Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ai Là Ai Của Ai (Tiên Chanh)

Ai là ai của ai, là câu chuyện tình yêu của những người trẻ trong thế giới hiện đại do Tiên Chanh tạo nên. Một thế giới có gần 8 tỉ người, một thành phố tấp nập, hối hả, một cuộc sống có rất nhiều người gặp bạn, cũng có rất nhiều người đi qua bạn, khiến bạn rất mơ hồ, đâu mới là mảnh ghép của mình. Ai là ai, của ai?

Bạn có chắc chắn người yêu hiện tại của mình sẽ là người đi cùng mình đến suốt cuộc đời? Bạn có chắc một người qua đường xa lạ hôm nay, sẽ không phải là một nửa của mình ngày mai?

Viên Hỷ, là một cô gái mơ hồ như thế. Xinh đẹp, hiếu thảo, cô mang trong mình nỗi day dứt, với mối tình đã tan vỡ cách đây 4 năm. Tan Có lẽ cũng không hẳn là tan vỡ, chỉ là người cô yêu đã đi tới một nơi rất xa, nơi cô không thể theo cùng. Nhưng Viên Hỷ vẫn luôn chờ, chờ ngày anh quay về, cũng ôm ấp thứ tình cảm, mà sau 4 năm, không biết vẫn còn là tình yêu, hay đã biến chất, trở thành một hồi ức đẹp nhưng vô vọng?

Cuộc đời Viên Hỷ thay đổi, khi cô gặp Bộ Hoài Vũ. Anh đẹp trai, xuất sắc, giàu có, anh trách nhiệm, trầm ổn, đáng tin, anh cũng đã từng có người yêu, một cô gái giỏi giang, tự lập, kiên cường, gia cảnh khó khăn, giống như…Viên Hỷ. Hai người đến với nhau rất tự nhiên, trên mức tình bạn, nhưng còn rất xa mới là tình yêu.

Anh đưa cô đi làm hàng ngày, đón cô tan sở, cô thỉnh thoảng nấu canh cho anh, món canh tốt cho bệnh dạ dày. Họ luôn trầm lặng ở bên nhau như thế, im lặng nhưng rất hòa hợp. Nhưng trong suy nghĩ của cả hai người, họ không phải là “ai của ai”, nhưng nếu không thể tìm thấy người phụ hợp hơn, có lẽ qua một thời gian nữa, họ cũng sẽ kết hôn, an an ổn ổn sống qua ngày. Tìm mua: Ai Là Ai Của Ai TiKi Lazada Shopee

Mọi thứ tưởng chừng như suôn sẻ, cho đến khi Hà Thích_người yêu cũ của Viên Hỷ quay về. Bộ Hoài Vũ tự động rút lui, vì anh nghĩ, mình sẽ không cho cô được thứ tình cảm toàn tâm toàn ý như thời còn trẻ, còn cô, cũng ngại ngùng gặp lại anh, trốn tránh vì điều gì, chính cô cũng không rõ.

Viên Hỷ lâng lâng trong thứ cảm xúc vui vẻ, không nỡ buông tha hồi ức đẹp đẽ của những năm tháng sinh viên, cũng không nỡ quên đi tình cảm đầu đời của mình, nhưng ở đâu đó trong tim, tình cảm không rõ với Bộ Hoài Vũ, cô cũng không bỏ xuống được, chỉ là tự lừa mình dối người, tránh gặp anh mà thôi.

Từ đây, truyện dần dần mở ra bí ẩn về hoàn cảnh của Viên Hỷ. Một gia đình nghèo ở thôn quê. Một người cha là cô nhi, luôn nghe lời vợ hết mực. Một bà mẹ thời trẻ vô cùng xinh đẹp, tính tình đanh đá, chua ngoa. Một người anh trai trí tuệ lại chỉ như một đứa trẻ. Tất cả gánh nặng, đổ lên hai vai Viên Hỷ. Bốn năm trước, vì mẹ dọa tự tử, sợ cô bỏ rơi anh trai, cô phải nuốt nước mắt chia tay với mối tình đầu, không thể theo anh sang Mỹ. Bốn năm sau, cũng chính vì mẹ, vì anh trai, mở ra mâu thuẫn không thể xóa bỏ giữa cô và anh.

Mẹ cô quá đáng tới mức tận cùng. Nhiều khi, cô cũng không biết bà có phải là mẹ của cô không. Bà lại còn đòi cưới vợ cho anh trai, dẫn cô vợ hờ cùng anh trai lên căn nhà thuê của cô, bắt cô đi mua sắm cho cô gái nọ. Bà lấy chiếc nhẫn kim cương Hà Thích tặng cô đưa cho cô vợ hờ. Bà trách móc cô không thương anh trai, trách cô chưa đủ cô gắng, bà dồn mọi gánh nặng, mọi nỗi bực tức lên đầu cô. Vì bà là mẹ cô, cô vẫn luôn nhẫn nhịn. Và vì Hà Thích, nghĩ tới tương lai giữa cô và anh, cô cố gắng. Ước mong về một tương lai tươi sáng cùng với Hà Thích, là thứ động lực duy nhất giúp cô trụ vững lúc này.

Nhưng đôi khi số phận lại đem đến quá nhiều tai ương. Anh trai bị đau ruột thừa, đưa vào viện cấp cứu. Mẹ cô chỉ biết khóc và trách mắng. Cô vợ hờ nằng nặc đòi về. Thiếu tiền, tinh thần căng thẳng, Viên Hỷ như gục ngã, còn Hà Thích, anh trốn tránh, cũng quá vô tâm. Anh là công tử nhà giàu, anh chưa từng trải qua khó khăn, anh chỉ biết mình yêu Viên Hỷ, một tình yêu có lẽ chưa đủ tinh tế, cũng chưa đủ bao dung và chở che. Đau đớn hơn, Viên Hỷ lại phải tận mắt chứng kiến một màn Hà Thích ôm một cô gái chân đang bó bột trong bệnh viện, cô như chết sững.

Ella, cô tiểu thư con nhà danh giá, thanh mãi trúc mã với Hà Thích, từ Mỹ đuổi theo anh tới tận đây. Họ cũng đã từng có một thời gian, thậm chí Hà Thích đã phát sinh quan hệ với cô ta, nhưng cuối cùng lại quyết định chia tay. Ella không phục, tự tôn trong cô không cho phép cô từ bỏ, tình yêu của cô với anh càng khiến cô quyết tâm theo đuổi. Vì cớ gì, cô lại thua? Cô ta không tin. Ella đủ mặt dày,đủ vô sỉ, Hà Thích cũng đủ mập mờ, đủ thiếu quyết đoán. Khi Viên Hỷ đang chơi vơi giữa rất nhiều khó khăn, rất nhiều mệt nhọc, cái Hà Thích cho cô, chỉ là lời tỏ tình sáo rỗng. Anh yêu cô thật, nhưng không cho cô đủ quan tâm, anh không cho được cô cái cảm giác an toàn khi có một bờ vai để dựa, anh không đủ sức chống đỡ bầu trời của cô. Cái anh cho cô, là nỗi lo lắng vô cớ với Ella, là một lần đưa cô ra biển, có nến, có hoa nhưng không có áo ấm, giữa tiết trời đông rét mướt, là hồi ức đẹp đẽ 4 năm trước, đẹp mà không thực.

Hà Thích vẫn cố chấp, Viên Hỷ cũng cố chấp, họ cố gắng để vượt qua chặng đường đã mệt mỏi đến cùng cực này, để kết thúc với bản kết quả xét nghiệm được làm giả của Ella, con của Viên Hỷ, khi sinh ra, rất có khả năng cũng sẽ gặp vấn đề về trí não. Viên Hỷ sụp đổ. Cô chọn buông tay. Cũng chọn cách làm Hà Thích dễ dàng chết tâm nhất, cô nói cô yêu Bộ Hoài Vũ.

Hà Thích nói đúng, cô và anh, không phải do Ella, không phải do hoàn cảnh gia đình cô, không phải sự ngăn cản của gia đình anh, mà tan vỡ. Nguyên nhân chỉ đơn giản là họ không còn đủ yêu, không còn đủ tin tưởng, để đến với nhau, hay cùng đi qua khó khăn. Hà Thích bỏ về Mỹ.

Khi Viên Hỷ khóc tới tê tâm liệt phế ở trong phòng, khi cô bất lực, run rẩy tới nỗi muốn hút thuốc lá để bình tĩnh lại, khi cô tuyệt vọng nhất, đau thương nhất, là Bộ Hoài Vũ ở bên cô. Là anh không ngại anh trai cô có vấn đề, nghiêm túc dẫn anh trai cô đi chơi. Là anh hiểu ý rời đi cô khi Hà Thích quay về. Là anh luôn đứng sau cô khi cô cần. Là anh chống đỡ cả bầu trời của cô khi cha cô mất. Là anh đưa bờ vai cho cô dựa vào, là anh cho cô mượn áo lau nước mắt, Bộ Hoài Vũ chưa từng nói yêu cô, nhưng lại làm cho cô nhiều hơn điều một người yêu có thể làm.

Viên Hỷ từ có cảm tình, ngại ngùng, đến trốn tránh, cảm kích, rồi yêu anh lúc nào không hay. Từ người xa lạ, đến dần thân quen, từ bình lặng, đến cuồng nhiệt, hòa hợp, họ đi cùng nhau trên chặng đường Ai là ai của ai, để cùng nhau đi đến bến đỗ hạnh phúc.

Nhưng câu chuyện, lại chưa dừng ở đó. Viên Hỷ, có lẽ là một trong những cô gái bất hạnh nhất mà tôi gặp. Hóa ra, mẹ của cô, thời trẻ lỡ yêu một thầy giáo đã có vợ, rồi mang thai. Cơn lũ quét qua, vợ chồng người đàn ông đó mất, để lại một đứa bé bị thiểu năng, chính là anh trai cô. Đủ nực cười, cũng đủ đau xót. Hóa ra, cô hy sinh mối tình đầu vì một người không liên quan, cô nai lưng kiếm tiền nuôi một người xa lạ, cha cô vì đi khuân vác kiếm tiền cho “anh trai cô” mà trượt chân ngã chết, cô và cha, là công cụ để bà mẹ thánh nhân của cô đền bù tội lỗi của mình.

Chưa đủ, còn chưa đủ, cô thế nhưng lại có một người chị, là kết tinh tình yêu của mẹ cô và người đàn ông kia, bị cho đi lúc còn bé. Mẹ cô day dứt với chị cô, vì bà không thể nuôi nấng, còn chưa từng cho chị cô uống dòng sữa ngọt lành từ mẹ ruột. Chị ta “khổ sở” vô cùng. Cha mẹ nuôi là gia đình quyền quý, thương yêu như con ruột, được ăn sung mặc sướng từ bé, là tiểu thư chính hiệu, nực cười hơn, chị cô, lại là Ella. Ella sau khi về Mỹ kết hôn với Hà Thích, rồi phát hiện bị suy thận, mẹ cô, muốn cô, một cô gái mới kết hôn, đang có thai 5 tháng, nạo thai, hiến thận cho chị cô. Trên đời, còn thứ gì nực cười hơn thế này không?

Dùng một câu của Bộ Hoài Vũ: “Một người mẹ như thế, không có cũng chẳng sao”.

Là Bộ Hoài Vũ, nắm tay cô đi đến phòng bệnh của Ella, nói ra hết những nỗi uất ức trong lòng:

“Không thể? Khi bà yêu một người đàn ông đã có vợ, sao bà chưa từng nghĩ bà không thể? Khi bà vì anh trai mà phớt lờ tôi, sao bà chưa từng nghĩ là bà không thể? Khi bà lấy cái chết ra uy hiếp tôi, sao bà chưa từng nghĩ là bà không thể? Bà mở to mắt nhìn tôi vì ông anh trai khờ khạo mà bị Hà gia xua đuổi, bà có không thể không? Khi bố tôi làm việc đến chết vì một thằng con không liên quan đến mình, sao bà chưa bao giờ nói bà không thể? Khi bà nhìn thấy vợ chồng tôi lo lắng đau khổ sợ thai nhi có vấn đề, sao bà chưa từng nghĩ là bà không thể? Hả? Bây giờ tôi không thể à? Sao tôi lại không thể được?”

Cũng là anh, Bộ Hoài Vũ, bế cô lên khi cô gục ngã. Là anh, là anh đã nói với cô: “Người ích kỷ không phải chúng ta, mà là họ, chúng ta không nợ họ tí gì.”

Đúng, họ không nợ ai, họ đã hy sinh, tha thứ, cho đi quá nhiều. Có lẽ ai đó nói tôi độc ác, nhưng tôi rất hài lòng với kết cục của Ella, của bà mẹ Viên Hỷ. Có ai đó đã nói, khi trồng một cái cây, bạn phải gieo hạt, ươm mầm, chăm sóc, đợi cây lớn, ra hoa, rồi kết tinh thành quả, cần phải có thời gian, nhân quả cũng vậy. Nhân quả thường không đến sớm, nên nhiều người bỏ qua nó, còn tôi, tôi luôn tin là có, và tôi cũng tin, không ai có trách nhiệm phải hy sinh mãi cho người khác.

Kết lại Ai là ai của ai, là hình ảnh đôi vợ chồng cùng một bé trai kháu khỉnh,

Sau lưng họ, tịch dương đang trôi xuống thành một đường thẳng, ráng chiều đang chiếu đỏ rực như lửa, khiến nửa bầu trời phía tây nhuộm thành một màu đỏ son. Họ, cuối cùng, cũng đến được bến đỗ hạnh phúc của cuộc đời.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Tiên Chanh":Bản Sắc Thục NữAi Là Ai Của AiNữ Tặc Giang BắcThái Tử Phi Thăng Chức Ký (Tập 2)

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ai Là Ai Của Ai PDF của tác giả Tiên Chanh nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Mắt Biếc - Nguyễn Nhật Ánh
Mắt biếc là một tác phẩm của tác giả Nguyễn Nhật Ánh trong loạt truyện viết về tình yêu của thanh thiếu niên của tác giả này cùng với Thằng quỷ nhỏ, Cô gái đến từ hôm qua... Đây được xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu về Nguyễn Nhật Ánh, từng được dịch để giới thiệu với độc giả Nhật Bản. Mắt biếc kể về cuộc đời của nhân vật chính tên Ngạn. Ngạn sinh ra và lớn lên ở một ngôi làng tên là làng Đo Đo (thuộc xã Bình Quế - huyện Thăng Bình - tỉnh Quảng Nam - cũng là nguyên quán của tác giả). Lớn lên cùng với Ngạn là cô bạn hàng xóm có đôi mắt tuyệt đẹp tên là Hà Lan. Tuổi thơ của Ngạn và Hà Lan gắn bó với bao nhiêu kỉ niệm cùng đồi sim, đánh trống trường... Tình bạn trẻ thơ dần dần biến thành tình yêu thầm lặng của Ngạn dành cho Hà Lan. Đến khi lớn hơn một chút, cả hai phải rời làng ra thành phố để tiếp tục học. Khi tấm lòng của Ngạn luôn hướng về Hà Lan và về làng, thì Hà Lan không cưỡng lại được cám dỗ của cuộc sống xa hoa nơi đô thị và ngã vào vòng tay của Dũng. Việc Hà Lan ngã vào vòng tay Dũng - một thanh niên nhà giàu, sành điệu, giỏi võ nhưng rất thiếu đứng đắn - đã làm cho Ngạn đau khổ rất nhiều, nhưng điều Ngạn cần là hạnh phúc của Hà Lan. Mỗi khi Dũng làm Hà Lan tổn thương cô lại tìm Ngạn để nói lên bầu tâm sự, điều đó lại càng làm cho Ngạn buồn thêm. Có lần Ngạn đã đánh nhau với Dũng vì Hà Lan và kết quả tất nhiên là Ngạn thua nhưng nó đã làm cho Ngạn bớt đi tính anh hùng, sẵng sàn đánh nhau mỗi khi Hà Lan bị bắt nạt. Và cũng từ đó những cảm xúc mỗi khi Hà Lan tìm đến Ngạn để giải bầy niềm tâm sự giảm đi. Hà Lan mang thai, nhưng bị Dũng ruồng bỏ. Cô đành gửi con về cho bà ngoại chăm sóc và đặt tên là Trà Long. Tuy hiểu rõ tình yêu của Ngạn dành cho mình, Hà Lan vẫn không đáp lại vì cô hiểu rõ mình muốn sống theo một lối sống hoàn toàn khác với Ngạn. Bằng tình yêu của mình dành cho Hà Lan, Ngạn hết lòng yêu thương và chăm sóc cho Trà Long. Trà Long lớn lên trở thành cô giáo trường làng, và vô cùng yêu quý Ngạn. Trong khi ai cũng nghĩ rằng Trà Long sẽ là sự nối tiếp những gì mà Hà Lan đã bỏ dở trong đời Ngạn, thì Ngạn quyết định ra đi vì anh nhận ra rằng Trà Long chỉ là cái bóng của Hà Lan mà thôi. *** "Giọng văn trong Mắt biếc rất hay và nhẹ nhàng. Câu chuyện tình cảm trong sáng. Sau khi đọc truyện này, tôi bỗng muốn đi Việt Nam". - Nhà thơ TAKATSUKI FUMIKO (Nhật Bản) "Tôi rất đồng cảm với nội tâm của nhân vật Ngạn trong tác phẩm Mắt biếc. Tôi đã rơi nước mắt trước tâm hồn vô tư và sự hy sinh của Trà Long, qua đó tôi suy nghĩ nhiều về bối cảnh xã hội Việt Nam". - Nhà văn INAZAWA JUNKO (Nhật Bản) *** Nguyễn Nhật Ánh là tên và cũng là bút danh của một nhà văn Việt Nam chuyên viết cho tuổi mới lớn. Ông sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955 tại huyện Thăng Bình, Quảng Nam. Thuở nhỏ ông theo học tại các trường Tiểu La, Trần Cao Vân và Phan Chu Trinh. Từ 1973 Nguyễn Nhật Ánh chuyển vào sống tại Sài Gòn, theo học ngành sư phạm. Ông đã từng đi Thanh niên xung phong, dạy học, làm công tác Đoàn Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh. Từ 1986 đến nay ông là phóng viên nhật báo Sài Gòn Giải Phóng, lần lượt viết về sân khấu, phụ trách mục tiểu phẩm, phụ trách trang thiếu nhi và hiện nay là bình luận viên thể thao trên báo Sài Gòn Giải Phóng Chủ nhật với bút danh Chu Đình Ngạn. Ngoài ra, Nguyễn Nhật Ánh còn có những bút danh khác như Anh Bồ Câu, Lê Duy Cật, Đông Phương Sóc, Sóc Phương Đông,... *** Những ngày sau đó là những ngày nặng nề. Tôi đã kịp trấn tĩnh để hiểu rằng những lời nói của Hà Lan là những phán quyết khắt khe của định mệnh. Những phán quyết đó, tôi không mong gì thay đổi. Bây giờ ngồi nghĩ lại, tôi biết Hà Lan hẳn đã hiểu rõ lòng tôi từ lâu. Nó cũng biết tình tôi dành cho nó không bến không bờ. Nhưng nó thích xa đi, tôi thích quay về, hai người hai thiên hướng khác nhau, đời chia hai ngả, gần hai mươi năm qua khổ ai nấy chịu. Hà Lan đã tự chọn lấy con đường riêng cho mình, con đường đó không có tôi. Bây giờ, sau hai lần gãy đổ, mộng ước không thành, chút duyên lỡ nó không nỡ dành cho tình tôi vằng vặc. Hèn gì đôi mắt nó đêm nào nhìn tôi chan chứa. Nhìn một lần rồi mãi mãi quay lưng. Tình bạn thuở thiếu thời bao năm qua vẫn chỉ là tình bạn, lòng tôi cứ hoài trinh bạch quạnh hiu. Tôi nhớ Hàn Mặc Tử: Người đi một nửa hồn tôi mất Một nửa hồn kia bỗng dại khờ Một thời gian dài, tôi tưởng tôi đã chết. Nhưng tôi không chết được. Trà Long đã học xong lớp chín, chuẩn bị ra thành phố, tôi cố nén buồn thương để lo cho nó. ... Mời các bạn đón đọc Mắt Biếc của tác giả Nguyễn Nhật Ánh.
Kamanita: Kẻ Hành Hương - Gjellerup Karl
Câu chuyện về mối tình ngang trái giữa chàng thương nhân Kamanita tài hoa và nàng Vasitthi xinh đẹp diễn ra trên đất Ấn thời Đức Phật còn tại thế. 45 phần truyện là dòng chảy cuộc đời từ hiện tại đến quá khứ, từ quá khứ đến khởi thuỷ kiếp luân hồi của nhân vật; là sự đan xen chuyện kể đời thường với những câu chuyện ngụ ngôn, những ẩn dụ triết học trong đối thoại hay thuyết pháp của Đức Phật. Dòng chảy này tạo nên một ranh giới mơ hồ giữa truyền thuyết và sáng tạo tiểu thuyết; giữa câu chuyện Đức Phật kể về những người đã được Ngài giác ngộ và câu chuyện những người được giác ngộ kể về Ngài. Cái vẻ hư thực đó của tác phẩm trở thành điểm tựa để người đọc tìm thấy niềm tin, rằng triết lý đạo Phật có thể tìm thấy trong những sự kiện của đời người, rằng mỗi người sẽ là tia sáng dẫn đường của chính mình, là chỗ dựa của chính mình và rằng cái để suy ngẫm là những gì vĩnh cửu chứ không phải là cái chỉ tồn tại một mai. Do đó, dẫu là truyền thuyết hay tiểu thuyết, tác phẩm vẫn có sức ám ảnh lớn, ghi tạc vào tâm thức con người, rằng: Con đường giải thoát mở ra cho tất cả mọi người, cả những người không theo Đạo. Những người không theo Đạo - trong số đó có chúng ta. Vậy nên nếu đọc Kamanita, kẻ hành hương, hãy trầm tư lắng nghe câu chuyện này, biết đâu sẽ giác ngộ được một chân lý nào đó cho chính mình. *** Karl Adolph Gjellerup là nhà văn, nhà thơ Đan Mạch được trao giải Nobel Văn học năm 1917 cùng với Henrik Pontoppidan, cũng là nhà văn Đan Mạch. Karl Gjellerup xuất thân trong một gia đình mục sư. Ba tuổi cha mất, ông đến Copenhagen ở với bác họ đằng mẹ. Gjellerup sáng tác từ rất sớm, vừa tốt nghiệp trung học ông đã viết hai vở kịch Spicio Africanus và Arminius nhưng đều không được in. Năm 1874, ông vào học Đại học Copenhagen, khoa Thần học, nhưng về sau lại trở thành người vô thần: điều này thể hiện qua các tác phẩm như Ein Idealist (Người lý tưởng, 1878, ký bút danh Epigon), Antigonos (1880) v.v. Tác phẩm: Spicio Africanus (1875), kịch Arminius (1875-1876), kịch Ein Idealist (Người lý tưởng, 1878), tiểu thuyết Antigonos (1880), tiểu thuyết Arvelighed og moral (Truyền thống đạo lý, 1881) Rödtjörn (Cây sơn tra, 1881), tập thơ Germanernes laerling (Cậu học trò của những người Đức, 1882), tiểu thuyết G-dur (Gam sol trưởng, 1883), truyện Romulus (1883), tiểu thuyết En klassisk maaned (Tháng cổ điển, 1884) Brynhild (1884), bi kịch Saint Just (Thánh Just, 1885), kịch Thamyris (1887), kịch thơ Hagbard og Signe (Hagbard và Signe, 1889), bi kịch văn xuôi và thơ Min kaerligheds bog (Cuốn sách tình yêu của tôi, 1889), tập thơ Minna (1889), tiểu thuyết Herman Vandel (1891), kịch Kong Hjarne (Vua Hjarne, 1892), kịch Wuthhorn (1893), kịch Hans Excellence (Đức Ngài, 1893), kịch Pastor Mors (Mục sư Mors, 1894), tiểu thuyết Möllen (Chiếc cối xay, 1896), tiểu thuyết Ved graensen (Tại vùng biên giới, 1897), tiểu thuyết Tankelaeserinden (Nhà tiên tri, 1901), tiểu thuyết Die opferfeuer (Ngọn lửa hiến tế, 1903), kịch Pilgrimen Kamanita (Kamanita, người hành hương, 1906), tiểu thuyết Die weltwanderer (Những kẻ hành hương vĩnh cửu, 1910), tiểu thuyết Reif für das leben (Đến tuổi trưởng thành, 1913), tiểu thuyết Guds venner (Những người bạn của Chúa trời, 1916), tiểu thuyết Der goldene zweig (Cành vàng, 1917), tiểu thuyết Mời các bạn đón đọc Kamanita: Kẻ Hành Hương của tác giả Gjellerup Karl.
Chuyện của Cậu Bé Hay Nói Khoác - Mạc Ngôn
La Tiểu Thông là một cậu bé luôn miệng nói dối, một đứa trẻ ba hoa nói khoác, một đứa trẻ đạt được thỏa mãn trong khi nói chuyện. Trong dòng chữ lưu hỗn loạn ấy, câu chuyện vừa là thể chuyển tải của ngôn ngữ, vừa là sản phẩm phụ của ngôn ngữ... Câu chuyện mà cậu ta kể khi mới bắt đầu còn có một chút "chân thực", nhưng càng về sau càng là một sáng tác vừa thực vừa hư... Khi La Tiểu Thông kể chuyện về chính mình, nếu xét về tuổi tác thì cậu ta không như một đứa trẻ, nhưng thực ra lại là một đứa trẻ. Cậu ta là thủ lĩnh của những nhi đồng trong nhiều truyện "Góc nhìn nhi đồng" của tôi... Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc cuốn sách "Chuyện Của Cậu Bé Hay Nói Khoác" để hiểu rõ hơn về nhân vật này. *** Buổi sáng sớm cách đây mười năm trước. À, mà khi ấy là năm nào ấy nhỉ? Khi ấy cậu bao nhiêu tuổi? Lan Đại hòa thượng, một người đã từng đi nhiều nơi, hành tung bí hiểm, tạm thời tá túc tại ngôi miếu bỏ hoang mở to mắt, hỏi tôi bằng một giọng âm trầm nghe như vọng về từ một nơi rất xa. Giữa ngày tháng bảy nóng như nung mà tôi bất chợt rùng mình. Đó là năm 1990, khi ấy tôi mười tuổi, thưa đại hòa thượng. Tôi lẩm bẩm trả lời hòa thượng bằng một giọng khác hẳn. Đây là ngôi miếu nhỏ có tên là thần Ngũ Thông nằm giữa hai dãy phố sầm uất, đông đúc, nghe nói tổ tiên của Lão Lan trưởng thôn của thôn tôi đã bỏ tiền ra xây ngôi miếu này. Tuy ngôi miếu nằm kề ngay bên đường nhưng hương khói quanh năm lạnh lẽo, luôn tỏa ra một mùi cũ kỹ ẩm mốc. Chỗ khe tường đổ do người ta trèo vào đã thành lối đi, một người phụ nữ mặc chiếc áo màu xanh, xung quanh viền hoa màu đỏ đang gần như phủ phục ở đó. Tôi chỉ nhìn thấy khuôn mặt to, đầy, trắng như phấn và một cánh tay trần trắng muốt đang chống cằm của người ấy. Chiếc nhẫn trên ngón tay của bà ta ánh lên dưới ánh nắng mặt trời. Người phụ nữ này khiến tôi nhớ đến ngôi nhà ngói lớn được cải tạo thành trường học của nhà đại địa chủ Lan trong thôn tôi trước thời kỳ giải phóng. Trong nhiều truyền thuyết và nhiều sự tưởng tượng bắt nguồn từ truyền thuyết, người phụ nữ như thế này thường xuyên ra vào ngôi nhà nhiều năm thiếu sự chăm sóc tu sửa và phát ra những tiếng kêu nghe rợn cả tóc gáy vào nửa đêm gà gáy. Hòa thường ngồi ngay ngắn trên chiếc bồ đoàn cũ kỹ trước bức tượng thần Ngũ Thông bị người đời lãng quên từ lâu, vẻ mặt bình thản, như một con ngựa đang chìm trong giấc mộng. Tay của hòa thượng lần theo tràng hạt màu tím đỏ, trên mình hòa thượng là bộ quần áo dường như được dệt bằng giấy bị nước mưa thấm ướt, chỉ cần chạm khẽ vào nó sẽ tan thành mảnh vụn. Đôi tai của hòa thượng bu đầy ruồi, chỉ duy cái đầu trọc lóc và khuôn mặt trơn nhẫy là không có con nào. Phía trước sân là một cây ngân hạnh sum suê, trên cây ríu rít tiếng chim, trong tiếng chim hình như còn xen lẫn cả tiếng của một đôi mèo. Đôi mèo này ngủ trong hốc cây và rình bắt những chú chim trên cành. Tiếp theo tiếng kêu vui sướng của con mèo là tiếng kêu thảm thiết của con chim bị bắt và tiếng kêu kinh hoàng hoảng hốt của bầy chim. Tôi ngửi thấy mùi máu tanh, không, chính xác hơn là tôi nghĩ tới mùi máu tanh, nghĩ tới cảnh tượng kinh hoàng sặc mùi máu. Lúc này con mèo đực đang dùng đôi móng giữ chặt con mồi đầy máu, quay sang phía con mèo cái như muốn khoe chiến công. Con mèo cái bị mất chiếc đuôi trông rất giống một con thỏ. *** Mạc Ngôn tên thật là Quản Mạc Nghiệp, sinh năm 1955 tại Cao Mật tỉnh Sơn Đông. Là tác giả tạo nên cơn sốt văn học Trung Quốc tại Việt Nam thông qua một loạt các tiểu thuyết được chuyển ngữ và xuất bản từ thập kỷ trước như Cao lương đỏ, Báu vật của đời, Đàn hương hình, Cây tỏi nổi giận… Mạc Ngôn đã để lại dấn ấn sâu đậm trong lòng độc giả bởi tài năng văn chương không thể phủ nhận. Giải thưởng Nobel Văn học năm 2012 một lần nữa khẳng định địa vị quan trọng của Mạc Ngôn trong nền văn học thế kỷ 20 của Trung Quốc nói riêng và thế giới nói chung. Tác phẩm chính Báu vật của đời, nguyên tác: Phong nhũ phì đồn (丰乳肥臀), (1995) Cao lương đỏ, nguyên tác: Hồng cao lương gia tộc (红高粱家族), (1998) Đàn hương hình (檀香刑). Cây tỏi nổi giận (Bài ca củ tỏi Thiên Đường) Củ cải đỏ trong suốt. Rừng xanh lá đỏ (Rừng vẹt) Tửu quốc (Rượu chảy như suối) Châu chấu đỏ. Tổ tiên có màng chân Con Đường Nước Mắt Hoan Lạc Bạch Miên Hoa Trâu Thiến Sống Đọa Thác Đày Người Tỉnh Nói Chuyện Mộng Du Khác Ma chiến hữu, nguyên tác: Chiến hữu trùng phùng (战友重逢), (2004), một tác phẩm đề cập đến lính Trung Quốc hy sinh trong Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979. Giải thưởng Giải nhất về tiểu thuyết của Hội Nhà văn Trung Quốc, tháng 12/1995 cho truyện "Báu vật của đời". Giải Mao Thuẫn cho tác phẩm Đàn hương hình Giải Nobel Văn học năm 2012.   Mời các bạn đón đọc Chuyện của Cậu Bé Hay Nói Khoác của tác giả Mạc Ngôn.
Con Lừa Và Tôi - Juan Ramón Jiménez
Đây là một chuỗi chuyện ngắn nối tiếp nhau, đầy cảnh sắc và tình tiết của một ngôi làng Tây Ban Nha rất gần gũi với một ngôi làng Việt Nam: con chim én, giếng nước, rặng bìm bịp…..Người với vật gắn bó với nhau như đôi bạn, quen mặt từng gã Bô-hê-miên, thằng mọi, đứa bé nghèo khó hay tật nguyền, nhớ từng gốc cây bạc hà, cùng mơ những giấc mơ hẩm hiu giống nhau, đem lòng yêu những vẻ đẹp phù du nhất….cho đến ngay cuối cùng bỗng hóa thành thê lương. Truyện kết thúc ở cảnh thi sĩ ra đồng đứng bên ngôi mộ của lừa. *** Juan Ramon Jiménez (24 tháng 12 năm 1881 – 29 tháng 5 năm 1958) là nhà thơ Tây Ban Nha đoạt giải Nobel Văn học năm 1956. Juan Ramón Jiménez sinh ở Moguer, gần Huelva, học xong cao đẳng Jimenez vào Đại học Seville nhưng bỏ để đi làm báo. Năm 1900, xuất bản tập thơ đầu tiên Almas de violeta (Hồn hoa tím) và tiếp theo đó gần như mỗi năm một tập thơ ra đời. Sáng tác thời kỳ đầu của ông chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn Đức và chủ nghĩa tượng trưng Pháp, giàu cảm xúc trữ tình với những hình tượng thiên nhiên đầy màu sắc. Juan Ramon Jiménez mất tại Puerto Rico năm 1958, hưởng thọ 76 tuổi. Thơ của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, trong đó có tiếng Việt. Tác phẩm: Almas de violeta (Hồn hoa tím, 1900), thơ Ninfeas (Những bông huệ nước, 1900), thơ Rimas (Vần điệu, 1902), thơ Arias tristes (Những khúc ca buồn, 1903), thơ Jardines lejianos (Những khu vườn xa, 1904), thơ Pastorales (Những bài thơ đồng quê, 1905), thơ Elejias puras (Những khúc bi ca, 1908), thơ Baladas de primavera (Những khúc ca xuân, 1910), thơ La soledad sonora (Sự cô đơn âm vang, 1911), thơ Poemas májicos y dolietes (Những bài thơ huyền ảo đau buồn, 1911), thơ Laberinto (Mê cung, 1913), thơ Estio (Mùa hè, 1915), thơ Sonetos espirituales (Những bài sonet trí tuệ, 1917), thơ Diario de un poeta recién casado (Nhật ký nhà thơ mới cưới vợ, 1917), thơ Eternidades (Vĩnh cửu, 1918), tập thơ Piedra y cielo (Đá và bầu trời, 1919), thơ Piedra (Thơ ca, 1923), thơ Belleza (Vẻ đẹp, 1923), thơ Animal de fondo (Con thú từ độ sâu tâm hồn, 1949), thơ *** Tôi đã bảo La Rô:  - Mình đợi đoàn xe ngựa. Xe đưa tiếng rì rào của rừng ở xa của Công nương, đưa đến cái huyền bí của rừng thông Thần Linh, cái mát mẻ từ các đầm lầy Chư Mẫu và Tần Bì Song Thụ, mùi vị vùng Rocina…  Tôi đã đem con lừa, đẹp và lộng lẫy, cho nó ve vản lớt phớt đám thiếu nữ đường Máy Nước, nơi đây mặt trời lay lắt buổi chiều đến tàn tạ, thành một giải hồng mờ ẩn, trên cái chái hiên thấp có quét vôi. Kế đó chúng tôi chọn bờ đường cạnh Đồng Lò mà đứng, từ đây ta thấy rõ trọn con đường Đồng Bằng.  Chưa chi, những chiếc xe ngựa đầu tiên đã ló dạng, leo dốc. Mưa phùn dịu nhẹ, thường xảy ra vào những ngày lễ Thánh mẫu Rocio, rơi từ những đám mây hoa cà, và nhanh chóng tan xuống các thửa nho xanh. Nhưng thiên hạ chẳng buồn ngước mắt nhìn mưa.  Dẫn đầu, cưỡi trên lưng lừa, la, ngựa, được kết giải theo lối phương Đông và bờm thì bện tết, là những cặp nam nữ đính ước hân hoan: trai, thật tươi; gái, cân quắc. Cả một đoàn người rậm đám nhặm lẹ, qua qua lại lại, không ngớt đuổi bắt, liền lưng thành một lễ hội xa mã vĩ đại.  Theo sau, trờ tới chiếc xe Lưu Linh huyên náo, cục mịch ngả nghiêng. Kế đó ta thấy xuất hiện, giống như một dãy giường ngủ, một đoàn xe trải vải trắng, chở những thiếu nữ tóc đen, chắc nịch, đương độ, ngồi dưới lọng, vừa vỗ vào mặt trống có chuông lủng lẳng, vừa lớn tiếng ca hát.  Vẫn còn ngựa, vẫn còn lừa….  Viên phụ thủ giáo đường, đầu hói, xương xẩu, đỏ gấc, mũ rộng vành hất ngược sau lưng. Và cây trượng vàng, ở thế nghỉ, chống tựa vào bàn đạp ngựa, y dõng dạc:  - Vạn tuế Đức Bà Rociooo! Vạn tuế!  ... Mời các bạn đón đọc Con Lừa Và Tôi của tác giả Juan Ramón Jiménez.