Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vụ Án Phim Trường

Một ngày nọ, nữ minh tinh Stella Lamar đã đột ngột tử vong giữa lúc đang quay một bộ phim trinh thám tại ngôi biệt thự ở Tarrytown.  Bác sĩ khám nghiệm cô không phát hiện ra bất cứ triệu chứng khác thường nào cả, nhưng thám tử - nhà khoa học Kennedy nhanh chóng phát hiện ra dấu hiệu cho thấy cô đã bị đầu độc. Kennedy và cộng sự Walter theo quá trình điều tra khám phá những mối quan hệ phức tạp trong làng điện ảnh. Rồi vụ những án mạng và mưu sát tiếp tục xảy ra. Danh sách kẻ tình nghi lên đến 9 người, thậm chí, hung thủ chưa chắc đã hành động một mình… *** Bối cảnh vào cuối những năm 1910 kỷ nguyên phim câm. Cô diễn viên Stellar Lamar đột ngột tử vong khi đang quay một bộ phim trinh thám. Nghi phạm đều trong giới làm phim và có mối quan hệ ân oán phức tạp với nạn nhân. Cảnh sát mời nhà khoa học - thám tử Craig Kennedy hỗ trợ điều tra... Tác giả Arthur B. Reeve cũng là một nhà khoa học, cùng với Richard Austin Freeman là những người đi tiên phong trong dòng trinh thám "thực chứng". Dòng trinh thám này kết hợp suy luận logic với kiến thức khoa học để giải quyết vụ án. Nhịp truyện diễn ra từ tốn, nhưng không ù lì vì người đọc thường được thám tư Kennedy "giảng giải" những kiến thức khoa học và độc học thú vị. Và những xét nghiệm khoa học trong truyện không còn xa lạ với bạn đọc hiện đại nhưng viết cách đây 100 năm thì rất nể kiến thức của tác giả và chúng đã góp phần quan trọng vạch mặt thủ phạm. Ngoài ra truyện còn cung cấp nhiều kiến thức thú vị về công nghệ làm phim thời đó cho những ai quan tâm. Chỉ tiếc một chút khi mình đã kì vọng sẽ có thêm twist xoắn hơn ở kết cũng như động cơ được nói kĩ hơn. Nhưng tổng thể truyện cũng khá đáng đọc, hợp với với ai thích khoa học-suy luận. *** Điểm: 8/10 ‘Vụ Án Phim Trường’ là một trong những cuốn trinh thám mà mình mê vì bối cảnh hơn là vụ án. Truyện được sáng tác vào thời kỳ đầu của điện ảnh, tức là thời kỳ phim câm và đen trắng. Tác giả đã bỏ công nghiên cứu quy trình quay phim, cách xưởng phim hoạt động, các mẹo lên hình sao cho ăn ảnh và các mối quan hệ yêu ghét lẫn lộn trong giới điện ảnh, tất cả những chi tiết ngoài lề này hết sức thú vị. Mỗi lần đến với tác phẩm trinh thám cổ điển, ngoài việc truy cầu một vụ án hay, mình còn mong muốn tìm được thứ văn chương giàu sức truyền cảm hay những câu chuyện bên lề của một thời đại đã qua.   Vụ án trong truyện ở mức ổn. Hung thủ thực sự có đầu óc, biết lên kế hoạch hiệu quả, biết đánh lạc hướng qua lại. Mình thích vụ phóng hỏa nhất vì nó rất kỳ công, đòi hỏi kiến thức chuyên sâu về hóa học và sự sáng tạo. Phía cảnh sát đối trọng thì có mấy pha xử lý hơi cồng kềnh. Tác giả để hung thủ gây án thêm nhiều lần nhằm đẩy mạch truyện lên cao trào, ok mình đồng ý, nhưng cái lý do ông để cảnh sát không ngăn chặn được thì thật ba chấm. Đúng là hung thủ được tạo điều kiện gây án hết mức. Điểm đột phá của truyện – việc phá án bằng khoa học – hẳn là gây ấn tượng mạnh với độc giả thời ấy hơn độc giả hiện đại, song nhà khoa học hình sự Craig Kennedy vẫn có vài mánh lới khác nên công tác điều tra không đến nỗi lỗi thời tẻ nhạt. Nếu phía cảnh sát hành động hợp lý hơn thì vụ án có thể lên được mức tốt. Về phần nhân vật chính, có lẽ vì đây là cuốn thứ 13 trong series, Craig Kennedy không được miêu tả nhiều lắm, dù mình tưởng tượng trong đầu rằng anh này là một phiên bản ít cực đoan hơn của Sherlock Holmes. Anh cộng sự Walter Jameson thì đóng vai trò người kể chuyện và làm tất cả những việc mà mấy ông cộng sự thám tử khác vẫn hay làm: quan sát việc điều tra, trầm trồ thán phục, chạy loăng quăng để tỏ ra mình có ích, đưa ra vài giả thuyết nào đó rồi khăng khăng cho là mình đúng,… Lâu lâu mình muốn được đọc một người cộng sự có ích hơn hay bớt phiền phức hơn chút đỉnh. Phải nói là mình hết sức hài lòng với trải nghiệm đọc này và sẵn sàng tìm đọc thêm vài cuốn trong series Craig Kennedy. Nhân tiện, thi thoảng mình mới thấy Cổ Nguyệt làm được cái bìa đẹp và đúng chủ đề như cuốn này. Phan Quỳnh Lê *** Ngôi sao nổi tiếng với sự nghiệp diễn xuất đang lên như diều gặp gió Stella Lamar gục xuống rồi lăn ra chết một cách quằn quại trong khi đang đóng những thước phim tiếp theo của bộ phim “Nỗi kinh hoàng màu đen”, không một dấu hiệu khác thường nào được bác sĩ tìm thấy trong quá trình khám nghiệm cho cô. Cái chết của cô được coi là kì quái cho tới khi giáo sư Kennedy, một thám tử tư kiêm nhà nghiên cứu khoa học, cùng cộng sự của anh, phóng viên Walter Jameson của Thời báo Star được mời đến, và vết xước nhỏ xíu tới mức khó có thể nhận ra được Kennedy tìm thấy, nó được cho là nguyên nhân gây ra cái chết của nữ diễn viên lộng lẫy với vẻ đẹp ngọt ngào những năm 20. Số nghi phạm lên tới 9 và tất cả họ đều thuộc hoặc liên quan tới giới diễn xuất bao gồm đủ mọi công việc từ diễn viên, biên kịch, nhà quảng bá cho tới nhà đầu tư, những kẻ có thể khoác lên mặt mình những tấm mặt nạ hoàn hảo nếu họ thích. Bên cạnh đó, mọi chuyện trở nên khó khăn hơn với những chứng cớ ít ỏi, mong manh, những lời khai mập mờ và đầy sự nghi kị của người trong cuộc cùng những mánh khóe kín đáo, thủ pháp gọn gàng và thái độ bình tĩnh tới đáng sợ của hung thủ khi gây án. Liệu việc ứng dụng khoa học vào điều tra vụ án có thể giúp Kennedy và Walter vạch trần hung thủ? Vụ Án Phim Trường không có nhiều twist, hung thủ khá dễ đoán. Nhưng cách tác giả xây dựng bối cảnh, lồng ghép những chi tiết về phim ảnh và khoa học lại khéo léo một cách đáng ngạc nhiên và không có sự liệt kê, phô bày như thể đang chứng minh học thức. Qua những trang sách của Vụ Án Phim Trường, vẻ lộng lẫy của những phim trường đen trắng với những bộ phim năm cuộn thời Chaplin, sự mĩ miều hoa lệ tới mức hào nhoáng của màn bạc với những chàng và nàng diễn viên, những cuộc viếng thăm, những mánh khóe con buôn của các nhà làm phim khi tranh thủ sự tài trợ, thậm chí là những ghen tuông, nghi kị lừa lọc và cạnh tranh phía sau màn ảnh, tất cả làm nên một bức tranh đầy đủ về thế giới điện ảnh những năm 20. Chúng không hề thừa thãi mà ngược lại còn làm cho câu chuyện có nét quyến rũ xa hoa, tôn lên một màu sắc, một không khí nhẹ nhàng tản mát rất phù hợp với tấm thảm kịch – nơi mà những con người tắm mình trong ánh sáng vàng son ấy của sự nổi tiếng, tưởng như nắm tất cả danh vọng trong tay, vậy mà giây phút ra đi không một ai thương tiếc họ, tất cả chỉ chạy theo lợi nhuận, theo khát khao nổi tiếng, dù có là máu lạnh, là vô tình. Bên cạnh đó, không thể kể tới thủ pháp phá án riêng biệt của Kennedy. Khi đọc Vụ Án Phim Trưởng, người ta dễ nhận thấy của Sherlock Holmes nơi Kennedy Craig, và trong dáng vẻ vội vã hấp tấp của Walter, ta nhìn thấy một bác sĩ Watson cũng bộp chộp không kém. Thế nhưng Arthur B. Reeve đã thành công tách Kennedy thành một hình tượng riêng biệt, không chỉ dựa vào những phán đoán đơn thuần, Kennedy bắt đầu đi sâu vào sử dụng biện pháp khoa học để chứng minh một chứng cứ, hay giúp đỡ quá trình phá án. Và như đã nói ở trên, những kiến thức khoa học tuy khá dày nhưng không gây ngán, khá đồng đều và dễ hiểu. Đây có thể coi là một bước tiến lớn trong xu hướng trinh thám thời kì đó. Nói chung, Vụ Án Phim Trường có tình tiết câu chuyện được xử lí gọn gàng không dàn trải, câu văn đơn giản, chậm rãi, dễ thấm, văn phong ổn định, mượt mà. Tuy vẫn chưa hài lòng với cái kết bỏ ngỏ, xong từng ấy điều cũng đủ khiến độc giả mong chờ tác phẩm tiếp theo về thám tử Kennedy. Ngoài ra, nói về chất lượng sách thì bìa Cổ Nguyệt làm khá đẹp, in ấn cũng rất rõ ràng, chỉ tiếc mực in bị thấm, có thể nhìn thấy cả mặt sau, dàn trang chưa ổn, cỡ chữ hơi to. Điểm: 7/10. *** Vụ án phim trường mở đầu bằng cái chết của nữ diễn viên nổi tiếng Stella Lamar – một cái chết bất ngờ và kì lạ , và rồi từ đó mở ra 1 vụ án bí ẩn , mưu mô , ẩn giấu sau những rối răm của ánh hào quang Hollywood . Ngay từ đầu tác giả B.Reeve đã lôi kéo thành công người đọc chìm vào trong câu chuyện với cái chết của Stella Lamar . Cái chết diễn ra ngay trước mặt của đoàn làm phim – nơi gần như kẻ thủ ác không có khả năng gây án . Nữ diễn viên gục xuống mà không có bất cứ thương tổn nào ngoài 1 vết xuốc nhỏ nơi cánh tay . Điều kì lạ từ thời gian , địa điểm , cách thức cho đến hung khí gây án , đã giúp vụ án trở nên thú vị và cuốn hút người đọc theo chân thám tử Kennedy và người cộng sự Walter lần theo từng manh mối để phá án . Mở đầu bằng 1 án mạng , nhưng tiếp theo tiết tấu của truyện lại ko đc B.Reeve đẩy lên cao ngay lập tức – mà lại đc kìm lại , với 1 tiết tấu chậm , vừa phải của công việc điều tra , thẩm vấn , tưởng như sẽ khô khan và buồn ngủ . Thế nhưng không , công cuộc điều tra chậm rãi này , đã đc tác giả khéo léo sử dụng để xây dựng nên một mối quan hệ chồng chéo và rắc rối giữa các nghi phạm . Ẩn sau những mối quan hệ tưởng chừng như thân quen , lại là những mảng tối của ngành nghệ thuật thứ 7 . Nơi những kẻ thủ ác có thể khoác lên mình bất cứ khuôn mặt nào , từ một nhà quảng bá phim thành đạt nhưng đầy mưu mô , một nhà tư vấn tài chính tưởng chừng giàu có nhưng lại đang sắp phá sản , một nam diễn viên đẹp trai nhưng lại là kẻ ăn chơi ..v..v.. 9 kẻ tình nghi hiện lên với 9 khuôn mặt và các mối quan hệ chồng chéo , đan xen và xoay quanh nạn nhân Stella Lamar . Cặp đôi thám tử Kennedy- Walter có lẽ đc xây dựng trên hình tượng cặp đôi nổi tiếng Holmes- Watson nên có rất nhiều nét tương đồng . Một thám tử tài năng xen chút lập dị , kết hợp vs người cộng sự nhiệt tình năng nổ nhưng đôi chút ngờ nghệch dễ dang gợi cho độc giả hình ảnh cặp đôi nổi tiếng người Anh . Thế nhưng Craig Kennedy cũng sự độc đáo của riêng mình . Vị thám tử tài hoa này đem lại cảm giác đó là sự kết hợp giữa Holmes và Lincol Rhymer . Kennedy áp dụng thành thạo các cơ sở lý luận đầy logic của Holmes , cũng như tin tưởng đầy chắc chắn vào phương pháp nghiên cứu khoa học từ những manh mối thu đc như Rhymer – sự kết hợp tốt cho hình ảnh 1 thám tử tài năng . B.Reeve cũng đã thể hiện được kiến thức cho tác phẩm của mình. Các hung khí trong truyện đều được tìm hiểu tốt và độc đáo , không xuất hiện nhiều trong các tác phẩm trinh thám khác , cho thấy sự đầu tư và tránh lối mòn của tác giả . Ngoiaf ra , truyện cũng thể hiện khá rõ nét quy trình dựng phim vào đầu thế kỉ 20 , cung cấp thêm cho độc giả hình ảnh của Hollywood những năm 20 của thế kỉ trước . Có thể khẳng định đây là 1 tác phẩm hay . Tuy nhiên , đáng tiếc rằng đoạn kết của truyện lại hơi cụt , khi tác giả để vụ án kết thúc hơi nhanh . Cũng như sự lí giải của thám tử về vụ án cho mọi người có chút ngắn , khiến cho 1 vài tình tiết trong truyện chưa được giải thích rõ ràng cho độc giả – tuy không ảnh hưởng đến nội dung nhưng lại đem tới chút tò mò và hụt hẫng . Hy vọng ở những tác phẩm sau của Arthur B.Reeve được xuất bản có thể khắc phục được điểm yếu này . Trần Mạnh Hiệp   *** Stella Lamar, ngôi sao đang lên của ngành điện ảnh những năm 1920, đang trong cảnh quay thước phim trinh thám “Nỗi Kinh Hoàng Màu Đen” thì lăn ra chết đau đớn. Cảnh này không hề có trong kịch bản. Bác sĩ khám nghiệm xác không phát hiện ra bất kỳ điều gì khác thường. Giáo sư Kennedy, một thám tử tư, cùng cộng sự Walter Jameson được mời đến, và chính Kennedy là người phát hiện ra vết xước nhỏ tí trên cánh tay Stella và cho rằng nguyên nhân chết là bị đầu độc. Trong một đoàn làm phim đông đảo của hãng phim Manton Pictures, Kennedy cùng Walter phải tự lần mò qua những khúc quanh, những âm mưu, những lời dối trá của tận 9 nghi phạm vừa là diễn viên, đạo diễn, ông bầu, biên kịch v.v… Những kẻ luôn có khả năng diễn xuất siêu việt. Thêm vào đó họ còn phải hiểu biết cả nghệ thuật làm phim, dựng phim thời kỳ đó, vốn lạc hậu và khác xa so với bây giờ. Khi những cái chết ngày càng nhiều lên liệu Kennedy cùng Walter sẽ phải làm sao để vạch mặt chân tướng hung thủ? Arthur B. Reeve đã dựng lên một bối cảnh tuyệt vời cho vụ án mạng. Bối cảnh điện ảnh những năm 1920 tuy vẫn còn lạc hậu so với bây giờ nhưng vẫn hào nhoáng, đẹp đẽ, lộng lẫy với danh vọng, với vinh quang và những dối trá, âm mưu, ghen tuông, thù hận. Những đoạn tả cảnh diễn xuất, bối cảnh trường quay và nghệ thuật làm phim rất sinh động. Có thể tác giả đã quá tham lam diễn tả những nghệ thuật này nhưng nếu so sánh nó với bối cảnh khám nghiệm bằng khoa học của Kennedy thì sẽ thấy rất thú vị. Hai bối cảnh hỗ trợ nhau, bằng cách nào đó như thể đang đối đầu với nhau. Bối cảnh phòng thí nghiệm của Kennedy thì đơn sơ, mộc mạc và xấu xí hơn nhưng giúp anh tìm ra chân tướng thực sự của hung thủ. Đọc truyện chúng ta dễ dàng thấy sự tương đồng giữa Arthur B. Reeve với Conan Doyle. Trong việc khám nghiệm hiện trường rất tỉ mỉ của Kennedy, trong cái vụng về, bộp chộp của Walter, trong cảnh suy luận vạch mặt hung thủ được đưa về cuối truyện. Truyện có rất nhiều đoạn suy luận sắc bén của Kennedy khi phân tích chất độc, khi bác bỏ những giả thuyết của Walter hay khi khám nghiệm hiện trường. Thêm vào đó nét tính cách của toàn bộ 9 con người kia hiện lên rõ nét. Phần nào vẽ lên môi trường điện ảnh ngày xưa vẫn tồn tại những hỉ nộ ái ố, những cạnh tranh trong nghề nghiệp và cả trong tình yêu của giới làm phim. Tuy là tác phẩm trinh thám cổ điển nhưng văn phong của truyện lại rất mượt mà. Những đoạn Walter phải lòng Enid Faye, diễn viên thay thế Stella Lamar đọc rất vui. Bản dịch rất chuẩn khi dịch các kỹ thuật, công nghệ làm phim và kỹ thuật khoa học. Không biết khi dịch nó dịch giả có phải tra cứu nhiều không. Nói chung truyện đáng đọc! Điểm: 8/10 Nguyen Quang Huy *** Nói về cuốn trinh thám này, cuốn Vụ án phim trường của nhà văn Arthur Benjamin Reeve… Nhà văn lấy bối cảnh những năm 20s của thế kỷ trước. Đề tài nói về những thảm án tại phim trường, cái thời vẫn còn quay bằng từng thước phim ngắn âm bản, rồi rửa, rồi phơi, rồi in,… cái thời theo mình nghĩ là còn sơ khai của ngành điện ảnh. Cái thời mà mình nhớ không nhầm, nó cùng thời với Charlie Chaplin, cái thời phim còn đen trắng, diễn câm, lời thoại được lồng vào phim, các diễn viên cử động thì giật giật như công nông lên dốc vì lý do thời đó chỉ quay được khoảng 24 hình/giây, và trước đây cũng có một chương trình nói về phim ảnh trên kênh VTV3 cũng có tên là 24 hình/giây… Có vẻ mình nói hơi miên man về phim ảnh, cái lĩnh vực mà ông tác giả cũng đánh vào hơi sâu, giải thích có thể nói là hơi quá mức trong cuốn sách này… nhưng cũng cho thấy sự tìm hiểu sâu xa để tác giả có thể đưa người đọc như đứng ngay tại phim trường ấy. Tiếp đó là lời thoại cũng hơi nhiều, hay có vẻ do mình thích đọc kiểu suy luận hơn là thoại nhiều quá! Cách thức giết người cũng tinh vi, xảo quyệt. Cách suy luận, thu thập chứng cứ, cách làm lộ mặt hung thủ cũng khá khoa học, hợp lý trong bối cảnh thời điểm đó. Cái kết không quá khó đoán, nhưng cho người đọc thấy được sự tài tình của tác giả trong việc dẫn dắt câu chuyện và đưa ra sự hợp lý để vạch mặt hung thủ. Nói chung, đây cũng là một cuốn trinh thám đáng đọc của nhà Cổ Nguyệt. Bìa sách đẹp, giấy tốt, nội dung ổn, lại nói về lĩnh vực phim ảnh thời kỳ những năm 20s của thế kỷ trước nên chắc chắn sẽ có nhiều người muốn tìm hiểu. ••••••••• Đánh giá: 8/10 Dương Linh *** Bối cảnh vào cuối những năm 1910 kỷ nguyên phim câm. Cô diễn viên Stellar Lamar đột ngột tử vong khi đang quay một bộ phim trinh thám. Nghi phạm đều trong giới làm phim và có mối quan hệ ân oán phức tạp với nạn nhân. Cảnh sát mời nhà khoa học – thám tử Craig Kennedy hỗ trợ điều tra… Arthur B.Reeve cũng là một nhà khoa học, cùng với Richard Austin Freeman là những tác giả đi tiên phong trong dòng trinh thám “thực chứng”. Dòng trinh thám này kết hợp suy luận logic với kiến thức khoa học để giải quyết vụ án. Nhịp truyện diễn ra từ tốn, nhưng không ù lì vì người đọc thường được thám tư Kennedy “giảng giải” những kiến thức khoa học và độc học thú vị. Và những xét nghiệm khoa học trong truyện tuy không còn xa lạ với độc giả hiện đại nhưng viết cách đây 100 năm thì phải nể kiến thức của tác giả và chúng đã góp phần quan trọng vạch mặt thủ phạm. Ngoài ra truyện còn cung cấp nhiều kiến thức thú vị về công nghệ làm phim thời đó cho những ai quan tâm. Chỉ tiếc một chút khi mình kì vọng sẽ có twist xoắn hơn ở cuối cũng như động cơ được nói kĩ hơn. Nhưng tổng thể truyện cũng khá đáng đọc, hợp với với ai thích khoa học-suy luận. Chấm 7,75/10. Hy vọng sẽ còn được tái ngộ thám tử Kennedy ở cuốn sau với lĩnh vực phân tâm học. Nam Do Mời các bạn mượn đọc sách Vụ Án Phim Trường của tác giả Arthur B. Reeve & Nguyễn Thành Long (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vòng Tròn Máu
VÒNG TRÒN MÁU - TỔ CHỨC TỘI PHẠM CÓ THỂ KHIẾN CẢ LONDON PHẢI QUỲ XUỐNG. Triệu phú James Beaardmore nhận được thư tống tiền từ VÒNG TRÒN MÁU nhưng ông vẫn cương quyết không chịu nhượng bộ, dù đó là "lời cảnh cáo cuối cùng". Ngày hôm sau, James Beaardmore bị sát hại ngay sau nhà. Bầu không khí hoang mang bao trùm khắp nước Anh, khi ngày càng có nhiều người thuộc tầng lớp thượng lưu giàu có lần lượt nhận được những lá thư đóng dấu tròn đỏ với cùng một yêu cầu: NỘP NGƯỜI HAY NỘP MẠNG. Cảnh sát bắt đầu vào cuộc điều tra, tìm ra manh mối của VÒNG TRÒN MÁU. Liệu trí tuệ của thám tử Yale cùng mưu lước của thanh tra Parr có thể lật tẩy được bí mật của tổ chức tội phạm này, vạch  mặt kẻ cầm đầu tổ chức này? Ai dối trá, ai phản bội? Ai là kẻ chủ mưu đích thực. Tác giả Edgar Wallace: Edgar Wallace là một trong những nhà văn trinh thám thành công nhất trong suốt 30 năm đầu thế kỷ XX với 18 kịch bản sân khấu, 957 truyện ngắn và 170 tiểu thuyết cùng nhiều tác phẩm khác. Đã từng có thời điểm, tổng số bản in các đầu sách của ông chiếm 1/4 thị trường sách tại Anh.160 bộ  phim  đã  được  chuyển  thể  dựa  theo  các  tác  phẩm  của Wallace. Wallace là tiểu thuyết gia tội phạm đầu tiên của Anh lấy cảnh sát làm nhân vật chính của mình, chứ không phải là thám tử nghiệp dư như hầu hết các nhà văn khác thời bấy giờ. Hầu hết các tiểu thuyết của ông là những câu chuyện độc lập độc lập, với cốt truyện chặt chẽ. Vòng Tròn Máu là tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng bậc nhất của Wallace và đã 4 lần được dựng thành phim. Trích dẫn hay trong truyện: "Mười một năm sau, cái đinh ấy sẽ khiến vô số người mất mạng" "Ông có hàng trăm chiến hữu, tất đều không và sẽ không biết ông là ai". "Những người đàn ông mạnh mẽ hơn rất nhiều cũng đã từng phải run sợ trước sự đe dọa của Vòng Tròn Máu". *** “Vòng tròn máu” - cuốn sách của “thiên tài bị lãng quên” “Vòng tròn máu” là tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng bậc nhất của Edgar Wallace và đã 4 lần được dựng thành phim. Sách được Phuc Minh Books liên kết với Nhà xuất bản Văn học ấn hành tháng 6/2019. Edgar Wallace được biết đến là cha đẻ của hình tượng nhân vật King Kong, là một trong những nhà văn trinh thám thành công nhất trong suốt 30 năm đầu thế kỷ XX với 18 kịch bản sân khấu, 957 truyện ngắn và 170 tiểu thuyết cùng nhiều tác phẩm khác. Đã từng có thời điểm, tổng số bản in các  đầu sách của ông chiếm 1/4 thị trường sách tại Anh 160 bộ phim đã được chuyển thể dựa theo các tác phẩm của Wallace. Cuộc đời của Wallace vẫn là một huyền thoại không chỉ trong văn học mà trong cả điện ảnh. Các tác phẩm văn học của ông đã được xuất bản với hơn 200 triệu bản trên thế giới - trở thành tác giả có số lượng sách bán ra nhiều nhất trên thế giới. Các nhà nghiên cứu đánh giá Wallace là nhà văn tội phạm đầu tiên xuất thân từ tầng lớp lao động. Người ta thường nói về các tác phẩm của ông trên khắp thế giới nhưng cái tên Edgar Wallace lại khá mờ nhạt và không mấy ai nhớ về nó. Và đó cũng chính là lý do mà ông được gọi với biệt danh: Thiên tài bị lãng quên. Vòng tròn máu là một trong những tiểu thuyết xuất sắc làm nên tên tuổi của Edgar Wallace. Xuất bản năm 1922, ngay lập tức tiểu thuyết trinh thám “Vòng tròn máu” đã tạo nên tiếng vang lớn tại Châu Âu, mở đường cho tác giả của nó - nhà văn Edgar Wallace, trở thành một trong những tác giả có số lượng ấn phẩm được bán nhiều nhất trên thế giới, với hơn 200 triệu bản. Truyện mở ra bằng một lời nguyền: “Với những tên tội phạm bị kết án tử hình, khi lên máy chém, nếu ba lần mà vẫn thất bại thì nghĩa là hắn đã được ông trời thương xót và sẽ không bị thi hành án nữa”. Vào ngày hôm đó, một tên tội phạm nguy hiểm đã được miễn án tử chỉ vì sai sót của một chiếc đinh đóng nhầm lên máy chém. Từ đó, khởi nguồn cho một tội ác làm chấn động cả thành London trong 11 năm sau. Tổ chức “Vòng tròn máu”, nơi quy tụ những tên tội phạm khiến cả London phải quỳ xuống. Bắt cóc, tống tiến, giết người... không có tội ác mà “Vòng tròn máu” lại không nhúng tay vào. Những nạn nhân của Vòng tròn máu khi nhận được tối hậu thư với vòng tròn đỏ thẫm: “Nộp tiền hay nộp mạng” đều run sợ. Không có thất bại, không có thương xót, “Vòng tròn máu” là nỗi ám ảnh của các thương nhân giàu có và những người có địa vị ở Anh lúc bấy giờ. Không có người đàn ông nào dù mạnh mẽ đến mấy mà lại không quỳ rạp trước sức mạnh của tổ chức này. James Beardmore, một thương nhân giàu có nhận được bức thư từ tổ chức “Vòng tròn máu” với lời cảnh báo: Đây là cơ hội cuối cùng, hãy giao nộp 100 nghìn bảng hoặc sẽ bị mất mạng. Beardmore đã bỏ ngoài tai và ngày hôm sau ông ta bị bắn chết khi đang đi dạo ở gần nhà mình. Cảnh sát vào cuộc điều tra, từ đó hé lộ những manh mối về tổ chức “Bất khả xâm phạm” “Vòng tròn máu”. Ai là kẻ chủ mưu đứng đằng sau băng nhóm tội phạm này? Bên cạnh yếu tố li kì, hấp dẫn, với nhịp chuyện dồn dập, như soi chiếu từng khung hình của điện ảnh, “Vòng tròn máu” còn thu hút độc giả bởi cách xây dựng nhân vật. Wallace đã xây dựng một hệ thống nhân vật với cá tính riêng chỉ qua một vài chi tiết, hành động mà không sa đà quá vào cá nhân dẫn tới xao lãng mạch phá án chính. Trong “Vòng tròn máu”, Wallace đã xây dựng được một tổ chức tội phạm mang tính chất đặc trưng. Tổ chức này hoạt động vô cùng chặt chẽ và táo bạo. Mỗi người khi đến với tổ chức này đều có số phận, thân phận, cá tính riêng. Đặc biệt hình tượng nhân vật bí ẩn đứng đằng sau khiến người đọc vô cùng tò mò. Hắn là ai? Vì sao hắn lại có “quyền lực” mạnh mẽ đến như vậy? Tất cả những điều này bạn đọc sẽ được trải nghiệm qua từng trang sách, và hấp dẫn tới những dòng cuối cùng. Bảo Châu Review *** Nhờ một cái đinh mà một tên tử tù thoát chết và bị đày ra đảo. Hắn trốn thoát khỏi đó và trở về Anh lập nên tổ chức “Vòng tròn máu” chuyên đi tống tiền. Bầu không khí hoang mang bao trùm khắp nước Anh, ngày càng có nhiều người thuộc tầng lớp thượng lưu giàu có lần lượt nhận được những lá thư đóng dấu tròn đỏ với cùng một yêu cầu: NỘP TIỀN HAY NỘP MẠNG. Triệu phú James Beardmore nhận được thư tống tiền từ tổ chức Vòng tròn máu nhưng ông vẫn cương quyết không chịu nhượng bộ. Ngày hôm sau, James Beardmore bị sát hại ngay tại nhà. Nối tiếp sau đó, một vài nhân vật nữa bị tống tiền và cũng bị sát hại sau khi nhận được một lá thư tống tiền có đóng dấu tròn đỏ. Cảnh sát vào cuộc tiến hành điều tra. Dựa vào trí tuệ của thám tử Yale và sự mưu lược của thanh tra Parr, liệu có bảo vệ được những nạn nhân tiếp theo? Và bí mật về tổ chức này có bị lật mở? Ai là kẻ chủ mưu đích thực? Các sự kiện diễn ra liên tục cùng với tiết tấu truyện nhanh giúp cho cảm giác hồi hộp, gay cấn trong cuộc đối đầu giữa cảnh sát với trùm cuối của Vòng tròn máu. Những twist cũng làm nổi bật lên sự kịch tính trong cuộc đối đầu đó. Đặc biệt phần cuối, twist hay nhất trong cả câu chuyện, nó đánh lạc hướng hoàn toàn dẫn dắt từ ban đầu của tác giả. Tuy nhiên với mình ấn tượng nhất là nhân vật Thalia, cô có một vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ câu truyện. Và đối với những ai thích sự kịch tính trong các tình tiết thì nên đọc quyển này. Điểm: 8/10 Minh Sơn cùng với Nguyễn Thu Huyền *** Vòng tròn máu - Edgar WallaceVÒNG TRÒN MÁU – EDGAR WALLACE Bầu không khí hoang mang bao trùm khắp nước Anh, ngày càng có nhiều người thuộc tầng lớp thượng lưu giàu có lần lượt nhận được những lá thư đóng dấu tròn đỏ với cùng một yêu cầu: NỘP TIỀN HAY NỘP MẠNG. Những người cứng rắn không chịu nộp như triệu phú James Beaardmore đã phải chết thảm. Điều tra thấy có sự tham gia của nhiều cá nhân, nhưng họ đều không biết lẫn nhau và cả kẻ chủ mưu “Vòng tròn máu”. Thanh tra cảnh sát Parr và thám tử Yale liệu có vạch mặt được hắn? Truyện cho thấy vì sao Edgar Wallace được tôn vinh là King of Thriller thế kỷ 20. Tuy là trinh thám cổ điển nhưng có lối viết hiện đại, nhịp truyện nhanh. Chân tướng của “Vòng tròn máu” không quá khó đoán với độc giả tinh ý nhưng bù lại các sự kiện ly kì liên tục xuất hiện làm cuốn hút người đọc đến tận trang cuối cùng. Ngoài sự năng nổ của thanh tra Parr ra thì cô gái Thalia bí ẩn cũng được xây dựng khá thú vị. Truyện tuy gay cấn nhưng không lạm dụng bạo lực, vẫn có thoại nhẹ nhàng hài hước kiểu Anh. Thêm tí tình yêu lãng mạn, hợp để giải trí cuối tuần. Hy vọng sẽ còn thêm nhiều cuốn hay khác của Wallace được xuất bản. Chấm 7,75/10 Nam Do Mời các bạn mượn đọc sách Vòng Tròn Máu của tác giả Edgar Wallace & Anh Tuấn (dịch).
Phong Tỏa
LỜI NÓI ĐẦU Vào năm 2005, khi phát hiện rằng tôi không thể nào tìm được một nhà xuất bản cho The Blackhouse (tạm dịch Ngôi Nhà Đen), hoặc cho quyển truyện đầu tiên trong loạt truyện Enzo của mình, Extraordinary People (tạm dịch Người Phi Thường), tôi đã bắt đầu nghiên cứu về một quyển tiểu thuyết trinh thám lấy bối cảnh là trận đại dịch cúm gia cầm. Vào lúc bấy giờ, các nhà khoa học đã dự đoán rằng cúm gia cầm, hay H5N1, có nhiều khả năng trở thành trận đại dịch kế tiếp. Trận dịch Tây Ban Nha năm 1918 đã giết chết ở nhiều nơi trên khắp thế giới khoảng từ hai mươi đến năm mươi triệu người, và cúm gia cầm - với tỉ lệ tử vong khoảng sáu mươi phần trăm hay cao hơn - đã được dự báo vào lúc ấy là sẽ vượt qua con số trên với một khoảng cách đáng kể. Đã tìm hiểu kỹ về cúm Tây Ban Nha trong lúc viết Snakehead(tạm dịch Cá lóc), một đầu sách trong loạt truyện trinh thám lấy bối cảnh Trung Quốc của tôi, cúm là một chủ đề tôi đã thành thạo. Nhưng sự thành thạo đó chẳng chuẩn bị cho tôi điều gì từ những tìm hiểu của tôi liên quan đến H5N1, cũng như những nỗi kinh hoàng mà một trận đại dịch cúm gia cầm có thể bộc phát trên thế giới. Tôi bắt đầu nghiên cứu cẩn thận về những hỗn loạn mà nó sẽ có thể gây ra, và xã hội như ta đang thấy có thể bị tan rã nhanh chóng đến mức nào. Tôi chọn London làm bối cảnh cho truyện của mình, nơi bắt đầu bùng phát cơn đại dịch, một thành phố bị phong tỏa hoàn toàn. Trên nền của bối cảnh đó, những mẩu xương của một đứa trẻ bị sát hại đã được phát hiện tại một công trường nơi các công nhân đang hối hả xây dựng một bệnh viện dã chiến. Viên thám tử (quen thuộc) của tôi, Jack MacNeil, được yêu cầu điều tra, ngay cả khi chính gia đình anh ta đã bị nhiễm virus. Suốt sáu tuần lễ ngắn ngủi miệt mài làm việc cả đêm, tôi đã viết xong quyển Phong tỏa. Quyển sách không hề được xuất bản. Các biên tập viên Anh Quốc trong thời điểm đó nghĩ rằng những điều mô tả của tôi về thành phố London bị vây hãm bởi kẻ thù vô hình H5N1 là không thực tế và chẳng bao giờ có thể xảy ra - bất kể thực tế là tất cả những nghiên cứu của tôi chỉ ra rằng điều đó hoàn toàn có thể. Thế rồi một nhà xuất bản Hoa Kỳ mua loạt truyện Enzo, và những truyện trinh thám về Trung Quốc của tôi lần đầu tiên được xuất bản ở Hợp chủng quốc. Sự tập trung của tôi chuyển sang bờ bên kia Đại Tây Dương, Phong tỏa đã được ký thác vào một thư mục trong tài khoản dịch vụ lưu trữ trực tuyến Dropbox của tôi, nơi tác phẩm vẫn còn đấy, đến tận bấy giờ. Khi viết những dòng chữ này, tôi đang ngồi bó gối tại nhà ở Pháp, bị cấm ra khỏi nhà trừ những trường hợp đặc biệt. Một con coronavirus mới, Covid-19, đang tàn phá thế giới này, và xã hội như ta biết đang nhanh chóng thay đổi. Ngay cả với một tỷ lệ tử vong chỉ là một phần của cúm gia cầm, các chính trị gia đang phải chiến đấu để kiểm soát sự hỗn loạn và sự hoảng hốt mà Covid-19 đang truyền đi trên toàn thế giới. Sự tương đồng với Phong tỏa thật đáng sợ. Vì vậy dường như đây là dịp mở lại thư mục Dropbox đầy bụi bặm và khai thác bản thảo cũ kỹ kia để chia sẻ với bạn đọc của tôi - dù chỉ để khiến tất cả chúng ta nhận ra thực sự mọi chuyện có thể tồi tệ đến mức nào. Peter May Pháp, 2020 *** Phong tỏa (tựa tiếng Anh: Lockdown) - tiểu thuyết vừa ra mắt bạn đọc VN của nhà văn trinh thám nổi tiếng Peter May. Cuốn sách không chỉ hấp dẫn bởi sự hồi hộp, phức tạp, nghẹt thở, mà còn 'nóng' bởi sự tương đồng đáng ngạc nhiên với câu chuyện dịch bệnh của thế kỷ. Hai chữ Phong tỏa có lẽ là từ khóa được quan tâm nhiều nhất trong hơn 1 năm qua, kể từ khi đại dịch Covid-19 xuất hiện từ Vũ Hán (Trung Quốc) và sau đó liên tiếp là những thành phố, những đất nước, những châu lục, cả thế giới xáo trộn, chia cắt, giãn cách, phong tỏa bởi Coronavirus. Thế nhưng, điều đáng ngạc nhiên là cuốn sách này được tác giả - nhà báo, biên kịch truyền hình, tiểu thuyết gia Peter May (sinh năm 1951 tại Glasgow, Scotland) viết nên từ năm 2005. Khởi nguồn từ hiện thực lúc bấy giờ là dịch cúm gia cầm, H5N1, có khả năng trở thành đại dịch, Peter May đã viết cuốn tiểu thuyết Phong tỏa (Lockdown) trong 6 tuần lễ, lấy London làm bối cảnh câu chuyện, nơi dịch bùng phát và thành phố bị phong tỏa hoàn toàn. Một bệnh viện dã chiến được hối hả xây dựng, và các công nhân phát hiện ra chiếc ba lô đựng xương người trước khi họ đổ bê tông lấp đầy nó như chôn vùi “giúp” một bí mật khủng khiếp. Cuộc điều tra được mở ra với viên thám tử MacNeil. Câu chuyện diễn tiến đầy hồi hộp, khi MacNeil cùng những cộng sự của anh, trong đó có Amy - nhà nhân chủng học tài giỏi bị khuyết tật sau một tai nạn giao thông, cũng là người tình của MacNeil; và sau này là bà Tiến sĩ Castelli, cùng đi sâu tìm hiểu vụ án. MacNeil cũng chính là nạn nhân khi con trai anh bị dịch cúm cướp mất sinh mạng. Amy đã dựng lên từ bộ xương chân dung bé gái Choy người Trung Quốc bị sát hại; trong khi cuộc điều tra liên tục bị theo dõi bởi Pinker, một tay thiện xạ, một kẻ bệnh hoạn, tay sai của những thế lực trong bóng tối... “Cơn bệnh diễn tiến thật nhanh thành ra một tình trạng suy giảm chức năng hô hấp với sự tiến triển không thể thay đổi được, được gọi là Adult, hay Hội chứng Suy giảm Hô hấp cấp tính”, “Bên kia căn phòng có tiếng hắt hơi khiến tất cả những cái đầu đều hướng về phía Zoe. Trong những ngày này, mọi người đều quá nhạy cảm ngay cả với tiếng sụt sịt nhẹ nhất”, “Chắc chắn một trăm phần trăm rằng đứa bé đã bị nhiễm một thứ vi-rút được biến đổi gien mạnh mẽ nhất”… Những câu văn trong Phong tỏa không khỏi khiến người đọc liên tưởng, rùng mình vì quá tương đồng với hiện thực chúng ta đang sống, khi cả thế giới đang phải gồng mình chống chọi với dịch Covid-19. Những nút thắt của câu chuyện dịch bệnh, trong đó có đan cài câu chuyện tình yêu của viên thanh tra với nữ nhân chủng học Amy được nhà văn đưa ra và giải quyết bằng sự tháo gỡ tài tình là điểm cuốn hút của tác phẩm. Peter May nổi danh là tiểu thuyết gia trinh thám với các tác phẩm đoạt nhiều giải thưởng ở nhiều quốc gia (Giải Barry Arwards của Mỹ cho tiểu thuyết trinh thám hay trong năm; Giải văn học quốc gia của Pháp CEZAM Prix Litteraire; giải ITV Crime Thriller Book Club Best Read of the Year của Anh…). Nhưng điều hấp dẫn của Phong tỏa không chỉ là ở tính trinh thám hồi hộp với từng chi tiết như một cuốn phim nghẹt thở diễn ra trước mắt chúng ta, mà chính là tính dự báo, linh cảm về đại dịch của thế giới. Những vấn đề nóng từ cuộc cạnh tranh lợi nhuận, khi những tiến sĩ hóa - sinh siêu việt, khi sự phát triển của y học - dược phẩm lại dẫn đến tội ác tàn phá, hủy diệt chính con người khiến bạn đọc suy tư. Cái chết của Tiến sĩ Roger Blume - người đứng đầu Lực lượng Đặc nhiệm Đại dịch FluKill của Stein-Frankcks, cũng là kẻ chủ mưu tội ác, là chiến thắng của cái thiện với cái ác, của chính nghĩa với phi nghĩa, của con người tiến bộ với những kẻ mang danh khoa học mà chống lại loài người. Những điều này khiến cuốn tiểu thuyết có độ sâu sắc, chinh phục bạn đọc. Được biết, tiểu thuyết Phong tỏa không được xuất bản vào năm nó ra đời - 2005, vì bị cho là bối cảnh “phi hiện thực”. Mãi đến năm 2020, khi nhà văn Peter May “ngồi bó gối tại nhà ở Pháp, bị cấm ra khỏi nhà trừ những trường hợp đặc biệt. Một con coronavirus mới, Covid-19, đang tàn phá thế giới này”, cuốn sách mới được chấp nhận, ra mắt độc giả. Trong Lời nói đầu, tác giả tự nhận xét “Sự tương đồng (bối cảnh tiểu thuyết - NV) với Phong tỏa thật đáng sợ”. Và từ nỗi sợ ấy, thông điệp mà tác phẩm đưa ra là sự cảnh báo con người hiện đại trong bước phát triển quá nhanh của thế kỷ 21 này, lại càng thấm thía hơn bao giờ. Chúng ta luôn cần những cuộc đấu tranh phân định trắng - đen, những việc làm đề cao giá trị đạo đức, nhân văn; và cả thái độ không khoan nhượng với cái ác, với những gì dẫn con người đến sự diệt vong. *** Dẫn truyện Tiếng thét của cô vang vọng khắp vùng bóng tối sau khi khó khăn lắm nó mới bật ra được khỏi cái cuống họng đã bị co thắt lại vì sợ hãi. Tiếng thét ấy, run rẩy theo nỗi kinh hoàng mà chính cô cảm nhận được, đủ làm cho lông tóc dựng ngược trên cánh tay hay vai gáy của bất kỳ người nào biết nghĩ đến người khác. Thế nhưng những bức tường dày của ngôi nhà cổ này bao bọc lấy nhau quanh nỗi sợ hãi của màn đêm để bảo đảm rằng chỉ những cái tai đã điếc trước cảnh ngộ của cô mới nghe được tiếng thét ấy. Y nguyền rủa, rít lên và khạc nhổ trong bóng tối, giận dữ và thất vọng. Cô có thể nghe tiếng y trên những bậc thang và biết rằng y muốn làm hại cô. Người đàn ông mà cô đã biết rõ và đã tin tưởng, kể cả đã thương yêu. Cô chìm vào trong sự mơ hồ của chính mình. Làm sao mà điều đó có thể xảy ra được? Cô nhớ lại sự đụng chạm nhạt nhẽo khi bàn tay y đặt lên vầng trán nóng bỏng của cô suốt những ngày dài bị hành hạ bởi cơn bệnh. Trong ánh mắt của y cũng có chút thương hại. Nhưng ánh mắt ấy giờ đây cháy bỏng sự giận dữ và hiểm độc. Cô nín thở. Y đã leo lên một cầu thang khác. Y nghĩ cô vẫn còn trên tầng thượng và cô lén rời khỏi phòng đọc sách để thấy được cái bóng của y trên các bậc thang khi y tiến lên đến tầng áp mái. Thế rồi cô quay lại và vội vàng đi xuống, đôi chân nhỏ nhắn rón rén bước trên tấm thảm dày tới chỗ ánh sáng lọt qua cửa sổ lắp kính màu chiếu xuống sàn của gian phòng chính. Những ngón tay tuyệt vọng nắm lấy và xoay tay nắm cửa. Nhưng cửa ra vào đã bị khóa. Không có lối thoát. Cô lạnh cóng cả người khi nghe tiếng y gầm rống từ trên tầng thượng của tòa nhà. Y biết rằng y đã mất cô. Trong một khoảnh khắc, cô ngần ngừ. Những bậc đá đi xuống tầng hầm bắt đầu từ phòng tắm bên dưới cầu thang. Nhưng cô biết nếu đi xuống đấy thì cô sẽ bị mắc kẹt. Ở đó chỉ có một cái máng trượt cũ kỹ dùng để chuyển than dẫn đến một khoảng hành lang giữa những căn nhà; và mặc dù có thân hình nhỏ nhắn, cô cũng không đủ nhỏ bé để lách người qua khoảng trống ấy. Cả tòa nhà rung chuyển với những bước chân của y trên các bậc thang và cô quay lại trong hoảng loạn chỉ để thấy rằng mình phải đương đầu với một bé gái. Một con ma trong một bộ váy ngủ màu trắng mái tóc đen cắt ngắn, cặp mắt hình trái hạnh đào mở to và đen nhánh, gương mặt bệt phấn. Hình ảnh của đứa trẻ gây nên nỗi sợ hãi xuyên qua người cô như những lưỡi nhọn của con dao vẫn chờ đợi cô, trước khi cô nhận ra rằng chẳng qua đó là cô đang phản ứng với sự suy nghĩ của chính mình mà thôi. Sự sợ hãi đã làm cho cô không thể nhận biết đúng sự vật. “Choy!”, cô nghe y gầm lên trong khu vực cầu thang, và chợt nhớ đến người phụ nữ đầu tiên đã hướng dẫn y và cô đi thăm toàn bộ ngôi nhà này vài tháng trước. Bảng điều khiển đặt âm tường của phòng ăn rộng lớn ở ngay trước mặt. Một căn phòng mà họ chưa hề sử dụng. Một căn phòng luôn sôi sục trong một bóng tối ngột ngạt, ánh mặt trời lúc ban ngày và những ngọn đèn lần lượt chiếu qua những vết tưa ra quanh mép những bức rèm. Nhân viên hãng bất động sản đã dời chỗ một chiếc bàn nhỏ để dỡ bỏ bảng điều khiển và để lộ một cửa ra vào nằm phía sau. Một cánh cửa cũ kỹ sơn trắng với cái tay nắm tròn mà cô đã mở vào vùng bóng tối phía bên kia. Vùng bóng tối ẩm ướt, lạnh lẽo, bụi bặm của một căn phòng gạch nhỏ, nơi từng có một gia đình gồm sáu người đã thu mình trong màn đen để trốn tránh những cuộc thả bom. Choy không hình dung được bà chủ nhà có ý nói về điều gì khi bà dùng từ “blitz” nhưng cô đã được nghe nói rằng khi những chiếc máy bay thả bom của Đức hoàn tất cuộc tấn công London, chúng chuyển hướng bay về phía Nam và trút tất cả lượng bom dư trong khoang tàu xuống khu vực bất hạnh này. Rồi khi còi báo động vang lên, dân chúng nhốn nháo như bầy chuột chạy vội vào “những chiếc bẫy chuột bằng gạch” của họ để nghe ngóng, để thấp thỏm chờ đợi và để cầu nguyện trong tăm tối. Choy lại nghe y gào thét gọi tên cô lần nữa, hệt như tiếng còi báo động của hơn nửa thế kỷ trước, tiếng thét khiến cô nháo nhác chạy vội vào căn phòng phía trước. Vội vàng, cô đẩy trượt chiếc bàn nhỏ qua một bên và dò dẫm để tháo bớt những vật ẩn giấu trên tấm bảng điều khiển màu xanh sẫm. Tấm bảng quá nặng, đôi bàn tay nhỏ bé của cô phải vật lộn để nậy cho nó rời ra. Cô có thể nghe thấy tiếng y trên đầu cầu thang tầng trên, thế rồi có tiếng bước chân của y trong phòng ngủ chính ở ngay phía trên. Cô kéo lệch tấm bảng điều khiển qua một bên rồi đẩy mạnh cánh cửa. Nó mở vào một vùng tối om om, một luồng không khí lạnh lẽo và ẩm thấp bao bọc khắp người cô. Cô bước hẳn vào bên trong rồi kéo tấm bảng điều khiển trở về chỗ cũ. Từ phía trong, cô không thể nào gắn chặt nó lại mà chỉ cầu nguyện để y đừng phát giác. Cô đóng cửa lại, mọi ánh sáng đều tắt ngấm. Cô ngồi xổm trên mặt đất rồi vòng cả hai tay ôm lấy đầu gối cho có chút hơi ấm. Chung quanh cô thật lạnh, thật tối tăm và thật cùng quẫn. Không hề có lối thoát. Cô không thể tưởng tượng làm thế nào mà sáu con người có thể ép chặt vào nhau trong khoảng không gian này. Thật là vượt ngoài sức tưởng tượng điên rồ nhất của cô để biết người ta có cảm giác như thế nào khi nghe tiếng bom rơi khắp chung quanh rồi tự hỏi liệu mình có phải là người kế tiếp hay không. Thế nhưng cô không cần tưởng tượng để hình dung về người đàn ông mà giờ đây cô đang nghe tiếng bước chân trên những bậc thang hay ánh sáng lấp lánh trên lưỡi dao mà cô biết chắc y đang mang theo. Nhà nuôi trẻ mồ côi ở Quảng Đông là một ký ức xa vời, đứa trẻ lúc ấy là cô, một con người khác trong một cuộc đời khác. Chỉ trong sáu tháng mà quá nhiều điều đã thay đổi, thế nhưng dường như vẫn có một điều gì đó vĩnh cửu, và cuộc đời khác kia chẳng qua chỉ là cái bóng của một giấc mộng. Cô thở hụt hơi, gấp gáp và ồn ào một cách bất thường. Nhưng hơn cả điều đó, cô có thể nghe thấy y đang có mặt ở sảnh trước. Những bước chân nặng nề trên sàn gỗ. Sự giận dữ trong giọng nói khi y gọi tên cô lần nữa. Rồi lại im lặng. Sự im lặng khiến từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác dường như kéo dài hàng nhiều giờ đồng hồ. Cô vội nín thở, càng lâu càng tốt, vì cô tin chắc rằng y sẽ nghe thấy, vẫn là sự im lặng. Thế rồi cô thở hổn hển khi nghe tiếng vỡ của tấm bảng điều khiển ở mặt ngoài của cánh cửa. Tim cô đập mạnh đến nỗi cô có cảm tưởng ai đang đấm vào ngực mình. Tay nắm cửa xoay. Cô ép sát người vào tường khi cánh cửa từ từ mở ra. Ánh sáng từ gian sảnh hắt bóng y lên khuôn cửa sau lưng y. Cô có thể thấy hơi thở của cô, đọng thành sương trong làn không khí lạnh, được rọi vào bởi cùng luồng ánh sáng ấy. Y từ từ cúi xuống rồi vươn tay về phía cô. Cô không thể nhìn thấy mặt y nhưng có thể nghe được tiếng cười mỉm của y. “Hãy lại đây với ba nào”, y dịu dàng lên tiếng. Mời các bạn mượn đọc sách Phong Tỏa của tác giả Peter May & Nguyễn Văn Nhật (dịch) & Nguyễn Thuần Phác (dịch).
Buổi Tiệc Trà Kì Bí
Đầu năm mới, Kyoto khoác lên mình dáng vẻ vô cùng nhộn nhịp. Cô bé Mashiro Aoi đang làm thêm ở cửa hàng đồ cổ “Kura” trong khu phố Teramachi Sanjo cùng cháu trai ông chủ là Yagashira Kiyotaka được mời tới tham dự buổi “tiệc đọc sách” của tác giả thể loại văn học kì bí nổi tiếng, Aigasa Kurisu. Sự kiện ấy được tổ chức tại Sơn trang Yoshida vào buổi tối ngày Valentine. Trong buổi “tiệc đọc sách”, biên tập viên phụ trách và bạn bè thân thiết của Kurisu cũng được mời đến. Tại đó, em gái Kurisu đã yêu cầu Kiyotaka tìm ra thủ phạm định giết chị gái mình ba tháng trước… Đây là tập bốn của loạt tiểu thuyết kì bí thành công vang dội! * Holmes ở Kyoto là bộ tiểu thuyết kì bí nhẹ nhàng cực kì nổi tiếng, không chỉ tạo cơ hội cho độc giả làm quen với những nét đẹp văn hoá của mảnh đất Kyoto mà còn giới thiệu về muôn vàn món cổ vật nổi tiếng ở khắp nơi trên thế giới. Và rồi, mỗi món cổ vật đều cất giữ câu chuyện của riêng mình. *** Yagashira Kiyotaka: Hai mươi hai tuổi. Sinh viên cao học năm nhất Đại học Kyoto. Tên thường gọi là “Holmes”. Cháu trai ông chủ tiệm đổ cổ “Kura” toạ lạc ở Teramachi Sanjo, Kyoto. Cư xử dịu dàng và lịch lãm, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Đôi lúc thích bắt nạt người khác, một chàng trai Kyoto “nham hiểm”. Mashiro Aoi: Mười bảy tuổi. Học sinh lớp Mười Một. Chuyển từ thành phố Omiya tỉnh Saitama đến Kyoto sinh sống đã được bảy tháng. Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại cửa tiệm “Kura”. Vẫn còn vương vấn người yêu cũ ở trường cấp ba ngày trước. *** #độc_giả_review_sách  [HOLMES Ở KYOTO - Mai Mochizuki]  Chắc hẳn khi đọc tiêu đề Holmes ở Kyoto, bất kì ai cũng sẽ liên tưởng tới thám tử Sherlock Holmes lừng danh. Cuốn sách này lại viết về anh chàng Yagashira Kiyotaka 20 tuổi, sinh viên năm nhất đại học Kyoto, có biệt danh là Holmes bởi “sự sắc sảo đến đáng sợ” của anh.  Cuốn sách được viết dựa trên lời kể của cô bé Mashiro Aoi, mười bảy tuổi, học sinh lớp Mười Một. Aoi đã bị Holmes nắm thóp từ lần đầu gặp mặt và tình cờ trở thành nhân viên giúp việc tại cửa hàng đồ cổ của gia đình anh. Từng câu chuyện khác mở ra, kéo theo sau những biến chuyển trong tình cảm của Aoi với sự dịu dàng, lịch lãm nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ của Holmes. Những tưởng Holmes cũng là một người siêu phàm, thật bất ngờ khi Aoi khám phá ra được Holmes cũng là một người có quá khứ, giống như Aoi, cũng từng để mất người yêu vào tay của người khác… Điều mình cảm thấy cực kì thích ở cuốn sách này đó là cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm nhận hết sức chân thật về văn hóa cũng như lịch sử của Nhật Bản. Bản thân mình là người rất thích đi du lịch, khi đọc cuốn sách mình cảm thấy như đang thật sự được trải nghiệm từng ngóc ngách và nét văn hóa của Nhật.  Cách sử dụng vốn từ trong cuốn sách khá là dung dị, đời thường, cộng thêm các câu chuyện đều rất thực tế, không đẫm máu, không chết chóc, không có những thủ đoạn giết người hay khủng bố như nhiều cuốn sách trinh thám khác, nên cuốn sách mang lại cảm giác dễ chịu gần gũi, đôi lúc khiến người đọc bật cười khi những suy nghĩ của mình bị bóc mẽ bởi lập luận cùng khả năng quan sát tinh tường của Holmes, từ đó mình có thể học hỏi và áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt hơn cả, cuốn sách lấy bối cảnh là ở Kyoto, xoay quanh cửa hàng đồ cổ Kura của nhà Holmes và những nhân vật hết sức nhã nhặn, lịch sự, có đam mê và sở thích rất tao nhã với nghệ thuật cổ, cộng thêm sự am hiểu văn hoá và lịch sử nước nhà của tác giả khiến cho mình có cảm giác rất thanh khiết khi đọc cuốn sách này.  Mình nghĩ đây sẽ là một cuốn sách rất phù hợp cho những ai đang chịu áp lực và muốn giải tỏa stress cũng như những bạn yêu thích Nhật Bản và thích đi du lịch Nhật Bản mà chưa có điều kiện đi như mình. - Review của bạn @Linh Phương *** Một nhành dương liễu được tô điểm bằng những chiếc bánh mochi hồng và trắng. Mỗi khi năm mới đến, người ta sẽ lại bắt gặp món đồ trang trí dễ thương này. Nếu tôi không nhầm thì mochibana-shidare[1] là tên gọi của nó. Đồ trang trí trong dịp Tết có rất nhiều loại, nhưng tôi thích nhất là mochibana-shidare. Tôi, Mashiro Aoi, đang ngồi trên một chuyến xe buýt chật ních người. Vừa lắc lư theo chiếc xe, tôi vừa nhìn ra ngoài cửa sổ và nhoẻn miệng cười. Mùng ba tháng Giêng. Cả Kyoto đang tràn ngập niềm vui đón năm mới. Khắp nơi được trang hoàng lộng lẫy với shime-kazari[2], nebiki-matsu[3], mochibana-shidare, và những chiếc quạt giấy mạ vàng. Già trẻ gái trai trong trang phục truyền thống đi lại trên đường đông như mắc cửi. Ngỡ là toàn bộ thành phố đang trong mùa lễ hội rộn ràng. Tôi dám chắc những người đang đi lại trên phố này đa phần là khách du lịch. Có lẽ họ đến từ các tỉnh thành khác, muốn được tận hưởng dịp Tết ở một nơi “đậm chất Nhật Bản” như Kyoto, nên mới tới đây thăm thú đền chùa và xin lộc đầu năm. Và biết đâu, người ngoài trông thấy tôi lúc này cũng sẽ tưởng tôi là khách du lịch. Nhìn bộ dạng của bản thân hiện tại, tôi bẽn lẽn thu mình. Chiếc xe vừa dừng lại trước toà thị chính, tôi đã hấp tập nhảy xuống. Từ đường Oike, tôi đi xuyên qua biển người để tìm đến phố mua sắm Teramachi, Khu phố thương mại lợp mái vòm hôm nay còn náo nhiệt hơn thường ngày. Phần lớn những cửa hàng được xây kề nhau trong khu phố đã bắt đầu mở cửa từ mùng hai; chỗ thì chuẩn bị sẵn túi may mắn[4] chỗ lại phát rượu khai vị đầu năm[5]. Tất cả đều chìm trong bầu không khí hân hoan vui vẻ. Phố mua sắm Teramachi lúc này tấp nập ngang ngửa dịp cuối năm, nhưng cảm giác bề bộn, hối hả khi ấy đã không còn. Dù tính ra cũng mới có vài ngày kể từ khi năm cũ khép lại. Tới tận ngày ba mươi mốt tháng Mười Hai, tôi vẫn còn làm thêm ở đây. Vậy mà kì lạ thay, chỉ cần “sang năm mới” là tôi đã có cảm tưởng như lâu lắm mới được đặt chân đến nơi này. Nhịp bước nhún nhảy của tôi liệu có phải do tâm trạng phấn chấn trong không khí Tết? Cuối cùng thì ngày làm việc đầu tiên trong năm cũng đã đến. Phải, tiệm đồ cổ “Kura” nơi tôi làm thêm sẽ chính thức hoạt động trở lại vào hôm nay, mùng ba tháng Một. Ông chủ tiệm là ông Yagashira Seiji đã đề xuất rằng, “Vào ngày làm việc đầu tiên, tất cả đều phải có mặt nghen,” cho nên kể cả đứa làm thêm như tôi cũng được gọi đến. Ngoài việc trong cửa hàng ra, tôi tự thấy mình chẳng giúp được gì nhiều. Ấy vậy mà ông chủ vẫn mời tôi đến dự buổi gặp mặt đầu năm, khiến tôi vô cùng hạnh phúc. Cảm giác như mọi người đã thật sự công nhận tôi là một phần của tiệm “Kura”. Tôi tự nhủ mình phải vững vàng lên, mắt nhìn thẳng về phía trước và bước đi mạnh mẽ. Chẳng mấy chốc, tấm biển của cửa hàng đồ cổ “Kura” đã hiện ra trong tầm mắt. Bề ngoài của nó vẫn như mọi khi, giống một quán cà phê hơn là tiệm đồ cổ. Tiệm “Kura” hôm nay cũng đã chuyển sang “chế độ mừng năm mới”, với mặt tiền được trang hoàng bởi kadomatsu[6], shime-kazari, và cả mochibana-shidare. “Cháu chào mọi người ạ.” Khi tôi đẩy cửa bước vào, tiếng chuông cửa quen thuộc lại reo lên leng keng. “Ồ, Aoi đó hả?” Người vừa cất giọng sang sảng và ngoảnh lại nhìn tôi là ông chủ cửa hàng này, ông Yagashira Seiji, năm nay bảy mươi bảy tuổi. Ông là một người chuyên giám định đồ cổ nổi tiếng mang danh hiệu “Chuyên gia giám định cấp quốc gia” được đông đảo cư dân ở vùng Kansai này biết đến. Thường ngày, ông chủ hay ăn vận theo phong cách kinagashi phóng khoáng, nhưng hôm nay đã đổi sang lễ phục đầy đủ quần hakama[7] và áo khoác haori[8] cho đúng tinh thần lễ tết, cảm giác trịnh trọng và uy nghiêm hơn bội phần. Đứng cạnh ông chủ là con trai ông, bác quản lí Takeshi. Gọi là quản lí nhưng nghề nghiệp chính của bác ấy là nhà văn, chuyên sáng tác tiểu thuyết lịch sử với bối cảnh thời phong kiến. Bác gắn liền với hình ảnh vừa trông cửa hàng vừa cặm cụi cày bản thảo ở “Kura”. Hôm nay bác mặc một bộ kimono màu chàm. Đứng bên còn lại của ông chủ là một chàng thanh niên cao ráo với gương mặt khôi ngô đang nhoẻn miệng cười dịu dàng. Đó là cháu nội kiêm đệ tử của ông, anh Kiyotaka, hay còn gọi là anh Holmes, một sinh viên cao học đang làm giám định viên tập sự. Anh là người có đầu óc nhạy bén, được đặt biệt danh là Holmes nhờ vào khả năng quan sát và mắt thẩm định tinh tường hiếm thấy, cùng cái họ “Yagashira”. Anh Holmes lúc này cũng đang khoác trên mình một bộ kimono giống ông chủ và bác quản lí, nhưng màu mực tàu. Ở phía sau lưng họ có một người phụ nữ xinh đẹp. Cô là Takiyama Yoshie, đang điều hành một công ty chuyên tư vấn tổ chức những sự kiện liên quan đến mĩ thuật, đồng thời cũng là bạn gái của ông chủ. Cô có ngoại hình hết sức trẻ trung, tưởng như mới ngoài ba mươi, nhưng thực ra là một mĩ nhân đứng tuổi đã ngoại tứ tuần. Bộ hōmongi[9] xanh lục sáng như màu cỏ non hôm nay hoà hợp với cô một cách hoàn hảo. Đúng vậy, hôm nay, ngày làm việc đầu tiên của năm đã được quy ước là ngày “mặc kimono đi làm” nên tất cả chúng tôi đều diện trang phục truyền thống. “Chúc mừng năm mới Aoi nhé.” Được mọi người đồng thanh gửi lời chúc, tôi rụt rè cúi đầu. “Ch-Chúc mừng năm mới cả nhà mình ạ. Dù đã biết hôm nay sẽ như thế, nhưng nhìn mọi người đồng loạt mặc kimono thế này vẫn làm cháu hơi choáng ngợp.” “Tết là mặc kimono”, rất đúng kiểu của “Kura”. “Vậy nhưng, ở đây chỉ có một mình anh là mặc kiểu kinagashi thôi này.” Kinagashi là cách mặc trang phục truyền thống giản lược, không cần áo khoác haori hay quần hakama mà chỉ có kimonothắt obi. “Em thấy anh mặc đẹp lắm ạ.” Tôi có cảm giác là kiểu mặc kinagashi thanh thoát, không cầu kì sẽ hợp với anh Holmes hơn lễ phục cứng nhắc với đầy đủ haori và hakama. Mái tóc đen nhánh kết hợp với bộ kimonomàu mực tàu làm nổi bật lên làn da trắng trẻo của anh ấy, trông thật là quyến rũ. “Cảm ơn Aoi. Bộ komon ấy cũng rất hợp với em,” anh Holmes mỉm cười đáp. “Công nhận, cháu đáng yêu lắm.” “Phải đấy, trông rất xinh.” Cô Yoshie và bác quản lí cũng chêm vào. “... Ch-Cháu cảm ơn ạ,” tôi xấu hổ lí nhí. Đúng vậy, hôm nay tôi cũng mặc kimono. Gọi vậy thôi chứ nó không phải furisode mà là komon, loại kimono với hoa văn nhỏ phủ khắp thân áo. Những đoá hoa phớt hồng rải rác trên nền vải màu kem. Obi cũng có màu hồng nhạt tương tự, mặt trước trông như một bông hoa to sắp nở, tổng thể nhìn chung là hết sức dễ thương. Tôi ưng bộ kimono này vì nó trông không đến nỗi quá thường, nhưng vẫn nhẹ nhàng đủ để có thể thoải mái ra phố dạo chơi. “Bộ komon này có phải em mua ở ‘Kobo-san’ hồi trước không?” Anh Holmes hỏi, vẻ như muốn xác nhận lại. Tôi ngẩng lên nhìn anh và gật đầu đáp, “Vâng.” “Kobo-san” là tên thường gọi của hội chợ được tổ chức tại chùa To-ji vào ngày hai mươi mốt hằng tháng. Nó giống như một buổi chợ trời lớn song song với lễ hội. Vào ngày này, người ta sẽ mở sạp hàng kinh doanh đủ thứ trong khuôn viên chùa To-ji, từ quầy ăn uống, trò chơi, đồ cổ cho đến tạp hoá, quần áo cũ, kimono, thực phẩm. Trước đây, tôi đã có lần cùng anh Holmes đến đó, quy mô còn lớn hơn cả chợ hàng thủ công ở Hyakumanben Chion-ji. Nhân tiện thì ở Kyoto có ba hội chợ lớn được mở hằng tháng: chợ hàng thủ công tại chùa Hyakumanben Chion-ji vào ngày mười lăm, chợ Kobo-san tại chùa To-ji vào ngày hai mươi mốt, còn ngày hai mươi lăm là chợ Tenjin-san ở đền Kitano Tenmangu. Tôi tìm thấy bộ kimono này vào dịp cuối năm, trong lần đầu tiên đến chợ Kobo-san cùng cô bạn Miyashita Kaori. Khi cầm bộ kimono nằm trong xe chở hàng lên, Kaori đã bảo tôi rằng, “Chỗ này toàn món hời đó nha.” Nhà Kaori là một cửa hàng trang phục truyền thống danh tiếng với lịch sử lâu đời. Nghe được nhận xét của cậu ấy nên tôi cũng có thể yên tâm mua món hàng này. Kimono thường gắn liền với hình ảnh của một loại trang phục đắt đỏ, không dễ gì mua được, nhưng những bộ được bày bán ở hội chợ lại rẻ hơn tôi nghĩ, chỉ với khoản lương làm thêm của tôi cũng dư sức trả rồi. Nghĩ lại thì trước khi chuyển đến sống ở Kyoto, việc bỏ tiền túi ra mua một bộ kimono với tôi là chuyện không tưởng. Thực ra obi là đồ có sẵn ở nhà, còn cách mặc thì tôi phải nhờ bà giúp. Tôi chạm tay vào obi, trong lòng mong mỏi một ngày nào đó mình có thể tự mặc kimono. “Mọi người tập hợp đồng đủ rồi, giờ ta cụng ly khích lệ tinh thần làm việc đầu năm nhé.” “Của Aoi là amazake[10] nhỉ.” Anh Holmes rót sake và amazake vào chén, sau đó đưa rượu cho từng người theo thứ tự tuổi từ thấp đến cao, bắt đầu từ tôi, cô Yoshie, quản lí, và cuối cùng là ông chủ kèm câu: “Mời ông ạ.” Chẳng biết có phải do trang phục truyền thống hay không, mà mỗi động tác của anh Holmes đều quyến rũ hơn bình thường, khiến tôi không tài nào nhìn thẳng được. “E-Em cảm ơn ạ,” tôi nhận lấy chén rượu và e lệ cụp mắt xuống. Đúng lúc mọi người đang chuẩn bị nâng ly, tiếng chuông leng keng vang lên ngoài cửa, và anh Akihito hớt hải xông vào, “Xin lỗi cả nhà, cháu đến muộn! Năm mới vui vẻ ạ!” Anh ấy cũng đóng bộ chỉnh tề với hakama và haori có màu xanh chủ đạo. Mái tóc sáng màu nhìn qua tưởng chừng không ăn nhập với phục trang, thế mà lại hoà hợp đến bất ngờ. Hiện nay, anh Akihito đang được công chúng khen ngợi là một “diễn viên điển trai”. Chắc nhờ thường xuyên mặc trang phục truyền thống trên chương trình giới thiệu Kyoto “Tiết trời Cố đô” nên anh ấy đã quen với kimono rồi. “‘Xin lỗi cả nhà’ gì chứ, có ai mời anh đâu nhỉ?” “Bậy nào.” Bị anh Holmes ném cho một cái nhìn lạnh tanh, anh Akihito lắc đầu nguầy nguậy. “Hôm mở tiệc giao thừa, ông chủ đã dặn tôi rằng: ‘Mồng ba tiệm bắt đầu mở cửa trở lại, cậu hổng mắc việc gì thì nhớ ghé qua nghen. Có cậu Akihito tới bao giờ cũng vui.’ Tôi được ông chủ chiếu cố bấy lâu nay, nghe thế sao có thể không đến được.” Anh Akihito vừa cười vừa tét một phát vào cánh tay anh Holmes. Đối nghịch lại, anh Holmes xoa xoa chỗ tay bị tét với ánh mắt lạnh lùng. Hai con người này mới đầu năm đã thế, chẳng thay đổi gì. “Vậy là cậu Akihito cũng tới rồi.” Ông chủ đích thân rót sake vào chén và trao cho anh Akihito. Anh Akihito nhận lấy với vẻ trân trọng. “Nào, Takeshi, Kiyotaka, Yoshie, bé Aoi, cậu Akihito. Năm nay vẫn lại tiếp tục chiếu cố nhau nghen” Ông chủ cao giọng hô: “Cụng ly!”, chúng tôi cũng đồng loạt nâng chén và nói: “Cụng ly!” rồi uống một hơi cạn chén. Có lẽ do tôi đã thấm mệt vì không quen mặc kimono, lại phải đi từ nhà đến tận đây, nên ngụm amazake thanh mát ấy cảm giác ngon vô cùng. “Ơ, Aoi cũng uống sake à?” “Dạ không, mình em uống amazake ạ.” “À ừ, em vẫn còn vị thành niên nhỉ. Lớp Mười Một đúng không?” “Vâng, em sẽ lên lớp Mười Hai vào mùa xuân ạ.” “Phải rồi Aoi, nói đến mùa xuân thì xuân năm nay đứa con trai đang đi du học của cô sẽ về nước đấy. Mong cháu giúp đỡ thằng bé nhé,” cô Yoshie chêm vào một câu như thể vừa sực nhớ ra. Tôi bị bất ngờ, nhưng vẫn gật đầu đáp: “V-Vâng ạ.” Nhắc mới nhớ, Cô Yoshie có một đứa con trai. Nếu tôi không nhầm thì cậu ấy đang học lớp Mười, nghĩa là nhỏ hơn tới một tuổi. Con của cô Yoshie thì hẳn phải đẹp trai lắm. Trong lúc mọi người đang sôi nổi trò chuyện, ông chủ nhìn đồng hồ rồi chậm rãi đứng dậy. “Thôi, bọn ta đi trước nghen.” “Vậy bố cũng...” “Khoan.” Thấy ông chủ và quản lí lại chuẩn bị đi đâu đó, anh Holmes vội lên tiếng. “Ông và bố có thể nán lại một chút rồi mới đi có được không ạ? Hôm nay dù sao cũng là ngày mở hàng, con muốn dẫn Aoi đến thăm Yata Jizo-son.” Nghe anh Holmes nói, tôi nghiêng đầu thắc mắc: “Yata Jizo-son ấy ạ?” “Là ngôi chùa Địa Tạng ở ngay gần đây. Ngày làm việc đầu tiên nên anh nghĩ cũng nên đến chào hỏi chút.” “À, chỗ bên cạnh đồn cảnh sát phải không ạ?” Tôi vỗ hai tay vào nhau. Hôm nào đi làm tôi cũng trông thấy nơi đó, nhưng không mấy để tâm nên đến tên cũng chẳng biết. Tôi tự dưng thấy có lỗi vì sự thiếu lễ độ của mình. “Cũng được, mà đi lẹ lẹ nha. Ta hổng có đợi được lâu đâu,” ông chủ ngúng nguẩy quay đi. “Nói gì thì đây vẫn là cửa hàng của ông đấy ạ. Ông định trốn việc đi chơi mà sao còn giở giọng hách dịch với con cháu thế?” “Ta còn nhiệm vụ đi chúc Tết rất quan trọng đó. Đã thế thì bây làm thay ta đi nhá?”   Mời các bạn mượn đọc sách Buổi Tiệc Trà Kì Bí của tác giả Mai Mochizuki & Dương Dương (dịch).
Tâm Tư Lẩn Khuất Cõi Trần Ai
Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại tiệm “Kura” và được Kiyotaka chỉ dạy về mĩ thuật cổ. *** Yagashira Kiyotaka: Hai mươi hai tuổi. Sinh viên cao học năm nhất Đại học Kyoto. Tên thường gọi là “Holmes”. Cháu trai ông chủ tiệm đổ cổ “Kura” toạ lạc ở Teramachi Sanjo, Kyoto. Cư xử dịu dàng và lịch lãm, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Đôi lúc thích bắt nạt người khác, một chàng trai Kyoto “nham hiểm”. Mashiro Aoi: Mười bảy tuổi. Học sinh lớp Mười Một. Chuyển từ thành phố Omiya tỉnh Saitama đến Kyoto sinh sống đã được bảy tháng. Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại cửa tiệm “Kura”. Vẫn còn vương vấn người yêu cũ ở trường cấp ba ngày trước. *** #độc_giả_review_sách  [HOLMES Ở KYOTO - Mai Mochizuki]  Chắc hẳn khi đọc tiêu đề Holmes ở Kyoto, bất kì ai cũng sẽ liên tưởng tới thám tử Sherlock Holmes lừng danh. Cuốn sách này lại viết về anh chàng Yagashira Kiyotaka 20 tuổi, sinh viên năm nhất đại học Kyoto, có biệt danh là Holmes bởi “sự sắc sảo đến đáng sợ” của anh.  Cuốn sách được viết dựa trên lời kể của cô bé Mashiro Aoi, mười bảy tuổi, học sinh lớp Mười Một. Aoi đã bị Holmes nắm thóp từ lần đầu gặp mặt và tình cờ trở thành nhân viên giúp việc tại cửa hàng đồ cổ của gia đình anh. Từng câu chuyện khác mở ra, kéo theo sau những biến chuyển trong tình cảm của Aoi với sự dịu dàng, lịch lãm nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ của Holmes. Những tưởng Holmes cũng là một người siêu phàm, thật bất ngờ khi Aoi khám phá ra được Holmes cũng là một người có quá khứ, giống như Aoi, cũng từng để mất người yêu vào tay của người khác… Điều mình cảm thấy cực kì thích ở cuốn sách này đó là cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm nhận hết sức chân thật về văn hóa cũng như lịch sử của Nhật Bản. Bản thân mình là người rất thích đi du lịch, khi đọc cuốn sách mình cảm thấy như đang thật sự được trải nghiệm từng ngóc ngách và nét văn hóa của Nhật.  Cách sử dụng vốn từ trong cuốn sách khá là dung dị, đời thường, cộng thêm các câu chuyện đều rất thực tế, không đẫm máu, không chết chóc, không có những thủ đoạn giết người hay khủng bố như nhiều cuốn sách trinh thám khác, nên cuốn sách mang lại cảm giác dễ chịu gần gũi, đôi lúc khiến người đọc bật cười khi những suy nghĩ của mình bị bóc mẽ bởi lập luận cùng khả năng quan sát tinh tường của Holmes, từ đó mình có thể học hỏi và áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt hơn cả, cuốn sách lấy bối cảnh là ở Kyoto, xoay quanh cửa hàng đồ cổ Kura của nhà Holmes và những nhân vật hết sức nhã nhặn, lịch sự, có đam mê và sở thích rất tao nhã với nghệ thuật cổ, cộng thêm sự am hiểu văn hoá và lịch sử nước nhà của tác giả khiến cho mình có cảm giác rất thanh khiết khi đọc cuốn sách này.  Mình nghĩ đây sẽ là một cuốn sách rất phù hợp cho những ai đang chịu áp lực và muốn giải tỏa stress cũng như những bạn yêu thích Nhật Bản và thích đi du lịch Nhật Bản mà chưa có điều kiện đi như mình. - Review của bạn @Linh Phương *** Ở khu vực lân cận Teramachi Sanjo thuộc Kyoto, có đến mấy con phố mua sắm giăng mắc với nhau theo một bố cục tương đối là phức tạp. Những mái vòm nối liền nhau rất dễ khiến người ta nhầm tưởng rằng tất cả đều thuộc cùng một khu mua sắm, nhưng thực chất mỗi con đường lại là một phố mua sắm khác nhau. Từ đường Oike rẽ vào đường Teramachi là “phố mua sắm của Hiệp hội Cửa hàng chuyên doanh Teramachi”, đi thêm chút nữa sẽ giao với “dãy cửa hàng danh tiếng Sanjo”. “Phố mua sắm Teramachi Kyogoku” và “phố mua sắm Shinkyogoku” chạy song song với nhau, nhìn đằng trước sẽ thấy được “chợ Nishiki”, nơi nổi danh toàn quốc là “nhà bếp của đất kinh kì”. Chỉ nghe tả thế này thôi thì đúng là hơi bị rối rắm, có vẻ đến dân Kyoto cũng nhiều người ú ớ, nên khách du lịch không nắm được âu cũng là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên, người đi mua sắm có khi cũng chẳng cần để ý nhiều đến vậy. Từ đường Oike vào “phố mua sắm Hiệp hội Cửa hàng chuyên doanh Teramachi”, người ta có thể ngoặt sang “dãy cửa hàng danh tiếng Sanjo”, và cũng có thể cứ thế đủng đỉnh đi dọc “phố mua sắm Teramachi Kyogoku” hay “phố mua sắm Shinkyogoku” rồi lang thang thăm thú “chợ Nishiki”. Thậm chí ta còn có thể bước qua một loạt những cửa hàng nối liền nhau, rồi bắt gặp một ngôi đền, ngôi chùa nhỏ xinh nào đó. Tiệm đồ cổ “Kura” nằm lặng lẽ giữa khu phố mua sắm với kết cấu y hệt mê cung như vậy. Cửa hàng tuyệt nhiên chẳng mang diện mạo cố tình gây ấn tượng, nên người đi đường nhiều lúc sẽ chỉ lướt qua, nhưng một khi đã để mắt tới nó, người ta sẽ nhận ra rằng nơi đây toát lên một sức hấp dẫn lạ kì. Trong cửa hàng có đèn chùm, bộ sô pha cổ, bên vách tường cạnh quầy thu ngân là giá sách và tủ đựng đồ kiểu Nhật làm bằng gỗ sồi đánh véc ni. Một nơi dung hoà phong cách Nhật Bản với phương Tây, khiến ta liên tưởng đến các quán cà phê mang xu hướng Modern Retro[1] đậm nét. Kim giây của chiếc đồng hồ tủ đứng cỡ lớn đang miệt mài di chuyển phát ra những âm thanh tích tắc. Âm sắc nhạc jazzdu dương như hoà nhịp với tiếng kim đồng hồ. Đủ loại đồ cổ và đồ tạp hoá được xếp thành hàng trên giá. Vẫn như mọi khi, thời gian cứ như đã ngừng trôi trong cửa hàng này. Tôi, Mashiro Aoi, nhân viên đang làm thêm trong tiệm, vừa phủi bụi cho các món hàng như thường lệ, vừa đưa mắt liếc về phía quầy thu ngân. Ở đó, một chàng thanh niên với khuôn mặt tuấn tú đang cầm một bức tranh cuộn trong tay và cười tủm tỉm. Tên anh là Yagashira Kiyotaka. Anh ấy là sinh viên cao học, nhờ khả năng quan sát và mắt giám định phi phàm hiếm thấy, lại thêm cái họ “Yagashira” nên anh có biệt danh là “Holmes”. Ngoài ra, anh còn là cháu nội kiêm đệ tử của ông chủ cửa hàng này là ông Yagashira Seiji, người được biết đến với tư cách Chuyên gia giám định cấp Quốc gia. Anh là một thanh niên điển trai với vóc người mảnh khảnh, tóc mái hơi dài, làn da trắng trẻo và sống mũi thẳng tắp. Hoàn toàn tương ứng với ngoại hình ấy, anh cũng là một người lịch thiệp, dịu dàng, nho nhã và có phong thái ứng xử hết sức ôn hoà. Nhưng mặt khác, anh còn là một kẻ tương đối kì quặc, thi thoảng lại tỏ ra nham hiểm, thậm chí có cả cái tính cứng đầu, hiếu thắng, hơn hết là lòng dạ nhiều khi hơi hơi đen tối. Lúc đầu tôi cũng hay bị anh làm cho lúng túng, thế mà chúng tôi đã cùng nhau trải qua khoảng thời gian tới tám tháng rồi. Chắc rằng tôi đã quen hơn nhiều, nên giờ không còn cảm thấy ngạc nhiên trước những nét kì quặc và tính cách hai mặt của anh ấy nữa. “... Bức tranh cuộn treo tường mà bác Ueda mang đến thế nào rồi ạ?” Tôi bước đến và thò mặt lại gần quầy thu ngân. Cuộn tranh anh Holmes hiện đang cầm trên tay là đồ tôi giữ giùm bác Ueda, một khách quen nhẵn mặt của tiệm, trong lúc anh ấy không có mặt ở cửa hàng. “Aoi thấy sao?” Anh Holmes hơi nghiêng nửa thân trên để tôi thấy được cuộn tranh. Một bức tranh được gọi là “mĩ nhân hoạ”, hay nói cách khác... “... Là ukiyo-e[2] anh nhỉ?” “Ừ, đúng rồi.” Bức ukiyo-e ấy vẽ một người phụ nữ hơi cúi đầu, tay cầm tẩu thuốc. Gương mặt mang nét u sầu ấy vô cùng xinh đẹp, nhưng tôi chẳng cảm nhận được sức ép khiến mình phải nín thở chút nào. Nếu được hỏi về tính thật giả của bức tranh này thì tôi có cảm giác đây không phải đồ thật. Có điều, ukiyo-e vốn là “tranh in khắc”, vậy nên... Đối với tranh in thạch bản của nước ngoài, tranh thật được gọi là “thạch bản gốc”, chủ yếu chỉ những tác phẩm do chính tác giả in, hoặc được chế tác tại công xưởng dưới sự giám sát của tác giả. Trước đây, anh Holmes đã dạy tôi điều đó. Vậy thì có phải ukiyo-e cũng giống thế không? “... Tranh khắc ukiyo-e thật với giả khác nhau ra sao ạ? Có phân biệt dựa vào việc ‘tác giả có chính tay in tranh hay không’ giống tranh in thạch bản không anh?” Khi tôi nói ra nguyên văn nghi vấn vừa hiện lên trong đầu, anh Holmes bèn gật gù. “Phải rồi. Ukiyo-e gồm hai loại chính, ‘tranh vẽ cọ’ do hoạ sĩ vẽ nên và ‘tranh in khắc’ được in từ mộc bản. Nhắc ukiyo-echủ yếu là ám chỉ tranh mộc bản của vế sau, còn tranh vẽ cọ là thứ có một không hai đến từ hoạ sư, cho nên vô cùng giá trị. Hiểu một cách nôm na thì tranh mộc bản phải trải qua những công đoạn như: hoạ sĩ vẽ bản thảo gốc, sau đó giao cho thợ khắc, cuối cùng là đến thợ in thực hiện việc in ra, vậy nên mới tồn tại những bức tranh mộc bản được in cùng thời điểm.” “Thế nghĩa là hoạ sĩ không tự tay khắc mộc bản anh nhỉ?” “Đúng vậy, mỗi công đoạn đều do nghệ nhân với chuyên môn riêng thực hiện.”   Mời các bạn mượn đọc sách Tâm Tư Lẩn Khuất Cõi Trần Ai của tác giả Mai Mochizuki & Ninh Nhân Văn (dịch).