Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngôi Nhà Mũi Tên

Bà Harlowe - một người phụ nữ giàu có qua đời. Di chúc của bà không hề đề cập đến người em rể. Như một lẽ tất nhiên, người đàn ông này bực tức cáo buộc người thừa kế - Betty Harlowe, đã giết bà Harlowe nhằm chiếm đoạt tài sản. Jim Frobisher, cộng sự tại công ty, lập tức đến Pháp để bảo vệ quyền lợi cho Betty. Tham gia cùng anh còn có thám tử Hanaud lừng danh của Sở Cảnh sát Pháp. Liệu tất cả mọi chứng cứ được phơi bày có giống như vẻ bề ngoài của nó? Liệu đây có đơn thuần chỉ là một vụ tống tiền lộ liễu hay là một âm mưu được dàn dựng công phu? Liệu Hanaud danh nổi như cồn đó có hoàn thành sứ mệnh của mình một cách xuất sắc giống như mọi người vẫn hằng khen ngợi?... *** Review: Ngôi nhà mũi tên - A.E.W.Mason Dịch giả: Nguyễn Thành Long Người viết Hà Quang Huy #trinh_thám_cổ_điển #ngôi_nhà_mũi_tên Nếu các bạn thích trinh thám cổ điển thì không nên bỏ qua cuốn này, cái twist khá ấn tượng . Cái thủ pháp thấy tuy là đơn giản, nhưng ngộ ra nó quả là cao siêu khó lường  Mở đầu là cái chết của bà Harlowe - người phụ nữ giàu có ra đi không để lại tý di chúc nào cho ông em rể, ông ta liền viết thư tống tiền trắng trợn cho Haslitt đồng thời đâm đơn kiện Betty bé nhỏ đã đầu độc bà Harlowe. Nhận được thư, Haslitt điều phụ tá của mình là Jim đến bảo vệ quyền lợi cho thân chủ là Betty xinh đẹp quyến rũ. Hanaud - vị thám tử trứ danh của sở cảnh sát Pháp được đặc quyền điều tra vụ án khó khăn nhất trong cuộc đời của ông. Một vị thám tử toát lên vẻ trang nghiêm, chói loà rất thân thiện ân cần và khâm phục trước vị thần May Rủi. Căn biệt thự được thiết kế tinh xảo trang nhã lại ẩn giấu âm mưu u tối xám xịt chết chóc lạnh lẽo. Một tội ác đã xảy ra trong ngôi nhà bất hảo vào cái đêm 27/4 định mệnh dưới bàn tay của "Kẻ gieo tai hoạ". Thứ thuốc độc quỷ quyệt hoang dã giết người không để lại dấu vết được trưng bày qua bao năm tháng đã phát tác mạnh bạo. Hanaud cùng Jim lần mò trong bóng tối mờ mịt vô phương để tìm ra mạnh mối, giải đáp các bí ẩn dưới đôi bàn tay tội lỗi...Những gì ông cần làm đều đã được đào tạo qua đấu trường bò tót, ông đã quá chai sạn với những bất ngờ, điều khiến ông bất ngờ chỉ là thần May Rủi. Ông đã sống trong thế giới tội ác và tội phạm nên ông hiểu chúng một cách thanh tao, nhìn thấu chúng bằng ánh mắt lạnh lùng sắt đá. Bằng suy luận sắc bén của một kẻ lập dị ông phải diễn trò trên cái sân khấu bất đắc dĩ để lấp đầy nỗi buồn chán và cô độc của bản thân! Đánh giá khách quan: 8.5/10 *** Trong số các thân chủ của công ty Frobisher & Haslitt, một công ty tư vấn luật nằm tại mạn đông quảng trường Russell, rất nhiều người sở hữu doanh nghiệp tại Pháp; và họ rất lấy làm tự hào về điều ấy. “Nhờ đó mà chúng tôi trở nên có chỗ đứng trong lịch sử,” ông Jeremy Haslitt vẫn hay nói. “Mọi chuyện bắt đầu từ năm 1806, khi ông James Frobisher, cộng sự cấp cao rất nhiệt huyết thời bấy giờ của chúng tôi, đã tổ chức cho hàng trăm công dân Anh bị giam giữ theo sắc lệnh của Napoleon Đệ Nhất thoát khỏi Pháp. Công ty được Chính phủ bệ hạ bày tỏ lòng cảm ơn và vẫn may mắn duy trì được mối quan hệ ấy. Tôi đích thân coi sóc mảng đó của công ty.” Bởi thế, trong số thư từ ông Haslitt nhận được hàng ngày, lúc nào cũng có một lượng lớn thư dán con tem xanh thẫm của Pháp trên phong bì. Tuy nhiên, vào buổi sáng đầu tháng Tư hôm nay, chỉ có duy nhất một bức như vậy. Chữ viết trên đó trông ngoằn ngoèo, nguệch ngoạc, và ông Haslitt không nhận ra là chữ ai. Nhưng nó mang dấu bưu điện Dijon, thế nên ông Haslitt nhanh chóng xé bao thư ra. Ông có một thân chủ ở Dijon, một góa phụ, bà Harlowe, và như ông nghe kể thì tình trạng sức khỏe của bà đang tệ lắm. Chắc chắn bức thư được viết tại nhà bà ấy, biệt thự Grenelle, nhưng không phải do đích thân bà viết. Ông lật sang phần chữ ký. “Waberski?” Ông vừa nói vừa cau mày lại. “Boris Waberski?” Và rồi ông thốt lên ngay khi nhận ra người viết thư, “À, phải rồi, phải rồi.” Ông ngồi xuống ghế và đọc. Phần đầu của bức thư chỉ đơn thuần là mấy câu văn hoa và khen ngợi, nhưng đọc được đến nửa trang hai thì mục đích của nó trở nên vô cùng rõ ràng. Đây là thư yêu cầu vay năm trăm bảng. Ông Haslitt mỉm cười và tiếp tục đọc, vừa đọc vừa độc thoại với người viết. “Tôi đang rất cần chỗ tiền đó,” Boris viết, “và…” “Hẳn là như thế rồi,” ông Haslitt nói. “Bà chị yêu quý của tôi, Jeanne-Marie…”, bức thư ghi tiếp. “Chị dâu,” ông Haslitt chỉnh lại. “… không thể sống lâu hơn được nữa, mặc dù tôi đã cố gắng chăm sóc chị ấy hết mực,” Boris Waberski tiếp tục trình bày. “Chắc hẳn ông cũng đã biết, chị ấy đã để lại cho tôi một phần lớn gia sản của mình. Vậy tức là nó đã thuộc về tôi rồi, đúng không? Có nói như vậy thì cũng sẽ không bị ai hiểu lầm ý cả. Chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật. Bởi vậy, xin hãy ứng trước cho tôi bằng thư đảm bảo một khoản nhỏ từ phần vốn đã thuộc về tôi, và cho tôi xin được gửi lời chào trân trọng nhất.” Nụ cười của Haslitt nở rộng hẳn ra. Bên trong chiếc hộp thiếc của ông là một bản sao tờ di chúc của Jeanne-Marie Harlowe, được công chứng viên người Pháp của bà tại Dijon viết lại theo đúng thể thức. Theo di chúc, mọi gia sản bà sở hữu sẽ được truyền lại vô điều kiện cho cháu gái chồng bà và con gái nuôi của bà, Betty Harlowe. Jeremy Haslitt thiếu chút nữa thì đã đem bức thư đi hủy. Ông gập nó lại; ngón tay giật giật trên nó; thậm chí phải đến khi xuất hiện cả một vết rách bên mép mấy tờ giấy thì ông mới đổi ý. “Không,” ông tự nhủ. “Không! Với cái tay Boris Waberski này thì không ai mà lường trước được,” và ông nhét bức thư vào một ngăn trong két riêng, sau đó khóa lại. Ba tuần sau, ông rất lấy làm mừng vì đã làm như vậy. Đó là lúc ông đọc được mẩu tin thông báo bà Harlowe đã qua đời trong cột cáo phó của tờ The Times, và nhận được một tấm thiệp lớn với viền đen rất đậm theo phong cách Pháp từ Betty Harlowe, ngỏ ý mời ông đến dự đám tang tại Dijon. Tấm thiệp mời này chỉ mang tính hình thức. Ông sẽ chẳng thể nào đến kịp Dijon để tham dự, kể cả nếu có khởi hành ngay tức khắc. Ông chấp nhận chỉ viết một vài dòng thành kính phân ưu với cô gái, và gửi một bức thư đến cho ông công chứng viên người Pháp, ghi rằng công ty ông sẽ hỗ trợ Betty. Thế rồi ông đợi. “Mình sẽ lại nghe tin từ cái tay Boris kia cho xem,” ông nói, và nội trong tuần đó, ông lại nhận được thư. Chữ viết trong thư thậm chí còn loằng ngoằng và nguệch ngoạc hơn hồi trước; sự hoảng hốt và phẫn nộ đã khiến cho câu từ của Waberski loạn hết cả lên; đồng thời hắn đã đòi lượng tiền lớn gấp đôi. “Thật không thể nào tin nổi,” hắn viết. “Chị ấy chẳng để lại chút gì cho người em trai tận tụy của mình. Có trò gì đó đang diễn ra, và tôi không ưa chút nào. Giờ số tiền sẽ phải là một ngàn bảng, gửi theo đường thư đảm bảo. ‘Boris tội nghiệp của chị, em luôn bị cả thế giới này quay lưng,’ chị ấy nói trong lúc mắt ngấn đầy lệ. ‘Nhưng chị sẽ bù đắp cho em trong di chúc.’ Và giờ thì chẳng có gì cả! Tất nhiên, tôi đã nói chuyện với cô cháu gái của tôi; ôi, con bé thật cứng đầu! Nó búng ngón tay vào mặt tôi! Hành xử theo cái thể thống gì vậy cơ chứ? Một ngàn bảng, thưa ông! Bằng không là sẽ có chuyện khó xử xảy ra! Vâng! Không ai búng ngón tay vào mặt Boris Waberski mà không trả tiền cả. Thế nên hãy trả tôi một ngàn bảng gửi theo đường thư đảm bảo, không là sẽ có chuyện khó xử”; và lần này Boris Waberski không buồn gửi lời chào nào đến cho ông Haslitt cả, cho dù có là trân trọng nhất hay không, chỉ đơn giản ký bằng một nét bút ngoáy tít, nhập nhằng khắp mặt thư. Ông Haslitt không mỉm cười với bức thư này. Ông nhẹ nhàng xoa hai lòng bàn tay vào với nhau. “Thế thì chúng ta đành phải để cho chuyện khó xử xảy ra vậy,” ông nói nhanh, và rồi cất bức thư thứ hai vào cùng chỗ với bức thư thứ nhất. Nhưng ông Haslitt cảm thấy hơi khó tập trung vào công việc. Bên trong cái ngôi nhà to lớn tại Dijon là một cô gái đơn côi, và không có người đồng hương nào ở bên cô ấy cả! Ông bất chợt đứng dậy khỏi ghế và băng qua hành lang, vào trong văn phòng của người cộng sự cấp thấp. “Jim, mùa đông này cậu đã đi Monte Carlo nhỉ,” ông nói. “Đi một tuần,” Jim Frobisher đáp. “Tôi nhớ mình có nhờ cậu đến thăm một thân chủ của chúng ta, người sở hữu một biệt thự ngoại ô tại đó - bà Harlowe.” Jim Frobisher gật đầu. “Tôi đã ghé. Nhưng bà Harlowe ốm rất nặng. Có một cô cháu gái, nhưng cô ta lúc ấy đang đi vắng.” “Thế tức là cậu không gặp ai cả?” Jeremy Haslitt hỏi. “Không, không phải,” Jim chỉnh lại. “Tôi thấy một nhân vật kỳ lạ ra mở cửa và xin lỗi thay bà Harlowe. Một ông người Nga.” “Boris Waberski,” ông Haslitt nói. “Đúng cái tên đó rồi.” Ông Haslitt ngồi xuống một cái ghế. “Kể cho tôi nghe về ông ta đi, Jim.” Jim Frobisher nhìn vào hư vô một vài giây. Anh là một thanh niên hai mươi sáu tuổi, mới chỉ tham gia làm cộng sự kể từ năm ngoái. Mặc dù rất nhanh nhẹn khi cần hành động gấp, anh lại hết sức cẩn trọng khi đánh giá bản chất người khác; và anh còn rất kính nể ông Jeremy Haslitt già, thế nên cứ mỗi khi làm gì liên quan đến công việc của công ty là lại cẩn trọng gấp đôi. Một lúc sau anh trả lời. “Ông ta là một người cao lớn, đi đứng trông có vẻ nặng nhọc, bên trên một vầng trán ngắn và một cặp mắt hoang dại là một mớ tóc bạc dựng thẳng đứng như dây kẽm gai. Ông ta gợi cho tôi nhớ đến một con rối không được gắn dây tử tế lên chân tay. Tôi tin con người này có bản chất khá ngông cuồng và dễ bị kích động, ông ta cứ liên tục miết bộ ria mép với mấy ngón tay dài ngoằng, ố màu thuốc lá. Đây là cái kiểu người có thể nổi điên bất cứ lúc nào.” Ông Haslitt mỉm cười. “Đúng như những gì tôi nghĩ.” “Ông ta gây rắc rối gì cho ông à?” Jim hỏi. “Chưa đâu,” ông Haslitt nói. “Nhưng bà Harlowe đã chết, và tôi tin rằng rất có khả năng ông ta sẽ giở trò gì đó. Ông ta có hay bài bạc gì không?” “Có, chơi rất khát,” Jim nói. “Tôi đoán là ông ta sống bám vào bà Harlowe.” “Tôi cũng nghĩ thế,” ông Haslitt nói, và ông im lặng ngồi đó một lúc. Thế rồi ông nói: “Thật đáng tiếc là cậu không được gặp Betty Harlowe. Tôi từng một lần ghé thăm Dijon trên đường đi qua miền Nam nước Pháp năm năm trước, hồi Simon Harlowe, chồng bà ấy, hãy còn sống. Betty hồi đó là một cô bé chân dài gầy gò, đi tất lụa đen, sở hữu một gương mặt trắng, sáng sủa, và mái tóc đen sẫm cùng cặp mắt lớn, xinh xắn lắm.” Ông Haslitt dịch người trên ghế một cách không thoải mái. Cả một ngôi nhà cổ với khu vườn lớn đầy dẻ và sung, trong khi cô gái kia thì một thân một mình, sống cùng với một tay đầu óc có vấn đề, đang bực bội và muốn gây chuyện khó xử cho cô. Ông Haslitt không thích cái hình ảnh đó chút nào! “Jim,” ông bất chợt nói, “cậu có thể thu xếp công việc sao cho nếu cần thiết thì sẽ có thể rời đi ngay lập tức được không?” Jim ngước nhìn lên, tỏ vẻ ngạc nhiên. Loạn cào cào, như kiểu dân sân khấu hay nói, không phải là chuyện hay xuất hiện tại công ty Frobisher & Haslitt. Dù cho đồ nội thất của họ hơi xỉn màu, tác phong của họ rất trang nghiêm; thân chủ có thể gặp chuyện khẩn, nhưng vội vã và gấp gáp là những từ công ty không bao giờ sử dụng. Chắc chắn đâu đó quanh đây sẽ có một luật sư chịu hiểu cho họ. Ấy nhưng giờ đây, đích thân ông Haslitt, cùng với mớ tóc bạc trắng và gương mặt tròn trịa khác thường, nửa trẻ con, nửa thông minh xuất sắc, lại đang đề nghị cộng sự cấp thấp của mình chuẩn bị sẵn sàng để đi thẳng sang đại lục châu Âu ngay khi có lệnh. “Tôi chắc chắn có thể làm vậy,” Jim nói, và ông Haslitt nhìn anh với vẻ hài lòng. Jim Frobisher sở hữu một nét tính cách rất khác người. Ngay cả người quen của anh, cho dù có là bạn bè thân thuộc, cũng mới chỉ từng biết đến các dấu hiệu anh để lộ ra bên ngoài. Anh là một người cô độc. Cho tới nay, anh chỉ quan tâm đến một số rất ít người, và ngay cả những người ấy anh cũng chẳng thiết tha gì mấy. Đam mê của anh là được cảm thấy rằng cuộc đời mình và ý nghĩa cuộc đời mình không phụ thuộc vào người khác. Trong những tháng được rảnh rang, anh luôn theo đuổi dam mê ấy. Một chiếc thuyền buồm nửa boong* chỉ cần một người lái, một cây rìu phá băng, một khẩu súng trường, một vài cuốn sách dài bất tận, chẳng hạn như Chiếc nhẫn và cuốn sách*. Đó chính là những người bạn đồng hành của anh trên biết bao chuyến thám hiểm cô đơn, bên cạnh các vì sao và những suy tư của riêng mình. Hệ quả là anh đã tự tạo cho bản thân mình một vẻ lạnh nhạt khác thường, khiến cho anh lập tức trở nên nổi trội giữa đám đông. Đây là một diện mạo đầy vẻ dối lừa, bởi lẽ nó dễ gợi lên sự tin tưởng cho người khác, mặc dù có khi chẳng có lý do nào để họ đặt lòng tin như vậy cả. Chính cái vẻ ngoài ấy bấy giờ đã thuyết phục ông Haslitt. “Đây đích thị là một người thích hợp để đối đầu với cái ngữ như Boris Waberski,” ông nghĩ thầm, có điều không nói hẳn ra như vậy. • Thuyền buồm nửa boong; loại thuyền half-deck, phần boong chỉ kéo dài bằng nửa thân tàu, có thể nằm ở cuối hoặc đuôi tàu. • Chiếc nhẫn và cuốn sách: tức The Ring and the Book, một tiểu thuyết dài được viết dưới dạng thơ của Robert Browning. Điều ông nói là: “Có khi cũng chẳng cần thiết phải làm vậy đâu. Betty Harlowe có một luật sư người Pháp. Chắc chắn anh ta sẽ đủ sức giải quyết. Ngoài ra…” - và ông mỉm cười lúc nhớ lại một câu trong bức thư thứ hai của Waberski - “Betty có vẻ là người rất có khả năng tự bảo vệ mình. Cứ để rồi xem.” Ông quay trở lại văn phòng của mình, và suốt một tuần liền ông không nhận được thêm bất cứ tin tức gì từ Dijon nữa. Lúc ông đã gần quên đi sự lo lắng của mình thì bất thình lình, một tin động trời xuất hiện, và nó được truyền đến thông qua một kênh rất bất ngờ. Jim Frobisher là người báo tin cho ông biết. Anh xộc vào văn phòng của ông Haslitt đúng lúc người cộng sự cấp cao đang đọc cho anh thư ký ghi lại lời phúc đáp cho mấy bức thư buổi sáng của mình. “Ông Haslitt!” Jim la lên, và ngưng bặt khi nhìn thấy viên thư ký. Ông Haslitt nhìn lướt qua gương mặt người cộng sự trẻ của mình và nói: “Godfrey, lát nữa chúng ta sẽ tiếp tục trả lời thư sau.” Viên thư ký mang cuốn sổ tay tốc ký ra khỏi căn phòng, và ông Haslitt quay sang Jim Frobisher. Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Mũi Tên của tác giả A. E. W. Mason.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Quân Bài Trên Mặt Bàn - Agatha Christie
“Những quân bài trên mặt bàn” một lần nữa cho thấy óc quan sát tinh tế, sự hiểu biết sâu sắc tâm lý tội phạm của Agatha Christie. Cuốn sách chắc chắn sẽ gợi những suy nghĩ cần thiết cho các nhà chuyên môn, và nó cũng góp phần khẳng định vị trí “Nữ hoàng của tiều thuyết trinh thám” mà giới văn học đã dành cho bà. Chúng tôi xin giới thiệu cùng bạn đọc tác phẩm “Những quân bài trên mặt bàn” của Agatha Christie, một trong những tác giả nổi tiếng nhất thế giới về thể loại trinh thám, thể loại mà như nhà văn Somerset Maugham đã nhận xét: “ngày nay thậm chí những người có trí tuệ phát triển nhất cũng đọc…” *** Đó là giờ phút của Poirot, mọi khuôn mặt đều quay về phía ông. Ông mỉm cười nói: - Các bạn thật là tốt. Các bạn hiểu rằng tôi đã rất đắc ý với bài tuyên án vừa rồi. Tôi quả là một lão già tầm thường.Theo tôi, đây là một trong những vụ án hay nhất tôi được biết. Các bạn thấy đấy, chẳng có gì lắm. Có bốn người, chắc chắn một trong số đó là thủ phạm, nhưng ai? Có gì để buộc tội không? Về mặt vật chất thì không. Chẳng có một manh mối nào hết, không dấu tay, không tài liệu hay giấy tờ buộc tội nào, chỉ có chính những nhân vật ấy. Còn một đầu mối nữa, những tờ ghi kết quả các ván bài.Chắc các bạn còn nhớ, ngay từ đầu tôi đã tỏ ra rất quan tâm đến kết quả ấy. Chúng nói với tôi về các nhân vật đã ghi từng tờ và còn hơn thế nữa. Chúng đã gợi cho tôi một ý rất quí. Tôi đã lập tức nhận thấy rằng, trong ván thứ ba, con số 1.500 ở trên. Con số đó chỉ có thể cho biết một điều - chuẩn bị ăn hết quân bài. Nào, nếu có một người sắp sửa quyết định gây tội ác trong hoàn cảnh bất bình thường, như trong khi đang chơi bài Brit này chẳng hạn, kẻ đó rõ ràng là phải liều lĩnh ở hai điều rất nghiêm trọng: thứ nhất là nạn nhân có thể sẽ kêu lên; thứ hai là, ngay cả khi nạn nhân không thể kêu, thì một trong số ba người kia có thể tình cờ nhìn lên vào đúng lúc quan trọng nhất và thực sự chứng kiến hành động. ... Mời các bạn đón đọc Những Quân Bài Trên Mặt Bàn của tác giả Agatha Christie.
Nợ Tình - Agatha Christie
15 năm trước, thi thể của tướng Alistair và vợ ông, bà Molly Ravenscroft được phát hiện gần Overcliffe. Cả hai đều chết vì những vết đạn, và một khẩu súng, trên đó chỉ toàn dấu tay của họ, được tìm thấy bên cạnh thi thể. Trong cuộc điều tra, đã không ai có thể chứng minh được đây là một vụ tự sát của cả hai hay là một vụ giết người rồi tự sát theo?  Bà Ariane Oliver đã gặp và nói chuyện với một số người mà bà xem họ là “những con voi” do đặc tính nhớ lâu của giống vật này. Trong những mẩu chuyện chắp vá của mình, những người này đã đưa ra những tình huống khác nhau, nhưng một ông bạn của bà, Hercule Poirot, đã lưu ý nhất đến một chi tiết mà ông cho là có thể đặc biệt: Molly Ravenscroft có bốn bộ tóc giả và ông cho rằng cần phải đào thật sâu vào quá khứ hơn nữa hòng tìm ra sự thật... *** Hercule Poirot một lần nữa lại xuất hiện trên con đường hẻm lên vách đã quay ra biển có những đợt sóng ngầu bọt đập liên tiếp vào chân núi. Chính nơi đây người ta đã tìm thấy hai xác chết của đôi vợ chồng nhà nọ. Cũng chính nơi đây ba tuần lễ trước đó một người mắc bệnh mộng du đã tử nạn.    Lúc này đã có nhiều người tới đây nhóm họp: một chàng trai và một cô gái đi tìm sự thật và hai người khác biết rõ sự thật ấy.  Poirot quay mặt nhìn ra biển, rồi nhìn con đường hẻm dẫn tới biệt thự ngày xưa có tên là Overcliffe. Nó cách đây không xa, theo chiều ngang bức tường có nhiều ôtô đang đậu. Ở trước cửa treo một tấm biển ghi cần bán toà biệt thự. Trên hàng rào thép có tấm biển khác ghi Overcliffe thay thế chữ Down House ngày xưa. Nhà thám tử bước lại gần Desmond Burton-Cox và Célia Ravenscroft đang đi trên đường hẻm.  - Nhân viên phụ trách đã đưa cho tôi chìa khoá - Chàng trai nói - Trong trường hợp chúng ta muốn vào biệt thự. Nhưng ngôi nhà đã hai lần đổi chủ trong năm năm gần đây nên tôi nghĩ là chẳng còn gì mà xem nữa.  - Em không tin - Célia trả lời - Trước hết một người tên là Archer mua nó, sau đó người này bán lại cho ông Fallowfield vì người ta thấy ở đây quá hẻo lánh. Và giờ đây ông Fallofleld đang muốn phá nó đi. Có thể là nhà có ma chăng?  - Em biết là nhà có ma thực ư?  ... Mời các bạn đón đọc Nợ Tình của tác giả Agatha Christie.
Bản Thông Báo Tử Vong tập 5: Khúc Ly Biệt 2 - Chu Hạo Huy
Muốn chiến thắng được tên sát thủ trí tuệ tuyệt đỉnh không để lộ một chút sơ hở nào, anh buộc phải điên cuồng hơn hắn! Phàm những ai nhận được “Bản thông báo tử vong” đều bị tên sát thủ thần bí tàn sát đúng như thời gian đã báo trước. Cho dù nạn nhân đã báo cảnh sát, cảnh sát dốc lực lượng hùng hậu thiên la địa võng, đồng thời theo sát bên cạnh nạn nhân để bảo vệ. Dưới tầng tầng lớp lớp mai phục như vậy, tên sát thủ thần bí vẫn có thể giết chết được đối phương một cách vô cùng dễ dàng như trở bàn tay! Tất cả những vụ giết chóc đều ở ngay trước mắt cảnh sát, đợt vây bắt lần nào của cảnh sát cũng đều bị thất bại thảm hại. Thế nhưng không ai hay biết được thân phận thật sự của tên sát thủ thần bí, lần nào sự bố trí tỉ mỉ cẩn trọng của cảnh sát cũng đều nằm trong kế hoạch của hắn, đây là một cuộc đối đầu đọ trí vô cùng đặc sắc. Thủ pháp gây án dường như hoàn mỹ không chút khiếm khuyết, liệu có tồn tại sơ hở nào để có thể phá án được hay không? Một cuộc thi đấu hấp dẫn, chắc chắn cần phải có đối thủ hùng mạnh. Anh muốn giết tôi, tôi cũng muốn giết anh - Đây chính là câu chuyện giữa cảnh sát và sát thủ! Những tội nhân thoát khỏi sự khống chế của pháp luật, đều sẽ phải đón nhận sự trừng phạt của Eumenides. Và người đàn ông đi ngược lại pháp luật này, anh ta quyết không bao giờ để mình phải chịu sự phán xét của pháp luật… *** ĐỐi với A Hoa sân bay tỉnh thành chính là vùng đất đau thương. Vào cuối thu năm ngoái, Đặng Hoa- nhân vật xưng bá một phương chính là bị mất mạng ngay trong đại sảnh chờ máy bay ở đây, từ đó cũng vén bức màn chuyển biến lớn thời kì hưng thịnh của Tập đoàn Long Vũ chuyển sang suy yếu. Và đối với A Hoa, đòn đả kích đối với cái chết của Đặng Hoa trên phương diện tình cảm vượt xa tất cả những ý nghĩa khác. Bởi vì trong con mắt A Hoa , Đặng Hoa quyết không chỉ đơn giản là một ông chủ - đó là một người đàn ông đem lại cho anh ta cuộc sống thứ hai. Giữa họ ngoài mối liên hệ chủ tớ, còn được liên kết bằng một thứ tình thân hơn cả huyết thống. Tối hôm đó A Hoa giương mắt nhìn Đặng tổng sụp đổ trước mặt thứ cảm giác bi thương và tuyệt vọng giống như khối băng dần dần tan chảy, trong khoảng khắc đã nhấn chìm anh ta; anh ta càng không thể nào quên được lúc đó bóng đen của kẻ gây ra tội ác ngay ở phía trên cao ngay ngoài phòng chờ máy bay đang cúi xuống nhìn tất cả mọi người, như thể một con điều hậu kiêu ngạo đang cúi xuống nhìn đám thỏ chuột không có chốn nương thân trên thảo nguyên trống trải. Mặc dù người đó đã dùng ánh sáng ngược sáng của sân bay để che giấu gương mặt mình, nhưng A Hoa lại có thể cảm nhận rõ được đôi mắt của đối phương giống như con dao quét qua toàn thân anh ta, còn anh ta thì lại giống như một đứa trẻ sơ sinh trần trụi không hề có khả năng phòng ngự. Hình ảnh này khắc sâu vào tâm khảm anh ta, định sẵn sẽ trở thành nỗi sỉ nhục trong cả cuộc đời anh ta. May mà A Hoa không vì nỗi sỉ nhục đó mà chạy trốn, anh ta cũng chưa bao giờ sợ bất cứ nỗi đau nào. Nỗi sỉ nhục và đau khổ chỉ càng thổi bùng lên ngọn lửa căm hận trong lòng anh ta-ngọn lửa báo thù. ... Mời các bạn đón đọc Bản Thông Báo Tử Vong tập 5: Khúc Ly Biệt 2 của tác giả Chu Hạo Huy.
Hãy Nghĩ Tới Một Con Số - John Verdon
BẠN NGHĨ TỚI MỘT CON SỐ TỰ NHIÊN KHÔNG QUÁ 1000, XÁC SUẤT ĐỂ AI ĐÓ ĐOÁN ĐƯỢC CON SỐ BẠN CHỌN LÀ BAO NHIÊU? 0,001  Không quá khó khăn phải không? Đến lần thứ hai, khi người đó lại tiếp tục đoán được con số bất kì mà bạn nghĩ tới trong đầu (xin nhấn mạnh là bất kì - nghĩa là xác suất, về lý thuyết là bằng 0) thì không còn ngạc nhiên thích thú ban đầu nữa, bởi chính là nỗi sợ hãi hoảng loạn khi kèm theo đó là những lời đe dọa trừng phạt những sai lầm trong quá khứ của bạn. Đó là những gì mà Mark Merelly, giám đốc Viện đổi mới tâm linh, đã trải qua... và rồi đột nhiên bị giết trong một vụ án mà hiện trường của nó cũng bí ẩn như khả năng đoán số nọ. Bắt đầu từ đây, Dave Gurney, người bạn cũ của ông ta, lên đường giải mã bí ẩn. Một kế hoạch khủng khiếp và một động cơ đầy bi kịch đã dần dần hé lộ...  ***   "Sự cuốn hút và cảm giác trọn vẹn tràn ngập... Verdon đã chơi đùa với nỗi sợ hãi sâu xa nhất, nguyên thủy nhất của chúng ta, khắc họa một tên sát nhân dường như có khả năng nhìn thấu tâm trí người khác..."  - Joseph Finder, tác giả Vanished  *** John Verdon sinh ngày 1/1/1942, là nhà văn trinh thám người Mỹ, hiện sống ở vùng núi Catskill cách không xa New York. Ông từng bỏ dở đại học, làm diễn viên đóng thế, theo đuổi đam mê với võ thuật, đua xe thể thao và làm việc trong ngành quảng cáo cho đến tận khi bắt đầu viết sách. Bắt đầu sự nghiệp khá muộn, nhưng những trải nghiệm cuộc sống phong phú và niềm đam mê dành cho tiểu thuyết trinh thám đã khiến những tác phẩm của Verdon nhận được tán thưởng lớn vì sự thuyết phục và chân thực. Tác phẩm: Hãy nghĩ tới một con số (2010) mở đầu cho một series trinh thám Dave Gurney gồm bốn tập, bao gồm cả các cuốn: Shut your eyes tight (2011), Let the Devil Sleep (2012) và Peter Pan must die (2014). *** Lúc Gurney băng qua cầu Tappan Zee và bắt đầu chặng đường tuyến 17 của hành trình thì tuyết đang rơi càng lúc càng nặng hạt, thu nhỏ thế giới trực quan trước mắt anh. Cứ vài phút anh lại kéo cửa xe xuống để luồng không khí lạnh ập vào làm tâm trí anh được tỉnh táo trong giây phút hiện tại. Cách Goshen một vài cây số, suýt nữa anh đã lái xe ra khỏi đường lộ. Chính bánh xe đang rung nảy lộp cộp trên vệ đường đầy lằn gợn giúp anh không đâm đầu vào một đoạn đê. Anh cố gắng chỉ nghĩ đến chiếc xe, bánh lái, và con đường, nhưng không tài nào làm được. Thay vào đó anh lại bắt đầu mường tượng ra cảnh truyền thông đưa tin sắp tới, bắt đầu bằng buổi họp báo trong đó Sheridan Kline chắc chắn sẽ tự khen ngợi bản thân vì đội điều tra của mình đã có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn trị an cho nước Mỹ qua việc chấm dứt sự nghiệp vấy máu của một tên tội phạm hung ác. Truyền thông nói chung làm Gurney rất khó chịu. Bản thân việc đưa tin ngu ngốc về tội ác như vậy đã là một tội. Bọn họ sẽ biến nó thành trò đùa. Dĩ nhiên, theo cách của anh, anh cũng như vậy. Anh thường xem án mạng là một câu đố cần phải tìm ra lời giải, xem hung thủ là một đối thủ mà mình cần phải khôn lanh hơn. Anh nghiên cứu các giả thuyết, tìm ra các góc nhìn, vấp phải bẫy, và đưa con mồi của anh vào miệng cỗ máy công lý. Và tiếp sau đó là cái chết bất thường chưa rõ nguyên nhân đòi hỏi một đầu óc khôn khéo để giải quyết. Nhưng đôi lúc anh lại thấy mọi chuyện một cách hoàn toàn khác – khi anh bị sự mệt mỏi đánh gục sau cuộc rượt đuổi, khi bóng tối khiến mọi mảnh ghép của câu đố trông như nhau hoặc không giống mảnh ghép của câu đố một chút nào, khi bộ óc bị phiền nhiễu của anh đi lạc khỏi khung lưới hình học của nó để men theo những con đường nguyên sơ hơn, phơi bày thoáng qua trước mắt anh sự khủng khiếp đích thực của thứ đề tài mà anh đã quyết định dấn thân vào. Một mặt, tồn tại tính logic của luật pháp, khoa học tội phạm, các quy trình phân xử. Mặt khác, tồn tại Jason Strunk, Peter Thú túi Piggert, Gregory Dermott, nỗi đau, cơn thịnh nộ đầy sát khí, cái chết. Và giữa hai thế giới này tồn tại câu hỏi gay gắt khiến người ta bứt rứt không yên – thế giới này liên quan như thế nào với thế giới kia? ... Mời các bạn đón đọc Hãy Nghĩ Tới Một Con Số của tác giả John Verdon.