Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sa Môn Không Hải Thết Yến Bầy Quỷ Đại Đường Tập 2

Nhà sư trẻ tuổi Không Hải, cùng người bạn thân Quất Dật Thế, từ Nhật Bản xa xôi vượt biển tới Đại Đường với tư cách sứ thần sang du học. Vào thời đại đó, Trường An, kinh đô của nhà Đại Đường là nơi nổi tiếng thịnh vượng phồn hoa, tập trung nhiều sắc dân từ khắp nơi đổ về. Như bóng tối luôn song hành cùng ánh sáng, nhiều loài yêu ma quỷ quái cũng bị thu hút về đây. Một con yêu quái mèo đã ám dinh cơ của viên chức dịch họ Lưu và đưa ra lời tiên tri về cái chết của hoàng đế. Tự tin vào vốn kiến thức uyên bác cùng tài ứng biến phi thường của bản thân, Không Hải đã dẫn Quất Dật Thế đến nhà họ Lưu để đương đầu với yêu mèo. Song họ không ngờ, mình đã vô tình dính líu vào một sự kiện lớn làm rung chuyển nhà Đường. Kiệt tác tiểu thuyết truyền kỳ Nhật Bản lấy bối cảnh Trung Hoa mở ra từ đây. Lần theo manh mối từ tập một, Không Hải bắt tay vào điều tra từ bài ca mà người vợ bị mèo ám của nhà họ Lưu hát. Biết được đó là bài thơ khoảng 60 năm trước khi tiên Lý Bạch đã làm để ngợi ca vẻ đẹp của Dương Quý Phi sủng phi của Đường Huyền Tông, Không Hải và Dật Thế đã cùng Bạch Lạc Thiên - người bạn tình cờ quen biết, sau này sẽ trở thành đại thi hào - đi đến Mã Ngôi Dịch đào mộ của Dương Quý Phi. Kỳ lạ thay, ngôi mộ đã bị ếm bởi những lời nguyền ma quái, hơn nữa, thi hài Quý phi hoàn toàn không có trong quan tà TÁC PHẨM: Tác phẩm đã được chuyển thể thành phim "Yêu miêu truyện", đạo diễn bởi Trương Khải Ca, được báo chí ngợi khen như Mật mã Da Vinci phiên bản Trung Quốc. *** Không Hải (Kukai, 774 - 835) là Tổ sư của phái Chân Ngôn Tông (Shingon-shu) Phật giáo Nhật Bản. Với phương tiện tra cứu ngày nay, người ta có thể dễ dàng tìm thấy tranh vẽ chân dung, bút tích và các trước tác của Không Hải trên mạng, trong các sách nghiên cứu xưa nay nhưng những thông tin ấy không hề làm giảm sút nét “siêu phàm thoát tục”, thần bí nơi vị Tổ sư này. Sách xưa không thuật rõ thuở nhỏ như thế nào chỉ biết năm mười lăm tuổi Không Hải đã học thông các sách chữ Hán căn bản như Luận Ngữ, Hiếu Kinh; năm mười tám tuổi làu thông Tả Thị Xuân Thu, Thượng Thư. Từ năm mười chín tuổi, Không Hải bắt đầu tu tập trong rừng sâu núi cao; năm hai mươi tư tuổi đã viết sách so sánh, bình luận Phật - Nho - Lão. Cũng vào thời gian này, Không Hải bắt đầu tiếp xúc và nghiên cứu Đại Nhật Kính - một trong những bộ kinh Mật giáo cơ sở, học tiếng Trung Hoa, chữ Phạn (Sanskrit) và chữ Tất Đàm (Shiddam). Đồng thời, Không Hải được một vị sư không rõ danh tính truyền cho phép tu “Hư Không Tạng Cầu Văn Trì” và lui vào chuyên tu trong một hang đá (nay vẫn còn di tích ở thành phố Muroto, tỉnh Kochi). Sau khi tu tập thành công, tương truyền Không Hải có trí nhớ siêu phàm - sự việc gì đã nghe, đã thấy một lần lập tức nhớ mãi không quên, về sau, chính nhờ trí nhớ siêu việt và trình độ, năng lực ngoại ngữ tuyệt vời mà Không Hải được triều đình Nhật Bản thời bấy giờ chọn đưa sang Trung Hoa du học. Truyền kỳ kể Hòa thượng Huệ Quả - tổ thứ bảy của Mật giáo Trung Hoa - vừa nhìn thấy Không Hải lần đầu tại Thanh Long Tự đã nói “ta chờ con đã lâu” và lập tức truyền thụ mọi sở học của mình cho Không Hải. Với năng lực phi phàm của mình, Không Hải đã hoàn thành chương trình học trong hai năm thay vì du học hai mươi năm như dự định ban đầu. Sư đã dùng một số tiền rất lớn, vốn mang theo để trang trải cho vỉệc du học, vào việc thỉnh kinh sách và các pháp khí cần thiết mang về Nhật Bản. Năm 806, Không Hải từ Trung Hoa trở về Nhật Bản, sớm hơn rất nhiều so với dự kiến nhưng phải đợi đến năm 809 mới được chấp thuận cho vào kinh đô yết kiến Thiên hoàng. Câu chuyện chậm trễ này cũng không có ghi chép cụ thể nào trong sử sách chính thống và, do đó, phủ thêm một lớp thần bí nữa lên cuộc đời Không Hải. Sau khi về kinh, Không Hải lập tức được trọng dụng, đóng góp rất nhiều cho triều đình thời đó. Không Hải xây dựng tổ đình ở núi Koya (tỉnh Wakayama, Nhật Bản) đúc kết và phát triển kiến thức tu học từ Trung Hoa thành Chân Ngôn Tông và truyền dạy cho rất nhiều đệ tử. Năm 835, Không Hải “nhập định vĩnh viễn” ở tuổi sáu mươi mốt. Người ta không dùng từ “viên tịch” hay “nhập diệt” mà dùng “nhập định” vì tin rằng Không Hải vẫn còn sống và chỉ nhập định trong căn phòng nhỏ được xây ngầm dưới nền một ngôi miếu ở phía sau tổ đình Chân Ngôn Tông trên núi Koya. Cho đến tận khi bạn đang đọc những dòng này thì hằng ngày, các vị sư ở nơi ấy vẫn đều đặn dâng cơm nước đúng giờ buổi sáng và buổi trưa vào tận cửa phòng. Mỗi năm, các sư lại dâng một bộ cà sa mới cho Tổ sư và mang bộ cũ đi đốt. Không Hải ở thế kỷ hai mươi mốt vẫn là một nhân vật thần bí sống động như thế. Bạn đọc đang cầm trên tay tập đầu tiên trong bộ trường thiên tiểu thuyết Sa môn Không Hải thết yến bầy quỷ Đại Đường gồm bốn tập của nhà văn Yumemakura Baku - tác giả rất nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết truyền kỳ tại Nhật Bản, được Uyên Thiểm chuyển dịch sang tiếng Việt rất nhuần nhị. Uyên Thiểm là dịch giả quen thuộc được bạn đọc biết đến qua các bản dịch văn chương Nhật Bản do Nhã Nam ấn hành. Tôi tin bạn đọc lần này cũng sẽ đớn nhận và yêu quý tác phẩm Sa môn Không Hải thết yến bầy quỷ Đại Đương, thích thú với tuyến nhân vật được xây dựng rất công phu, giàu cá tính và các tình tiết được đan xen khéo léo, đầy kịch tính. Mời các bạn vào truyện... Nguyễn Anh Phong Đà Lạt, Vu Lan 2019 *** CÁC NHÂN VẬT CHÍNH Từ đời Đức Tông hoàng đế đến đời Thuận Tông hoàng đế Không Hải (âm Nhật là Kukai): Vị tăng trẻ sang Đường tìm học Mật. Quất Dật Thế (âm Nhật là Tachibana-no-Hayanari): Nho sinh Nhật Bản tới Trường An theo đoàn thuyền Khiển Đường sứ. Bạn thân Không Hải. Đan Ông: Vị đạo sĩ luôn giúp rập và thoắt ẩn thoắt hiện xung quanh Không Hải. Lưu Vân Tiêu: Chức dịch Trường An, bị yêu miêu ám trong nhà và cướp mất người vợ yêu. Từ Văn Cường: Chủ nhân của cánh đồng trồng bông, nơi xảy ra vụ án có tiếng thì thầm bí ẩn. Trương Ngạn Cao: Chức dịch Trường An, người quen của Từ Văn Cường. Đại Hầu: Gã hộ pháp sinh ra ở Thiên Trúc. Ngọc Liên: Kỹ nữ của Hồ Ngọc Lâu. Lệ Hương: Kỹ nữ của Nhã Phong Lâu. Mohammed: Thương nhân người Ba Tư, cớ ba cô con gái là Trisnai, Tursungri, Griteken. Huệ Quả: Vị hòa thượng của Thanh Long Tự. Phụng Minh: Tăng môn của Thanh Long Tự. Người Tây Tạng. An Tát Bảo: Người coi giữ đền thờ Hiên giáo. Bạch Lạc Thiên: Một thi nhân lớn về sau. Đang ấp ủ bản trường ca về mối tình của Đường Huyền Tông và Dương Quý Phi. Vương Thúc Văn: Tể tướng dưới thời Thuận Tông hoàng đế. Liễu Tông Nguyên: Kẻ thân cận của Vương Thúc Văn. Văn nhân tiêu biểu thời kỳ trung Đường. Hàn Dũ: Đồng liêu của Liễu Tông Nguyên. Cũng là một văn nhân tiêu biểu thời kỳ trung Đường. Tử Anh: Bộ hạ của Liễu Tông Nguyên. Xích: Bộ hạ của Liễu Tông Nguyên. Chu Minh Đức: Phương sĩ. Thủ hạ của Druj. Druj*: Karapan (một kiểu pháp sư ở Ba Tư). Đời Huyền Tông hoàng đế A Bội Trọng Ma Lữ (âm Nhật là Abe-no-Nakamaro): Sang Đường vào đời Huyền Tông. Sống ở Đường đến hết đời. Tên Trung Quốc là Triều Hành. Lý Bạch: Thi nhân tiêu biểu đời Đường. Được Huyền Tông sủng ái, nhưng về sau thì thất sủng. Huyền Tông: Hoàng đế nhà Đường. Mê đắm thiếp yêu là Dương Quý Phi. Dương Quý Phi: Thiếp yêu của Huyền Tông. Nhận được tất cả sự sủng ái của Huyền Tông, song đã phải chịu cải chết thê thảm bởi Loạn An Sử. An Lộc Sơn: Tướng nhà Đường. Được Quý Phi yêu mến và nhận làm con nuôi, nhưng về sau làm phản và đuổi bọn Huyền Tông chạy khỏi Trường An. Cao Lực Sĩ: Hoạn quan hầu cận của Huyền Tông. Hoàng Hạc: Đạo sĩ người Hồ. Kẻ đã hiến một kế về việc xử tử Dương Quý Phi. Đan Long: Đệ tử của Hoàng Hạc. Bạch Long: Đệ tử của Hoàng Hạc. Bất Không: Mật giáo tăng. *** Quất Dật Thế từ nãy tới giờ uống rượu bồ đào với vẻ mặt nặng trĩu. Cậu ta uống bằng chén lưu li. Ngắm nghía thứ chất lỏng màu đỏ được rót đầy trong chén một lát thì đưa lên miệng, uống xong lại nhìn sang Không Hải ngồi đối diện bên kia lô.   Chẳng rõ Không Hải có biết là Dật Thế đang rất muốn nói chuyện với mình hay không, nhưng có vẻ cậu đang chìm trong suy tư một mình. Cậu hầu như không động tay vào chén lưu li.   Đang ở Hồ Ngọc Lâu. Một kỹ viện nơi có các Hồ cơ. Vật trải sàn là thảm Ba Tư. Tranh treo trên tường, chum vại bày biện đều là đồ Tây vực.   Chén lưu li, tức là chén thủy tinh được đem tới Trường An từ Tây vực.   Trên đường trở về sau khi gặp Lưu Vân Tiêu, Dật Thế bảo hay là ghé vào Hồ Ngọc Lâu, nên Không Hải cùng Dật Thế mới đang có mặt ở đây.   Đại Hầu thì đã chia tay với Không Hải và Dật Thế ở giữa đường để đi xem xét tình hình ngôi nhà của đạo sĩ mà họ cho là Lệ Hương đang ở đó.   “Mây gợi nhớ xiêm y, hoa gợi nhớ dung nhan…” Không Hải lẩm nhẩm trong miệng.   Đó là bài thơ Lưu Vân Tiêu nói đến hôm nay. Là một khổ trong bài thơ mà cô vợ Xuân Cầm, bỗng nhiên biến thành bà lão, rồi vừa hát và vừa múa theo.   Không Hải đặt mảnh giấy trên mặt lô, hết nhìn mảnh giấy lại lẩm nhẩm những câu thơ ghi trên đó. Ngọc Liên ngoan ngoãn ngồi cạnh Không Hải, thi thoảng khi Không Hải nói gì đó vì sực nhớ ra có Ngọc Liên ngồi cạnh, nàng sẽ đáp lời với nụ cười tủm tỉm thường trực.   Mẫu Đơn thì ngồi cạnh Dật Thế nhưng bỗng sực nhớ ra điều gì nên vừa rời khỏi chỗ và chạy đi đâu đó mà chưa thấy quay lại. Có vẻ như bộ mặt nặng trĩu của Dật Thế một phần bắt nguồn từ đó.   “Dật Thế à, bài thơ này được lắm...” Không Hải nói trong khi nhìn như bị hút hồn vào mảnh giấy.   Đây là lần thứ ba Không Hải thốt ra câu này.   “Cái đó thì tớ biết rồi.” Dật Thế nhắc lại y nguyên câu trả lời ban nãy.     Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung   Xuân phong phất hạm, lộ hoa nùng   Nhược phi Quần Ngọc sơn đầu kiến   Hội hướng Dao Đài nguyệt hạ phùng     Bài thơ mà Không Hải đọc đi đọc lại từ ban nãy là một bài nói về tư dung của người con gái: Nhìn mây thì nhớ đến xiêm áo nàng, trông hoa thì nhớ đến dung nhan nàng. Gió xuân thổi qua song, sương rơi đẫm trên cánh hoa thật diễm lệ. Người con gái đẹp nhường ấy, nếu không gặp được ở chân núi Quần Ngọc, thì biết đâu có thể gặp dưới ánh trăng Dao Đài.   Ý của bài thơ là như vậy.   Theo truyền thuyết, núi Quần Ngọc là nơi các tiên nữ xinh đẹp cư ngụ; còn Dao Đài là cung điện xây bằng ngọc ngũ sắc, cũng là nơi ở của các nàng tiên.   Tóm lại, bài thơ ví tư dung của người con gái trong bài với vẻ đẹp của các tiên nữ trong truyền thuyết.   “Thật là tót vời...” Không Hải nói trong tiếng thở dài.   “Cái gì cơ?” Dật Thế hỏi.   “Bài thơ chứ còn cái gì.”   “Tót vời như thế nào?”   “Tót vời không phải bởi thơ hay, thơ đẹp, Dật Thế ạ. Bài thơ được viết ra không phải bằng chuẩn mực của thơ mà bởi một tài năng.”   “Tài năng?”   “Tớ thấy tài năng dâng trào trong đó. Một thứ tài năng sung mãn. Nó cứ tự nhiên tuôn ra từ miệng vậy thôi. Tài năng ấy có lẽ chẳng khi nào khô cạn. Tớ mường tượng ra chủ nhân của tài năng ấy, chỉ cần vừa uống rượu vừa ngắm trăng, là có thể thoăn thoắt viết ra những vần thơ như thế, thậm chí liên tục trong suốt cả một đêm, với tốc độ nhanh như nói.”   “Cách khen của cậu cũng hào hoa lắm.”   “Một tài năng thông thường sẽ cần đến một chút lý lẽ, thành thử khi rượu vào rồi thì khó mà làm được thơ, nhưng chủ nhân của tài năng này cứ như thể rượu càng vào thì thơ càng lai láng vậy.”   “Ừm.”   “Nói ví von thì nó như thể một thứ được viết bừa trên chiếu rượu vậy. Ấy thế mà tự nhiên lại thành thơ. Cái câu Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung, nếu là người phàm thì hẳn đã viết thành: Nhìn xiêm y nàng ta tưởng đến mây, trong dung nhan nàng ta tưởng đến hoa mất rồi. Người viết bài thơ này đã đảo ý thơ ấy mới nhẹ nhàng làm sao: Nhìn mây ta tưởng đến xiêm y nàng, trông hoa ta tưởng đến dung nhan nàng...”   “Ra là vậy à?”   “Hoa ở đây chắc hẳn là mẫu đơn rồi.” Không Hải nói.   Sau thời Không Hải ít lâu, ở Nhật Bản khi nói đến hoa, thì có nghĩa là hoa anh đào. Ở Trung Quốc đời nhà Đường, khi nhắc đến hoa không, thì đó thường là mẫu đơn hoặc hoa đào.   “Dật Thế à, một nhân vật viết ra áng thơ tài hoa thế này, thì dù bọn mình không biết, cũng sẽ phải có ai đó biết. Chưa chừng chúng ta sẽ tìm ra gốc gác bài thơ này sớm hơn ta tưởng.” Không Hải đang tự nói với mình thì đúng hơn là nói với Dật Thế. ... Mời các bạn đón đọc Sa Môn Không Hải Thết Yến Bầy Quỷ Đại Đường Tập 2 của tác giả Baku Yumemakura.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kỳ Lân Thần Ấn
Ở địa cầu, nơi có Chân Vũ ngự trị, kiếp nạn luôn sẵn sàng xảy ra. Vũ trụ rộng lớn, bao la, có rất nhiều chủng tộc sinh sống. Những tinh vực không có điểm dừng này là mục tiêu mà rất nhiều sinh linh phấn đấu cả đời. Hãy xem cậu bé này sẽ làm gì khi dắt tay Thần thú Kỳ Lân vương, từ lục địa Di Thất cằn cỗi mà ra. Cậu ấy sẽ làm rung chuyển Chân Vũ, chiến đấu với Ma tộc, chinh phục các tinh vực và làm chủ thế giới! *** Nhìn cả người có chút rách mướp dị ma vương, Nam Cung Thích lại là khẽ mỉm cười, nói: “Đã như vậy, vậy thì mời dị ma vương các hạ, cố gắng hưởng thụ một chút, bản phủ kế tiếp cho ngươi chuẩn bị thịnh yến a!”    Nam Cung Thích tiếng nói vừa dứt, trên người tử kim ánh sáng, nhất thời đột nhiên bắn ra, tử kim ánh sáng nơi đi qua, đều là trực tiếp xuyên thủng hư không, cái kia vô biên ma khí, từ từ 1 đụng chạm, chính là bị trực tiếp đánh tan ... Mời các bạn đón đọc Kỳ Lân Thần Ấn của tác giả Lý Gia Khải Thiếu.
Cực Đạo Quỷ Ma
... Cách viết của tác giả non quá -- đọc tạm được xem như giải trí , đọc lướt qua thì được còn săm soi tỉ mỉ sẽ thấy nhiều lỗi không hay của tác giả... Ai nhận thầu cv truyện này cm nha tớ nhường!!! Lv: Dẫn Linh Cảnh => Linh Thể Cảnh => Động Phách Cảnh => Ngưng Hồn Cảnh… Lv dị quỷ :Si => Mị => Võng => Lượng => Tiêu => Bạt => Khôi.... Độ hay: Tạm *** Ma Giới cùng Minh Giới một mực muốn chiếm lĩnh Nhân Giới, nếu như để Ma Hoàng cùng Quỷ Hoàng đạt được Bản Nguyên Chi Lực, hậu quả kia không chịu nổi tưởng tượng. Cho nên, cho dù bản thân không chiếm được, cũng không thể để đối thủ đạt được. Đúng lúc này, Huyết Ma lão tổ hóa thân ngàn vạn Huyết hải, lấy cuồn cuộn pháp tắc chi lực bao vây cái kia đạo hai màu đen trắng Bản Nguyên Chi Lực. Cơ duyên, gần ở trước mắt! "Sâu kiến, cũng dám nhúng chàm Bản Nguyên Chi Lực!" Mời các bạn đón đọc Cực Đạo Quỷ Ma của tác giả Khinh Chu Chử Tửu.
Bạo Tiếu Bĩ Tiên: Thượng Thần, Cầu Liêu!
Một sớm xuyên qua, biến thành một gốc cây cỏ dại!? exm? Thật vất vả có thể hóa hình, lại bị một chân đá hạ giới trở thành pháo hôi nữ xứng? Cái gì! Bị người tra tấn đến chết là số mệnh! Lăn ngươi đại gia! Từ đây liền bắt đầu mỗ nữ vô tiết tháo vô hạn cuối ôm đùi, cầu bao dưỡng chi lộ —— Mỗ đêm, mỗ nữ quần áo bất chỉnh, lộ ra tảng lớn trắng nõn kiều nộn làn da, bãi quyến rũ tư thế nằm ở trên giường, vứt mị nhãn. “Ngươi hay không bệnh điên lại phát tác, thần trí không rõ.” Mỗ vị thượng thần mặt vô biểu tình nói. “Phanh!” Mỗ nữ trực tiếp từ trên giường tài xuống dưới Tô Thanh tỏ vẻ nhà mình sư phụ quá khó liêu, vô dục vô cầu. 【 xin hỏi như thế nào mới có thể phác gục nhà mình thượng thần? Online chờ, rất cấp bách! 】 *** Không đợi Tô Thanh tự mình đi Đâu Suất Cung hội kiến Thái Thượng Lão Quân, hắn đồng tử liền đang cầm Thanh Liên tử vào đệ ba mươi ba Trọng Thiên. "Lão Quân có thể có sở cầu?" Tô Thanh hỏi. Không duyên cớ lấy người khác này nọ tóm lại không tốt, còn nữa Thanh Liên tử quá mức trân quý. Kim đồng tử chính là thập phần cung kính nói: "Tôn giả khách khí, chích nguyện tôn giả sớm ngày phá vỡ vọng tượng, giải quyết xong nhân quả." Kim đồng tử nói xong, cũng liền vội vàng rời đi. Tô Thanh cầm trong tay tử kim hồ lô lại là một trận nghi hoặc, nhức đầu, bọn họ nói chuyện một đám như thế nào đều nghe không hiểu. Từ nay về sau bốn trăm dư năm nàng vẫn dốc lòng tu luyện, vì chính là tận lực danh chính ngôn thuận lên làm Lục Giới đứng đầu, tu vi có thể nghiền áp Lục Giới. Trở thành Tiên Tôn sau, của nàng tu luyện tốc độ rốt cục khôi phục bình thường bình thường, trở nên cực kỳ thong thả. Đương nhiên đây là ở Tô Thanh chính mình xem ra, bốn trăm năm mới từ Tiên Tôn Sơ Kỳ biến thành Tiên Tôn trung kỳ, này tiêu phí mấy ngàn năm mới trở thành tôn giả cũng không tưởng để ý nàng. ... Mời các bạn đón đọc Bạo Tiếu Bĩ Tiên: Thượng Thần, Cầu Liêu! của tác giả Thất Tiểu Huỳnh.
Sơn Hải Kinh - Khuyết Danh
drTrong kho tàng điển tịch của người Trung Hoa, Sơn hải kinh là một bộ sách rất đặc biệt. Nó bao hàm nội dung về rất nhiều phương diện, từ địa lý, thiên văn, lịch sử, thần thoại, khí tượng cho tới động vật, thực vật, khoáng vật, y dược, tôn giáo. Những ghi chép trong sách tuy cũng có một số có thể ấn chứng với thực tế, nhưng phần nhiều vẫn mang màu sắc thần thoại, có lẽ được dựa vào trí tưởng tượng mà viết nên. Cũng bởi thế mà người thời Thanh khi biên soạn Tứ khố toàn thư có nhận định rằng sách này “ba hoa về những chuyện thần tiên ma quái, không có gì là chân thực, thực là tổ của dòng tiểu thuyết vậy. Đưa vào Sử bộ, không thể chấp thuận được vậy”, rồi bèn đổi sang Tử bộ, xếp vào loại Tiểu thuyết gia. Về mặt kết cấu, bản Sơn hải kinh mà chúng ta có thể thấy được ngày nay cả thảy có 18 quyển, trong đó 5 quyển đầu được gọi chung là Ngũ tạng sơn kinh, hay gọi tắt là Sơn kinh, chủ yếu ghi chép về núi non và sản vật các nơi cùng với nghi thức cúng tế thần thánh; 13 cuốn sau được liệt vào nhóm Hải kinh, lại được chia ra làm các nhóm nhỏ hơn là Hải Ngoại kinh, Hải Nội kinh và Đại Hoang kinh, chủ yếu ghi chép về hình thế địa lý và phong thổ nhân tình ở các vùng. Về thứ tự trình bày các phương hướng, ngoại trừ Đại Hoang kinh thì các phần còn lại đều được sắp xếp theo thứ tự nam, tây, bắc, đông, khác hẳn với lẽ thường. Đây là một bí ẩn mà đến nay chưa người nào có thể đưa ra lời giải đáp xác đáng, cũng chưa ai phát hiện ra một cuốn thư tịch nào khác được chép theo thứ tự như vậy trong kho thư tịch thời Tiên Tần. Bản dịch lần này được dịch từ nguyên tác Hán văn cổ trong bản Sơn hải kinh in năm 2009 của Trung Hoa thư cục, tham khảo thêm bản Sơn hải kinh khắc in năm Vạn Lịch thứ 28 (năm 1600) đời nhà Minh của Mân Cách cổ trai, bản Sơn hải kinh in năm 2000 của Nhà xuất bản Cổ tịch Giang Tô, bản Sơn hải kinh in năm 2015 của Tập đoàn xuất bản Cát Lâm. *** Lời khuyên của Biên tập viên: Sơn Hải Kinh là bộ cổ sử có giá trị của Trung Quốc thời Tiên Tần (trước thế kỷ III tr.CN). Vì ra đời từ rất sớm nên trong Sơn Hải Kinh hiện còn lưu lại nhiều dấu vết về giai đoạn thượng nguồn văn hóa của Trung Quốc. Những dữ liệu kỳ dị về con người, thú vật, địa lý, khoáng sản,… được ghi chép trong sách không chỉ đơn thuần mang tính thần thoại hoang đường mà rất nhiều thông tin trong đó ngày nay thậm chí đã được khoa học xác minh về tính chân thực của nó. Giá trị và thể loại của Sơn Hải Kinh, do đó, phụ thuộc rất nhiều vào cách tiếp cận của người đọc. Độc giả có thể coi nó là một cuốn tiểu thuyết kỳ dị để giải trí những khi rảnh rỗi, hoặc có thể dùng những kiến thức khoa học ngày nay để suy nghĩ về những vấn đề được đặt ra trong cuốn sách cũng là một cách tiếp cận thú vị và có chiều sâu. Vì được viết theo hình thức truyện kể, nội dung giản dị, dễ hiểu nên Sơn Hải Kinh phù hợp với tương đối đa dạng độc giả, ở nhiều lứa tuổi và lĩnh vực khác nhau. Các chương, phần trong tác phẩm cũng hoàn toàn độc lập với nhau nên độc giả có thể mở sách ra đọc bất kỳ phần nào mà mình thích.  Vì được in kèm hình minh họa màu đẹp mắt nên ấn phẩm Sơn hải Kinh lần này hứa hẹn sẽ thu hút được cả những độc giả nhỏ tuổi. Khi đọc Sơn hải kinh, quý độc giả rất nên mua kèm theo Sơn hải kinh đồ để vừa thưởng thức được những minh họa trong tác phẩm, vừa có thêm được cái nhìn về trí tưởng tượng và lối suy nghĩ của các họa sư từ đời Thanh (thế kỷ XVII), Trung Quốc. *** Tác giả Sơn Hải Kinh: Khuyết danh Tác giả và thời gian hoàn thành Sơn hải kinh chưa được xác định. Học giả Lưu Hâm thời Tây Hán cho rằng sách này là do Bá Ích và Đại Vũ làm ra, đã có từ khoảng giữa thời nhà Ngu và nhà Hạ. Có thể khẳng định, rất nhiều thần thoại trong sách có nguồn gốc từ những câu chuyện truyền miệng xa xưa, nhưng lấy đó để khẳng định sách được làm từ thời Ngu Hạ thì thật thiếu căn cứ, bởi qua kiểm chứng, trong sách có rất nhiều tích truyện xảy ra sau giai đoạn này. Hiện nay, đa số các học giả đều đồng ý rằng sách không phải do một người làm ra, mà trải qua nhiều đời rồi mới từ từ thành sách, niên đại vào khoảng từ thời Chiến Quốc kéo dài đến đầu thời Tây Hán. *** Sơn Hải Kinh là cổ tịch thời Tiên Tần của Trung Quốc, trong đó chủ yếu mô tả các thần thoại, địa lý, động vật, thực vật, khoáng vật, vu thuật, tông giáo, cổ sử, y dược, tập tục, dân tộc thời kỳ cổ đại. Sơn Hải Kinh nguyên bổn có hình vẽ mô tả hẳn hoi, gọi là “Sơn Hải Đồ Kinh”, nhưng bản này đến đời Ngụy Tấn thì thất truyền. Có học giả cho rằng, Sơn Hải Kinh không chỉ đơn thuần là quyển sách ghi lại truyện thần thoại, mà là thứ sách địa lý thời cổ đại, bao quát nhiều loài chim thú khắp núi sông vùng Hoa Hạ lẫn các lãnh thổ hải ngoại. Tác giả và thời gian hoàn thành Sơn Hải Kinh chưa được xác định, trước thì cho rằng do Bá Ích và Đại Vũ làm, nhưng hiện giờ các học giả Trung Quốc cho rằng thời gian để hoàn thành sách này trải qua nhiều kỳ, làm bỡi nhiều tác giả khác nhau, niên đại vào khoảng từ thời Chiến Quốc kéo dài cho đến đầu thời Hán. Sách có thể là do nhiều người ở nước Sở, Sơn Đông, Ba Thục cùng người từ nhiều địa phương khác, đến thời Hán thì được tập hợp lại để làm sách dạy học. Sơn Hải Kinh chuyển tải nhiều thần thoại cố sự mang màu sắc thần bí với hàng loạt quái thú kỳ dị. Trong sách có rất nhiều chuyện được viết từ lời truyền khẩu, tập hợp thành nhiều bản khác nhau. Bản sách được cho là sớm nhất được hai cha con Lưu Hướng, Lưu Hâm soạn thành. Thời Tấn có Quách Phác chú thích và khảo chứng Sơn Hải Kinh. Thời Minh có Vương Sùng Khánh làm “Sơn Hải Kinh thích nghĩa”, Dương Thận làm “Sơn Hải Kinh bổ chú”, Ngô Nhâm Thần làm “Sơn Hải Kinh nghiễm chú”. Thời Thanh, Ngô Thừa CHí soạn “Sơn Hải Kinh địa lý kim thích”, Tất Nguyên làm “Sơn Hải Kinh Tân Giáo Chánh”, Hác Ý soạn “Sơn Hải Kinh tiên sơ”. Thời Dân quốc có lưu hành bản “Sơn Hải Kinh giáo chú” của Viên Kha rất đáng quan tâm. Toàn bộ Sơn Hải Kinh có 18 quyển, trong đó Sơn Kinh có 5 quyển, Hải Kinh có 8 quyển, “Đại hoang kinh” có 4 quyển, “Hải nội kinh” một quyển, cộng lại khoảng 31.000 chữ. Nó mô tả trọn 100 quốc gia (nhỏ, bên trong Trung Quốc thời xưa), 550 núi, 300 thủy đạo, cùng các phong cảnh địa lý, phong thổ, sản vật của các nước. Trong Sơn Kinh còn có một bộ phận mô tả về vu sư, phương sĩ, và từ quan – những lớp người chuyên cầu đảo phong thuật rất thịnh hài thời xưa. Kinh được miêu tả theo lối truyền kỳ, nhưng có có chút ít giá trị khoa học, rất đáng tham khảo cho người nghiên cứu về sử học, văn học, và ... dịch thuật. Trong Sơn Kinh có bảo tồn nhiều nghi thức tế lễ thần thánh, có thể làm bản đối chiếu và nghiên cứu “Chu lễ” thời xưa, ví dụ như các bản mối được phát hiện thêm như “Bao sơn sở giản”, “Vọng sơn sở giản”, “Tân Thái sở giản”. Truyền thuyết về Nữ Oa thời cổ đại cũng là từ Sơn Hải Kinh mà ra. Các kiệt tác trứ danh khác bao gồm: “Khoa phụ đuổi theo mặt trời”, “Nữ oa vá trời”, “Hậu nghệ bắn rụng chính mặt trời”, “Hoàng đế đại chiến Xi Vưu”, “Thần Cộng Công giận quá đập đầu vào Chu sơn dẫn đến cơn Đại hồng Thủy”, “Cổn (Cha của vua Hạ Vũ/Đại Vũ) trộm Tức nhưỡng trị thủy thành công”, “Thiên đế lấy lại Tức nhưỡng, giết Cổn, cho đến khi vua Đại Vũ trị thủy thành công. Ngoài ra, Sơn Hải Kinh còn ghi lại những sự kiện kỳ quái mà hầu hết cho đến nay vẫn còn đang được tranh luận. Sách này án theo đất đai ghi lại sự kiện, chứ không ghi theo thời gian. Trong đó, hầu hết sự vật đều phát sinh từ hướng nam, sau đó mới dần lên hướng Tây, hướng Bắc, rồi tới trung bộ (Cửu Châu) của đại lục. Cửu Châu được vây quang bỡi Đông Hải, Tây Hải, Nam Hải, Bắc Hải. Việc thuận theo hướng Nam – Tây – Bắc – Đông này rất khác với thuận hướng Đông Nam Tây Bắc sau này, so với các thư tịch ghi lại chuyện các đại đế thời cổ thường ngồi xoay mặt về hướng nam, rồi quan niệm “thiên nam địa bắc” ... nhất định có liên quan. Từ thời cổ đại, Trung Quốc cứ nhất mực lấy Sơn Hải Kinh làm sách tham khảo cho các đại sử gia, ngay cả như Tư Mã Thiên cũng nhận định trong Sử Ký của mình: “Chí Vũ Bổn kỷ, Sơn Hải Kinh sở hữu quái vật, dư bất cảm ngôn chi dã”. Mời các bạn đón đọc Sơn Hải Kinh.