Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Truyền Kỳ Mạn Lục - Nguyễn Dữ

Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm văn xuôi duy nhất của Việt Nam từ xa xưa được đánh giá là “thiên cổ kỳ bút” (ngòi bút kỳ lạ của muôn đời), một cái mốc lớn của lịch sử văn học, sau này được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Tác phẩm gồm 20 truyện thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái nhằm gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, xã hội nhiễu nhương. Truyền kỳ mạn lục đã được dịch và giới thiệu ở một số nước như Pháp, Nga… *** Nhà văn Việt Nam, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện, Hải Dương. Thuộc dòng dõi khoa hoạn, từng ôm ấp lý tưởng hành đạo, đã đi thi và có thể đã ra làm quan. Sau vì bất mãn với thời cuộc, lui về ẩn cư ở núi rừng Thanh Hóa, từ đó "trải mấy mươi sương, chân không bước đến thị thành". Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Tryền kỳ mạn lục (in 1768, A.176/1-2). Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ nôm. Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, viết bằng tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả, hoặc của một người cùng quan điểm với tác giả. Hầu hết các truyện xảy ra ở đời Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách là Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những truyện lạ), hình như tác giả muốn thể hiện thái độ khiêm tốn của một người chỉ ghi chép truyện cũ. Nhưng căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục... mà là một sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đó là một tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán. Và nguyên nhân chính của sự xuất hiện một tác phẩm có ý nghĩa thể loại này là nhu cầu phản ánh của văn học. Trong thế kỷ XVI, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ XV; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực. Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước. Nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại văn học. Và Nguyễn Dữ đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ XVI. Trên thực tế thì đằng sau thái độ có phần dè dặt khiêm tốn, Nguyễn Dữ rất tự hào về tác phẩm của mình, qua đó ông bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão; ông đã phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề lớn của xã hội, của con người trong khi chế độ phong kiến đang suy thoái. Trong Truyền kỳ mạn lục, có truyện vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, đả kích hôn quân bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục, có truyện nói đến quyền sống của con người như tình yêu trai gái, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, có truyện thể hiện đời sống và lý tưởng của sĩ phu ẩn dật... Nguyễn Dữ đã phản ánh hiện thực mục nát của chế độ phong kiến một cách có ý thức. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh thần và mầu sắc của cuộc sống, phạm vi phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều vấn đề của xã hội, con người được đề cập tới. Bất mãn với thời cuộc và bất lực trước hiện trạng, Nguyễn Dữ ẩn dật và đã thể hiện quan niệm sống của kẻ sĩ lánh đục về trong qua Câu chuyện đối đáp của người tiều phu trong núi Nưa. ở ẩn mà nhà văn vẫn quan tâm đến thế sự, vẫn không quên đời, vẫn nuôi hy vọng ở sự phục hồi của chế độ phong kiến. Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia. Ông phơi bày những cái xấu xa của xã hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến, phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai, lên án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần vương", phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu dương những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung. Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến. Nguyễn Dữ đã có phần bảo lưu những tư tưởng phi Nho giáo khi phóng tác, truyện dân gian, trong đó có tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo và chủ yếu là tư tưởng nhân dân. Nguyễn Dữ đã viết truyền kỳ để ít nhiều có thể thoát ra khỏi khuôn khổ của tư tưởng chính thống đặng thể hiện một cách sinh động hiện thực cuộc sống với nhiều yếu tố hoang đường, kỳ lạ. Ông mượn thuyết pháp của Phật, Đạo, v.v. để lý giải một cách rộng rãi những vấn đề đặt ra trong cuộc sống với những quan niệm nhân quả, báo ứng, nghiệp chướng, luân hồi; ông cũng đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng nhân dân khi miêu tả cảnh cùng cực, đói khổ, khi thể hiện đạo đức, nguyện vọng của nhân dân, khi làm nổi bật sự đối kháng giai cấp trong xã hội. Cũng chính vì ít nhiều không bị gò bó trong khuôn khổ khắt khe của hệ ý thức phong kiến và muốn dành cho tư tưởng và tình cảm của mình một phạm vi rộng rãi, ông hay viết về tình yêu nam nữ. Có những truyện ca ngợi tình yêu lành mạnh, chung thủy sắt son, thể hiện nhu cầu tình cảm của các tầng lớp bình dân. Có những truyện yêu đương bất chính, tuy vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo nhưng lại phản ánh lối sống đồi bại của nho sĩ trụy lạc, lái buôn hãnh tiến. Nguyễn Dữ cũng rất táo bạo và phóng túng khi viết về những mối tình si mê, đắm đuối, sắc dục, thể hiện sự nhượng bộ của tư tưởng nhà nho trước lối sống thị dân ngày càng phổ biến ở một số đô thị đương thời. Tuy vậy, quan điểm chủ đạo của Nguyễn Dữ vẫn là bảo vệ lễ giáo, nên ý nghĩa tiến bộ toát ra từ hình tượng nhân vật thường mâu thuẫn với lý lẽ bảo thủ trong lời bình. Mâu thuẫn này phản ánh mâu thuẫn trong tư tưởng, tình cảm tác giả, phản ánh sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến trong tầng lớp nho sĩ trước nhu cầu và lối sống mới của xã hội. Truyền kỳ mạn lục có giá trị hiện thực vì nó phơi bày những tệ lậu của chế độ phong kiến và có giá trị nhân đạo vì nó đề cao phẩm giá con người, tỏ niềm thông cảm với nỗi khổ đau và niềm mơ ước của nhân dân. Truyền kỳ mạn lục còn là tập truyện có nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân vật. Nó vượt xa những truyện ký lịch sử vốn ít chú trọng đến tính cách và cuộc sống riêng của nhân vật, và cũng vượt xa truyện cổ dân gian thường ít đi sâu vào nội tâm nhân vật. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của thể truyền kỳ, là "thiên cổ kỳ bút", là "áng văn hay của bậc đại gia", tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian. BÙI DUY TÂN Nguyễn Dữ là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ thi Hội nhiều lần, đạt trúng trường và từng giữ chức vụ Tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới được một năm thì ông xin từ quan về nuôi dưỡng mẹ già. Trải mấy năm dư không đặt chân đến những nơi đô hội, ông miệt mài "ghi chép" để gửi gắm ý tưởng của mình và đã hoàn thành tác phẩm "thiên cổ kỳ bút" Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào chưa rõ, nhưng căn cứ vào tác phẩm cùng bài Tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định thứ nhất (1547) và những ghi chép của Lê Quý Đôn trong mục Tài phẩm sách Kiến văn tiểu lục có thể biết ông là người cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, có thể lớn tuổi hơn Trạng Trình chút ít. Giữa Nguyễn Dữ và Nguyễn Bỉnh Khiêm tin chắc có những ảnh hưởng qua lại về tư tưởng, học thuật... nhưng e rằng Nguyễn Dữ không thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm như Vũ Phương Đề đã ghi. Đối với nhà Mạc, thái độ Nguyễn Dữ dứt khoát hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không làm quan với nhà Mạc mà chọn con đường ở ẩn và ông đã sống cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại. Truyền kỳ mạn lục được hoàn thành ngay từ những năm đầu của thời kỳ này, ước đoán vào khoảng giữa hai thập kỷ 20-30 của thế kỷ XVI. Theo những tư liệu được biết cho đến nay, Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ. Sách gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển, được viết theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát từ truyền thuyết về các vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn (đền thờ Vũ Thị Thiết ở Hà Nam, đền thờ Nhị Khanh ở Hưng Yên và đền thờ Văn Dĩ Thành ở làng Gối, Hà Nội). Truyện được viết bằng văn xuôi Hán có xen những bài thơ, ca, từ, biền văn, cuối mỗi truyện (trừ truyện 19 Kim hoa thi thoại ký) đều có lời bình thể hiện rõ chính kiến của tác giả. Hầu hết các truyện đều lấy bối cảnh ở các thời Lý-Trần, Hồ, thuộc Minh, Lê sơ và trên địa bàn từ Nghệ An trở ra Bắc. Thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ..., tác phẩm muốn gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự, vua chúa hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót đầy triều đình; những kẻ quan cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân lành, thậm chí đến chiếm đoạt vợ người, bức hại chồng người. Trong một xã hội rối ren như thế, nhiều tệ nạn thế tất sẽ nảy sinh. Cờ bạc, trộm cắp, tật dịch, ma quỷ hoành hành, đến Hộ pháp, Long thần cũng trở thành yêu quái, sư sãi, học trò, thương nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc dục. Kết quả là người dân lương thiện, đặc biệt là phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ. Nguyễn Dữ dành nhiều ưu ái cho những nhân vật này. Dưới ngòi bút của ông họ đều là những thiếu phụ xinh đẹp, chuyên nhất, tảo tần, giàu lòng vị tha nhưng luôn luôn phải chịu số phận bi thảm. Đến cả loại nhân vật "phản diện" như nàng Hàn Than (Đào thị nghiệp oan ký), nàng Nhị Khanh (Mộc miên phụ truyện), các hồn hoa (Tây viên kỳ ngộ ký) và "yêu quái ở Xương Giang" cũng đều vì số phận đưa đẩy, đều vì "nghiệp oan" mà đến nỗi trở thành ma quỷ. Họ đáng bị trách phạt nhưng cũng đáng thương. Dường như Nguyễn Dữ không tìm được lối thoát trên con đường hành đạo, ông quay về cuộc sống ẩn dật, đôi lúc thả hồn mơ màng cõi tiên, song cơ bản ông vẫn gắn bó với cõi đời. Ông trân trọng và ca ngợi những nhân cách thanh cao, cứng cỏi, những anh hùng cứu nước, giúp dân không kể họ ở địa vị cao hay thấp. Truyền kỳ mạn lục ngay từ khi mới hoàn thành đã được đón nhận. Hà Thiện Hán người cùng thời viết lời Tựa, Nguyễn Thế Nghi, theo Vũ Phương Đề cũng là người cùng thời, dịch ra văn nôm. Về sau nhiều học giả tên tuổi Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú đều ghi chép về Nguyễn Dữ và định giá tác phẩm của ông. Nhìn chung các học giả thời Trung đại khẳng định giá trị nhân đạo và ý nghĩa giáo dục của tác phẩm. Các nhà nghiên cứu hiện đại phát hiện thêm giá trị hiện thực đồng thời khai thác tinh thần "táo bạo, phóng túng" của Nguyễn Dữ khi ông miêu tả những cuộc tình si mê đắm đuối đậm màu sắc dục. Hành vi ấy tuy trái lễ, trái đạo trung dung nhưng lại đem đến chút hạnh phúc trần thế có thực cho những số phận oan nghiệt. Về mặt thể loại mà xét thì Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm đỉnh cao của truyện truyền kỳ Việt Nam. Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng của Cù Hựu nhưng Truyền kỳ mạn lục vẫn là "áng văn hay của bậc đại gia", là sáng tạo riêng của Nguyễn Dữ cũng như của thể loại truyện truyền kỳ Việt Nam. TRẦN THỊ BĂNG THANH Lời tựa(1) Tập lục này là trước tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con trưởng vị tiến sĩ triều trước Nguyễn Tường Phiêu (2). Lúc nhỏ rất chăm lối học cử nghiệp, đọc rộng nhớ nhiều, lập chí ở việc lấy văn chương truyền nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng trường, từng được bổ làm Tri huyện Thanh Tuyền (3). Được một năm ông từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu. Mấy năm dư không đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập lục này, để ngụ ý. Xem văn từ thì không vượt ra ngoài phên giậu của Tông Cát (4), nhưng có ý khuyên răn, có ý nêu quy củ khuôn phép, đối với việc giáo hóa ở đời, há có phải bổ khuyết nhỏ đâu! Vĩnh Định năm đầu (1547), tháng Bảy, ngày tốt. Đại An Hà Thiện Hán kính ghi Kẻ hậu học là Tùng Châu Nguyễn Lập Phu biên. (1) Lời Tựa này được chép trong Cựu biên Truyền kỳ mạn lục. Bản này hiện chưa có trong các thư viện ở Hà Nội. Ở đây chúng tôi theo Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san, Đài Loan thư cục in năm 1987. Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú in năm Cảnh Hưng 35 (1774) lấy lại lời tựa này nhưng không ghi tên Hà Thiện Hán. Cuối bài ghi thêm "Nay xã trưởng xã Liễu Chàng là Nguyễn Đình Lân soạn in vào năm Giáp Ngọ (1774) để làm bản gốc cho nghìn vạn đời và để bán cho thiên hạ xem đọc". Chú thích (2) Nguyễn Tường Phiêu: người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc tỉnh Hải Dương, đồ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm Hồng Đức 27 (1496) đời Lê Thánh Tông; làm quan đến Thừa chánh sứ. Sau khi mất được tặng chức Thượng thư, phong phúc thần. (3) Thanh Tuyền: tức huyện Bình Xuyên, thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. (4) Tông Cát: Cù Tông Cát, tên là Cù Hựu, tác giả Tiễn đăng tân thoại. Mời các bạn đón đọc Truyền Kỳ Mạn Lục của tác giả Nguyễn Dữ.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Phát Ngôn Của Thần Chết - Tử Kim Trần
Sách Nói Người Phát Ngôn Của Thần Chết Người phát ngôn của thần chết vừa mới ra mắt đã quyết định ngay địa vị của Tử Kim Trần trong giới văn học trinh thám, kinh dị. Những bố cục tinh vi, cùng với những tình tiết hấp dẫn gay cấn đến hồi hộp, nhiều lần thắt mở gút. Một khi chưa đến chương cuối thì vĩnh viễn không thế đoán ra được nó sẽ kết thúc như thế nào? … “A! Thì ra là tác phẩm trinh thám còn có thể viết ra được như thế này?” Trong một buổi liên hoan của Phòng Công thương, đội trưởng đội Quản lí thị trường bị sát hại trước mắt bao người, nhưng không một ai đứng lên chỉ ra hung thủ. Vài tháng sau, cả đoàn người tham gia vào chuyến du lịch tập thể của Phòng Công thương đột ngột biến mất. Cuộn băng ghi hình từ camera theo dõi ghi nhận chiếc xe chở đoàn người đã tiến vào khu vực trạm nghỉ khép kín nhưng không hề thấy chiếc xe đó đi ra. Kỳ lạ là chiếc xe đó lại xuất hiện ở khu vực cách xa trạm nghỉ kia. Hai vụ án liệu có liên quan? Làm sao chiếc xe có thể bốc hơi giữa một trạm nghỉ đông người qua lại mà hoàn toàn không để lại dấu vết gì? Hãy theo dõi những tình tiết còn ẩn bí qua Tác phẩm "Người phát ngôn của thần chết”. *** Hôm nay là ngày 10 tháng 1, đã qua năm mới hơn một tuần, các đơn vị đều đang chuẩn bị thưởng cuối năm cho nhân viên. Thời gian này, hầu như không có họp hành hội nghị, cũng như không cần phải tiếp đón cấp trên, các cuộc tiệc tùng xã giao cũng ít hơn. Đối với nhiều lãnh đạo cấp cơ sở mà nói, đây là quãng thời gian thư thái hiếm có trong năm. Lúc này, Trưởng Công an huyện Bạch Tượng - Mã Đảng Bồi đang ngồi trong văn phòng, ung dung chơi đánh bài trên máy tính. Có tiếng gõ cửa, Mã Đảng Bồi tắt game rồi mời khách vào. Một viên cảnh sát nhanh chóng bước vào, vẻ mặt nôn nóng. “Sếp Mã, sáng nay bên Phòng Công thương đến báo án, nói rằng tất cả mọi người trong Phòng đều bị mất tích. Từ hôm qua…” “Cái gì cơ, đợi đã!” Mã Đảng Bồi ngắt lời anh ta. “Nói chậm lại nào, mất tích hả? Cậu bảo tất cả người của Phòng Công thương đều biến mất ư?” “Vâng ạ, người nhà của Phòng Công thương nói, tất cả sáu nhân viên biên chế chính thức của Phòng, cũng tức là toàn bộ nhân viên trong Phòng, cùng với một người tài xế đã lên chiếc xe đa dụng hãng Buick đi du lịch vào sáng hôm qua. Nhưng đến chiều qua có người nhà gọi điện muốn hỏi đoàn đã đi đến đâu rồi thì phát hiện di động khóa máy. Đến tối, vẫn không liên lạc được. Người nhà hỏi thăm lẫn nhau mới biết toàn bộ bảy người trong đoàn đều khóa máy cả. Tới tận sáng nay tình trạng vẫn như cũ. Họ lo xe gặp chuyện không may trên đường nên vội vàng đến báo cảnh sát.” “Điện thoại đều khóa máy cả sao?” Mã Đảng Bồi trầm tư trong giây lát rồi hỏi tiếp: “Bọn họ đi du lịch ở đâu?” “Nghe nói là đi Hàng Châu mấy hôm, sau đó đi Thượng Hải, tổng hành trình là năm ngày.” “Không dẫn theo người nhà à?” ... Mời các bạn đón đọc Người Phát Ngôn Của Thần Chết của tác giả Tử Kim Trần.
Chuỗi Người Đi Trong Đầm Lầy - Di Li
"Chuỗi Người Đi Trong Đầm Lầy": là tuyển tập truyện kinh dị Việt Nam hiện đại gồm 24 truyện kinh dị đặc sắc của 14 cây bút nổi tiếng trên văn đàn Việt Nam hiện nay như: Phong Điệp, Di Li, Ngộ Tự Lập, Thái Bá Tân, Võ Thị Hảo… Mỗi câu chuyện là một thế giới tâm linh nhiều màu sắc đem lại những dư âm, ám ảnh trong lòng người đọc.  Chuỗi Người Đi Trong Đầm Lầy gồm có: XÁC CHẾT TRẢ THÙ BẢNG CHỮ CÁI NGƯỜI ĐÀN BÀ TRÙM KHĂN ĐEN ĐỪNG ĐÙA VỚI MA ĐỨA BÉ ĂN MÀY CỤ CÓC GIÀ TRONG NGÔI LÀNG QUỶ ÁM MẮT MÈO ĐỘC HUYỀN ĐUỔI QUỶ MA MÈO CON HỔ MUN GIÓ LẠ RẮN TRẮNG VẬT VỚI MA DÃ NHÂN CON RẮN CHIẾC ÁO NGƯỜI TRONG GƯƠNG CHỜ RẰM Ở GỐC DÂU CỔ THỤ NƠI HOANG DÃ ĐỒNG VỌNG ĐỒI CON GÁI KẺ DỰ PHẦN NGÔI NHÀ HOANG VẮNG TRÁI TIM CON RẮN CÂY RẮN LỤC KHÁCH LẠ VÀ NGƯỜI LÁI TAXI VONG HỒN TRÊN NHỮNG CÁNH ĐỒNG CHẾT BỨC TRANH VÀ NGÔI NHÀ CỔ CHUỖI NGƯỜI ĐI TRONG ĐẦM LẦY *** C ứ chạng vạng, khi bóng tối đổ sẫm màu một góc rừng U Minh, những tia nắng rụng góc trời cháy rực, khi đàn muỗi bắt đầu cất mình lên như đám mây nặng trĩu những giọt sương máu từ đầm lầy, khi đàn quạ khạc ra tiếng khàn đặc rên rẩm trên những chạc cây bị sét đánh cụt ngọn, đó là lúc người đi rừng chậm chân bắt đầu nghe từng tràng tiếng hú ghê rợn. Không rõ cất lên từ đâu, loạt tiếng hú làm nổi gai lưng này. Chúng rên từng hồi đứt đoạn. Luồn như rắn dưới những tàn lá rậm rịt. Dán mình trườn trên mặt bùn nhão sệt nham hiểm của đầm lầy rồi trôi dạt trong bầu không khí u uẩn bốc lên từ những xác cây mục, đe nẹt ngay cả những kẻ làm nghề sơn tràng táo gan nhất. Dân quanh vùng chỉ dám kiếm ăn von ven ngoài bìa rừng, ruột cứ cuộn lên nỗi thòm thèm tiếc của. Đời ông đời cha họ truyền lại, ở trong sâu kia, có vô khối chim thú lạ mà chỉ cần bắt được một con cũng đủ để sung sướng cả đời. Chưa kể đến bao nhiêu trầm, kỳ nam đang lặng lẽ toả mùi thơm trong những thân cây huyền hoặc. Nhưng có thèm khát đến mấy, dân sơn tràng cũng chỉ dừng lại ở những lời than tiếc nắc nỏm. Đã không ít kẻ bạo gan chẳng chịu nổi sự cám dỗ, liều mạng dấn sâu vào đầm lầy, đặt chân lên lớp bùn mịn và lập tức cái lớp bùn gian manh kia sụt xuống nuốt từ chân đến bụng rồi đầu kẻ xấu số. Tiếng kêu cứu của người sắp chết chỉ còn ằng ặc sủi bọt trong cái đầm lầy không đáy trước khi mất dạng. Và cứ kéo nhằng nhẵng theo những buổi chiều ngằn ngặt tiếng hú là đoàn người lê thê lết đi không một tiếng động trong sương mờ. Đoàn người không rõ hình hài, được xâu thành chuỗi qua lòng bàn tay bằng một sợi thép gai rỉ bê bết máu khô lẫn máu tươi. Nhìn kỹ, chuỗi người bị xâu đều thiếu gan bàn tay, gan bàn chân. Thiếu tai. Máu đổ ri rỉ chảy dọc lối họ qua. Những bàn tay chìa ra phía trước, rên xiết đòi lại thứ mà họ đã bị cắt, bị chặt, bị xẻo. Cuộc diễu hành rùng rợn kéo dài cho đến khi mặt trời khuất hẳn sau rừng cây thì những tiếng rú ghê rợn cũng dứt. Không gian gần như bình yên cho đến lúc gà gáy canh tư. Khi tiếng gà đầu tiên vừa cất lên, cuộc diễu hành lại tiếp tục theo hướng ngược lại. Đoàn người trở về. Họ dong theo đoàn một gã to con, mặt trắng bệch với nụ cười gằn ẩn sau khuôn miệng đỏ bầm lượn cong cong như miệng đàn bà. Hai chân hắn bị xiềng. Tiếng xiềng khua xủng xoẻng như kẻng báo giờ chết. Hai tay hắn đỡ một chiếc mâm khổng lồ đầy ụ thức ăn đã chế biến và được bầy biện rất tinh tế, khiến chúng đẹp rực rỡ như một chiếc lẵng lớn đầy hoa lá. Nhìn kỹ, đó là món nộm tai người và món hầm gan bàn tay, gan bàn chân người, dù chúng đã được cắt tỉa, nhuộm màu với một nghệ thuật sành sỏi. Gã to con chìa cái mâm ra trước mặt đoàn người. ... Mời các bạn đón đọc Chuỗi Người Đi Trong Đầm Lầy của tác giả Di Li.
Trùng Sư: Trùng Trùng Bí Ẩn - Diêm Chí Dương
PHO TRUYỆN HÉ LỘ MỘT TRONG NHỮNG BÍ THUẬT CỔ XƯA NHẤT TRUNG HOA  Nếu hỏi loại người nào dễ lấy mạng người khác nhất? Mà kẻ tử nạn còn chưa kịp phát giác đã xong đời. Người ta chỉ biết thì thầm: hay đó là "Trùng sư"? Thanh ty như sợi tơ mảnh tẩm độc không thuốc giải, một mũi phóng đi không trượt ngã bao giờ. Tam thiên trượng uy vũ vô song, tốc độ mắt thường khó mà nhận biết. Mùi hương sai khiến được cả đám côn trùng ùn ùn xuất hiện, sức tấn công lấn át cả đội quân... Những bảo bối và bí thuật điều khiển trùng của các quân tử đứng đầu năm hệ phái Trùng sư Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ đang trở thành mục tiêu chiếm hữu của nhiều thế lực quân sự trong thời buổi Dân quốc rối ren của Trung Quốc. Trùng sư là cuộc tranh đấu ly kỳ giữa các Trùng sư và các thế lực ngoại bang cùng quân đội triều đình, ở đó muôn môn tuyệt kỹ được thi triển bất cứ ai cũng phải giật mình choáng ngợp. Trùng Sư đã xuất bản tại Việt nam, gồm có: Trùng Sư: Trùng Trùng Bí Ẩn Trùng Sư: Trùng Trùng Nguy Cơ ... *** Diêm Chí Dương Sinh năm 1984, người tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Là nhà văn 8x chuyên viết tiểu thuyết phiêu lưu ly kỳ, rất nổi tiếng trên mạng với bút danh Lang Thất. Tác phẩm tiêu biểu có Bì thư da người và Trùng Sư. Năm 2011, bộ tiểu thuyết Trùng sư ngay khi được tác giả đăng lên mạng đã nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ, trong vòng 30 ngày đã có hơn 10 triệu lượt đọc. Lúc xuất bản thành sách, bộ truyện về thuật điều khiển trùng này giữ vững vị trí best seller trong nhiều tháng trên mạng bán sách dangdang.com. Thành công lớn này giúp tác phẩm của Diêm Chí Dương được xếp vào cùng các bộ phiêu lưu kinh điển như Ma thổi đèn, Mật mã Tây Tạng... *** Thế giới mênh mông không có chuyện kì lạ gì là không thể, trước đây tôi thường nghe người ta nói như thế, nhưng bao giờ cũng vậy, khi sự việc ly kỳ xảy đến với bản thân, tôi lại nghi ngờ tính chân thực của câu nói ấy. Sau khi nghe xong câu chuyện của "ông nội", tôi thần người hồi lâu mới choàng tỉnh, cảm giác như thể đã trải qua một đời người. Sở dĩ tôi thêm dấu ngoặc kép bên ngoài hai chữ ông nội, là vì ông không phải ông nội ruột của tôi, tôi không có quan hệ máu mủ ruột rà với ông. Chỉ là cha tôi vì một số nguyên nhân nên đã đổi sang họ của ông, ngay cả cái tên Phan Mộc Dương của tôi cũng là do ông đặt cho. Trong ấn tượng của tôi, ông nội luôn là một người thần bí, bất kể mùa đông hay mùa hè ông cũng đều mặc một chiếc áo bông màu đen rách rưới lòi cả bông bên trong ra, tóc tai bù xù, ánh mắt xa xăm, nét vui vẻ dường như không thuộc về gương mặt ấy. Ông sống trong một gian nhà cỏ sâu tít trong làng, cách những nhà khác vài trăm mét. Vườn nhà ông không rộng lắm, nhưng có nuôi mấy con gà trống lông bóng mượt. .... Mời các bạn đón đọc tập đầu tiên của bộ sách Trùng Sư: Trùng Trùng Bí Ẩn của tác giả Diêm Chí Dương.
10 Câu Chuyện Ma Hay Nhất Mọi Thời Đại
10 câu chuyện ma hay nhất mọi thời đại được trình bày dưới nhiều hình thức khác nhau. Sau mỗi câu chuyện lại có những dữ liệu kỳ thú liên quan đến chủ đề. Trong mười truyện ma hay nhất mọi thời đại này có vài truyện khá là hài hước, vài truyện khá buồn và chỉ có một số ít là thực sự rùng rợn. Vì vậy, để giúp bạn đối phó với cảm giác thót tim do hoảng loạn hay quá sợ (cảm giác đó từ đây sẽ viếng thăm bạn thường xuyên), mỗi truyện sẽ đi kèm với một phần nói về các sự kiện cần biết. Trong những phần này, bạn sẽ phát hiện nhiều điều chẳng hạn như tại sao có người thành ma, có người thì không. Bạn sẽ được hướng dẫn một số mẹo vặt để săn ma. Bạn sẽ được giải thích sự khác biệt giữa hiện tượng kỳ bí và hiện tượng ma quái. Bạn sẽ được cắt nghĩa về hoạt động túm tụm liều mạng có tên gọi là "cầu cơ". Cuối cùng, nếu là người sáng tạo, bạn có thể viết ra những truyện ma hiện đại cực kỳ rùng rợn (hay cực kỳ dở hơi không biết bơi) của chính bạn. Vậy nhé! Bạn không còn lý do nào để trì hoãn nữa đâu đấy... Tìm mua 10 câu chuyện ma hay nhất mọi thời đại về đọc thôi. Nhưng xin có một cảnh báo nhỏ: Chớ bao giờ đọc cuốn sách này trong bóng tối, đơn giản vì... bạn sẽ không thấy đường. Mời các bạn đón đọc 10 Câu Chuyện Ma Hay Nhất Mọi Thời Đại của tác giả Michael Cox.