Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ma Cà Rồng Ở Dallas

Khi chàng ma cà rồng Bill Thompton tiếp nhận vị trí Điều tra viên khu vực Số Năm, Sookie Stackhouse mặc nhiên được những ma cà rồng quyền lực nhất vùng bảo vệ. Nhưng, được coi như món đồ thuộc quyền sở hữu của Bill, cô buộc phải sử dụng khả năng đọc tâm trí của mình để phục vụ những kẻ khát máu. Với điệp vụ đầu tiên trong vai trò một tay lính đánh thuê, cô phải lặn lội cùng Bill tìm lời giải đáp cho sự mất tích bí ẩn của một ma cà rồng đồng tính tận Dallas. Cô những tưởng mình chỉ cần đọc tâm trí một vài người thường nào đó. Cô cũng đã tưởng mình có thể bảo vệ những con người liên quan đến vụ việc. Chỉ có điều, mối nguy hiểm không phải lúc nào cũng chỉ đến từ phía ma cà rồng. Và, lý thuyết bao giờ cũng đơn giản hơn thực tế… Một lần nữa, chính mạng sống của cô lại bị treo trên đầu sợi tóc… Charlaine Harris (sinh 25/11/1951) sinh ra và lớn lên tại Tunica, Mississippi và hiện giờ đang sống ở Arkansas cùng chồng và ba người con. Bà sáng tác thơ, truyện ngắn, kịch và tiểu thuyết. Chết trước hoàng hôn (Dead Until Dark) là tập đầu tiên trong bộ tiểu thuyết ăn khách The Southern Vampire Mysteries (Bí ẩn ma cà rồng miền Nam), từng giành được giải Anthony Award cho Tác phẩm thần bí xuất sắc nhất 2001. Bộ tiểu thuyết này cũng được đạo diễn Alan Ball chuyển thể thành series phim truyền hình ăn khách nhiều năm liên tiếp True Blood. “Thật khó tưởng tượng ra cảnh ma cà rồng và người sói cùng lượn lờ ở mỗi góc đường, nhưng Harris đã biết cách khiến người đọc yêu thích, bị lôi cuốn và cuối cùng là mê mệt những câu chuyện của bà.” – The Monroe News-star “Một cuốn sách bạn muốn đọc trước giờ đi ngủ, chắc mẩm sẽ chỉ theo dõi hết chương đầu tiên, nhưng hóa ra lại chỉ dừng lại được khi đã đi đến trang cuối cùng.” – Alan Ball, biên kịch American Beauty và đạo diễn True Blood “Bằng sự hòa quyện của những pha hành động, tình cảm và các chi tiết hài hước, Harris đã tạo ra một thế giới sống động đầy tính hiện thực, tất nhiên, nếu không kể đến ma cà rồng và những sinh vật siêu nhiên khác.” – The Toronto Stars *** Andy Bellefleur đã say khướt. Chuyện này chẳng bình thường với Andy chút nào - tin tôi đi, tôi biết hết mấy tay nát rượu ở Bon Temps. Nhờ nhiều năm làm việc trong quán bar của Sam Merlotte, tôi đã quen mặt tất cả bọn họ. Nhưng Andy Bellefleur, người gốc địa phương và là thanh tra trong lực lượng cảnh sát ít ỏi ở thị trấn Bon Temps, thì trước giờ chưa từng say xỉn ở quán Merlotte. Tôi cực kỳ tò mò muốn biết vì sao tối nay lại là ngoại lệ. Vì Andy và tôi chẳng hề quen thân nên tôi không thể hỏi thẳng anh ta được. Nhưng vẫn còn vài cách khác mà, thế là tôi quyết định dùng các cách ấy. Mặc dù tôi luôn cố hạn chế sử dụng khiếm khuyết, hay tài năng của mình, muốn gọi sao cũng được, để tìm ra những thứ có thể ảnh hưởng đến tôi hoặc những thứ thuộc về tôi, nhưng đôi lúc sự tò mò lại thắng thế. Tôi hạ rào chắn tâm trí xuống để đọc suy nghĩ của Andy. Rồi tôi lại thấy hối hận. Sáng nay Andy đã tóm một tên bắt cóc. Gã đàn ông đó đã bắt cóc cô bé hàng xóm mới mười tuổi mang vào rừng hãm hiếp. Cô bé đó hiện đang ở bệnh viện, còn gã kia đang ở trong tù, nhưng tổn hại mà hắn đã gây ra thì chẳng thể nào khắc phục được. Tôi buồn đến phát khóc. Tội ác ấy chạm vào sâu thẳm quá khứ của chính tôi. Sự trầm uất của Andy làm tôi thấy thích anh ta hơn một chút. “Này Andy Bellefleur, đưa chìa khóa xe anh đây,” tôi nói. Gương mặt to bành của Andy ngước lên nhìn tôi, ngơ ngác. Sau một hồi lâu ngẩn ngơ để cho lời tôi nói thẩm thấu vào trí óc rối bời của mình, Andy thò tay lục túi quần kaki rồi đưa tôi một chùm chìa khóa nặng trịch. Tôi đặt thêm một ly bourbon pha coca trên quầy bar trước mặt anh ta. “Tôi mời,” tôi nói, rồi lấy điện thoại ở cuối quầy bar gọi cho Portia, em gái Andy. Hai anh em nhà Bellefleur sống ở một căn biệt thự lớn kiểu tiền Nội Chiến hai tầng màu trắng trước đây hẳn rất tráng lệ nhưng giờ đang xuống cấp, nằm trên con phố xinh xắn nhất trong khu vực đẹp nhất thị trấn Bon Temps. Trên đường Magnolia Creek, mọi ngôi nhà đều quay mặt ra phía dải công viên có dòng suối nhỏ len qua, bắc rải rác ngang con suối là những cây cầu hoa hòe hoa sói chỉ dành riêng cho người đi bộ; đường lộ chạy dọc hai bên công viên. Trên đường Magnolia Creek còn có vài căn nhà xưa khác nữa, nhưng tất cả đều được chăm chút hơn nơi ở của gia đình Bellefleur, căn Belle Rive. Việc duy tu căn nhà Belle Rive vượt quá khả năng chi trả của Portia, một luật sư, và của Andy, một cảnh sát, vì số tiền để duy trì căn nhà cùng đất đai vườn tược chung quanh đã hết từ lâu rồi. Nhưng bà của họ, Caroline, lại gàn bướng không chịu bán. Portia nhấc điện thoại sau hồi chuông thứ hai. “Portia à, tôi là Sookie Stackhouse đây,” tôi phải lên giọng để át đi âm thanh ồn ã trong quán bar. “Hẳn là cô vẫn đang ở chỗ làm.” “Phải rồi. Andy đang ở đây, say mèm rồi. Tôi đã thu chìa khóa xe của anh ấy. Cô đến đón Andy được không?” “Andy quá chén à? Hiếm nhỉ. Được rồi, tôi sẽ đến đó trong vòng mười phút,” cô ta hứa, rồi cúp máy. “Cô tốt bụng quá, Sookie,” tự nhiên Andy thốt lên. Anh ta đã nốc cạn ly rượu tôi vừa rót. Tôi gạt cốc ra chỗ khuất mắt, mong rằng anh ta không đòi thêm nữa. “Cảm ơn anh, Andy,” tôi nói. “Anh cũng là người tốt bụng mà.” “Bạn trai… đâu ấy nhỉ?” “Ngay đây này,” một giọng nói lạnh lùng đáp lại, và Bill Compton xuất hiện ngay đằng sau Andy. Tôi mỉm cười với anh qua đầu Andy lúc này đang gục xuống. Bill cao khoảng một mét tám, tóc và mắt cùng một màu nâu sẫm. Anh có bờ vai rộng và đôi cánh tay cuồn cuộn cơ bắp như của người đã lao động chân tay suốt nhiều năm liền. Trước khi đi lính, Bill đã làm việc ở trang trại, đầu tiên là cùng bố, sau đó làm một mình. Trong cuộc Nội Chiến thì phải. “Chào M.B.!” Micah, chồng của Charlsie Tooten, cất tiếng. Bill phẩy tay đáp lại, Jason, anh trai tôi, thì chào hỏi vô cùng lịch sự, “Chào buổi tối nhé, ma cà rồng Bill.” Jason, trước đây không mấy sẵn lòng đón chào Bill bước vào gia đình nhỏ của chúng tôi, nhưng giờ lại thay đổi thái độ hoàn toàn. Trong thâm tâm tôi gần như vẫn nín thở chờ xem thái độ được cải thiện này có tồn tại mãi không. “Này Bill, anh là một tay hút máu tốt bụng đấy,” Andy nói vẻ đánh giá, rồi xoay người đối mặt Bill. Tôi lại nâng cấp quan điểm của mình về Andy khi say xỉn, vì khi tỉnh táo có bao giờ anh ta tỏ ra sẵn lòng chấp nhận ma cà rồng vào xã hội con người trên đất nước này đâu cơ chứ. “Cảm ơn anh,” Bill đáp bằng giọng khô khốc. “Với một tay nhà Bellefleur thì anh cũng đâu quá tệ.” Anh rướn người qua quầy hôn tôi. Đôi môi anh cũng lạnh như chính giọng nói. Phải làm quen với điều này thôi. Như khi ngả đầu lên ngực anh, chẳng ai nghe thấy được nhịp tim đập trong ấy. “Chào buổi tối, cưng à,” anh nói nhỏ. Tôi đẩy qua quầy bar một ly B trừ, loại máu nhân tạo được Nhật Bản phát chế, anh ngửa cổ nốc cạn rồi liếm môi. Gần như ngay lập tức trông anh hồng hào hẳn. “Cuộc họp sao rồi cưng?” tôi hỏi. Bill đã ở Shreveport hầu như cả đêm hôm nay. “Anh sẽ kể cho em sau.” Tôi hy vọng những chuyện liên quan đến công việc của anh không quá bi thương như chuyện của Andy. “Được thôi. Em mong là anh sẽ giúp Portia dìu Andy ra xe cô ấy. Cô ấy đến kia kìa,” tôi nói, hất đầu về phía cửa. Đấy là lần đầu tiên tôi không thấy Portia vận bộ đồng phục váy công sở, sơ mi, áo khoác, tất dài cùng giày đế bệt. Portia đã thay quần jean xanh và một chiếc áo lạnh Sophie Newcomb nhàu nhĩ. Thân hình Portia to cao như người anh mình, nhưng cô có mái tóc màu hạt dẻ dài và dày. Chăm sóc cho mái tóc mình đẹp đẽ là một nét đặc trưng của bản thân mà Portia chưa muốn từ bỏ. Cô chỉ đưa mắt khắp đám đông om sòm chăm chăm tìm một thứ. “Ôi, anh ấy xỉn quá rồi, hay nhỉ,” cô thốt lên, thẩm định tình trạng ông anh trai của mình. Portia cố phớt lờ Bill, người đang làm cô thấy hết sức khó chịu. “Chuyện này không xảy ra thường xuyên đâu, nhưng nếu đã muốn uống thật là anh ấy sẽ uống quắc cần câu luôn.” “Portia này, Bill có thể dìu anh ấy ra ngoài xe giúp cô,” tôi nói. Andy cao và đậm người hơn Portia, rõ ràng là nặng quá sức cô em gái. “Tôi nghĩ mình có thể tự lo được,” Portia quả quyết với tôi, vẫn không thèm nhìn qua Bill, lúc này đang nhướn mày nhìn tôi. Thế là tôi để cô vòng tay qua người ông anh trai, cố nhấc anh ta ra khỏi ghế. Andy vẫn ì ra đó. Portia liếc nhìn quanh tìm Sam Merlotte, chủ quán bar, tuy anh này có vẻ ngoài nhỏ thó gầy gò nhưng thật ra lại rất khỏe. “Sam đang đi pha chế rượu cho một buổi tiệc kỷ niệm ở câu lạc bộ ngoại ô mất rồi,” tôi nói. “Tốt hơn hết là cứ để Bill giúp đi.” “Ừ thôi cũng được,” cô luật sư cứng nhắc đáp, mắt nhìn chăm chăm lên mặt gỗ quầy bar bóng loáng. “Cảm ơn rất nhiều.” Trong chớp mắt Bill đã xốc Andy lên đi ra phía cửa, mặc cho hai chân Andy cứ muốn nhũn như chi chi. Micah Tooten bật dậy mở cửa, để Bill có thể dìu Andy thẳng ra ngoài bãi đỗ xe. “Cảm ơn cô, Sookie,” Portia nói. “Tiền rượu anh ấy đã trả hết chưa?” Tôi gật đầu. “Được rồi,” cô nói, vỗ nhẹ tay xuống bàn để ra hiệu là cô về đây. Cô phải nghe hàng đống lời khuyên đầy thiện chí khi theo bước Bill ra khỏi cửa chính của quán Merlotte. Đó là lý do vì sao mà chiếc Buick cũ kỹ của thanh tra Andy Bellefleur lại đỗ trong bãi xe quán Merlotte suốt đêm đến tận ngày hôm sau. Sau này hẳn anh ta sẽ thề rằng dĩ nhiên không có ai trong chiếc Buick ấy khi mình bước ra khỏi xe đi vào quán. Hẳn anh ta cũng sẽ khai rằng trước đó do quá bận tâm về cơn hỗn loạn nội tâm nên đã quên khóa cửa. Đâu đó trong khoảng thời gian từ tám giờ tối, khi Andy bước vào quán Merlotte, đến mười giờ sáng hôm sau, khi tôi đến để giúp mở cửa tiệm, xe của Andy đã có thêm một hành khách mới. Người này chắc chắn sẽ gây ra một nỗi xấu hổ trầm trọng cho viên cảnh sát. Hắn đã chết. Đáng lẽ ra tôi không nên đến đây làm gì. Đêm trước tôi đã làm ca khuya, và nhẽ ra tối hôm sau tôi lại phải làm ca khuya nữa. Nhưng Bill đã yêu cầu tôi đổi ca với một đồng nghiệp khác, bởi anh cần tôi đi cùng đến Shreveport, và Sam đã không phản đối. Tôi đã nhờ chị bạn Arlene đổi ca với tôi. Hôm ấy là ngày nghỉ của chị, nhưng Arlene luôn muốn kiếm những món tiền boa hậu hĩnh hơn khi làm việc ca tối, nên chị đồng ý đến quán vào lúc năm giờ chiều. Kỳ thực, lẽ ra Andy đã phải đến lấy xe buổi sáng hôm đó, nhưng anh ta vẫn còn quá váng vất không đủ sức làm trò buộc Portia cho quá giang đến quán Merlotte, quán này thì không nằm trên đường tới đồn cảnh sát. Cô bảo buổi trưa sẽ đến đón anh ở chỗ làm, và cả hai sẽ dùng bữa ở quán. Sau đó thì anh ta có thể lấy xe. Thế nên chiếc Buick, cùng vị hành khách câm lặng của mình, đã phải chờ lâu hơn thời gian cần thiết mới được phát hiện. Tôi đã ngủ khoảng sáu tiếng đêm trước đó, nên cảm thấy trong người khá khỏe khoắn. Hẹn hò với ma cà rồng có thể sẽ làm khó cho sự cân bằng của bạn nếu bạn thực là người sống về ban ngày, như tôi đây này. Tôi giúp mọi người đóng cửa quán, rồi về nhà với Bill trước một giờ sáng. Hai chúng tôi cùng tắm trong bồn tắm nước nóng nhà anh, rồi làm vài chuyện khác nữa, nhưng tôi đã đi ngủ sau hai giờ một chút, và mãi đến gần chín giờ sáng mới thức dậy. Lúc đó thì Bill đã xuống lòng đất từ lâu rồi. Tôi uống thật nhiều nước, nước cam cùng một viên vitamin tổng hợp và một viên bổ sắt vào bữa sáng, đó là chế độ dinh dưỡng của tôi kể từ khi Bill bước vào đời tôi và mang theo (cùng với tình yêu, trò phiêu lưu, lẫn sự phấn khích) mối đe dọa triền miên của chứng thiếu máu. Thời tiết đang dần trở nên mát mẻ hơn, tạ ơn Chúa, khi tôi ngồi trước hiên nhà Bill, mặc áo len móc dài tay và chiếc quần dài màu đen mà chúng tôi vẫn mặc làm việc ở quán Merlotte mỗi khi trời quá lạnh không thể mặc quần soóc được. Chiếc áo sơ mi đánh gôn trắng của tôi có thêu chữ BAR MERLOTTE’S bên ngực trái. Khi đang đọc lướt qua tờ báo buổi sáng, một phần tâm trí khác của tôi giúp tôi nhận ra một thực tế rõ ràng là cỏ mọc không nhanh như trước kia. Có vẻ như một vài ngọn cỏ bắt đầu ngả màu dần. Tình trạng sân bóng trong trường trung học chắc hẳn sẽ khá xấu vào tối thứ Sáu tới đây. Mùa hè ở Louisiana cứ dùng dằng mãi không dứt, kể cả ở miền Bắc Louisiana cũng thế. Mùa thu đến rất miễn cưỡng, cứ như thể bất cứ lúc nào mùa thu cũng có thể bỏ cuộc để lại nhường chỗ cái nóng hầm hập của tháng Bảy vậy. Nhưng tôi vốn mẫn cảm, và có thể điểm mặt được những dấu hiệu của mùa thu vào buổi sáng hôm nay. Mùa thu và mùa đông đến có nghĩa là đêm được dài hơn, thời gian ở bên Bill được lâu hơn, và giấc ngủ được thêm vài giờ nữa. Nên tôi đi làm với tâm trạng vui vẻ. Khi thấy chiếc Buick vẫn còn đỗ một mình trước quán bar, tôi nhớ lại chầu rượu say bí tỉ bất thường của Andy tối qua. Phải thú thật rằng, tôi đã mỉm cười khi nghĩ đến cảm giác của anh ta sáng nay. Ngay khi chuẩn bị vòng xe ra đằng sau để đỗ xe cùng với những nhân viên khác, tôi nhác thấy cửa sau của xe Andy mở he hé. Nếu cứ để như vậy thì đèn trần chắc chắn sẽ sáng hoài, phải không nào? Và ắc quy xe anh ta sẽ cạn mất. Và chắc hẳn anh ta sẽ cáu điên lên, rồi phải vào trong quán bar mà gọi xe đến cẩu đi, hoặc nhờ ai đó làm nóng xe cho mình… nên tôi đỗ xe vào bãi rồi ra khỏi xe, cứ để máy nổ. Hóa ra đây lại là một sai lầm tai hại vì lạc quan quá mức. Tôi ẩy cánh cửa vào, nhưng nó chỉ nhích tới có một phân. Thế nên tôi tì cả người vào cánh cửa, nghĩ rằng nó sẽ dập khóa lại và tôi có thể đi làm việc khác. Nhưng một lần nữa, cánh cửa không chịu sập lại. Tôi sốt ruột giật toang cửa ra để xem thứ gì kẹt trong cửa xe. Một luồng hôi thối ùa tràn ra bãi đỗ xe, một mùi hôi thối chết chóc. Tôi nghẹn họng mất hết tinh thần, vì tôi chẳng xa lạ gì với mùi hôi thối ấy. Tôi thò đầu vào trong băng ghế sau của xe, tay bịt chặt miệng, dù rằng làm thế cũng chẳng ngăn được thứ mùi này. “Ôi, trời ơi,” tôi thì thào. “Ôi, chết tiệt.” Lafayette, tay bếp làm một ca ở quán Merlotte, đã bị nhồi vào ghế sau. Trần truồng. Chính bàn chân nhỏ màu nâu của Lafayette với những móng chân sơn màu mận chín đã ngăn không cho cánh cửa đóng sập lại, và chính cái xác của Lafayette đã tạo ra thứ mùi xóc cả óc đó. Tôi vội nhảy phắt ra sau, lẩy bẩy leo vào xe mình rồi lái vòng ra phía sau quán, bấm còi inh ỏi. Sam chạy ra từ phía cửa dành cho nhân viên, tạp dề cột quanh eo. Tôi tắt máy xe và lao bắn ra ngoài nhanh đến nỗi chính bản thân còn không nhận thức được mình đã ra khỏi xe, và tôi ôm choàng lấy anh như một chiếc tất tích điện. “Chuyện gì thế?” Tiếng Sam vang lên trong tai tôi. Tôi ngửa người ra sau ngước nhìn anh, chẳng phải ngước lên quá cao làm gì vì Sam hơi nhỏ con. Mái tóc vàng hoe hoe đỏ của anh lấp lánh dưới ánh mặt trời buổi sớm. Cặp mắt xanh biêng biếc đang mở to khiếp đảm. “Lafayette đó,” tôi nói, bắt đầu thút thít. Khóc lóc thì kỳ cục, ngớ ngẩn và vô tích sự thật, nhưng tôi không kìm lại được. “Anh ấy chết rồi, trong xe của Andy Bellefleur ấy.” Vòng tay của Sam siết chặt sau lưng tôi khi anh lại kéo tôi sát vào lòng. “Sookie, thật tiếc là em đã phải nhìn thấy cảnh ấy,” anh bảo. “Chúng ta sẽ gọi cảnh sát. Lafayette tội nghiệp.” Việc làm đầu bếp ở quán Merlotte không nhất thiết đòi hỏi tay nghề bếp núc cao siêu gì, vì Sam chỉ bán vài món sandwich và khoai tây chiên, nên vị trí này thay người luôn. Nhưng bất ngờ thay, Lafayette lại là người làm việc ở đây được lâu nhất. Lafayette là người đồng tính, đồng tính kiểu hoa hòe hoa hoét, kiểu trang-điểm-và-để-móng-tay-dài. Người dân miền Bắc Louisiana vẫn còn khó chấp nhận được chuyện này hơn dân ở New Orleans, nên tôi ngờ rằng Lafayette, một người da màu, đã phải hứng chịu khó khăn gấp đôi. Mặc cho - hay nhờ vào - những khó khăn đó, anh ấy vẫn luôn vui vẻ, lém lỉnh khôi hài, thông minh, và là đầu bếp giỏi thực thụ. Anh ấy đã chế một loại xốt đặc biệt để ướp hamburger, và người ta gọi món burger Lafayette khá thường xuyên. “Anh ấy có người thân nào ở đây không nhỉ?” tôi hỏi Sam. Chúng tôi tự giác rời nhau ra và rảo bước về phía tòa nhà, vào văn phòng của Sam. “Anh ấy có một tay anh em họ nào đó,” Sam vừa nói vừa nhấn 9-1-1. “Làm ơn đến quán Merlotte trên đường Hummingbird ngay,” anh nói với người trực tổng đài. “Có một xác chết đàn ông trong xe ở đây. Phải, trong bãi đỗ xe, ngay trước cửa quán. À, chị cũng làm ơn báo cho Andy Bellefleur đi. Xe của anh ta đấy.” Từ chỗ đang đứng, tôi có thể nghe thấy tiếng trả lời bai bải ở phía đầu dây bên kia. Danielle Gray và Holly Cleary, hai phục vụ bàn ca sáng, bước vào qua cửa sau, cười hô hố. Hai cô này đều đã ly dị lúc hai lăm hai sáu tuổi, là bạn với nhau từ thuở thiếu thời, có vẻ như đều khá hài lòng với công việc này miễn là được làm việc cùng nhau. Holly có một cậu con trai năm tuổi đang học mẫu giáo, còn Danielle có một cô con gái bảy tuổi và một cậu con trai chưa đến tuổi đi học để ở nhà cho bà trông khi cô ấy đến quán Merlotte làm việc. Tôi chẳng bao giờ gần gũi được với hai người phụ nữ này - dù rằng họ cũng sàn sàn tuổi tôi - bởi họ luôn chăm chắm quan tâm tới nhau mà thôi. “Có chuyện gì vậy?” Danielle hỏi khi cô ta nhìn thấy mặt tôi. Khuôn mặt choắt và đầy tàn nhang của cô ta lập tức trở nên lo lắng. “Sao xe của Andy ở trước cửa quán vậy?” Holly hỏi. Có thời cô ấy đã cặp kè với Andy Bellefleur, tôi chợt nhớ ra. Holly có mái tóc vàng tém ngắn lòa xòa quanh mặt như những cánh hoa cúc dại héo rũ, và làn da đẹp nhất mà tôi từng thấy. “Anh ta ngủ qua đêm trong xe à?” “Không phải,” tôi đáp, “mà là người khác kia.” “Ai?” “Lafayette ở trong xe.” “Andy để một tay lập dị da đen ngủ trong xe của mình sao?” Câu này của Holly, người khi nào cũng thẳng thừng vô duyên. “Chuyện gì đã xảy ra với anh ta thế?” Câu này của Danielle, người thông minh hơn trong hai cô. “Tụi này không biết nữa,” Sam đáp. “Cảnh sát đang trên đường đến đây.” “Ý anh là,” Danielle nói, thật chậm rãi từng chữ một, “anh ta đã chết.” “Phải,” tôi bảo cô ta. “Đó chính xác là ý của tụi này.” “Này, một giờ nữa là chúng ta phải mở cửa rồi,” Holly chống tay lên bờ hông tròn trịa của mình. “Chúng ta sẽ xử lý chuyện này ra sao đây? Nếu cảnh sát cho chúng ta mở cửa, ai sẽ làm bếp chứ? Mọi người vào quán, họ sẽ muốn dùng bữa trưa.” “Tốt hơn là cứ chuẩn bị sẵn sàng đi, để đề phòng thôi,” Sam nói. “Dù tôi đang nghĩ là mãi đến chiều mình mới được phép mở cửa kia.” Anh vào văn phòng để bắt đầu gọi cho mấy tay đầu bếp thay thế. Thật lạ lẫm khi phải làm những việc chuẩn bị thường ngày trước khi mở cửa quán, cứ như thể Lafayette sẽ đi vào bất cứ lúc nào cùng một câu chuyện về buổi tiệc nào đó mà anh ấy đã tham dự, như mới vài ngày trước đây anh cũng đã đi vào như thế. Tiếng còi hụ của xe cảnh sát vang vọng từ con đường chạy ngang qua trước quán Merlotte. Tiếng bánh xe nghiến lạo xạo trên bãi xe rải sỏi của Sam. Đến khi chúng tôi hạ hết ghế xuống, bày biện bàn ăn, cuộn thêm vài bộ dao nĩa dự phòng vào khăn ăn để sẵn sàng thay thế cho những bộ dao nĩa đã được dùng đến, thì cảnh sát bước vào. Quán Merlotte nằm ngoài phạm vi thị trấn, nên viên cảnh sát trưởng địa phương, Bud Dearborn, sẽ đảm trách vụ này. Bud Dearborn là một người bạn rất thân của ba tôi trước kia, giờ đây mái tóc đã điểm bạc. Ông có khuôn mặt bèn bẹt, như người mang mặt chó Bắc Kinh, và đôi mắt nâu mờ đục. Khi ông bước vào cửa trước quán, tôi nhận ra Bud vẫn còn đang đi đôi bốt nặng nề và đội chiếc mũ lưỡi trai đội bóng Saints. Chắc hẳn ông bị gọi đến khi vẫn đang làm việc ngoài nông trại. Bud đi cùng Alcee Beck, viên thanh tra da màu duy nhất trong lực lượng cảnh sát địa phương. Da Alcee đen đến nỗi chiếc sơ mi trắng của anh ta sáng lóa lên vì tương phản. Chiếc cà vạt được thắt ngay ngắn, bộ vét hết sức chỉnh tề. Còn đôi giày da thì được đánh bóng loáng lấp lánh. Bud và Alcee thay phiên nhau coi quản trong vùng… ít nhất thì cũng có vài người quan trọng hơn để giữ cho khu vực này còn hoạt động. Mike Spencer, giám đốc công ty mai táng kiêm nhân viên pháp y của địa phương, cũng là người có vai vế trong địa phương, là bạn thân của Bud. Tôi sẵn sàng đánh cuộc rằng lúc này Mike đã ra ngoài bãi xe, tuyên bố Lafayette tội nghiệp đã chết. Bud Dearborn hỏi, “Ai là người phát hiện ra cái xác?” “Tôi đây.” Bud và Alcee liếc nhìn nhau đầy ẩn ý và bước về phía tôi. “Sam à, bọn tôi mượn văn phòng của cậu được chứ?” Bud hỏi. Không cần đợi Sam trả lời, ông ta hất đầu ra dấu cho tôi đi vào. “Chắc chắn rồi, thẳng vào trong ấy đấy,” ông chủ của tôi đáp khô khốc. “Em ổn chứ, Sookie?” “Không sao đâu mà, Sam.” Tôi không chắc điều này có thật hay không, nhưng Sam có phản ứng kiểu gì với cái yêu cầu này thì cũng gặp rắc rối hết, vô ích thôi. Mặc dù Bud ra dấu cho tôi ngồi xuống, tôi lắc đầu khi ông ta và Alcee an vị trên hai cái ghế trong văn phòng. Bud, tất nhiên là ngồi trên cái ghế to bành của Sam, còn Alcee thì giành lấy chiếc ghế phụ vẫn còn ngon, chiếc ghế vẫn còn lại chút ít nệm lót ấy. “Kể cho chúng tôi nghe về lần cuối cùng cô gặp Lafayette còn sống đi,” Bud gợi ý. Tôi suy nghĩ. “Anh ấy không làm việc tối qua,” tôi nói. “Mà là Anthony. Anthony Bolivar.” “Ai thế nhỉ?” Vầng trán rộng của Alcee nhăn lại. “Không nhận ra cái tên đó.” “Anh ta là bạn của Bill. Anh ta đang lang bạt qua vùng này, và cần một công việc. Anh ta có kinh nghiệm.” Anh ta đã làm việc tại quán ăn trong thời kỳ Đại Khủng hoảng. “Ý cô là tay đầu bếp tạm thời ở đây là một ma cà rồng? “Thì sao chứ?” tôi hỏi lại, khóe miệng cong lên ương bướng, lông mày nhíu lại, và tôi biết rằng khuôn mặt mình đang dần toát lên vẻ giận dữ. Tôi đang cố hết sức để không phải đọc tâm trí của họ, cố bằng mọi giá để hoàn toàn không thông tâm gì cả, nhưng việc này không dễ dàng. Bud Dearborn thì thường thường thôi, nhưng Alcee thì phóng suy nghĩ ra cứ như kiểu ngọn hải đăng truyền phát tín hiệu vậy. Ngay lúc này đây anh ta đang tỏ vẻ ghê tởm và kinh sợ. Trong thời gian trước khi gặp Bill, và nhận ra anh quý trọng khiếm khuyết của tôi - là tài năng, như cách anh nhìn nhận - tôi đã cố hết sức để dối gạt bản thân và lừa phỉnh mọi người rằng tôi thực sự không biết “đọc” tâm trí. Nhưng kể từ khi Bill giải thoát tôi khỏi lao tù nhỏ bé mà tôi tự xây lên cho bản thân, thì tôi đã thực tập và trải nghiệm, trong sự khuyến khích của Bill. Vì anh, tôi đã mô tả thành lời những thứ mà mình đã và đang cảm nhận suốt hàng mấy năm trời. Có vài người gửi đi những thông điệp hết sức mạnh mẽ, rõ ràng, như Alcee đây. Còn đâu thì hầu hết mọi người lúc này lúc khác, như Bud Dearborn vậy. Theo như những gì tôi biết thì chuyện này phụ thuộc rất nhiều vào việc cảm xúc của họ mãnh liệt đến đâu, mức độ tỉnh táo của họ ra sao, thời tiết như thế nào. Còn có vài người thì kín như bưng đến nỗi gần như không thể biết được họ đang nghĩ gì. Có lẽ tôi có thể đọc được tâm trạng của họ, nhưng tất cả chỉ có vậy. Tôi đã thừa nhận rằng nếu được chạm vào người khác khi cố đọc tâm trí họ, thì bức tranh trở nên sáng sủa hơn - như sử dụng đường truyền cáp sau khi dùng ăng ten ấy. Và tôi cũng phát hiện ra rằng nếu mình “gửi” những hình ảnh thư giãn cho người ta, thì tôi có thể len lỏi vào tâm trí của họ dễ như bỡn. Tôi thì không muốn thâm nhập vào suy nghĩ của Alcee Beck chút nào. Nhưng tôi đang hoàn toàn miễn cưỡng đón nhận bức tranh toàn cảnh về phản ứng mê tín đến độ cực đoan của Alcee khi anh ta nhận ra có một ma cà rồng làm việc ở quán Merlotte, về nỗi khiếp sợ của anh ta khi phát hiện ra tôi là người phụ nữ mà anh ta đã nghe nói đang hẹn hò với ma cà rồng, về lời kết tội từ trong sâu thẳm của anh ta cho rằng tên đồng tính công khai Lafayette là một nỗi ô nhục cho cộng đồng người da màu. Alcee đoán rằng ai đó hẳn là muốn chơi khăm Andy Bellefleur, khi tống xác của một gã đồng tính da màu vào xe của Andy. Alcee đang băn khoăn không rõ Lafayette có bị nhiễm AIDS không, rồi liệu làm sao đấy mà con virút ấy có thấm vào ghế xe Andy và cứ tồn tại ở đó không. Alcee sẽ bán xe ngay, nếu đó là xe của anh ta. Nếu chạm vào Alcee, hẳn là tôi sẽ biết được luôn cả số điện thoại và cỡ áo ngực của vợ anh ta nữa. Bud Dearborn nhìn tôi kỳ kỳ. “Chú vừa nói gì ạ?” tôi hỏi. “Phải. Ta thắc mắc không biết cháu có gặp Lafayette ở đây suốt tối qua không. Anh ta có ghé vào quán uống ẩm gì chăng?” “Cháu chẳng bao giờ gặp anh ấy ở đây cả.” Ngẫm lại chuyện này, thì tôi chẳng bao giờ thấy Lafayette uống rượu. Lần đầu tiên, tôi mới nhận ra rằng mặc dù đám người đến ăn trưa có cả người da màu và người da trắng, nhưng những vị khách đến quán buổi tối hầu như rặt là người da trắng. “Anh ta hay tụ tập ở đâu?” “Cháu chịu.” Tất cả những câu chuyện Lafayette kể đều được thay đổi tên họ để bảo vệ danh tính những người vô tội. À ừ, thực ra, là những kẻ có tội thì đúng hơn. “Lần cuối cùng cháu gặp anh ta là khi nào?” “Đã chết, nằm trong xe.” Bud cáu kỉnh lắc đầu. “Lúc còn sống cơ, Sookie à.” “Hừmm, cháu nghĩ là… cách đây ba ngày. Anh ấy vẫn ở đây khi cháu đến làm ca của mình, và bọn cháu chào nhau. À, anh ấy có kể cho cháu nghe về một buổi tiệc mà mình đã đến dự.” Tôi cố nhớ lại chính xác những lời của anh. “Anh ấy bảo đã đến một ngôi nhà nơi diễn ra đủ kiểu làm tình hoang đàng trụy lạc.” Hai người đàn ông há hốc nhìn tôi. “Vâng, anh ấy đã bảo thế đấy! Cháu cũng không biết chuyện đó có bao nhiêu phần sự thật.” Tôi hình dung ra khuôn mặt của Lafayette khi anh ta kể tôi nghe chuyện này, cái cách anh ta điệu đà đặt ngón tay ngang môi ngụ ý rằng anh ta sẽ không nói cho tôi biết bất kể cái tên hay địa điểm nào cả. “Cháu không nghĩ là người khác phải biết chuyện này à?” Bud Dearborn trông bàng hoàng. “Đó là một bữa tiệc riêng tư. Sao cháu phải kể cho người khác chứ?” Nhưng kiểu tiệc tùng như thế không được phép diễn ra trong địa phận của hai người này. Hai người đàn ông vẫn chằm chằm nhìn tôi. Bud hỏi qua kẽ răng, “Lafayette có kể cho cháu nghe gì về chuyện sử dụng ma túy trong buổi gặp gỡ ấy không?” “Không, theo cháu nhớ thì không.” “Bữa tiệc đó được tổ chức ở nhà người da trắng hay người da đen?” “Da trắng,” tôi đáp, rồi lại ước gì mình đã lấy cớ không biết. Nhưng Lafayette đã thật sự ấn tượng với ngôi nhà - mặc dù không phải vì căn nhà mỹ miều hay to lớn gì. Thế sao anh ấy bị ấn tượng đến thế? Tôi không chắc Lafayette sẽ thấy ấn tượng với những thứ gì, anh đã sinh ra, lớn lên và mãi đến bây giờ vẫn trong cảnh nghèo khó, nhưng tôi chắc chắn rằng anh ấy đã kể về nhà của một người da trắng nào đó, vì anh ấy có nói, “Tất cả ảnh trên tường đều chụp những người trắng như hoa huệ và mỉm cười như cá sấu.” Tôi không kể lời nhận xét đó ra cho đám cảnh sát, và họ cũng không hỏi gì thêm. Rời khỏi văn phòng của Sam, sau khi giải thích lý do trên hết vì sao xe của Andy lại ở trong bãi xe, tôi trở ra đứng sau quầy. Tôi không muốn quan sát những gì đang diễn ra ở bãi đỗ xe, và chẳng có khách hàng nào để phục vụ cả, vì mọi lối vào bãi đỗ xe đã bị cảnh sát chặn hết rồi. Sam đang sắp xếp những chai rượu đằng sau quầy, vừa đi vừa phủi bụi chúng, còn Holly và Danielle đã ngồi phịch xuống một bàn ở khu vực hút thuốc để Danielle có thể hút một điếu. “Mọi chuyện thế nào?” Sam hỏi. “Cũng chẳng có gì nhiều. Họ không thích nghe chuyện Anthony làm việc ở đây, và họ cũng không ưa những gì em kể về bữa tiệc mà Lafayette cứ lải nhải hôm trước ấy. Anh có nghe thấy anh ấy kể với em không? Cái vụ làm tình tập thể ấy?” “Có, anh ta cũng kể mấy chuyện đó với anh nữa. Buổi tối hôm đó với anh ta hẳn là đã lắm. Nếu quả thật là có bữa tiệc kiểu đó.” “Anh nghĩ rằng Lafayette bịa chuyện sao?” “Anh không nghĩ ở Bon Temps lại có nhiều buổi tiệc kiểu tạp chủng, lưỡng tính thế đâu,” anh đáp. “Nhưng đó chẳng qua là vì không có ai mời anh cả thôi,” tôi nói thẳng ra. Tôi băn khoăn không hiểu liệu mình có biết tí gì về những chuyện diễn ra nơi thị trấn nhỏ bé này không. So ra với tất cả mọi người ở Bon Temps thì tôi phải là người biết rõ mọi thứ từ trong ra ngoài, vì mọi thông tin ít nhiều gì cũng sẵn ra đấy, nếu tôi muốn bới móc tìm hiểu, “Ít nhất thì, theo em đây là lý do chứ nhỉ?” “Ừ đấy là lý do đấy,” Sam đáp, khẽ mỉm cười với tôi trong lúc chùi một chai whiskey. “Em nghĩ thiệp mời của em cũng bị thất lạc ở bên bưu điện mất rồi.” “Em có nghĩ rằng Lafayette trở lại đây tối hôm qua là để kể cho anh hoặc em nghe về bữa tiệc đó không?” Tôi nhún vai. “Có lẽ anh ta chỉ hẹn gặp ai đó ở bãi đỗ xe thôi. Dù sao thì, ai cũng biết quán Merlotte ở đâu mà. Mà anh ấy đã lấy lương chưa?” Đã cuối tuần rồi, thường thì đây là lúc Sam trả tiền cho bọn tôi. “Chưa. Có lẽ anh ấy đến cũng vì chuyện đó, nhưng anh định hôm sau mới đưa cho anh ta. Hôm nay này.” “Em thắc mắc không biết ai đã mời Lafayette đi dự tiệc.” “Câu hỏi hay đấy.” “Anh không nghĩ rằng anh ta ngu đến nỗi cố tống tiền ai đó chứ nhỉ?” Sam cọ cọ lớp gỗ giả trên mặt quầy bằng một chiếc giẻ sạch. Quầy đã sạch bóng lên rồi, nhưng anh vẫn cứ thích luôn chân luôn tay, tôi nhận thấy thế. “Anh không nghĩ vậy,” anh nói sau một hồi suy nghĩ. “Không thể nào, họ hẳn đã chọn nhầm người rồi. Em biết Lafayette tám đến cỡ nào mà. Anh ta không chỉ kể cho chúng ta nghe việc mình đi đến một buổi tiệc như thế - anh dám cá là anh ta không được phép kể - mà còn muốn lợi dụng buổi tiệc để làm tiếp những chuyện mà mấy người khác, à ừ, mấy người tham gia ấy, sẽ phải khó chịu.” “Kiểu như là, giữ liên lạc với những người cũng từng tham gia bữa tiệc ấy? Nháy mắt đưa tình với họ ở chốn đông người?” “Đại loại như thế.” “Em nghĩ rằng nếu ta có làm tình với ai đó, hoặc xem họ làm tình với nhau, ta sẽ cảm thấy rằng mình ngang hàng với họ.” Tôi không quả quyết lắm khi nói ra điều này, vì không có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực ấy lắm, nhưng Sam lại đang gật gù. “Điều Lafayette mong muốn nhất là được mọi người chấp nhận bản chất con người mình,” anh nói, và tôi buộc phải đồng ý. Mời các bạn đón đọc Ma Cà Rồng Ở Dallas của tác giả Charlaine Harris & Thiện Hoàn (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Màn Đêm - Richelle Mead
Khi màn đêm buông xuống... Khi bóng tối và hơi lạnh giăng khắp thế gian, vạn vật chìm trong giấc ngủ êm đềm, thì có nhiều sinh vật mới bắt đầu trỗi dậy, hòa mình vào nhịp sống sôi động ở nửa bên kia của tự nhiên. Đó là những ma cà rồng. Bên trong hàng rào sắt hoa, được khoanh vùng biệt lập nhờ núi rừng rậm rà kỳ bí là một học viện xây dựng theo phong cách Gothic với những đỉnh tháp chuốt nhọn và những ô kính cửa sổ phủ màu để ngăn ánh nắng. Học viện ẩn dật, xa người thường và xa các đô thị lớn hiện đại này là nơi đào tạo các ma cà rồng trẻ tuổi, cũng là nơi chứng kiến những đắm say lãng mạn, những ghen tuông tị hiềm, và cả những hiểm nguy chí mạng trong cuộc sống của họ... Học Viện Ma Cà Rồng gồm có: Màn Đêm Sương Giá Hôn Bóng Hẹn Máu Linh Hồn Tận Hiến ... *** Ma cà rồng là một trong những hình tượng hư cấu nổi tiếng và hấp dẫn nhất từng xuất hiện trong văn học. Cách đây 8 năm, bán nguyệt san Painted Bride từng thống kê rằng ma cà rồng đã xuất hiện hơn 9,5 triệu lần trong các tác phẩm văn học xuất bản bằng tiếng Anh tính từ năm 1819 (năm ra đời kiệt tác kinh điển về ma cà rồng Dracula của Bram Stoker). Con số đó, xét về mặt tương đối, chỉ đứng sau mật độ xuất hiện của Jesus Christ (hơn 100 triệu lần) cũng trong các tác phẩm văn học tiếng Anh. Từ gần 200 năm nay, ma cà rồng đã vượt xa khỏi phạm vi châu Âu, đem hình ảnh chiếc áo choàng đen, mắt máu, răng nanh cùng vết cắn nhọn của mình trở nên nổi tiếng thế giới. Hình ảnh ma cà rồng biến đổi khá nhiều nhờ trí tưởng tượng mỗi ngày một phong phú của tác giả, theo thị hiếu ngày một đa dạng của độc giả; xuất hiện trong nhiều thể loại hơn hẳn xưa kia, không chỉ giới hạn ở kinh dị, hình sự, phiêu lưu... mà lấn cả sang diễm tình, học đường và chick-lit. Các tác phẩm tiêu biểu từng được độc giả Việt Nam biết đến bao gồm Biên niên sử Ma cà rồng (Anne Rice), Chạng vạng (Stephanie Meyer), Bí ẩn phương Nam (Charlaine Harris). Còn Richelle Mead tạo nên khung cảnh và hệ thống nhân vật của mình bằng cách đánh bóng lại kho truyền thuyết nằm sâu dưới bụi dày thời gian ở Balkan và Romania, đưa chúng vượt biển sang Bắc Mỹ, tái sinh tại một trong những tiểu bang sôi động nhất Mỹ. Tuy bối cảnh là trái đất thời hiện đại, ở cách một thành phố sầm uất của nước Mỹ chỉ vài dặm đường, cũng có những nhân vật trẻ trung đẹp đẽ, Học viện Ma cà rồng là một không gian riêng biệt chỉ dành cho ma cà rồng. Con người hầu như không hay biết, không xuất hiện và nhất là không can thiệp vào sự hiện hữu của ma cà rồng. Mặc dù vậy, tác phẩm thực chất nhìn nhận lại chính con người chúng ta qua một bề ngoài mới, một bề ngoài siêu nhiên. Ma cà rồng của Mead gồm ba loại: Moroi (ma cà rồng sống), Strigoi (ma cà rồng chết) và Dhampir (ma cà rồng lai). Hai loại đầu sinh ra từ dân gian Romania, loại thứ ba từ dân gian vùng Balkan. Đây cũng là chi tiết chưa hề được chú ý khai thác ở bất cứ tác phẩm văn học đương đại nào về ma cà rồng. Bộ truyện Học viện Ma cà rồng gồm 6 cuốn, ghi lại những dốc cao và vực thẳm trong quãng thời gian rèn luyện trưởng thành của các Moroi và Dhampir trẻ tuổi tại một trường trung học bí mật. Phần lớn sự kiện diễn ra tại học viện Thánh Vladimir thuộc tiểu bang Montana. Ngôi trường theo phong cách Gothic này nằm lọt thỏm giữa những cánh rừng và núi đồi, thức dậy vào ban đêm, ngủ yên vào ban ngày. Quanh trường đặt các bùa chú bảo vệ, an ninh được bổ sung thêm nhờ sự tuần tra canh gác của các Giám hộ gốc Dhampir. Tháng 10/2010, công ty IPM cùng NXB Hội Nhà văn ấn hành tại Việt Nam 2 tập đầu tiên trong bộ truyện là Màn đêm và Sương giá. Màn đêm mở ra bằng cảnh Rose và Lissa bị các Giám hộ áp tải về học viện sau hai năm lẩn trốn trong thế giới loài người. Các nhân vật đều tuyệt mỹ, nhưng ai cũng xanh xao vì phải sống trong bóng đêm. Trên những giảng đường cổ kính, họ luyện tập khả năng điều khiển các sức mạnh tự nhiên như lửa, gió, đất hay nước. Sau những tấm rèm ký túc, họ quay cuồng trong các dạ tiệc, háo hức tìm hiểu những thu hút giữa nữ và nam. Vừa trẻ trung cuồng nhiệt, họ vừa tỉnh táo và thực dụng đến đáng sợ. Ai cũng biết trường học là bước đệm để tiến vào xã hội người lớn mai sau, vì thế tất cả sẵn lòng đắm say nhưng không ràng buộc, vui cười nhưng không thân thiết, bè phái phe nhóm nhưng không bao giờ tin tưởng. Sương giá dần dà đẩy câu chuyện lên một cao trào mới, dữ dội và bi thảm hơn. Các học sinh chuẩn bị bước vào xã hội con người, các biến động của đời thực va vào họ. Tình yêu, hận thù, dục vọng... lớp lớp tràn tới, đòi hỏi mỗi người phải biết ứng xử thích hợp và kịp thời. Theo truyền thuyết, ai đó sắp cưới mà chết, hoặc chết rồi mà còn hiện về làm tình với người mình sắp cưới thì sẽ biến thành Strigoi. Nhưng theo Mead, có rất nhiều cách để tạo ra Strigoi: chẳng hạn một Moroi giết chết người mình vừa hút máu, một Moroi hoặc một Dhampir bị Strigoi cắn... đều chắc chắn biến thành Strigoi, nói cách khác là cái ác rình rập khắp nơi, chỉ bất cẩn hoặc lỡ tay làm điều xấu thì sẽ mãi mãi trở thành kẻ xấu, không còn đường quay đầu trở lại. Bên cạnh các yếu tố sẵn có về dòng giống và sức mạnh thượng đẳng của ma cà rồng, Mead còn cấu tứ thêm rất nhiều yếu tố phi thực hấp dẫn. Đó là điếm máu, hôn bóng, thần giao cách cảm giữa hai linh hồn, là khả năng chuyện trò với người khác nhờ đi vào giấc mơ của họ. Ngoài những chi tiết cần đến trí tưởng tượng phong phú ấy, Học viện Ma cà rồng còn hấp dẫn nhờ kỹ năng viết đầy rung cảm của Richelle Mead khi đặc tả những khoảnh khắc xao động khôn cưỡng giữa Rose và Dimitri - nhất là trong cái đêm họ gần như thất thân với nhau, khi chạy máy quay theo những cú nhay cắn tàn bạo của Strigoi trên cần cổ bấy nát của Eddie, khi chậm rãi níu giữ những giây phút nặng nề cuối cùng của Mason... Tóm lại là một kỹ năng đem đến cho người đọc những phút phiêu linh vì đắm say, xót xa vì mất mát, uất nghẹn vì bất lực. Không chỉ là một tác phẩm tâm tình cho tuổi trẻ, Học viện Ma cà rồng còn là kết quả của sự tương tác đầy thấu hiểu với truyện dân gian, truyền thuyết cũng như khoa học quanh hình tượng nhân vật lâu đời và nổi tiếng ma cà rồng. *** Suy-sụp-sau-sung-sướng là thủ pháp gây kịch tính quen thuộc trong rất nhiều tiểu thuyết lãng mạn. Đại loại là nếu truyện chưa kết thúc mà đã có một đêm thăng hoa, thì chỉ trong vòng nửa ngày tiếp theo sẽ xảy ra xung đột hoặc bi kịch để ngăn chặn đêm thăng hoa thứ hai nói riêng và ngăn chặn hạnh phúc đi vào thoái trào nói chung. Tính đến tập 5, Mead sử dụng thủ pháp này hai lần, và cả hai đều báo hiệu những biến cố bi thảm xoay chiều số phận bao nhiêu người. Y như trong giao đãi, với cuốn sách từ ghét đến bình thường tôi tán tụng rất dễ, nhưng với cuốn sách từ thích đến yêu, tôi thường lúng túng không biết bắt đầu từ đâu cả, bởi tôi sợ không lột tả hết cái hay của nó, khiến người nghe/đọc sẽ thấy sao mà tầm thường những điều tôi chỉ ra, làm tội nghiệp cuốn sách tôi thích đến yêu đi. Suốt mười lăm năm nay, chưa một tác phẩm nào khiến tôi khổ sở vì mong ngóng như Học viện Ma cà rồng (Vampire Academy), dù trước đây cũng từng đưa Harry Potter và Bảo bối Tử thần vào danh sách mong đợi. Trong lúc chờ đợi tập cuối Last Sacrifice phát hành vào 14 Dec này, những lơ mơ trước ngủ của tôi tràn ngập Strigoi/Moroi/Dhampir, và tôi nghĩ thôi thì trút chúng ra giấy một lần, để óc còn khuây khỏa theo truyện khác. Nhớ là khi bắt đầu đọc tập 1, tôi phải càu nhàu vì dạo gần đây ma cà rồng cứ bám lúc nhúc ở các giá sách YA, khiến người ta chẳng nhìn thấy truyện nào nữa cả. Trong hơn 100 năm từ Dracula của Bram Stoker đến Argeneau Family của Lynsay Sands hay Vampire Academy của Richelle Mead, ma cà rồng đã thực hiện một cuộc cách mạng ngoạn mục. Không còn di chuyển bằng quan tài hay xe hòm qua lại đơn điệu giữa tiểu thuyết kinh dị và trinh thám, không còn sự tàn bạo vô nhân tính một chiều từ đôi răng nanh đến cặp mắt đỏ đọc, ma cà rồng thế kỷ XXI đã ngồi SUV bành trướng sang tiểu thuyết lãng mạn, thanh xuân và kịch tình, cũng như khoác thêm ánh đắm say cho cặp mắt, môi gợi cảm che đôi nanh, và áo choàng đen thay bằng thời trang hàng hiệu. Ma cà rồng là lựa chọn không cần thiết nhưng thú vị cho nhân vật của Mead. Không cần thiết bởi vì thế giới mà chị xây dựng chỉ toàn là ma cà rồng. Trong một tương quan không – đúng hơn là ít – sự giao tiếp/so sánh với xã hội loài người, lại hoàn toàn không có cặp đôi người-ma nào, thì đặc trưng đáng sợ/quyến rũ của ma cà rồng không mấy nổi bật, và tính chất chông chênh bi thảm khiến tình yêu trở nên lãng mạn tột cùng giữa hai giống loài hút máu-bị hút máu không có cơ sở tồn tại. Ngoài ra, việc chọn ma cà rồng làm nhân vật sẽ khiến câu truyện mê hồn này bị đổ đồng vào một rừng tác phẩm thuộc tiểu loại vampire, khi trình làng rất dễ dính so sánh là ăn theo Chạng vạng, và các bài PR Việt Nam lười biếng sẽ đặt ngay một tiêu đề lợm giọng rẻ tiền là Học viện Ma cà rồng – kẻ soán ngôi/kế vị/đối thủ của Twilight. Mead hoàn toàn có thể viết một câu truyện huyền ảo về người thường hoặc yêu tinh với chính nội dung chị dùng cho Học viện Ma cà rồng, tất nhiên cần điều chỉnh vài ba tình tiết mà với bút lực dồi dào và tài hoa của Mead, tôi nghĩ chỉ là chuyện nhỏ đi vừa kẽ răng. Thú vị là bởi nếu Mead không lựa ma cà rồng, chẳng biết đến bao giờ mới có người chỉ cho tôi một kho dân gian thần thoại chưa từng được văn học khai quật về ác quỷ hút máu như thế này.   1. Hệ thống nhân vật Ma cà rồng, với Mead, là một từ không chi tiết. Theo Học viện Ma cà rồng, cần phải phân biệt Moroi, Dhampir và Strigoi. Thứ tự này cũng là thứ tự đẳng cấp huyết thống trong truyện, còn người thường xếp hạng chót. Moroi có nguồn gốc từ truyện dân gian Romania. Những đứa trẻ sơ sinh ngoài giá thú, chưa được rửa tội đã bị bố/mẹ chúng giết, chết đi sẽ biến thành Moroi. Sang tiểu thuyết của Mead, Moroi là những ma cà rồng tự nhiên (có sinh có tử, bản tính lương thiện, chịu nắng kém), thân hình cao gầy yếu ớt, nước da nhợt nhạt, màu mắt và màu tóc đa dạng, thức ăn chính là máu của những người thường tự nguyện (chỉ hút vừa đủ không để người ta chết), thức ăn phụ là sữa chua và các món ẩm thực khác giống con người, biết vận dụng một trong bốn nguyên tố cơ bản là đất-khí-lửa-nước để làm phép thuật, một số ít Moroi còn biết vận dụng nguyên tố linh hồn. Ngoài Học viện Ma cà rồng, Moroi chưa từng xuất hiện trong một tác phẩm hư cấu nào khác. Dhampir có nguồn gốc từ truyện dân gian Balkan, là ma cà rồng lai giữa cha ma cà rồng và mẹ người thường. Sang tiểu thuyết của Mead, Dhampir là những ma cà rồng lai giữa cha Moroi và mẹ Dhampir, là một sản phẩm giống như con la (lai giữa lừa và ngựa), tổng hợp gen tốt giữa người và ma, thân hình đầy đặn dẻo dai, mạnh khỏe, chịu nắng tốt, không hút máu, không biết pháp thuật, ăn uống như người thường, màu da, màu tóc và màu mắt đa dạng, nhưng không sinh sản được nếu phối giống cùng nhau – đây cũng là chính là cơ sở để Mead dựng lên mối quan hệ cộng sinh giữa Moroi và Dhampir trong truyện. Ngoài Học viện Ma cà rồng, Dhampir còn xuất hiện lác đác ở vài ba tiểu thuyết khác, mà gần gũi nhất với người đọc Việt Nam là Hừng đông qua hai nhân vật Nahuel và Remesnee Cullen. Strigoi có nguồn gốc từ thần thoại Romania, là xác chết đội mồ sống dậy. Sang tiểu thuyết của Mead, Strigoi là những ma cà rồng phi tự nhiên (bất sinh bất tử, bản tính tàn độc, chết dưới nắng), nước da nhợt nhạt, mắt đỏ, màu tóc tùy tiền thân, chỉ hút máu và hút cho đến khi nào nạn nhân chết thì thôi, thứ tự hút ưu tiên là Moroi-người thường-Dhampir, không biết pháp thuật nhưng sức mạnh phi phàm. Nói Strigoi phi tự nhiên là bởi chúng không được sinh ra, mà được tạo ra. Strigoi là biến thân của Moroi, Dhampir và người thường nếu thỏa mãn các điều kiện sau: bị Strigoi hút cạn máu rồi được Strigoi cho uống lại máu của nó. Riêng Moroi còn có phương pháp chủ động để biến thành Strigoi là cắn chết người mình vừa hút máu. Ngoài Học viện Ma cà rồng, Strigoi chưa từng xuất hiện trong tác phẩm hư cấu nào khác. Trong Học viện Ma cà rồng, Moroi và Dhampir đứng cùng một chiến tuyến chống lại Strigoi. Moroi sở hữu pháp thuật nhưng không muốn dùng, sức lực vốn có lại yếu nên phó thác hoàn toàn việc bảo vệ cho Dhampir. Trong cuộc sống, các Moroi cũng làm đủ ngành đủ nghề như người thường, đứng đầu vương quốc là nhà vua hoặc nữ hoàng, bên dưới là hội đồng hoàng tộc gồm thập nhị đại gia. Các Dhampir chỉ có nghề chính là giám hộ (guardian), hầu như không có điều kiện kết hôn, hầu như không có điều kiện học đại học, những Dhampir không muốn làm giám hộ rất ít lựa chọn về nghề nghiệp, phần lớn đàn bà làm điếm (bloodwhore), còn đàn ông làm điếm đực. Các Moroi và Dhampir được đào tạo trong cùng một trường. Moroi học cách kiềm chế pháp thuật, còn Dhampir học võ công và rèn thể lực để khi 18 tuổi sẽ ra trường bắt đầu sự nghiệp bảo vệ Moroi. Strigoi bất tử và có sức mạnh tối thượng, chỉ chết khi rơi vào một trong bốn trường hợp sau đây: phơi nắng, chặt đầu, thiêu sống và đóng cọc bạc vào tim. Cọc bạc cũng là vũ khí bất li thân của các giám hộ Dhampir, nó được yểm bằng cả bốn nguyên tố pháp thuật của Moroi để trở thành một thứ bùa sát thương vô địch. *** Richelle Mead (sinh ngày 12 tháng 11 năm 1976) là một tác giả best-seller người Mỹ với các tác phẩm thuộc dòng tiểu thuyết giả tưởng. Cô nổi tiếng khắp thế giới qua ba sê-ri sách vô cùng được độc giả yêu mến: Georgina Kincaid; Học viện ma cà rồng và Dark Swan. Richelle Mead đã có bằng Cử nhân Khoa học Xã hội và Nhân văn, Thạc sĩ Tôn giáo So sánh, Thạc sĩ Sư phạm và hiện tập trung cho sự nghiệp văn chương với kỷ luật khắt khe là cứ ba tháng phải hoàn thành bản thảo cho một cuốn sách mới. Mời các bạn đón đọc Học Viện Ma Cà Rồng Tập 1: Màn Đêm của tác giả Richelle Mead.
Hắc Ám Vương Giả
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Mạt thế lưu Hắc Ám Vương Giả của tác giả Cổ Hi. Tai nạn bộc phát, tận thế. Tại đông lạnh kho ngủ say ba trăm năm, thức tỉnh lúc, thế giới đi vào đại tai biến thời đại! Viết luật pháp của mình, đánh vỡ hết thảy lồng giam! Tại cô độc bên trong hát vang, tại giết chóc bên trong gào thét, tại lạnh nhạt bên trong sôi trào! Lấy một người hiện đại trí tuệ, lời thề đạp trên thế giới Đỉnh phong, lên cao trông về phía xa! Mặc dù chỉ có một người, cũng phải để thế giới run rẩy! *** Tóm tắt Hắc Ám Vương Giả là một tiểu thuyết mạt thế lưu lấy bối cảnh sau tận thế 300 năm. Con người lúc này chỉ có thể sống trong những bức tường để tránh khỏi những nguy hiểm phía bên ngoài. Đỗ Địch An, nhân vật chính của truyện, là một người được đông lạnh trong kho chứa 300 năm. Khi thức tỉnh, anh phát hiện ra thế giới đã hoàn toàn thay đổi. Với trí tuệ và kinh nghiệm của một người hiện đại, Đỗ Địch An nhanh chóng thích nghi với cuộc sống mới. Anh bắt đầu xây dựng một căn cứ riêng cho mình, đồng thời đào tạo một đội quân để bảo vệ mình khỏi những kẻ thù bên ngoài. Dần dần, Đỗ Địch An trở thành một trong những thế lực mạnh nhất trên thế giới. Anh được mệnh danh là "Hắc Ám Vương Giả". Đánh giá Hắc Ám Vương Giả là một tiểu thuyết có cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn. Tác giả đã xây dựng một thế giới mạt thế u ám, tàn khốc, nơi con người phải chiến đấu để sinh tồn. Nhân vật chính, Đỗ Địch An, là một nhân vật có tính cách mạnh mẽ, quyết đoán. Anh là một người có tài năng, trí tuệ và nghị lực phi thường. Tiểu thuyết có nhiều tình tiết hành động gay cấn, kịch tính. Người đọc sẽ được trải nghiệm cảm giác hồi hộp, căng thẳng khi theo dõi cuộc hành trình của Đỗ Địch An. Tuy nhiên, tiểu thuyết cũng có một số điểm hạn chế. Một số tình tiết trong truyện khá phi logic, không hợp lý. Ngoài ra, nhân vật phụ trong truyện chưa được xây dựng rõ nét, gây khó khăn cho người đọc trong việc theo dõi và hiểu rõ về họ. Nhìn chung, Hắc Ám Vương Giả là một tiểu thuyết mạt thế lưu đáng đọc. Tiểu thuyết sẽ mang đến cho người đọc những giây phút giải trí thú vị và hấp dẫn. Điểm cộng Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Thế giới mạt thế u ám, tàn khốc được xây dựng chân thực Nhân vật chính có tính cách mạnh mẽ, quyết đoán Nhiều tình tiết hành động gay cấn, kịch tính Điểm trừ Một số tình tiết phi logic, không hợp lý Nhân vật phụ chưa được xây dựng rõ nét *** Tai mùa mưa. Mưa to nói đến là đến, vừa mới tản mát ánh nắng bầu trời, trong khoảnh khắc liền bị đen kịt mây đen bao phủ, mưa rào tầm tã rút nhanh chóng mà xuống, chính nghĩ ra được hoạt động một chút khu dân nghèo cư dân, lập tức dọa đến tránh về phòng, sợ bị cái này nước mưa tung tóe đến trên thân. Trên đường phố nước mưa tích lấy, cấp tốc tại khu dân nghèo tràn ra khắp nơi ra, một chút địa thế chỗ trũng dân nghèo phòng, đã bị nước mưa đắm chìm vào đến ngưỡng cửa, một mực không có sửa chữa hệ thống thoát nước, tại thời khắc này không có bất kỳ cái gì tác dụng, trong chốc lát, toàn bộ tường ngoài khu dân nghèo đã thành đại dương mênh mông một mảnh. Tại Mai Sơn trong cô nhi viện. Cư dân cửa phòng miệng, một cái nhìn qua hơn ba mươi tuổi phụ nữ dẫn theo mười cái bảy tám tuổi đến mười một mười hai tuổi hài tử, vội vội vàng vàng vận chuyển lấy sớm đã chế xong bao cát, chồng chất tại ngưỡng cửa mặt, cách trở mãnh liệt khắp nhập nước mưa. ... Mời các bạn đón đọc Hắc Ám Vương Giả của tác giả Cổ Hi.
Cực Đạo Kỵ Sĩ - Ngân Sương Kỵ Sĩ
Shawn: Ngươi mạnh khỏe, ta đối với ngươi ngước nhìn như nước sông cuồn cuộn, ân, có thể nắm cái tay sao? Nào đó thiên tài nghi hoặc mà cùng Shawn nắm tay. Shawn xoay người, trong lòng cười lớn: Khà khà, đỉnh cấp kỵ sĩ thiên phú tới tay. ----------------------------- một cái mang linh hồn dị năng chôm thiên phú của người hay hung thú, ma vật ... có thể tiến hóa thêm ra nhiều chức năng hơn mỗi khi main lên cấp Hệ thống: Kỵ Sĩ + Vu sư + Cơ giáp + Thú chiến sĩ + Linh Sư + ..... Kỵ Sĩ : Kiến Tập kỵ sĩ - Kỵ Sĩ - Đại kỵ sĩ = ( cấp 1 các hệ thống khác) Thánh kỵ sĩ - Truyền Kỳ - Phong Hào truyền kỳ - Vương cấp - Đế cấp -Hoàng cấp - Địa cấp - Thiên cấp - Bán Thần - Thần cấp - ... *** Đêm khuya, Thụy Điển bận rộn nhất giao thông chỗ then chốt trên, xe cộ qua lại không dứt, tựa như một cái uốn lượn trường Long. Một chiếc màu trắng Volvo S80 biết điều chạy ở trong đó, cũng không vô cùng dễ thấy, chỉ có cái kia ba vị mấy đặc biệt biển số xe, biểu hiện chiếc xe này không đơn giản lai lịch. Volvo, cùng Thụy Điển hoàng thất có gắn bó keo sơn xe sang trọng nhãn hiệu, thường xuyên xuất hiện ở Thụy Điển hoàng thất hôn lễ, nghênh tiếp khách mời các loại trọng yếu trường hợp, có thể nói là Thụy Điển hoàng thất chỉ định dùng xe. Trước mắt xe này chính là một chiếc hàng thật đúng giá Thụy Điển hoàng thất tiếp khách dùng xe. Lúc này, ở chiếc xe này xếp sau, một cái hơn hai mươi tuổi thanh niên tóc đen tầm mắt mơ mơ màng màng, đang đứng ở nửa tỉnh nửa say trạng thái, nhưng từ hắn hơi nhếch lên môi, liền có thể phát hiện hắn lúc này tâm tình rất tốt. ... Mời các bạn đón đọc Cực Đạo Kỵ Sĩ của tác giả Ngân Sương Kỵ Sĩ.
Bạch Ngân Bá Chủ - Túy Hổ
Chuyện nói về khi Long Hoàng dùng Hiên Viên thần kiếm chém đứt Thiên đạo võng giải phóng trong đó hai viên Thiên Đạo thần thạch Nguyên Tố thần thạch bị Long Hoàng đẩy xuống Thần Ma di địa biến mạc pháp thế giới thành tràn đầy tứ đại nguyên tố mở ra một thời đại mới – Hắc Thiết thời đại https://truyen.tangthuvien.vn/doc-truyen/hac-thiet-chi-bao Ở đây Trương Thiết được thần thụ hổ trợ mà dần dần tu luyện thành thần. Sau đó cũng như các thần khác như Quang Minh thần, Hắc Ám thần … dần dần đem sự ảnh hưởng cũng như tín ngưỡng hướng về vũ trụ các nơi. Dù là thành thần sau lại ra không ít kẻ địch nhưng ngáng chân Ma thần vẫn là ưu tiên hàng đầu. Vạn Thú thần thạch thì xuyên qua tầng tầng Hỗn Độn không gian đi về một mảnh tinh vực xa lạ - Bạch Ngân thế giới. Không giống Nguyên Tố thần thạch hủy mình tạo nên một siêu phàm thế giới . Vạn Thú thần thạch có ý thức của mình nó lãng tránh các thần truy tìm và trốn ở thế giới này, nhưng sự tồn tại của nó vẫn khiến thế giới này bắt đầu có sự biến đổi võ đạo hưng thịnh, dị tượng hiển hiện … và Ma thần đã chú ý nơi này. Vạn Thú thần thạch cũng từ đây chọn lấy kí chủ và cho người này kì ngộ đầu tiên – hai giấc đại mộng. Nghiêm Lễ Cường một thanh niên trẻ thông minh, thành đạt thật xui xẻo khi đi dạo trên đường thì bị sao băng đập chết may mắn xuyên đến Bạch Ngân đại lục Võ đạo nơi đây khi qua một quan, một cảnh giới đều gợi lên một dị tượng hình thú, hình vật nó đánh dấu võ đạo gia mỗi một cảnh giới. mà quan trọng hơn ở chỗ sáng tạo – mỗi một công pháp được sáng tạo ra người sáng tạo sẽ trở thành võ đạo chi tổ của môn công phu đó, được đến rất nhiều thứ Thiên đạo quán đỉnh cùng cảm ngộ thiên đạo khiến môn công phu này rất nhanh đến được sự hoàn thiện. thứ hai là võ đạo độc quyền chỉ cho truyền không cách nào học lén, thứ ba là … Do ảnh hưởng của thần thạch mà đến một tràng cơ duyên lớn nhưng thế giới này đã bị Ma thần dần dần công phá. Tội ác, hoang dâm, sát lục, tham lam, dục vọng … càng khiến Ma thần mạnh lên, đất nước này thế giới này sắp rơi vào loạn lạc chưa từng có, nơi nào cũng không yên tĩnh, cơ duyên đến đồ không giữ được thì phải mất đi, cơ duyên quá nhiều nhưng đại nạn kéo đến cũng không thiếu, muốn một cuộc sống tốt khi hổ báo cứ rình rập là điều không thể, một khi thế giới này lên cấp siêu phàm thì cũng sẽ là siêu cấp đại tai nạn hàng lâm … muốn đánh ra một thế giới cho riêng mình và người thân thì phải cố gắng nhiều hơn a. Lễ Cường Hệ Thống Tu Luyện:  + Phàm Nhân cảnh: Trúc Cơ 3 quan - Võ Sĩ - Long Hổ Võ Sĩ - Võ Sư - Đại Võ Sư - Võ Bá - Võ Tông - Võ Vương - Võ Đế - ............ + Siêu Phàm cảnh: ..................... *** Bảy giờ tối, chính là dùng cơm thời gian, như thường ngày, nhà này ở vào trăm thước hẻm phần cuối tên là Oa Oa Hương phòng ăn đã náo nhiệt lên. Phòng ăn trong phòng bếp chính khí thế ngất trời, hơi nóng cùng món ăn hương phân tán, mà trong phòng ăn, các phục vụ viên vội vàng gọi món ăn gọi món ăn, mang món ăn mang món ăn, thu thập cái bàn thu thập cái bàn, cùng đi tới nơi này các khách nhân chen thành một đoàn. Phòng ăn là tiểu điếm, ngoại trừ vẫn tính sạch sẽ ở ngoài, cùng xa hoa nửa điểm dính không lên một chút nào, chỉ là bởi vì ông chủ để tâm kinh doanh, hơn nữa giá cả lợi ích thực tế khẩu vị lại cũng không tệ lắm, rất nhiều người tới nơi này ăn qua đều thành khách hàng quen, cũng bởi vậy nơi này mỗi ngày đến lúc ăn cơm, đặc biệt buổi tối đều người đông như mắc cửi. So sánh với lầu một ầm ĩ, phòng ăn lầu hai còn tương đối so sánh yên tĩnh, trên lầu hai có mấy cái lô ghế riêng, dùng bức bình phong cùng chậu cây cách lên, ngồi ở trên lầu, còn có thể xuyên thấu qua cửa sổ nhìn thấy xa xa giữa hồ công viên cảnh sắc. Mà giờ khắc này, sẽ ở cái kia phòng ăn lầu hai một cái bên cửa sổ yên lặng phòng ngăn bên trong. Một nam một nữ đang ngồi ở bàn hai bên, đối lập lại không nói gì, bên trong bao sương bầu không khí dù sao cũng hơi quái dị. Thức ăn đã sớm bưng lên, liền đặt lên bàn, nhưng không có người động đũa.   Mời các bạn đón đọc Bạch Ngân Bá Chủ của tác giả Túy Hổ.