệm đơn giản, lặp lại, hết lần này đến lần khác, với phần thưởng là thức ăn hoặc nước uống – đã khoác lên một cái áo mang màu sắc khoa học đúng đắn và phương pháp luận cho những cải cách môi trường làm việc do Taylor phát triển. Skinner đã chỉ ra rằng hành vi của con vật có thể bị ảnh hưởng mạnh mẽ và được kiểm soát chặt chẽ bằng cách điều khiển số lượng phần thưởng và tần số thưởng mà hành vi đó đem lại. Giống như Taylor phát hiện ra chế độ trả lương khoán theo sản phẩm (một số tiền cố định cho mỗi sản phẩm hoàn thành) đã nâng cao năng suất làm việc ở nhà máy, Skinner nhận ra rằng con chim bồ câu trong phòng thí nghiệm cũng nghe lời hơn với hình thức khoán tương tự. Bạn có thể hỏi tại sao lại có ai đó đi chọn làm việc trong xưởng đinh của Smith, tán đầu đinh hết phút này đến phút khác, giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác cơ chứ. Câu trả lời của Smith là, tất nhiên rồi, phàm là người thì chẳng ai thích làm việc trong xưởng đinh. Nhưng phàm là người thì cũng chẳng ai thích làm việc cho dù ở bất cứ đâu. Smith đang nói với chúng ta rằng lý do duy nhất cho việc người ta làm bất kỳ thể loại công việc nào chính là số tiền mà nó đem lại. Và miễn là số tiền ấy xứng đáng thì bản thân công việc ra sao lại chẳng thành vấn đề. Adam Smith đã nhầm về thái độ và động lực làm việc của chúng ta. Nhưng khi chủ nghĩa tư bản phát triển dưới ảnh hưởng của ông, bằng một bước xoay mình uyển chuyển của “lý thuyết động cơ cho vạn vật”, người ta đã cải tiến ra một mô hình làm việc bỏ qua hoặc xóa sổ tất cả những yếu tố tiềm năng khác có thể khiến con người ta hài lòng với công việc. Và dần dần, cả hành tinh này đều vận hành theo mô hình như thế, nên mỗi sáng người ta lê bước đi làm mà trong lòng đã chết đi mầm mống ý nghĩa công việc mình làm, đã nguội lạnh lòng thiết tha hay phai tàn những cảm giác hứng khởi do được thử thách khả năng. Vì chẳng có lý do gì để làm việc ngoại trừ tiền, nên họ sẽ làm việc vì tiền. Vậy là quan điểm sai lầm của Smith về lý do làm việc của con người đã trở thành đúng. Ở đây, tôi không định nói rằng trước cuộc cách mạng công nghiệp, lao động là việc vui vẻ. Không hề. Tuy nhiên, lao động của những nông dân, thợ thủ công, và người bán hàng, mặc dù có thể đã từng vất vả, nhưng người ta lại khá tự do, có quyền tự quyết và công việc cũng khá phong phú. Họ có cơ hội sử dụng tài khéo léo của mình để giải quyết các vấn đề phát sinh và tìm tòi những cách thức làm việc hiệu quả hơn. Tất cả những cơ hội này đã rớt lại phía sau khi người ta bước qua cánh cửa nhà máy. Biến những quan niệm sai thành đúng Có thể bạn đồng ý với Smith. Có thể bạn tin rằng với hầu hết mọi người, về cơ bản, công việc chỉ xoay quanh tiền lương và chẳng là gì hơn. Chỉ có “giới tinh hoa” mới muốn có công việc thử thách, ý nghĩa và sự gắn bó và chỉ có họ mới có thể trông đợi những điều đó từ công việc. Không chỉ là có phần hợm hĩnh, quan điểm này còn không đúng. Nhiều người làm những việc mà chúng ta vẫn cho là tầm thường – quản gia, công nhân nhà máy, nhân viên trực tổng đài – quan tâm đến nhiều yếu tố hơn là chuyện tiền lương. Trong khi nhiều chuyên gia lại làm việc chỉ vì tiền. Những điều mà mọi người tìm kiếm phần lớn phụ thuộc vào những gì công việc của họ có thể mang lại. Và điều kiện lao động ra đời từ cuộc cách mạng công nghiệp, được kéo dài mãi một phần nhờ vào các lý thuyết từ các ngành khoa học xã hội, đã tước đoạt một cách có hệ thống niềm hạnh phúc lao động của họ. Để làm được như thế, chúng đã cướp mất của con người một nguồn vui quan trọng – và trả về những công nhân tồi tệ. Bài học ở đây là tầm quan trọng của sự khích lệ vật chất đối với con người sẽ phụ thuộc vào cấu trúc vận hành của nơi làm việc. Và nếu chúng ta tổ chức môi trường làm việc dựa trên quan điểm sai lầm rằng con người làm việc chỉ vì tiền, thì chúng ta sẽ tạo ra một nơi làm việc khiến cho quan điểm sai lầm này trở thành đúng. Bởi vậy, chuyện “người lao động không làm việc vô tư nữa” là không đúng. Cái đúng là bạn sẽ không còn có thể nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình nữa nếu bạn chỉ giao cho người ta một kiểu công việc chán chường và tẻ nhạt. Để mọi người “hỗ trợ nhiệt tình” bạn cần giao cho họ công việc mà họ muốn làm. Và ta sẽ thấy việc người lao động làm việc hết mình, vô tư, không phải vì tiền không còn là mộng tưởng kiểu “bánh vẽ”. Viễn cảnh ấy nằm ngay trong tầm với của chúng ta. Cũng nên nói rằng nhiều năm qua, lý thuyết và thực tiễn về quản lý đã đi qua những giai đoạn công nhận – thậm chí còn ca ngợi – các động lực làm việc đa dạng của con người, và các nhà quản lý được khuyến khích tạo ra một đời sống công sở có khả năng vun đắp tình cảm gắn bó và ý nghĩa công việc, vì lợi ích của cả nhân viên lẫn của tổ chức. Nửa thế kỷ trước, “Thuyết Y” của Douglas McGregor(1) đã là một nỗ lực có tầm ảnh hưởng lớn trong dòng phát triển này, còn Stephen Barley và Gideon Kunda đã xuất bản một bài báo quan trọng liệt kê diễn biến thịnh suy theo thời gian của những quan điểm quản lý công việc này. Nhưng không hiểu sao, những quan điểm như thế này chưa bao giờ hoàn toàn tàn lụi. Phong cách làm việc thoải mái và khác người của Google cùng các công ty đang phát triển như diều gặp gió khác ở thung lũng Silicon có thể sẽ khiến người ta có ấn tượng rằng những công việc lao dịch theo dây chuyền đã lùi vào dĩ vãng. Nhưng giống như lực hút trái đất, quan niệm người ta làm việc chỉ vì tiền đã hết lần này đến lần khác kéo những hi vọng về những mục đích làm việc cao cả hơn dúi dụi trở về mặt đất. Qua nhiều thế kỷ, người ta đã nhận ra những quan niệm của Adam Smith về bản chất con người quả thật rất dai dẳng. Các quan điểm hoặc lý thuyết về bản chất con người có một vị trí độc nhất trong các ngành khoa học. Chúng ta không phải lo lắng rằng trật tự vũ trụ sẽ bị biến dạng do những giả thuyết của chúng ta về vũ trụ. Các hành tinh thực sự không quan tâm đến quan niệm hoặc lý thuyết của chúng ta về chúng. Nhưng chúng ta nên lo lắng rằng bản chất con người sẽ bị thay đổi bởi các lý thuyết chúng ta đưa ra về bản chất con người. Bốn mươi năm trước, nhà nhân chủng học lỗi lạc Clifford Geertz đã nói rằng loài người là “động vật chưa hoàn thiện”. Ý ông là bản chất con người chính là sản phẩm của xã hội xung quanh chúng ta. Rằng con người tạo ra chứ không phải phát hiện ra bản chất của mình. Chúng ta “thiết kế” bản chất con người, bằng cách thiết kế nên những tổ chức mà mình sống trong đó. Bởi vậy ta nên tự hỏi bản thân là mình muốn góp phần thiết kế nên loại bản chất nào. Nếu muốn góp phần tạo nên một kiểu con người tìm kiếm những thử thách, sự gắn bó, ý nghĩa, và sự thỏa mãn trong công việc, chúng ta phải bắt đầu từ việc xây dựng một con đường thoát khỏi cái hố sâu mà gần ba thế kỷ những hiểu lầm về động lực và bản chất chất con người đã đẩy chúng ta vào, và giúp bồi dưỡng những mảnh đất làm việc mà trong đó thử thách, sự gắn bó, ý nghĩa và sự thỏa mãn có thể đâm chồi. Mời các bạn đón đọc Vì Sao Chúng Ta Làm Việc của tác giả Barry Schwartz.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sức Mạnh Của Tĩnh Tâm - Hải Hoa
Trái tim của chúng ta giống như một chiếc cốc thủy tinh. Khi cốc đựng đầy nước ép trái cây, người ta sẽ nói: "Đây là một cốc nước ép hoa quả". Khi nó đựng đầy sữa, người ta lại nói: "Đây là một cốc sữa". Còn chỉ khi chiếc cốc trống trơn thì người ta mới nói: "Đây là một cái cốc". Rất nhiều lúc, trái tim của chúng ta chất chứa quá nhiều thứ, đến nỗi không thể nhìn thấy được cái tôi chân thực. Vì vậy, chỉ có vứt bỏ mọi sự rối ren để tâm tĩnh lại thì mới có thể xoa dịu được tâm trạng lo lắng bất an trong lòng, lấy lại sự yên bình và niềm vui trong tim. "Gặp được cái tôi tĩnh tâm", dù biết phía trước là vùng hiểm trở, bạn cũng có thể coi là đồng bằng để vững bước đi qua; dù trước mắt thế sự bãi bể nương dâu, đổi thay nhanh chóng, bạn cũng vẫn có được sự bình an trong lòng."Gặp được cái tôi tĩnh tâm", tuy tạm thời phải chịu ấm ức và không vui, vẫn có thể yên lòng; tuy cuộc sống bình dị, cũng có thể tận hưởng năm tháng bình yên. "Gặp được cái tôi tĩnh tâm", cho dù tạm thời phải chịu đau khổ, song bạn cũng sẽ nhận được ý vị riêng của nó; cho dù cuộc đời trôi qua bình lặng song vẫn có thể tìm thấy được sự vừa ý và nhẹ nhõm của riêng mình. Chúng ta đã biết nên tĩnh tâm hưởng thụ cuộc sống, tuy nhiên làm thế nào để có thể tĩnh tâm? Hãy để cuốn sách này dẫn dắt bạn, để sự "tĩnh" thẩm thấu dần vào từng chi tiết của cuộc sống, giúp bạn nhìn thấu tất cả vinh nhục, được mất, thị phi, trắng đen, và dùng sự tỉnh táo và lí trí để nhìn nhận cuộc đời. *** TĨNH TÂM NHÌN NHẬN CUỘC ĐỜI Biết tĩnh tâm để nhìn nhận cuộc đời là một loại cảnh giới. Trái tim của chúng ta giống như một chiếc cốc thủy tinh. Khi cốc đựng đầy nước ép trái cây, người ta sẽ nói: “Đây là một cốc nước ép hoa quả”. Khi nó đựng đầy sữa, người ta lại nói: “Đây là một cốc sữa”. Còn chỉ khi chiếc cốc trống trơn thì người ta mới nói: “Đây là một cái cốc”. Rất nhiều lúc, trái tim của chúng ta chất chứa quá nhiều thứ, đến nỗi không thể nhìn thấy được cái tôi chân thực. Trong thời buổi cả thế giới phải lo lắng bất an vì tiền bạc, vì ham muốn vật chất, vì danh lợi như ngày nay, con người chẳng khác nào “đôi giày đỏ” mệt mỏi, nhảy tới khi chẳng còn ai bên cạnh mà vẫn không dừng được bước chân điên cuồng… Chúng ta sống đã không còn chỉ là vì sự sinh tồn. Trong sự hưởng thụ vật chất ngày càng phong phú, nếu tâm không tĩnh, thân thể cũng không tĩnh thì cuộc sống của chúng ta sẽ chỉ còn lại sự bận rộn và lo lắng. Vì vậy, chỉ có vứt bỏ mọi sự rối ren để tâm tĩnh lại thì mới có thể được giống như hoa nở hương tự tỏa, nước càng chảy càng trong vậy. Tĩnh tâm chính là tâm tĩnh. Tâm tĩnh là một trạng thái khoáng đạt, tự tin, điềm nhiên tự do, tự tại. Tất cả thế sự rối ren, mọi chua cay ngọt đắng, hỉ nộ ái ố đều chỉ dựa vào trái tim để cảm nhận, đánh giá. Trong cuộc sống hiện thực, chúng ta thường cảm thấy thấp thỏm bất an, lo lắng không yên, rất khó để bình tâm, ngọn lửa không tên bất cứ khi nào cũng có thể ập đến, nguyên nhân chính là do ta không có được một trái tim bình tĩnh. Chỉ có hiểu được trí tuệ của tĩnh tâm thì mới có thể đứng vững được trong thế giới vô thường này. Thực ra, tĩnh tâm không phải là một cảnh giới không thể nào với tới. Trong thế giới tràn đầy náo động và dục vọng như ngày nay, ai cũng khao khát có được một cuộc sống yên ổn, bình an, vì vậy hiểu được về tĩnh tâm là vô cùng quan trọng. Để giúp mọi người tìm thấy sự yên ổn trong tâm hồn, cuốn sách này sẽ cùng bạn tìm đến căn nguyên lo lắng từ mọi góc độ, vén bức màn bí mật về sự tĩnh tâm, sau đó để mỗi người tự cảm nhận cuộc sống qua cái tĩnh, giúp xoa dịu tâm trạng lo lắng bất an trong lòng, lấy lại sự yên bình và niềm vui trong tim. Chúng ta đã biết nên tĩnh tâm hưởng thụ cuộc sống, tuy nhiên làm thế nào để có thể tĩnh tâm? Trong hai chương cuối cùng của cuốn sách này, bạn sẽ học được cách dùng phương pháp suy tưởng để vượt qua những trở ngại trong lòng, để lo lắng không còn chỗ tồn tại; bạn sẽ hiểu được rằng, tĩnh tâm hoàn toàn không phải là trạng thái siêu thực, từng chút từng chút của cuộc sống đều có thể trở thành phương pháp để có được sự tĩnh tâm. Hãy để cuốn sách này dẫn dắt bạn, để sự “tĩnh” thẩm thấu dần vào từng chi tiết của cuộc sống, bớt một chút đố kị, thêm một chút khoan dung; bớt một chút tà niệm, thêm một chút chính khí; bớt một chút ồn ào, thêm một chút chân thực. “Gặp được cái tôi tĩnh tâm”, dù biết phía trước là vùng hiểm trở, bạn cũng có thể coi là đồng bằng để vững bước đi qua; dù trước mắt thế sự bãi bể nương dâu, đổi thay nhanh chóng, bạn cũng vẫn có được sự bình an trong lòng. “Gặp được cái tôi tĩnh tâm”, tuy tạm thời phải chịu ấm ức và không vui, vẫn có thể yên lòng; tuy cuộc sống bình dị, cũng có thể tận hưởng năm tháng bình yên. “Gặp được cái tôi tĩnh tâm”, cho dù tạm thời phải chịu đau khổ, song bạn cũng sẽ nhận được ý vị riêng của nó; cho dù cuộc đời trôi qua bình lặng song vẫn có thể tìm thấy được sự vừa ý và nhẹ nhõm của riêng mình. Nhà thơ Pushkin đã từng nói: “Tất cả hạnh phúc trên thế giới đều lấy sự bình yên trong nội tâm là đặc trưng cơ bản nhất”. Tĩnh tâm là một phong thái, cõi lòng phẳng lặng thì tâm sẽ tĩnh. Sức mạnh của mỗi người chúng ta đều có hạn. Thế sự giống như một ván cờ, con người tiến lùi nối tiếp nhau trong mấy tấc vuông ấy. Khi đối mặt với vô vàn sự khó xử và lo sợ, giữ được tâm thái yên tĩnh như mặt nước là có thể nhìn thấu tất cả vinh nhục, được mất, thị phi, trắng đen, dùng sự tỉnh táo và lí trí để nhìn nhận cuộc đời. Xuân có trăm hoa, thu trăng sáng Hạ có gió lành, đông tuyết rơi Trong lòng không bận chi phiền não Đời này nên lấy đó làm vui. Tủi nhục cũng đều gương soi tỏ Chí lớn dạ yên chẳng ngậm ngùi Người đời lĩnh ngộ chân lí ấy Cõi lòng tĩnh lặng, muộn sầu lui. Bạn có mong muốn thoát khỏi lo lắng và u buồn không? Có hi vọng xua đi những phiền muộn trong tâm hồn không? Vậy thì bắt đầu từ thời khắc này, hãy để cuốn sách cùng bạn tìm lại cái tôi tĩnh tâm ấy nhé! Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Của Tĩnh Tâm của tác giả Hải Hoa.
Bài Học Vô Giá Từ Điều Bình Dị - G Francis Xavier. Ph D
Xung quanh ta có rất nhiều điều bình dị nhưng mang những bài học thật giá trị. Các bạn có thể thấy điều này qua cuốn sách Bài học vô giá từ những điều bình dị của tác giả Francis Xavier. Sách tập hợp các câu chuyện tuyệt vời ở khắp nơi trên thế giới, về mọi tầng lớp xã hội. Những câu chuyện ấy dễ nhớ đến mức bạn có thể kể cho bạn bè, người thân, con trẻ... Bạn sẽ tìm thấy nhiều điều thú vị từ những câu chuyện ấy. Như câu chuyện Dưỡng nuôi chữ nhẫn: ngày xưa ở Ấn Độ, một lũ trẻ quyết tâm chọc giận một ông lão nổi tiếng điềm đạm. Lũ trẻ nói những lời khích bác, thậm chí đánh vào mặt ông, ông vẫn mỉm cười. Đến lần thứ mười, lũ trẻ quỳ xuống xin ông tha thứ và gặng hỏi: “Tại sao ông lại xử sự như vậy?”. Ông đáp: “Đó chỉ là những đứa trẻ”. Câu chuyện nhắc ta rằng tình thương có thể chiến thắng mọi cảm xúc. Song để đạt đến trạng thái đó cần sự kiên trì rèn luyện biết bao. Hay như câu chuyện Hãy làm đúng vai trò của mình. Một vị tướng có đứa con gái 3 tuổi rất tinh nghịch. Ông yêu cầu cô bé phải thực hiện kỷ luật như trong quân đội, thậm chí bắt cô bé gọi ông là ngài. Cô bé cười tươi, nói: “Thưa ngài, con yêu ngài lắm!”. Với cô bé ấy, người bố không là một vị tướng cao cấp mà chỉ là một người cha thương con. Mỗi chúng ta đều đóng nhiều vai trò trong cuộc sống. Nếu chỉ cứng nhắc thừa nhận một vai trò có lẽ ta sẽ gặp nhiều trở ngại. Thay vào đó, sao ta không học cách thích nghi với nhiều vai trò để thấy cuộc sống dễ dàng hơn? Và còn nhiều những câu chuyện có thể làm bạn suy tư, như Món quà đặc biệt cho người yêu quý, Câu chuyện của quỷ dữ, Biết chấp nhận thăng trầm của cuộc sống... 91 câu chuyện trong cuốn sách là những điều mà tác giả tích lũy được qua thực hiện chương trình “Phát huy thiên tài” nhằm phát triển nhân cách, phát huy tài năng của mỗi người. Điều thú vị là tác giả đưa ra những tình huống yêu cầu người đọc tự đưa ra phương án của mình rồi mới công bố đáp án ở cuối sách. Những câu chuyện trong cuốn sách ấy luôn giúp đục giả rút ra cho mình bài học quý giá để tự hoàn thiện bản thân. *** Trong bất kỳ thời đại nào, vấn đề phát triển con người cũng luôn được quan tâm và chú trọng. Điều này nhằm nuôi dưỡng nhân cách và phát huy tài năng của con người. Nó bao gồm nhiều vấn đề như quản lý thời gian, giải tỏa sự căng thẳng, nâng cao trí nhớ và sức mạnh của não bộ, tăng cường sức khỏe và thành công… Cuốn sách Bài học vô giá từ những điều bình dị gồm những câu chuyện khơi gợi cảm hứng và tinh thần học hỏi của mỗi người về thái độ và ứng xử để có được một cuộc sống an nhiên, hạnh phúc. Đây chính là kết quả của những nỗ lực không ngừng của Tiến sĩ Francis Xavier - một bậc thầy kể chuyện, người đã đọc hàng ngàn cuốn sách và tham dự rất nhiều hội thảo cũng như các chương trình đào tạo về thái độ sống và phát triển nhân cách con người. Cuốn sách này là tập hợp các câu chuyện tuyệt vời từ khắp nơi trên thế giới, từ mọi tầng lớp xã hội. Đây là những câu chuyện ngắn gọn mà bạn có thể kể cho bạn bè, người thân của mình nghe trong các buổi tiệc, khi thuyết trình nơi công sở hoặc khi kể chuyện cho con trẻ mỗi ngày. Mỗi chúng ta đều có thể đọc nhiều lần những câu chuyện trong cuốn sách này và bao giờ cũng rút ra cho mình được những bài học quý giá. Đây thật sự là một mỏ vàng mà nếu biết cách khai thác và sử dụng, bạn sẽ có được một kho tàng vô giá. Bạn sẽ được thưởng thức những câu chuyện giàu tính triết lý và nhân sinh. Phần cuối của câu chuyện không được giải đáp ngay mà người đọc phải tự suy nghĩ về câu trả lời. Tất cả đều phải suy nghĩ thật kỹ lưỡng và liên hệ với những tình huống xảy ra trong cuộc đời mình. Phương pháp này được nhiều người đánh giá cao vì nó làm thay đổi tư tưởng và khiến họ không ngừng học hỏi để hoàn thiện chính mình. Hãy đọc cuốn sách bằng tinh thần cởi mở, cố gắng tìm ra lời giải đáp cho các câu hỏi ở cuối mỗi câu chuyện trước khi tham khảo phần đáp án của chúng tôi ở cuối quyển sách. Điều quan trọng là bạn nên suy nghĩ thật kỹ về thông điệp của mỗi câu chuyện cũng như rút ra cho mình những bài học quý giá hơn là đọc lướt qua chỉ để giải trí. Đây thực sự cũng là một món quà nhiều ý nghĩa dành cho con của bạn. Những câu chuyện trong cuốn sách sẽ giúp trẻ tự rút ra cho mình những bài học quý giá và hoàn thiện bản thân mà không cần đến những lời “giáo huấn” của cha mẹ như ngày trước. Nhờ đó, bạn sẽ có vai trò như một người hướng dẫn cho con đọc sách, một người bạn đồng cảm cùng con trong những ý nghĩa ẩn sau mỗi câu chuyện.  Mời các bạn đón đọc Bài Học Vô Giá Từ Điều Bình Dị của tác giả G Francis Xavier. Ph D.
99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trương Tử Văn
Con người là một thực thể phức tạp, trong con người chứa đựng nhiều cảm xúc, tâm trạng khác nhau, đôi khi chỉ là một khoảnh khắc nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn đến cả cuộc đời... Qua quá trình nghiên cứu con người, các nhà nghiên cứu đã tổng hợp được 99 khoảnh khắc quan trọng nhất trong cuộc đời mà con người phải trải qua, có khi là niềm vui, có khi là nỗi buồn nhưng nếu con người có thể khống chế và điều khiển cảm xúc trong khoảnh khắc đó thì tâm hồn sẽ thanh thản hơn, nhẹ nhàng hơn, để khi trở về với cát bụi con người không phải hối tiếc. Bạn có bao giờ tự hỏi số phận bạn có gắn chặt với mỗi khoảnh khắc sinh mệnh của mình? bạn có thực sự có khoảnh khắc thời gian không? Ngoài khoảnh khắc thời gian ra, bạn còn có khoảnh khắc nào nữa không? Trong trí nhớ của bạn, bạn có nhớ một số việc mình làm và lý giải logic sinh mệnh của mình?.. Những thắc mắc tưởng chừng như sẽ trôi theo như dòng nước, trở thành kí ức được thể hiện trong cuốn sách "99 khoảnh khắc đời người" do Trương Tự Văn, Nguyễn An biên soạn. Khoảnh khắc đời người được giới thiệu trong cuốn sách, gồm các khoảnh khắc từ: Thời niên thiếu đến những năm tháng cuối đời, từ trong giao tiếp xã giao đến không gian rộng lớn, từ những lúc nỗi niềm trăn trở đến khi vượt qua nghịch cảnh, đắc ý khi thành công. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Số phận của tôi gắn chặt với mỗi một khoảnh khắc của sinh mệnh của tôi Ngoài khoảnh khắc thời gian ra, tôi còn lại cái gì nữa? Tôi thật sự có khoảnh khắc thời gian chăng? Điều tôi rõ ràng nhất là tôi đã từng làm một số điều gì đó. Chỉ cần trí nhớ chưa hoàn toàn mất hẳn, tôi luôn có thể nhớ lại được một số việc tôi đã từng làm. Nhưng thời gian không gian vẫn trôi đi mãi như dòng nước, một số việc trong hồi ức đều theo sinh mệnh của quá khứ mãi mãi qua đi, không thể tính là cái tôi có hiện tại... *** Chính là do khúc nhạc bi thương tế truy điệu vong linh, mới làm nổi bật lên vẻ vô cùng trang nghiêm và vĩ đại của bản giao hưởng của sinh mệnh. * Mặt trời lạnh lẽo đang nhảy nhót lần cuối cùng ở tít chân trời phía Tây, đang đi về sườn núi phía bên kia để đi ngủ rồi. Lúc mới đầu tôi đến với nhân gian, tôi khóc người ta cười; đến nay khi tôi vĩnh biệt nhân gian, tôi cười người ta lại khóc. Từ trong từng tiếng cười tiếng khóc này tôi đã thể nghiệm được một cuộc đời hoàn toàn mỹ mãn - Cuộc đời của tôi đối với bản thân tôi thật ra không có quá nhiều giá trị để nói. Giá trị của cả đời tôi chỉ ở chỗ đem lại cho người khác niềm vui và hạnh phúc. Cái chết của tôi thật ra không tạo nên đau khổ đối với bản thân tôi, chỉ là một loại giải thoát và hồi quy. Cái chết của tôi chỉ để lại cho những người sống - người thân và bạn bè của tôi những niềm nhớ nhung và luyến tiếc. Tôi đang mỉm cười đi về Thiên quốc. Tôi, một đời không hổ thẹn với Trời, không hổ thẹn với Người, cho nên khi ánh sáng của cái chết sẽ bao trùm lên tôi, thật ra tôi không vì tiếng khóc của người khác mà động lòng. Ngoài một chút tình lưu luyến lúc ẩn lúc hiện ra, trong lòng tôi phẳng lặng như tờ. Khi tôi sống đã đủ, giới tự nhiên đã tặng cho tôi món quà cuối cùng - cái chết này, hãy để cho tôi an giấc mãi mãi ở cung tẩm dưới đất. Tôi bằng lòng đón nhận lời kêu gọi kích động lòng người này, nhắm đôi mắt lại không chút bận lòng, chờ đợi tiếng chuông vang của Thiên quốc. Tôi biết, trong nhân gian cái bình đẳng vĩ đại nhất, triệt để nhất, chính là sinh ra và chết đi. Muôn vật sinh ra, muôn vật chết đi đều không thể chống lại được, không thể ngăn cản được. Trước cái sinh và cái chết muôn vật đều bình đẳng. Sinh so sánh với chết, giá trị của cái chết thông qua giá trị của cái sống thể hiện ra một cách gián tiếp. Chính là vì cái chết mới đột nhiên làm nổi bật lên giá trị của sinh mệnh, mới tỏ rõ sinh mệnh là đáng quý biết bao. Chính là do ánh sáng của cái chết mới làm nổi bật lên ánh sáng của sinh mệnh. Chính là do khúc nhạc bi thương tế vong linh mới làm nổi bật lên vẻ vô cùng trang nghiêm và vĩ đại của bản giao hưởng của sinh mệnh. Nếu như không có cái chết, sinh mệnh còn có ý nghĩa gì nữa? Pofuva trong sách "Mọi người đều phải chết" đã tô nặn nên Fuxưca bất tử. Fuxưca đã từng trải 600 năm phong vân, trước mắt ông chỉ nhìn thấy kẻ đi người lại, mặt trời lên rồi lại lặn, ông ta vẫn không chết, vĩnh hằng cùng với thời gian, thế là ông không có thời gian. Vì ông sinh mệnh vĩnh viễn tồn tại, do đó trên thực tế sinh mệnh đối với ông chẳng có ích gì, ông cũng như không có sinh mệnh. Beatlivi từ chối tình yêu của Fuxưca, đã nói với ông ta một câu đủ để cho loài người chúng ta ngẫm nghĩ mãi mãi: "Ðã đành Ngài có thể sống bằng sinh mệnh của hàng ngàn hàng vạn người, như thế thì Ngài hãy vì những người khác bỏ ra một chút hy sinh, thì có đáng là cái gì?" - Không có cái chết, loài người không thể phát hiện ra giá trị. Ðương nhiên, không có sinh sống thì muôn đời giống như một đêm dài, đó không phải là sự tồn tại mà chúng ta có thể tưởng tượng được. Khi ánh sáng của cái chết bao trùm lên chúng ta, chúng ta thực tế không có lý do để lo sợ và khủng khiếp. Cái chết đối sinh mệnh mà xét không nghi ngờ gì nữa là một việc tuyệt đối và tất nhiên. Chỉ cần chúng ta nghĩ đến đã là đặt mình vào trong việc tuyệt đối, vào trong việc tất nhiên, chúng ta còn lo sợ gì nữa? Con người ta chỉ có khi phải chọn lựa mới có lý do lo sợ, chỉ sợ sai lạc. Cái chết đối với chúng ta là cõi đi về không có chọn lựa nào khác, chúng ta bằng lòng cũng thế mà không bằng lòng cũng thế, vui vẻ cũng thế lo buồn cũng thế, dù thế nào cũng phải bước vào cửa chết cả. Nếu như bạn biểu hiện một dáng vẻ đáng thương hại, chứa chan hàng lệ, nơm nớp lo sợ, thê thảm không dám bước vào cửa. Ðã bước vào rồi vẫn chết không nhắm mắt, mở to miệng ra, làm cho những người đang sống nhìn thấy dáng bộ xấu xí đáng sợ của bạn, lúc này còn khổ biết mấy nữa? Người ta chỉ có thể xót thương kết cục của bạn không được trọn vẹn, cho rằng bạn vẫn còn tham lam không biết chán. Người ta có thể tiếc cho bạn vẫn đem cả lòng tham đi đến Thiên quốc. Sao không êm ả nhắm đôi mắt lại, mỉm cười để vĩnh biệt Nhân gian? Sao không vẽ lên một Dấu Chấm Hết cho việc kết thúc một sinh mệnh. Mời các bạn đón đọc 99 Khoảnh Khắc Đời Người của tác giả Trương Tử Văn.
Đừng Để Tiền Ngủ Yên Trong Túi - Thuật Đầu Tư Thông Minh Của Người Giàu Babylon - Tương Lâm
Được sở hữu một khối tài sản lớn là ước mơ và mong muốn của mỗi chúng ta. Trong thời đại ngày nay, khát hữu một khối tài sản lớn là ước mơ và mong vọng của con người đối với tài sản vật chất lại càng lớn hơn nữa. Thế nhưng giữa ước mơ và hiện thực thường có một khoảng cách nhất định. Chúng ta thường mơ được phát tài, và cũng thường than thở rằng ước mơ ấy quả là xa vời. Đó là vì năng lực ta có hạn? Hay là vì ta không đủ lòng tin? Hay là vì chúng ta chưa tìm thấy bí quyết làm giàu? Sáu nghìn năm trước, Babylon cổ đại mặc dù không hề có bất cứ lợi thế nào về tài nguyên thiên nhiên, nhưng họ vẫn có thể trở nên giàu có. Họ đã xây dựng nên thành Babylon - một thành phố phồn hoa, giàu có nhất bậc thế giới lúc bấy giờ. Nguyên nhân là vì người Babylon đã biết vận dụng một cách hiệu quả trí tuệ của mình để khắc phục sự khắc nghiệt của thiên nhiên, tổng kết và vận dụng các phương pháp làm giàu, đồng thời không ngừng khai thác và phát huy tiềm năng của con người, nhờ đó giúp cho số tiền của mình ngày càng được "sinh sôi" nhiều lên. Babylon nằm bên bờ sông Euphrates, từng là một thành phố tuyệt đẹp, giàu có và sung túc, vàng bạc châu báu của toàn thành phố nhiều không đếm xuể. Sáu nghìn năm trước, nơi đây từng là biểu tượng của sự giàu có. Nhưng tài nguyên thiên nhiên của ngôi thành này lại không mấy phong phú như mọi người hằng tưởng tượng, ở đây không có rừng, cũng không có mỏ quặng, thậm chí đá dùng để xây dựng cũng như các con đường thương mại đều rất ít. Ở Babylon chỉ có nước sông và đất đai phì nhiêu, nhưng lượng mưa không nhiều, còn khí hậu thì nóng và khô cằn. Tuy nhiên, người Babylon đã lập nên kì tích khi họ đã tận dụng được một cách triệt để những tài nguyên thiên nhiên đó để khắc phục điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, vận dụng trí tuệ một cách hoàn hảo để hoàn thành mục tiêu vĩ đại, viết nên trang sử hào hùng được lưu truyền mãi cho muôn đời sau. Đó cũng là một minh chứng rõ ràng cho sự nỗ lực của con người đã chiến thắng thiên nhiên. Có thể thấy, Babylon không chỉ là biểu tượng của sự giàu có mà còn là biểu tượng của trí tuệ. Babylon đã để lại cho loài người công trình đập dẫn nước vĩ đại, công trình nổi tiếng này đã nuôi dưỡng nhiều thế hệ người Babylon. Ngoài ra, người Babylon cũng đã để lại cho nhân loại một bức tường thành vĩ đại, tráng lệ hơn cả Kim tự tháp Ai Cập, và sau này nó đã trở thành một trong bảy kì quan của thế giới cổ đại còn lại cho tới ngày nay. Trước kia, khi loài người còn dùng đá để làm rìu, giáo mác, mũi tên… thì người Babylon đã biết sử dụng sắt thép để chế tác các vật dụng và vũ khí. Đây là một sự tiến bộ vượt bậc so với thời đại. Khoảng sáu nghìn năm trước, người Babylon đã tinh thông các loại kĩ nghệ, điêu khắc, hội họa, dệt, đúc… Bên cạnh đó, trình độ xây dựng của họ cũng không hề thua kém so với các đô thị nổi tiếng khác trên thế giới. Các con phố ngang dọc nối với nhau, thương nhân buôn bán sầm uất... tất cả phác họa nên một cuộc sống phồn vinh nơi đô hội. Khi ấy, người Babylon đã xây dựng được một nền văn hóa của riêng mình. Họ khắc họa cuộc sống đương thời trên đất sét, trong đó bao gồm cả các truyền thuyết dân gian, thơ, lịch sử, luật pháp, khế ước… Babylon cũng có các nhà tư bản và các thương gia thông minh, sáng suốt. Teo lịch sử ghi lại, người Babylon là một trong những tộc người phát minh ra cách trao đổi, mua bán bằng tiền, kí kết biên lai hoặc khế ước cũng như các văn bản về quyền sử dụng tài sản đất đai sớm nhất trong lịch sử. Có thể thấy, lịch sử thành Babylon thật đáng kinh ngạc, còn cư dân nơi đây là một dân tộc vĩ đại và đầy trí tuệ. Mặc dù điều kiện tự nhiên thiếu thốn như vậy nhưng người Babylon cổ đại đã lập nên kì tích, để lại cho thế hệ sau những kết tinh trí tuệ quý giá. Kì tích này cho thấy họ đã biết tận dụng tối đa trí tuệ của mình để khắc phục điều kiện thiên nhiên khó khăn, khắc nghiệt. Tuy vậy, sự hưng thịnh của thành Babylon chỉ tồn tại được một thời gian ngắn. Khoảng một trăm năm sau, Babylon do không chịu nổi sự tàn phá của thiên nhiên nên đã bị vùi lấp, trở thành đống đổ nát. Ngày nay, nơi đây chỉ còn những cư dân du mục Ả Rập với cuộc sống nghèo khổ và những túp lều tạm bợ. Sự tráng lệ của Babylon ngày xưa chỉ còn là một quá khứ tươi đẹp. Mặc dù sự huy hoàng của thành Babylon đã mất đi, sự hưng thịnh không còn, nhưng trí tuệ của người Babylon thì vẫn còn nguyên giá trị. Họ đã để lại cho hậu thế một di sản quý giá, đó là con đường làm giàu: “một đồng vốn, vạn đồng lời”. Tuy đã sáu nghìn năm trôi qua, nhưng trí tuệ và bí quyết về sự giàu có của họ vẫn trường tồn cùng với thời gian, và được lưu truyền cho đến ngày nay. Trong cuốn sách này, nhóm biên soạn cố gắng chọn lọc phươngpháp làm giàu của người Babylon, truyền tải chúng thông qua lời văn rõ ràng và những câu chuyện sinh động. Hi vọng di sản trí tuệ này sẽ mang đến cho quý độc giả những gợi ý sâu sắc và bổ ích, giúp gợi mở cho những người còn đang lo lắng, do dự trên con đường làm giàu, để họ có thể thuận lợi hơn trên con đường thực hiện ước mơ của mình. *** 1. SỰ GIÀU CÓ SẼ MANG LẠI NIỀM VUI VÀ SỰ ĐẦY ĐỦ Ở Babylon cổ đại, bấy giờ Arkad là người giàu có nhất. Ban đầu, Arkad là một người làm công việc khắc chữ cho quan phủ để mưu sinh. Một cơ hội ngẫu nhiên đã giúp ông ta gặp được một phú ông vô cùng giàu có - Algamish. Dưới sự chỉ bảo của Algamish, Arkad dần dần khấm khá lên, rồi trở thành một phú ông giàu có. Về sau, ông được chia cho một phần tài sản của Algamish vì đã có công phát triển công việc của ông ấy và trở thành người giàu có nhất Babylon. Khi còn trẻ, Arkad đã từng muốn tìm cho mình niềm vui và sự đầy đủ từ trong cuộc sống bình dị. Nhưng dần dần, với trải nghiệm cuộc sống ngày càng phong phú thêm, Arkad nhận thấy rằng, sự giàu có có thể giúp ta được chú ý hơn cũng như có nhiều cơ hội hơn để tận hưởng niềm vui và cuộc sống sung túc. Arkad quyết định cần phải nỗ lực để có được niềm vui và cuộc sống sung túc mà sự giàu có mang lại. Ông hiểu rằng, nếu cứ chỉ biết chờ đợi suông mà không bắt tay vào hành động thì cho dù có mục đích và niềm tin đi nữa, ta cũng chỉ có thể mãi mãi giương mắt nhìn người khác tận hưởng niềm vui và cuộc sống giàu có mà thôi. Hoàn cảnh gia đình của Arkad vốn khó khăn, cha ông chỉ là một tiểu thương nhỏ, hơn nữa gia đình lại đông anh em và không có tài sản thừa kế, vì vậy Arkad hiểu rằng, ông chỉ có thể dựa vào sự nỗ lực của chính bản thân để thực hiện mục tiêu mà mình đã đặt ra. Tuy nhiên, Arkad không có gì nổi bật cả, cũng chưa nhìn ra được điểm mạnh của mình, cho nên ông chỉ bỏ thời gian và công sức vào việc học quản lí tài sản. Thực ra, muốn học được việc quản lí tài sản cũng không đơn giản chút nào, ít nhất cũng phải cần mẫn đọc những loại sách vở có liên quan. Nhưng lúc đó Arkad không có đủ thời gian để đi học hỏi, bù đắp những khuyết điểm của mình, nên ông cũng chỉ biết thở dài tiếc nuối về những tháng ngày trôi đi một cách vô ích. Tuy nhiên, từ những kinh nghiệm thực tế của cuộc sống, Arkad dần dần học được cách chi tiêu hợp lí hơn. Sau đó, ông quyết định bắt đầu tích lũy tài sản, và trong quá trình tích lũy ấy, ông đã học và đúc rút ra được phương pháp làm giàu và quản lí tài sản một cách hiệu quả. Bài học đúc kết Người ta có câu: “Tiền không phải là tất cả, nhưng nếu không có tiền thì không làm được gì”. Người có điều kiện kinh tế vững vàng có thể yên tâm tận hưởng những niềm vui trong cuộc sống, đồng thời thôi thúc họ tìm kiếm, theo đuổi những nhu cầu khác mà cuộc sống sung túc mang lại. 2 BẮT ĐẦU TỪ CON SỐ NHỎ Arkad tìm được một công việc, đó là khắc chữ lên những bản đất sét theo yêu cầu của các quan. Anh phải làm việc cực kì vất vả, mỗi ngày đều phải lao động rất nhiều giờ đồng hồ. Thời gian cứ trôi qua, mặc dù Arkad làm việc một cách tận tụy, nhưng vẫn không tiết kiệm được chút tiền nào. Chi phí sinh hoạt cần thiết tiêu tốn hết thu nhập của anh, tuy vậy Arkad vẫn không nản chí, quyết tâm tích cóp tài sản. Một hôm, ông chủ “ngân hàng” Algamish đến quan phủ để đặt bản khắc “Pháp lệnh số chín”. Algamish nói với Arkad rằng: “Chỉ cần anh khắc xong bản pháp lệnh đó trong hai ngày thì tôi sẽ trả cho hai đồng tiền công”. Mặc dù đã phải làm thêm rất nhiều giờ nhưng Arkad vẫn chưa khắc xong pháp lệnh đó vì nó quá dài. Do Arkad không hoàn thành đúng tiến độ công việc nên Algamish đã rất tức giận. Tuy nhiên, Arkad biết rõ rằng Algamish là một người rất giàu có nên đã lấy lại dũng khí và nói với Algamish rằng: “Nếu ông có thể nói cho tôi biết bí quyết làm giàu của ông, tôi sẽ làm việc thâu đêm nay, trước khi trời sáng nhất định sẽ khắc xong những pháp lệnh này cho ông”. Điều khiến cho Arkad cảm thấy vui mừng đó là Algamish đã đáp ứng yêu cầu này, nhưng với điều kiện là trước hết phải khắc xong pháp lệnh đó. Arkad rất vui mừng và đã thức cả một đêm để làm, cuối cùng anh cũng khắc xong. Khi Algamish nhìn thấy Arkad mệt tới mức mình mẩy đau nhức, hoa mắt, đầu óc quay cuồng, ông nói: “Tôi thích những người cầu tiến như anh. Bây giờ, tôi sẽ giữ đúng lời hứa của mình, nói cho anh biết con đường làm giàu của tôi”. Algamish nói một cách chân thành: “Anh phải hiểu rằng, trí tuệ của người trẻ tuổi giống như sao băng bay qua chân trời vậy, sẽ biến mất trong nháy mắt, còn trí tuệ của người già là ngôi sao bất biến không hề thay đổi, nó phát ra ánh sáng rực rỡ; trí tuệ là vĩnh hằng là mãi mãi, mặt trời của ngày hôm nay với mặt trời của ngày mà cha anh sinh ra là một”. Tiếp đó, ông tỏ ra thần bí nói với Arkad rằng: “Đừng cho rằng tôi nói nhiều, anh nhất định phải nhớ kĩ câu nói này, nếu không anh sẽ không thể nào hiểu được đạo lí mà tôi đã nói đâu. Và nếu vậy thì, sự vất vả cả đêm của anh coi như phí công rồi”. Mời các bạn đón đọc Đừng Để Tiền Ngủ Yên Trong Túi - Thuật Đầu Tư Thông Minh Của Người Giàu Babylon của tác giả Tương Lâm.