Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cơn Lốc Núi

Xuân Nguyên (1931-2006) là một cái tên quen thuộc đối với người dân Yên Bái. Ông là một trong số những hội viên đầu tiên tham gia sáng lập Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Yên Bái. Cuộc đời Xuân Nguyên gắn bó với sự hình thành, phát triển của báo chí và văn nghệ Cách mạng ở tỉnh miền núi, biên giới Lao Cai qua hai chặng đường chống Pháp và chống Mỹ gian khổ, ác liệt, sau đó là tỉnh Hoàng Liên Sơn – Yên Bái. Ông đã sớm có tác phẩm được đăng trên báo Văn nghệ - một tờ báo có uy tín lúc bấy giờ với hai truyện ngắn viết về đồng bào các dân tộc năm 1968 – 1969 là: Hai ông già chăn dê và Mùa hoa Đi-O-Khang. Hầu hết các tác phẩm của Xuân Nguyên đều viết về đồng bào các dân tộc ở miền núi Lào Cai – Yên Bái như tập truyện ngắn Hoa đào tháng chín (1975), Người mẹ suối Lũng Pô (1980), Đêm mưa giông (1983), tiểu thuyết Cơn mưa giông (1995), Hạnh phúc chẳng ngọt ngào (2007). Ông là người từng trải, giàu vốn sống, am hiểu phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc Tây Bắc, ông luôn có ý thức học hỏi ngôn ngữ các dân tộc, nhất là dân tộc Mông. Vì vậy, văn phong của ông gần gũi, giản dị, có sự kết hợp hài hòa giữa lối nói của người Kinh và lời ăn tiếng nói của các dân tộc vùng cao một cách nhuần nhuyễn. Điều này thể hiện ở trong các truyện ngắn như Giàng Tủa, Chiếc vòng bạc... Nhiều truyện của Xuân Nguyên thường là sự đan cài giữa quá khứ và hiện tại làm nổi lên hình ảnh cuộc sống tối tăm, cơ cực của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao dưới chế độ cũ, quá trình vùng lên chiến đấu của đồng bào dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc đấu tranh gian khổ không kém phần quyết liệt để từ bỏ những hủ tục, tập quán lạc hậu do chế độ cũ để lại, trong các tác phẩm Rừng ma, Hoa đào tháng chín... Đặc biệt, tiểu thuyết Cơn lốc núi đề cập đến nội dung tiễu phỉ, một vấn đề nhạy cảm, hấp dẫn nhưng cũng không hề dễ viết. ***  Lại đến phiên chợ. Hồ Thầu rộn rịch tiếng vó ngựa từ lúc gà gáy. Còn tối đất, tiếng nhạc ngựa đã rung loong coong trên đường mòn.          Sau một đêm thao thức chờ trời sáng, lúc này Vàng Khúa Ly đã trở dậy. Cô ra máng nước ở đầu bếp vã nước rửa mặt. Nước lạnh làm tan hẳn cơn ngái ngủ. Cô rút chiếc khăn chàm còn mới treo trên cái móc bằng mắt tre vấn lên đầu. Sau đó Khua Ly lấy chiếc áo xáo-khỏa và cái quần mới đã gói từ đêm trước để sẵn ở đầu giường bỏ vào mã làn cùng với những thứ hàng mang đi chợ bán.          - Bắt con gà mái vàng béo nhất mang đi mà đổi muối. - Tiếng mẹ cô từ trong buồng nói vọng ra.          - Vâng. - Vàng Khúa Ly đáp.          - Nhớ mà về sớm. Dạo này lính Phăng Ky[1]hay ra chợ cướp gà và trêu con gái đấy ! Bọn con trai các bản cũng hay đi “cướp vợ”, nhớ rủ bạn đi cho đông... Đừng nhẹ dạ tin người buôn ở chợ.          Khúa Ly sửa soạn đi chợ trong tiếng dặn ân cần của mẹ.          Con ngựa buộc ở hiên nhà nghe tiếng hí của những con ngựa đi qua cửa cũng gõ móng cong cóc lên các tảng đá lát chuồng. Ngựa vẫn nhai ngô rau ráu, thỉnh thoảng lại thở phì phì trước cơn gió lạnh.          Vàng Khúa Ly vác cái thồ đã buộc mã làn kềnh càng đặt lên lưng ngựa. Có tiếng gọi :          - Khúa Ly, đi chợ thôi !          - Chị Seo Mỷ đấy à, em đi đây.          Khúa Ly chào mẹ rồi cởi sợi dây thừng bằng móc dắt ngựa ra sân. Cô nhẹ nhàng nhảy lên ngồi giữa hai cái mã làn, hai chân vắt về một bên, rồi giật cương cho ngựa chạy xuống đường.          Con ngựa đã chồn vó suốt đêm, giờ đây mặc sức nện vó trên nền đường đá. Chùm nhạc rung reng theo tiếng vó ngựa.          Trời còn tối mò nhưng Khúa Ly đã nhận ra Seo Mỷ đúng đợi ở giữa đường qua tiếng thở phì phì của con ngựa. Hai con ngựa hí dài chào nhau.          - Đi có sớm quá không ?          - Không sớm đâu. Đến chợ thì ông mặt trời cũng lên quá đỉnh Ngũ Chỉ Sơn rồi. - Seo Mỷ trả lời Khúa Ly.          - Em mới đi chợ lần đầu nên sợ lắm.          - Khúa Ly nói dối chị rồi, có lần chị đã gặp Khúa Ly ở chợ đấy.          - Lần ấy em đi theo bố mẹ. Lần này bố mẹ bảo con gái lớn rồi phải đi chợ một mình cho biết mua bán, cho con trai các bản xem mặt. - Khúa Ly bỗng thấy mặt nóng bừng, may mà trời còn tối nên Seo Mỷ không thấy.         Tiếng vó ngựa nện trên đường núi đá giòn tan xen vào trong câu chuyện của hai cô. Họ say sưa ngắm cảnh bình minh đang đến.         Thoạt đầu bầu trời đằng đông chuyển từ màu đen sang màu xanh nhạt. Rồi trên cái nền xanh cẩm thạch ấy lấp lánh những vẩy mây màu sáng bạc. Phút chốc các vẩy mây màu sáng bạc được ánh bình minh dát vàng rực rỡ. Sau cùng là màu hồng phơn phớt rồi đỏ hồng như mặt người say rượu. Gió núi lành lạnh đưa những tảng mây trắng xốp trôi bồng bềnh trên các đỉnh núi nhọn hoắt.         Con đường xuyên qua những đám nương, ruộng bậc thang trồng toàn anh túc. Anh túc đang độ trổ hoa trông như một tấm vải trắng mênh mông trùm khắp các sườn núi. Những bông hoa anh túc ở ven bờ quệt vào cái mã làn đung đưa, nghiêng ngả.         - Năm nay anh túc lại được mùa. Từ nay đến hết tháng không gặp mưa đá thì nhựa anh túc mùa này để đâu cho hết. - Seo Mỷ nói với Khúa Ly.         Khúa Ly bổng buông tiếng thở dài :         - Cứ nghĩ đến nhựa anh túc em lại lo đến héo cả ruột.         - Sao thế ?         - Lý trưởng Giàng Páo bắt bố em năm nay nộp hai mươi nén nhựa anh túc đủ mười tuổi[2].         - Sao nhiều thế ?         - Nó bảo “Phăng Ky” năm nay lấy nhiều để đưa sang Tầu. Chẳng biết ông trời có cho thu không ?         - Ông trời có cho thu thì đám ruộng ấy cũng không đủ hai mươi nén nhựa kể cả tốt lẫn xấu, chứ đừng nói đến hai mươi nén nhựa toàn loại mười tuổi. Nó cũng là người Mông sao nó không thương người Mông ta nhỉ ?         - Bố em nói, con hổ ở đâu cũng muốn ăn thịt lợn, quan ở đâu cũng muốn ăn của dân. Nó còn muốn cướp cả ruộng trồng anh túc của nhà em đấy.         - Ruộng nương nhà Giàng Páo thiếu gì. Năm nào cũng bắt dân đi làm ruộng nương không công cho nhà nó còn chưa đủ hay sao ?         - Nó bảo ruộng nhà em ở giữa ruộng nhà nó. Bao nhiêu phân bón của nó trôi cả vào ruộng nhà em. Vì thế nó đang bắt bố em đổi đám ruộng ấy lấy đám ruộng ven rừng đá của nó.         - Bố Khúa Ly trả lời ra sao ?         - Bố em không chịu. Giàng Páo cho Giàng Seo Tính đến nói xa nói gần rằng : Là tôi muốn lợi cho ông nên nói mãi quan mới bằng lòng. Ông còn tiếc gì cái cảnh “chung ngựa với nhà quan”, phần thiệt bao giờ chẳng đến mình.            - Giàng Seo Tính là người “nhà trong” của Giàng Páo, nó là em họ của Giàng Páo. Nó vừa là con chó săn vừa là cái đầu của Giàng Páo đấy !            - Bố em cũng biết vậy, nhưng đổi lấy đám ruộng ven rừng đá thì sống làm sao được. Ruộng ấy không trồng được anh túc.            - Cả hai con đường đều cụt cả - Seo Mỷ cất tiếng thở dài thông cảm với Khúa Ly.            Hai người đã đến khu rừng già. Những thân cây cao lớn vươn những cành sần sùi đủ các loài tầm gửi và phong lan buông rủ. Hương phong lan phảng phất ngầy ngậy. Các loài chim rừng ríu rít chào ánh sáng ban mai. Píu ! Píu ! Píu !... tiếng hót của bày họa mi bỗng vút lên lảnh lót, vượt lên hàng trăm thứ âm thanh của thế giới động vật có cánh. Một bầy chim “hoàng tử” dáng thanh mảnh, mang bộ lông đủ năm màu lướt nhẹ nhàng như những con thoi chuyền từ cây này sang cây khác.            - Khúa Ly xem kìa, các “hoàng tử” cũng bắt đầu đi dự hội rồi đấy. - Seo Mỷ chỉ vào bầy chim “hoàng tử” nói đùa với Khúa Ly - Không biết con chim nào sẽ được chọn là “công chúa” nhỉ ?            - Em chịu.            - Nếu chị là những con chim “hoàng tử” thì chị sẽ chọn Khúa Ly làm chim “công chúa” đấy. - Seo Mỷ nói rồi cất tiếng cười giòn.          - Chị Seo Mỷ lại trêu em rồi ! - Khúa Ly thấy mặt nóng ran.          Vượt qua rừng già họ đi vào khu rùng sa mu xanh thắm. Những cây sa mu già trên trăm tuổi thẳng vút, trầm tĩnh tấu bản nhạc đều đều vô tận. Lẫn trong tiếng vi vút của ngàn sa mu là tiếng khèn của những chàng trai Mông đi chợ.        ... Vườn có hoa, ong mới về đậu,[3]            Vì có em, anh mới đến đây.            Nơi có hoa, ong mới về kêu            Thấy bóng em, anh mới về hát            ……             Núi cao sinh cây gì ?             Núi cao sinh cây sa mu.             Đồi thấp sinh cây trúc             Anh với em như sa mu với trúc             Em đi khởi lòng anh nhớ khôn nguôi...          Tiếng khèn lúc trầm trầm thủ thỉ, lúc vút lên như tiếng họa mi trong rặng sa mu. Tiếng khèn cứ như quấn quít lấy vó ngựa của Khúa Ly và Seo Mỷ :          ... Cô em hỡi,             Hoa gì nở thắm tươi ?             Hoa đào mùa xuân nỏ thắm tươi             Em có lòng yêu anh,             Xin hẹn chợ này ta gặp nhau một buổi.             Hoa gì nở chi chít ?             Hoa đào mùa xuân nở chi chít             Em có lòng mến anh,             Xin hẹn chợ này ta gặp nhau một ngày...         Không bảo nhau nhưng cả Khúa Ly và Seo Mỷ cùng sửa lại hai vạt áo xáo-khoả che kín bộ ngực. Khúa Ly cất tiếng hỏi Seo Mỷ :         - Anh Sùng Sử có đi chợ không ?         - Có, nhưng đi sau. Còn bắt con lợn mang đi chợ.         - Tưởng mùa này anh chị cưới nhau.         Seo Mỷ buông tiếng thở dài :         - Ông chú không chịu.         - Ông Hảng A Dềnh ấy à ? Sao ông ấy lại không chịu ?         - Ông ấy bảo con ngựa đắt tiền mới là con ngựa quý. Vì thế ông khăng khăng đòi lấy đủ một trăm đồng bạc trắng. Lợn, rượu thì Sùng Sử còn lo được, chứ bạc trắng thì lấy đâu ra. Mấy lần chị nói xin giảm cho Sùng Sử đều bị ông mắng lấn đi : “Mày đừng như con ngựa động đực, vừa thấy hơi ngựa đực đã cong đuôi chạy theo. Thằng Sùng Sử không đủ bạc trắng thì khối đứa có đủ. Chừng nào tao còn sống thì tao còn làm đúng lời bố mày dặn trước khi nhắm mắt”. Có lúc thương Sùng Sử quá chị đã bảo Sùng Sử rủ bạn “cướp”[4] chị chạy đi thật xa, nhưng Sùng Sử không chịu : “Làm thế còn mặt mũi nào nhìn dân bản, thà chịu phận nghèo, cô đơn còn hơn là mang tiếng xấu”.           - Ôi, cuộc đời sao lắm nỗi éo le ? - Khúa Ly chép miệng thở dài.           Câu chuyện của họ đến đây ngắt quãng. Trước mắt hai cô cái đồn “Phăng Ky” đã hiện ra rõ mồn một với những bức tường đá xám xịt bao quanh. Ngay dưới chân đồn, trên con đường dẫn vào chợ một đám vợ lính đứng đón đường mua hàng của những người đi chợ.           - Tả cố mải lá dảng ?[5]           - Mày bán cho tao đi.           - Kỷ tố sền ?[6]           - Tao có tiền trắng, mày bán đi, hay muốn đổi muối, diêm, thuốc lào ? Thứ nào tao cũng có tất, cứ mang vào đây. Mời các bạn đón đọc Cơn Lốc Núi của tác giả Xuân Nguyên.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đợi Chờ - John Le Carré
Tại lầu chót của một khách sạn kiến trúc kiểu Staline, nằm trên một đại lộ ở Matxcơva, hội chợ audio đầu tiên được British Council tổ chức để quảng bá văn hóa nước Anh, sắp bước vào giai đoạn bế mạc. Lúc 17 giờ rưỡi .Hôm ấy là một ngày mùa hè, thời tiết thay đổi một cách kỳ cục : suốt buổi sáng, những trận mưa rào lớn đã đổ xuống thành phố, nhưng bây giờ ánh mặt trời lấp lánh trong các vũng nước và hơi nhè nhẹ bốc lên từ các lề đường ..... *** John le Carré (sinh năm 1931) tên thật là David John Moore Cornwell. Trước khi trở thành nhà văn Anh gạo cội, ông từng làm việc cho cơ quan tình báo MI5 và MI6. Sau thành công lớn của tiểu thuyết thứ ba, The spy who came in from the cold (1963), ông rời MI6 để cống hiến toàn bộ thời gian cho nghiệp viết. Đến nay ông đã cho ra đời hàng chục tiểu thuyết, trong đó có thể nhắc tới The ppy who came in from the cold; Tinker, tailor, soldier, spy; The tailor of panama; The constant gardener và A most wanted man. Các nhân vật của John le Carré thường được đặt trong một bối cảnh chính trị cụ thể, luôn mang mối băn khoăn trước tính nước đôi về mặt đạo đức trong công việc của mình, hoài nghi về tính đúng đắn của nền dân chủ phương Tây và các cơ quan ngầm bảo vệ. Tác phẩm của ông khác với những câu truyện xoay quanh kiểu mẫu người hùng hành động như James Bond, với kịch tính thể thể hiện qua diễn biến tâm lý phức tạp, những tình tiết cân não hơn là những cuộc phiêu lưu hay đấu súng ngoạn mục. *** Các màn ảnh của chúng tôi cho biết lúc 18 giờ Barley bước ra khỏi văn phòng Nhà xuất bản Tháng Mười. Có một lúc chúng tôi đã kinh hoàng nghĩ rằng, có thể là Barley say, vì Zapadny cũng là một bợm rượu như ông ta, và rất có thể hai người đã cùng nhau làm một chầu Vodka trong cuộc thăm viếng từ giã này. Zapadny tiễn Barley ra tận cửa. Ở đó, hai người ôm hôn nhau thắm thiết, Zapadny có những cử chỉ như bị kích động, còn Barley thì trái lại, cứng đơ như một cái cọc. Vì vậy, các trinh sát sợ rằng Barley say, nên đã quyết định chụp hình ông ta trong lúc ấy, với ý nghĩ kỳ cục rằng như thế sẽ có thể làm cho ông ta bớt say. Tấm hình ấy là tấm hình chót trong hồ sơ, và tôi đã nghiên cứu kỹ tấm hình ấy. Barley ôm lấy Zapadny trong vòng tay mình. Người ta có thể nói Barley nâng đỡ Zapadny để truyền qua cho anh chàng tội nghiệp này lòng can đảm để anh ta giữ lời hữa. Và màu hồng có vẻ lạ lùng. Trụ sở của Nhà xuất bản Tháng Mười nằm tại đường Bolchaia Bronnaia ở trung tâm thành phố Matxcơva, trước kia là một ngôi trường cũ được xây cất từ đầu thế kỷ, với những cửa sổ lớn và một mặt tiền bằng thạch cao, năm nay được sơn lại màu hồng nhạt. Trên tấm ảnh màu này đã chuyển thành màu cam rực rỡ, chắc là vì có những tia mặt trời đỏ chói chiếu vào. Do đó, quanh đầu của Barley và Zapadny có một vòng hào quanh đỏ thắm và sáng lên một cách lạ lùng. Một trong những người trinh sát đi vào tiền sảnh với lý do đến quầy giải khát, để tìm cách chụp hình cảnh tượng ấy dưới một góc độ khác, nhưng không chụp được, vì có một người đàn ông cao lớn đứng che tầm nhìn của anh ta. Barley trở về khách sạn của mình. Ở đó ông uống một ly rượu với một nhóm bạn bè đều là những nhà xuất bản, trong đó có Henziger. Henziger đã khẳng định rằng Barley không say rượu, trái lại ông ta rất bình tĩnh và có vẻ trầm tư. Điều ấy làm cho êkíp ở Luân Đôn cảm thấy nhẹ nhõm. Vào lúc bảy giờ tối, Barley kêu đói bụng. Henziger và Wicklow dẫn ông ta đến nhà hàng Nhật Bản cùng với hai thiếu nữ xinh đẹp làm việc cho Nhà xuất bản Simon and Schuster. Trong bữa ăn tối, Barley tỏ ra hấp dẫn đến nỗi hai cô gái này mới ông ta tháp tùng họ đến nhà hàng National, nơi đó một nhóm nhà xuất bản Mỹ có tổ chức một cuộc tiếp tân, Barley trả lời rằng ông ta có một cuộc gặp mặt đã hẹn trước rồi. Đúng 20 giờ theo đồng hồ của Wicklow, có người muốn gặp Barley nơi máy điện thoại của nhà hàng và Barley đến bắt máy chỉ cách bàn ăn chưa đầy năm mét. Wicklow và Henziger dỏng tai nghe, theo phản xạ nghề nghiệp. Bây giờ Wicklow nhớ lúc đó đã nghe: “Đó là tất cả những gì đáng kể”, và Henziger tin rằng lúc đó đã hiểu “đồng ý” hay “không đồng ý”, hay ngay cả “còn chưa đồng ý”. ... Mời các bạn đón đọc Đợi Chờ của tác giả John Le Carré.
Đam Mê và Thù Hận - James H. Chase
Clive Thurston là một kịch bản gia khó tính và nhẫn tâm tại Hollywood. Danh tiếng của gã có được là nhờ tác phẩm của một người khác - một người không còn sống. Gã luôn nghĩ rằng những bí mật của gã được dấu kín - nhưng rồi gã gặp Eve. *** James Hadley Chase là bút danh của tác giả người Anh – Rene Brabazon Raymond (24/12/1906 – 6/2/1985), người cũng đã viết dưới tên James L. Docherty, Ambrose Grant và Raymond Marshall. Ông được sinh ra ở Luân Đôn, là con của một đại tá người Anh phục vụ trong quân đội thuộc địa Ấn Độ, người dự định cho con trai mình có một sự nghiệp khoa học, bước đầu đã cho học tại trường học Hoàng gia, Rochester, Kent và sau đó học ở Calcutta. Ông rời gia đình ở tuổi 18 và làm nhiều công việc khác nhau, một nhà môi giới trong nhà sách, nhân viên bán sách bách khoa toàn thư của trẻ em, người bán sách sỉ trước tập trung vào sự nghiệp viết lách, đã sản xuất hơn 80 cuốn sách bí ẩn. Năm 1933, ông đã cưới Chase Sylvia Ray và có một con trai. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, với khoảng 90 tiểu thuyết, hầu như câu chuyện nào của James Hadley Chase cũng có một nhân vật chính muốn làm giàu nhanh bằng cách phạm tội ác - lừa gạt, cướp bóc hay ăn trộm. Nhưng kế hoạch của họ luôn thất bại, phải giết người để gỡ bí, và càng bí thêm. *** Các tác phẩm của James H. Chase đã được xuất bản tại Việt Nam: Cái Chết Từ Trên Trời Cả Thế Gian Trong Túi Ôi Đàn Bà Cạm Bẫy Gã Hippi Trên Đường (Frank Terrell #5) Thằng Khùng Cạm Bẫy Bản Đồng Ca Chết Người (Frank Terrell #1) Tỉa Dần Hứng Trọn 12 Viên Đam Mê và Thù Hận Tệ Đến Thế Là Cùng Mười Hai Người Hoa và Một Cô Gái Buổi Hẹn Cuối Cùng Trở Về Từ Cõi Chết Không Nơi Ẩn Nấp Đồng Tiền và Cạm Bẫy Lại Thêm Một Cú Đấm Đặt Nàng Lên Tấm Thảm Hoa Cành Lan Trong Gió Bão Những Xác Chết Chiếc Áo Khoác Ghê Tởm Món Quà Bí Ẩn Âm Mưu Hoàn Hảo Cướp Sòng Bạc Cạm Bẫy Dành Cho Johnny Những Xác Chết Câm Lặng Em Không Thể Sống Cô Đơn Thà Anh Sống Cô Đơn Buổi Hẹn Cuối Cùng Mùi Vàng Phu Nhân Tỉ Phú Giêm Tình Nhân Gã Vệ Sĩ Dấu Vết Kẻ Sát Nhân Trong Bàn Tay Mafia Này Cô Em Vòng Tay Ác Quỷ Thiên Đường của Vũ Nữ Châu Dã Tràng Xe Cát .... *** Clive Thurston là một nhà văn tại Hollywood. Danh tiếng của gã có được là nhờ tác phẩm của một người khác - một người không còn sống. Gã luôn nghĩ rằng những bí mật của gã được dấu kín - nhưng rồi gã gặp Eve. Trước khi kể cho các bạn nghe câu chuyện về những mối liên hệ của tôi với Eva, thì đầu tiên, tôi cần phải nói chút ít về chính bản thân tôi cũng như những biến cố đã đưa đẩy đến lần gặp gỡ ban đầu của chúng tôi. Nếu một thay đổi bất thường không nảy sinh trong cuộc đời tôi vào thời điểm mà tôi cam tâm chấp nhận cuộc sống tầm thường của một nhân viên văn thư trong một xưởng làm đồ hộp thì hẳn là tôi không bao giờ gặp gỡ Eva, và do vậy, có lẽ tôi đã không bị lôi cuốn vào một cuộc phiêu lưu mà cuối cùng nó đã làm hỏng cuộc đời tôi. Dẫu rằng hiện tại đã hơn hai năm trời tôi không còn gặp Eva nữa, nhưng chỉ cần nghĩ về nàng là đủ để tôi cảm nhận lại niềm ham muốn khôn nguôi, và cái nhu cầu chế ngự nàng đó đã ràng buộc nàng với tôi trong một thời kỳ mà lẽ ra tôi cần phải dành tất cả sự chú tâm và nghị lực của mình cho công việc. Nghề nghiệp hiện tại của tôi không mấy quan trọng. Không ai biết tôi ở cái thành phố cảng nhỏ bé bên bờ Thái Bình Dương này, nơi tôi đã đến gần hai năm nay, sau khi cuối cùng đã hiểu ra sự điên rồ và hão huyền của cái ảo tưởng mà tôi từng theo đuổi. Không còn là vấn đề của hiện tại hay tương lai chi cả, chỉ còn là của quá khứ mà thôi. Dù cho nóng lòng mong muốn giới thiệu Eva cùng các bạn, nhưng như tôi đã nói, cần thiết phải cung cấp cho bạn một vài chi tiết của chính bản thân tôi. Tôi tên là Clive Thurston. Có thể các bạn đã từng nghe nói về tôi. Tôi được xem như là tác giả của vở Cơn mưa ngập ngừng, vở kịch này đã gặt hái bao nhiêu là thành công. Và dù cho thật sự tôi không phải là tác giả của nó, tôi vẫn cứ viết thêm ba tiểu thuyết và trong thể tài đó, chúng lại vẫn thành công. Trước khi vở Cơn mưa ngập ngừng xuất hiện trên sân khấu, tôi chẳng là gì cả. Tôi ở một căn nhà cho thuê có sẵn đồ đạc gần xưởng máy nơi tôi làm việc, và cho đến ngày mà John Coulson dời đến ở, tôi đã sống một cuộc đời vô vị và không tham vọng, giống như hàng trăm ngàn người trẻ tuổi sẽ vẫn tiếp tục trong hai mươi năm trời cùng một công việc mà đang làm hôm nay. Nhưng cho dù cô độc và đơn điệu, tôi vẫn chấp nhận cuộc sống đó với một sự cam chịu vô cảm. Tôi không thấy bất kỳ khả năng nào thoát ra khỏi cái thói quen đã thành nếp khiến tôi thức dậy vào buổi sáng, đi làm việc, dùng những thức ăn rẻ tiền, khiến tôi tự hỏi liệu có thể trả giá thứ này thứ kia hay không, và khiến tôi thỉnh thoảng ghé đến một người đàn bà mỗi khi tôi khấm khá tiền bạc. Như thế cho đến khi tôi gặp John Coulson. Dẫu rằng chỉ sau cái chết của anh tôi mới gặp vận may và đã nắm lấy nó. John Coulson tự biết mình khó qua khỏi. Từ ba năm nay chống chọi với bệnh lao, sức lực của anh đã cạn kiệt. Như một con thú ẩn mình chờ chết, anh đã đoạn giao với bạn bè và cắt đứt mọi mối liên hệ, và dời đến căn phòng tồi tàn ở Long Beach này. Tôi không rõ lắm điều gì đã hấp dẫn tôi đến với anh, về phần mình, anh tỏ ra khá mong mỏi được chia sẻ tình bạn với tôi. Có thể bởi vì anh viết văn. Thâm tâm tôi từ lâu cũng đã có ý định viết lách, nhưng điều này đòi hỏi rất nhiều nỗ lực mà tôi thì hay thối chí. Tôi tin chắc rằng chỉ cần tôi có thể khởi đầu thôi, thì tài năng mà tôi cảm nhận được trong tôi cũng đáng giá với vinh quang và của cải cho tôi lắm. Có lẽ tôi không phải là cá biệt trong trường hợp này, và như những người cùng loại, tôi thiếu trước nhất là ý chí. Một hôm, John Coulson thổ lộ với tôi rằng anh đã viết một vở kịch mà anh đánh giá là vở hay nhất anh đã viết. Tôi bao giờ cũng nghe anh với niềm thích thú và thế là tôi hiểu ra vô số những gì có thể mang lại sự thành công cho một vở diễn. Hai ngày trước khi chết, anh yêu cầu tôi gởi vở kịch này cho người đại diện văn học của anh. Anh đã vượt quá khả năng ngồi dậy và tự mình không thể làm được chuyện gì ra hồn nữa cả. ... Mời các bạn đón đọc Đam Mê và Thù Hận của tác giả James H. Chase.
Mối Tình Của Vị Cao Tăng Chùa Shiga - Yukio Mishima
Năm 1946, Jean Cocteau (1889-1963) dựng phim Giai Nhân và Ác Thú (La Belle et La Bête). Năm 1954, Mishima Yukio cho đăng lần đầu tiên Mối Tình Của Vị Cao Tăng Chùa Shiga (Shigadera Shônin no Koi). Cả hai đều khai triển đề tài tình yêu tuyệt đối qua sự hòa điệu giữa những đối tượng mà bản chất vốn không thể hòa điệu nếu không nói là tương phản. Dựa trên một chi tiết nhỏ từ pho sách cũ, Mishima đã khéo dàn dựng rồi miêu tả biến chuyển bên trong tâm lý hai nhân vật chính, đúng ra hai tượng trưng. Điều đó làm cho bối cảnh của đoản thiên này giống như thế giới quan niệm có tính phổ quát thấy trong lớp lang một vở tuồng Nô hiện đại mà ông thường viết. Trong cuộc đời, có những mối tình ngắn ngủi thoáng đến thoáng đi, hoặc kéo dài "trong một tháng trong một năm" như cách nói của nhà văn nữ F. Sagan. Cũng có những mối tình lâu dài " tưởng trong giây phút mà thành thiên thu" hay "đem xuống tuyền đài chưa tan". Nhưng tất cả không biết đáng kể hay không nếu đem đặt bên cạnh mối tình lạ lùng của vị cao tăng chùa Shiga. *** Yukio Mishima (1925-1970) được đánh giá là một trong những tác giả quan trọng nhất trong nền văn học Nhật Bản thế kỷ 20. Trước tác của ông bao gồm 40 cuốn tiểu thuyết, 20 tuyển tập truyện ngắn và khoảng vài chục vở kịch cùng với một số bài thơ. Ông là nhà văn 3 lần được coi là ứng cử viên sáng giá cho giải Nobel Văn học. Hà Linh -  Những tác phẩm xuất sắc của Mishima có The Temple of the Golden Pavilion (Ngôi đình tạ bằng vàng -1956), bộ bốn tác phẩm The Sea of Fertility (Biển cả muôn màu - 1965-70)... Mishima sinh năm 1925, con trai của một quan chức chính phủ. Tên thật của ông là Kimitaka Hiraoka. Bố ông vốn không muốn con trai mình đi theo nghiệp văn chương chữ nghĩa nên ông phải đổi tên để viết trộm. Hiraoka được nuôi nấng và trưởng thành dưới sự giám sát chặt chẽ của bà nội. Trong thế chiến II, nhà văn được miễn nghĩa vụ quân sự, ông làm việc trong một nhà máy. Đây là điều khiến Mishima day dứt suốt cuộc đời. Nhà văn cho rằng mình đã sống sót một cách đáng xấu hổ trong khi rất nhiều người khác phải đổ máu ngoài chiến trường. Sau chiến tranh thế giới II, Mishima học luật tại Đại học Hoàng gia Tokyo. Trước khi dấn thân vào sự nghiệp văn chương, ông làm việc một năm trong Bộ Tài chính. Năm 1946, ông gặp gỡ Kawabata Yasunari, người sau đó đã giới thiệu những truyện ngắn đầu tay của ông với một vài tạp chí văn học uy tín. Confessions of a Mask (Lời thú nhận của người đeo mặt nạ - 1949) là tác phẩm đầu tiên ghi lại dấu ấn tên tuổi của Mishima trên văn đàn. Cuốn sách chính là một lối thoát giúp nhà văn giải tỏa những cảm xúc của chính mình khi phát hiện bản thân là người đồng tính. Trong truyện, nhân vật người kể chuyện thú nhận, ông đã phải tự trang bị cho mình một chiếc mặt nạ "bình thường" để tránh sự xoi mói của xã hội. *** Những khoảnh rừng bên hồ hay cạnh bờ sông toàn loại cây quí giá. Lùm cây bằng vàng tía, cành bạch ngân, hoa san hô, tất cả soi bóng trên mặt nước trong như gương. Trên tầng trời rộng, không có gì ngoài những sợi dây báu đong đưa không biết bao nhiêu là quả chuông cũng là báu vật, vang vọng thanh âm của Phật pháp nhiệm mầu. Ngoài ra còn biết bao nhiêu nhạc khí lạ lùng, không cần người đánh cũng phát ra tiếng và lan mãi về xa trên bầu trời trong vắt, hư không. Nếu khi bụng đói muốn ăn gì tự nhiên sẽ thấy hiện ra trước mắt mình không biết bao nhiêu thứ kỳ trân mỹ vị trên mặt bàn thất bảo và trong những mâm bát cũng bằng thất bảo. Nhìn màu sắc, ngửi thấy mùi hương thôi bỗng cảm thấy trở nên thanh khiết, no lòng và thân thể như được nuôi dưỡng đầy đủ. Sau khi không cần phải ăn gì mà đã xong bữa cơm thì cả mâm bát lẫn bàn ăn thoắt cái đã biến mất. Quần áo cứ thế phủ lên người mình một cách tự nhiên, chẳng cần may khâu, giặt giũ, nhuộm màu hay tu sửa gì cả. Chẳng có đèn đuốc mà lúc nào ánh sáng cũng theo đến bên người. Không cần chi phòng ấm phòng lạnh, nhiệt độ trong năm luôn luôn thích ứng với thân thể. Trên cõi cực lạc đó lúc nào cũng tràn ngập trăm ngàn loại hương thơm dịu dàng và có những cánh sen không ngừng bay lả tả. Vẫn theo chương nhan đề Quan Sát Môn trong Vãng Sinh Yếu Tập, những kẻ đến chiêm bái lần đầu sẽ không được phép vào sâu tận bên trong, họ chỉ được phép đứng ở bên ngoài và phải tập trung tất cả tinh thần cũng như trí tưởng tượng để hình dung ra cái bao la vô hạn của cõi Tịnh Độ. Dựa vào sự tưởng tượng để thoát ra khỏi giới hạn của tục giới là con đường ngắn nhất để lên đến nơi đó. Nếu ta có trí tưởng tượng phong phú, trước hết chỉ cần tập trung tinh thần vào một cọng sen. Từ đó, cọng sen sẽ mở cho ta những chân trời bát ngát. ... Mời các bạn đón đọc Mối Tình Của Vị Cao Tăng Chùa Shiga của tác giả Yukio Mishima.
Cô Gái Mù Chữ Phá Bom Nguyên Tử - Jonas Jonasson
Cô gái mù chữ phá bom nguyên tử - cuốn tiểu thuyết mới đầy chuyện li kì quái dị của Jonas Jonasson, tác giả của Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất. Nombeko được sinh ra trong một căn lều bé tí tẹo ở Johannesburg, thành phố lớn nhất Nam Phi. Ngay từ lúc nhỏ xíu, cô đã mau chóng hiểu rằng thế gian này chẳng hứa hẹn gì với cô ngoài việc cô hoặc chết sớm, vì ma túy, vì rượu hay chỉ vì đơn giản là tuyệt vọng vì màu da châu Phi. Thay vì thế, Nombeko có những kế hoạch vĩ đại hơn nhiều. Cô tự học đọc học viết, bằng mưu mẹo và sự liều lĩnh đáng kinh ngạc, cô thoát khỏi khu ổ chuột với những viên kim cương lậu bạc triệu. Đời cô là chuỗi sự cố điên khùng nối tiếp điên khùng. Cô chẳng hề muốn sống đời nô lệ ở đất nước phân biệt chủng tộc nhưng cũng chẳng mong mình trở thành cố vấn bất đắc dĩ cho dự án bom nguyên tử. Vậy mà cô phải làm cả hai với trí tuệ siêu việt về tính toán. Nhưng không gì có thể ngăn cản cô lập kế hoạch trốn thoát tới Thụy Điển, nơi cô gặp cặp sinh đôi Holger, mà một trong số đó nuôi âm mưu làm cách mạng lật đổ vương triều. Cuộc đời Nombeko đan cài đầy tréo ngoe vào cuộc đời của cặp sinh đôi, và khi cặp đôi dàn xếp vụ bắt cóc vua và thủ tướng Thụy Điển thì điệp vụ giải cứu đã sẵn đợi nữ người hùng ra tay - để cứu cả thế giới khỏi thảm họa. Quả bom nguyên tử sẽ hoàn tất sứ mệnh của nó ở đâu, hay là trong tay một siêu cường có nhu cầu? Cuốn sách ăn khách toàn cầu của Jonas Jonasson - Cô gái mù chữ phá bom nguyên tử - khiến người đọc phấn khích về cách đùa với các nhân vật lịch sử có thực và các câu chuyện chính trị sặc mùi thuyết âm mưu ở thế giới này. *** Jonas Jonasson tên đầy đủ là Pär-Ola Jonas Jonasson sinh ngày 6/7/1961 là một nhà báo người Thụy Điển, nổi tiếng với tác phẩm bán chạy Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất. Sinh ra và lớn lên tại vùng Vaxjo ở miền Nam Thụy Điển, cha là một tài xế xe cấp cứu và mẹ là nhân viên y tế, sau khi tốt nghiệp Đại học Gothernburg, Jonasson đã làm cho tạp chí Smålandsposten cho đến năm 1994. Năm 1996, ông mở công ty truyền thông OTW và khá thành công. Đến năm 2003, ông bị đau cột sống và bắt đầu stress. 2005 ông bán công ty truyền thông OTW và năm 2007 ông làm đám cưới với một phụ nữ người Na Uy và chuyển đến Thụy Sĩ để sinh sống. Ở đây ông hoàn thành tác phẩm lâu nay ấp ủ: Ông già trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất ( The Hundred-Year-Old Man Who Climbed Out the Window and Disappeared). Cuốn này được xuất bản ở Thụy Điển năm 2009 trở thành cuốn sách bán chạy nhất thế giới với hơn 4 triệu bản in. Cuốn sách thứ 2 của ông Cô Gái Mù Chữ Phá Bom Nguyên Tử (The Illiterate Who Knew How to Count) được xuất bản tại Thụy Điển năm 2013, được NXB Trẻ phát hành tại Việt Nam năm 2014. *** MẤY NGƯỜI DỌN NHÀ VỆ SINH ở khu ổ chuột lớn nhất Nam Phi cũng còn may chán. Dù sao thì họ vẫn có công ăn việc làm và mái nhà che nắng mưa. Nhưng mà từ góc độ thống kê thì họ không có tương lai. Hầu hết sẽ chết sớm vì lao, viêm phổi, tiêu chảy, ma túy, rượu, hoặc cả mấy thứ đó. Chỉ một hai người trong số họ sống được đến năm mươi. Như bác quản lý một trong những nhà vệ sinh ở Soweto chẳng hạn. Nhưng bác ta bệnh tật và tã lắm. Từ sáng ngày ra, bác đã tống vô tội vạ thuốc giảm đau và ngập trong bia bọt. Kết quả là, bác đã chửi như tát nước vào mặt ngài đại diện của Sở Vệ sinh môi trường thành phố Johannesburg đang rời văn phòng đi công cán. Đã nhọ lại còn không biết thân biết phận. Vụ việc được báo cáo tuốt lên giám đốc chi nhánh ở Johannesburg, ông này sáng hôm sau, giữa giờ nghỉ uống cà phê với đồng nghiệp bèn tuyên bố, đã đến lúc phải thay bọn mù chữ trong ngành này đi. Tình cờ đó là một chầu cà phê sáng vui vẻ bất ngờ. Có cả bánh ngọt để đón mừng một cậu trợ lý môi trường mới. Tên cậu là Piet du Toit, hai mươi ba tuổi, và đây là công việc đầu tiên của cậu khi vừa chân ướt chân ráo ra khỏi trường đại học. Theo lệ thường ở thành phố Johannesburg, nhân viên mới phải lãnh ngay vụ Soweto. Cậu lính mới tò te bị giao cho giải quyết đám mù chữ, kiểu như để cứng cựa lên. Chẳng ai biết liệu cả đám dọn nhà vệ sinh ở Soweto mù chữ thật hay không, nhưng họ cứ bị gọi như thế. Dù sao thì chẳng ai trong đám đó được đến trường. Tất cả sống trong lều. Và phải chật vật kinh khủng họ mới hiểu được người ta bảo mình cái gì. ... Mời các bạn đón đọc Cô Gái Mù Chữ Phá Bom Nguyên Tử của tác giả Jonas Jonasson.