Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nàng Phù Thủy Thành Florence

Nàng phù thủy thành Florence (Nguyễn Thị Hiền Thảo dịch - Nhã Nam và NXB Hội Nhà Văn) là tiểu thuyết thứ tám của Salman Rushdie. Ông không chỉ được biết đến với giải Man Booker năm 1981 cho cuốn tiểu thuyết Những đứa trẻ lúc nửa đêm, mà còn nổi tiếng vì bị giáo chủ Iran Khomeini kết án tử hình vắng mặt, với lý do cuốn tiểu thuyết Những vần thơ của quỷ Satan (1988) của ông được cho là xúc phạm sâu sắc đến giới tăng lữ Hồi giáo. Trong bài phỏng vấn được Lévai Balázs thực hiện, Salman Rushdie có nói rằng: “Tách câu chuyện ra khỏi văn học là một nhầm lẫn”, và “phản xạ đầu tiên của tôi là không làm cho độc giả chán” (Thế giới là một cuốn sách mở, Giáp Văn Chung dịch, Nhã Nam và NXB Văn Học). Có lẽ đối với ông, câu chuyện luôn nằm ở vị trí trung tâm của văn học. Ðiều này trái với xu hướng gạt bỏ vai trò trọng yếu của cốt truyện ra khỏi tác phẩm mà ta thường thấy trong tự sự hiện đại. Salman Rushdie không xây nên một cốt truyện mỏng mảnh, rồi bồi đắp cho tác phẩm bằng những miêu tả, ghi chép, bình luận phong phú, mà ông chủ trương chỉ kể những câu chuyện và từ đó tác phẩm ra đời. Cuốn Nàng phù thủy thành Florence có hàng chục câu chuyện lớn nhỏ như thế khác nhau, tạo nên một thế giới chuyện kể phong phú và huyền ảo, pha lẫn sắc màu Ðông - Tây. Tự nhận là một nhà văn được cả hai thế giới Ấn Ðộ và Anh chấp nhận, Salman Rushdie dựng nên phông nền cho cuốn tiểu thuyết thứ tám của mình bằng chính chất liệu của hai thế giới ấy. Florence thời Phục hưng và đế chế Mughal nằm trên tiểu lục địa Ấn Ðộ thế kỷ thứ 16 - thời kỳ rực rỡ của văn học, nghệ thuật và tôn giáo. Cuốn sách kể hai câu chuyện chính song song nhau, bên cạnh hàng loạt câu chuyện khác. Ðó là cuộc phiêu lưu của nàng công chúa Qara Köz thuộc vương triều Mughal. Ðó còn là cuộc sống của ba người bạn từ thuở ấu thơ đến khi trưởng thành tại Florence. Mỗi người mang một niềm tin khác nhau vào cuộc đời. Nổi bật và là yếu tố gắn kết hai câu chuyện là sức sống của nàng công chúa thất lạc Qara Köz. Nàng bắt đầu ra đi khỏi một vùng đất, chu du khắp nơi để rồi xuất hiện lại tại chính vương quốc mà nàng đã từ bỏ sau quãng thời gian dài, trong một hình thái khác. Song trong suốt cuộc hành trình đầy biến động đó, tâm trí nàng vẫn chỉ đắm chìm trong một thế giới khép kín, bất biến của tự do, tình yêu và sự khát khao nhục thể. Sự xuất hiện của Niccolò Machiavelli (1469-1527) là một trong những chi tiết lịch sử có thật được nhắc tới trong cuốn tiểu thuyết này. Song ông không chỉ được nhìn nhận là một nhà ngoại giao, triết học chính trị, tác giả của cuốn sách Quân vương mà còn là một con người với những khát khao thông thường nhất. Ðiển hình là lòng ngưỡng mộ và tình yêu ông dành cho Qara Köz Cùng với Haroun và biển truyện đã được xuất bản trước đây tại VN, Nàng phù thủy thành Florence một lần nữa chứng tỏ Salman Rushdie luôn là người biết kể những câu chuyện dài theo một cách rất đặc biệt, đầy hào hứng và tràn ngập bất ngờ.. *** Nàng phù thủy đầy mê hoặc của Salman Rushdie Một người đàn bà gần như không có thật nhưng lại mê hoặc được vị quân vương anh minh bậc nhất. Đôi khi một dung nhan tuyệt mỹ không tồn tại trong một hình hài cụ thể... Tên sách: Nàng phù thủy thành Florence Tác giả: Salman Rushdie Nhà xuất bản: Hội nhà văn Salman Rushdie đưa chúng ta đến vương triều Mughal - một vùng đất giàu có và quyền lực bậc nhất. Ở đó có Akbar đại đế, đấng minh quân được cả vương quốc tôn sùng. Ông là một vị vua luôn bị dằn vặt bởi những câu hỏi đầy triết lý của chính mình. Tâm trí Akbar luôn bị bủa vây bởi sự lo sợ về những tai ương sẽ xảy đến với một bậc quân vương. Nhưng sâu thẳm bên trong vị vua đầy quyền lực này là gì? Câu trả lời chỉ có một: sự cô độc. Một người đàn ông có tất cả những vật chất xa hoa nhưng chẳng có lấy một ai để chia sẻ. Một người đàn ông có trong tay những người phụ nữ đẹp nhất nhưng chưa bao giờ cảm thấy thỏa mãn. Quyền lực đã trở thành một vật cản để Akbar mở lòng mình. Chính sự cô đơn trong hào nhoáng này đã khiến vị hoàng đế quyền uy phải tự thỏa mãn bằng một mỹ nhân do chính mình tưởng tượng ra. Đó chính là một người phụ nữ không chỉ có dung nhan xinh đẹp mà còn biết vẽ hình xăm, ca hát và nhảy múa... Người phụ nữ không chỉ làm cho Akbar mê đắm mà khiến cho tất cả đàn ông trên thế gian này đều phải khuất phục trước vẻ đẹp của nàng. Bằng âm mưu đầu độc cả đoàn thủy thủ đến từ Anh Quốc, tên lừa đảo Niccolò Machivavell đã đến vương quốc Mughal với cái tên Mogor dell'Amore. Hắn là đứa con của thành Florence thời kỳ cực thịnh, một tên tinh ranh bậc nhất. Bất cứ điều dối trá nào cũng có thể được nói ra từ miệng của hắn. Đó là con người chỉ bằng khả năng ba hoa và lừa phỉnh của mình mà từ một đứa trẻ mồ côi bơ vơ đầu đường xó chợ leo lên được chiếc ghế cao quyền lực và làm cho kẻ khác phải điêu đứng. Đặc biệt hắn là kẻ dâm đãng điên cuồng. Hắn luôn bị ám ảnh bởi vẻ đẹp thể xác của phụ nữ, dẫu đó là một ả gái điếm trong nhà thổ. Do sự sắp đặt tài tình của thượng đế hay chỉ là điều tình cờ mà hai người đàn ông đã gặp nhau và kể cho chúng ta nghe câu chuyện về nàng phù thủy thành Florence. Phù thủy thành Florence thực chất là ai? Mỹ nhân tuyệt sắc chính là sự pha trộn giữa La Fiorentina - ả gái điếm xinh đẹp nhất thành Florence và Qara Koz - nàng công chúa quyến rũ mang dòng dõi Thành Cát Tư Hãn đã bị thất lạc nhiều năm. Nhờ miệng lưỡi khôn lường của Niccolò mà hai người phụ nữ đã hợp thành một. Và mỹ nhân tuyệt sắc này đã xoa dịu trái tim cô đơn của hoàng đế, giúp một tên tha phương giảo hoạt nắm trong tay quyền lực. Dù là vương triều Mughal, hay thành Florence thì đó đều là nơi đàn ông làm chủ. Ở đó, bề ngoài phụ nữ được yêu chiều, được ngưỡng mộ, được theo đuổi; nhưng thực chất họ chỉ bị sở hữu chứ không được yêu. Đàn ông chỉ coi phụ nữ là công cụ để thỏa mãn những đam mê thể xác và thói quen sở hữu của mình. Những người đàn ông luôn nghĩ họ có thể điều khiển được người phụ nữ. Nhưng họ đã nhầm! Những con người thông minh nhưng độc đoán ấy, đã lún quá sâu vào dục vọng không tưởng. Để rồi nàng phù thủy của thành Florence đã chế ngự họ một cách khéo léo. Những người đàn ông đã tự rơi vào cái bẫy do họ tự đặt ra mà vẫn tưởng rằng mình là người thắng cuộc.  body-2-9211-1396949276.jpg Tác giả Salman Rushdie.   Nàng phù thủy thành Florence là một tiểu thuyết mang nhiều yếu tố tình dục nhưng không hề dung tục. Nó đưa người đọc vào sâu hơn nữa phần "người" trong mỗi chúng ta. Lấy bối cảnh là vương quốc Mughal của Ấn Độ và thành Florence của Italy - hai trung tâm tôn giáo lớn của đạo Hindu và đạo Thiên Chúa giáo. Tác phẩm đã tạo nên một không gian tôn giáo và văn hóa đa màu sắc. Tiểu thuyết là sự giao thoa không gian văn hóa giữa phương Đông và phương Tây. Ở đó, ta bắt gặp những nét văn hóa truyền thống, độc đáo của Ấn Độ như: nghệ thuật dùng hương liệu, nghệ thuật vẽ hình xăm và những điệu múa đầy mê hoặc. Lấy bối cảnh là hai "mảnh đất thánh", không gian truyện đậm màu sắc tôn giáo. Ta có thể cảm nhận được sự sùng kính của những con chiên ngoan đạo với Đức tin của mình. Được đặt trong một không gian văn hóa độc đáo nên những điều Salman Rushdie muốn chuyển tải đến độc giả không chỉ là nhục cảm bình thường. Là một nhà văn tài năng, Salman Rushdie dám sống hết mình vì văn chương. Ông đã đoạt giải Booker của Anh vào năm 1981 cho tác phẩm Midnight's children (tạm dịch: Những đứa con của nửa đêm). Do quan điểm táo bạo về tôn giáo, ngày 14/2/1989 ông bị kết án tử hình vắng mặt. Rushdie được nước Pháp trao tặng Huân chương văn học nghệ thuật vào năm 1999 và Nữ hoàng Anh phong tước Hiệp sĩ vào tháng 6/2007 vì sự nghiệp văn chương. Tuy còn nhiều đánh giá trái chiều về đóng góp của ông cho văn học, nhưng không thể phủ nhận Rushdie là một trong những tác gia văn chương đáng kể hiện nay. Quỳnh Anh *** Trong tia sáng cuối cùng của ngày hôm ấy, mặt hồ lấp lánh Trong tia sáng cuối cùng của ngày hôm ấy, mặt hồ lấp lánh dưới kinh thành như biển vàng nung chảy. Một lữ khách thả bước lối này trong hoàng hôn - lữ khách ấy, bấy giờ, thả bước lối này, dọc con đường ven hồ - tưởng đâu mình đang đến gần ngai vàng của vị quốc vương giàu có hoang đường đến mức có thể cho phép trút một phần kho báu của mình vào một cái hố khổng lồ trong lòng đất khiến cho khách khứa của ngài lóa mắt và kinh sợ. Lớn bằng cả một hồ vàng, nhưng chắc hẳn chỉ là một giọt nước nhểu ra từ biển của cải còn lớn hơn nữa - trí tưởng tượng của người lữ khách không thể nắm bắt được tầm vóc mẹ đại dương! Cũng không có người lính canh nào bên mé hồ nước vàng; phải chăng nhà vua hào phóng đến mức cho phép mọi thần dân của mình, có lẽ cả những người xa lạ và những vị khách như chính người lữ khách đây, được thoải mái múc lấy thứ tặng vật lỏng từ dưới hồ? Quả thật có một ông hoàng trong số mọi người, tên gọi là Prester John. Vương quốc của chàng nay đã mất, toàn những bài ca và truyền thuyết, hàm chứa những điều không thể tin được. Có lẽ (người lữ khách phỏng đoán) đài phun nước thanh xuân vĩnh cửu nằm bên trong những bức tường thành - hay biết đâu ngay cả cánh cửa trong truyền thuyết dẫn đến Thiên dường trên Mặt đất cũng ở đâu đấy cận kề tầm tay? Nhưng sau đó mặt trời lặn dưới chân trời, khối vàng chìm xuống dưới mặt nước, biến mất. Các nhân ngư và mãng xà lại canh gác nó cho đến khi ánh sáng ban ngày trở lại. Từ giờ cho đến lúc ấy, kho báu duy nhất mời gọi sẽ chỉ là nước hồ, tặng vật mà người lữ khách khát bỏng chấp nhận đầy biết ơn. Người khách lạ đi trên một cỗ xe bò, nhưng thay vì ngồi trên những tấm đệm xù xì trên xe, y lại đứng như một vị thần, một tay hờ hững bám vào tay vịn của khung gỗ mắt cáo chiếc xe. Chuyến đi bằng xe bò hoàn toàn không êm ả, cỗ xe hai bánh lắc lư xóc nảy theo nhịp bước của con vật, tùy theo cả sự thất thường của mặt đường phía dưới. Một kẻ đứng trên xe có thể dễ dàng ngã gãy cổ. Tuy nhiên, lữ khách vẫn đứng, vẻ bất cẩn và hài lòng. Người đánh xe từ lâu đã không còn quát tháo y nữa, ban đầu anh ta cho gã xa lạ này là kẻ gàn dở - nếu hắn muốn chết trên đường thì kệ hắn, chẳng người nào ở cái đất nước này thương tiếc! Tuy nhiên, không lâu sau, thái độ dè bỉu của người đánh xe nhường chỗ cho sự ngưỡng mộ đầy ác cảm. Người này có thể hơi ngốc nghếch thật, nhưng ta có thể nói mà không sợ quá lời rằng y có gương mặt gã khờ quá đẹp và mặc bộ quần áo gã khờ không phù hợp - một chiếc áo choàng chắp vá từ những mảnh da nhuộm màu hình quả trám, trong tiết trời nóng như thế! Nhưng tài giữ thăng bằng của y thì không chê vào đâu được, thật đáng kinh ngạc. Con bò đực bước đi khó nhọc, bánh xe va phải ổ gà, vào đá, vậy mà người đang đứng ấy hầu như không lắc lư, và bằng cách nào đó vẫn tỏ ra phong nhã. Một gã khờ phong nhã, người đánh xe nghĩ, hay có lẽ không khờ khạo chút nào. Có thể là kẻ nào đó đáng cho ta trông cậy. Giả sử y có lỗi, thì ấy là lỗi cố gắng không chỉ là chính y mà còn là màn trình diễn của y, vả chăng, người đánh xe nghĩ, xung quanh đây mọi người đều phần nào như thế, vì vậy suy cho cùng người này không hoàn toàn xa lạ với bọn ta. Khi lữ khách bảo rằng y khát, người đánh xe bỗng thấy mình đi đến bờ nước múc một cốc bằng quả bầu rỗng đánh bóng, đoạn giơ ra cho khách lạ uống, hệt như thể y là một quý tộc xứng đáng được người ta hầu hạ. “Anh cứ đứng đó như ông lớn, còn tôi chạy nháo nhào theo yêu cầu của anh,” người đánh xe nhíu mày nói. “Tôi không hiểu sao mình đối xử tốt với anh vậy. Ai cho anh cái quyền ra lệnh cho tôi? Anh là ai nào? Không phải một quý tộc, cái đó thì chắc rồi, nếu không thì đã chẳng ở trên cỗ xe bò này. Nhưng vẫn có cái vẻ ta đây ở anh. Vậy có lẽ anh thuộc loại du côn du kề.” Người kia vục vào quả bầu để uống. Nước trào qua khóe miệng vương vào chiếc cằm cạo nhẵn giống như bộ ria bằng chất lỏng. Lúc lâu sau, y trả lại quả bầu rỗng, thở dài hài lòng, lau nước dính ở ria. “Tôi là ai?” y nói, như thể đang nói một mình, nhưng lại dùng ngôn ngữ của chính người đánh xe. “Tôi là người có một điều bí mật, và điều bí mật đó là gì, chỉ có tai của hoàng đế mới nghe thấy được.” Người đánh xe chắc mẩm: gã này khờ thật rồi. Không cần phải kính cẩn với y nữa. “Cứ giữ lấy bí mật của anh,” anh ta nói. “Chúng chỉ dành cho trẻ con, và gián điệp.” Người lạ xuống xe bên ngoài trạm nghỉ dành cho khách lữ hành, nơi mọi hành trình bắt đầu và kết thúc. Y cao đến lạ và xách theo một cái túi may bằng vải thảm. “Và cho các thầy phù thủy,” y nói với người đánh xe bò. “Cho cả các tình nhân. Và những vị vua.” Ở trạm nghỉ, đâu đâu cũng ồn ào, náo nhiệt. Gia súc được chăm sóc: ngựa, lạc đà, bò đực, lừa, dê, trong khi thú hoang chưa thuần thì chạy loạn xạ: bọn khỉ kêu choe chóe, lũ chó chẳng phải thú cưng của ai. Đám vẹt la hét inh tai bay ùa ra như pháo hoa xanh trên bầu trời. Thợ rèn đang làm việc, cả thợ mộc cũng thế, còn trong các cửa hàng tạp hóa khắp bốn phía quảng trường rộng lớn, những người đàn ông chắc nịch lực lưỡng tính toán trù liệu hành trình, mua tích trữ đồ tạp hóa, nến, dầu, xà phòng, dây thừng. Những anh cu li đội khăn xếp mặc áo đỏ đóng khố dhoti không ngừng chạy tới lui đây đó, với những bó to không hiểu nổi và nặng trĩu trên đầu. Nhìn chung là rất nhiều hàng lên hàng xuống. Giường nghỉ qua đêm ở đây hẳn rẻ, những chiếc giường căng dây khung gỗ trải đệm lông ngựa chăn bông, sắp hàng như đội hình nhà binh trên mái những tòa nhà một tầng vây quanh cái sân lớn mênh mông của khu nhà trạm, những chiếc giường nơi người ta có thể nằm ngửa mặt lên trời mà tưởng tượng mình là thiên sứ. Xa hơn, về phía Tây, là doanh trại rì rầm của các đoàn quân của hoàng đế mới từ chiến trận trở về. Quân đội không được phép vào khu vực cung điện mà phải ở lại đây dưới chân ngọn đồi hoàng gia. Một đội quân thất nghiệp, mới từ chiến trường về, phải được đối xử cẩn trọng. Khách lạ nghĩ đến La Mã cổ đại. Một hoàng đế không tin người lính nào trừ vệ sĩ của mình. Người lữ khách biết rằng câu hỏi về lòng tin chính là câu hỏi y sẽ phải trả lời thật thuyết phục. Bằng không, y sẽ sớm mất mạng. Cách không xa khu nhà trạm, một ngọn tháp tua tủa những ngà voi đánh dấu cổng vào cung điện. Mọi con voi đều thuộc về hoàng đế, và việc trang trí tháp bằng ngà voi thể hiện quyền lực của ông. Hãy cẩn thận! ngọn tháp cảnh báo. Ngươi đang bước vào địa phận của Vua Voi, vị quốc chủ sở hữu nhiều giống vật da dày này đến độ có thể hoang phí răng nanh của hàng nghìn con thú khổng lồ chỉ để trang trí cho tôi đấy. Qua cách phô trương sức mạnh của tháp, người lữ khách nhận thấy cũng cái tính chất phô trương ấy nóng bỏng trên trán y như một ngọn lửa, hay dấu ấn của Quỷ dữ; nhưng người làm ra ngọn tháp này lại chuyển thành sức mạnh cái phẩm tính mà ở người lữ khách thường được xem như một nhược điểm. Quyền lực có phải là lý do duy nhất biện minh cho một cá tính hướng ngoại? lữ khách tự hỏi và không trả lời được, song tự thấy mình hy vọng rằng vẻ đẹp có thể là một lý do nữa, bởi y chắc là mình đẹp, và biết rằng dáng vẻ ngoài của y cũng có sức mạnh riêng. Xa hơn tòa tháp ngà voi là một cái giếng to đại, bên trên nó là một hệ thống cấp nước phức tạp đến không sao hiểu nổi phục vụ cung điện nhiều mái vòm trên đỉnh đồi. Không có nước, chúng ta chẳng là gì, người khách nghĩ. Thậm chí một hoàng đế không có nước cũng sớm thành tro bụi. Nước là đấng quân vương đích thực và tất cả chúng ta là nô lệ. Một lần ở nhà tại Florence y đã gặp một người có thể làm cho nước biến mất. Pháp sư này đổ nước đầy đến miệng bình, lẩm nhẩm câu thần chú, lật ngược cái bình, thế là thay vì nước, vải vóc tuôn ra, một dòng những khăn lụa nhiều màu xối xả. Đó chỉ là mẹo lừa, tất nhiên, và chưa hết ngày hôm đó người khách đã moi được bí mật của gã phù thủy và cất đi cùng những bí mật khác của mình. Y là một người có nhiều điều bí mật, nhưng chỉ có một điều xứng cho một vị vua. Con đường dẫn đến tường thành bỗng nhiên dốc hơn và trong khi leo dốc, y nhìn thấy tầm cỡ của cung điện nơi mình đến. Rõ ràng nó là một trong những thành phố lớn trên thế giới, theo quan sát của y, lớn hơn Florence, Venice hoặc Rome, lớn hơn bất kỳ thành phố nào mà lữ khách từng thấy. Y đã thăm Luân Đôn một lần; nó cũng nhỏ hơn nơi này. Khi ánh sáng nhạt nhòa đi, thành phố dường như lớn hơn lên. Những khu dân cư đông đúc chen chúc bên ngoài tường thành, thầy tu báo giờ từ trên những tòa tháp giáo đường, và từ xa, y nhìn thấy ánh sáng của những điền trang lớn. Lửa bắt đầu cháy trong ánh chiều chạng vạng, như những lời cảnh báo. Từ trên mái vòm tối đen của bầu trời xuất hiện ánh sáng hồi ứng của những vì sao. Như thể trái đất và thiên đường là những đội quân sắp xung trận, y nghĩ. Như thể doanh trại của hai bên ém mình trong đêm chờ đợi trận chiến của ban ngày nổ ra. Và trong tất cả những đường ngang ngõ tắt này, trong tất cả những ngôi nhà của kẻ quyền thế kia, xa hơn nữa, trên các cánh đồng, sẽ không người nào nghe nói đến tên y, không ai tin được câu chuyện mà y sắp kể. Nhưng y vẫn phải kể. Y đã vượt qua cả thế gian để làm điều đó, và y sẽ làm. Y sải những bước dài và cuốn theo nhiều ánh mắt tò mò, vì mái tóc vàng cũng như chiều cao, mái tóc vàng và phải thừa nhận là bẩn thỉu của y xõa quanh khuôn mặt giống như mặt nước bằng vàng trên hồ. Con đường mòn thoai thoải đi qua tòa tháp ngà voi, dẫn đến cổng đá bên trên có phù điêu hai con voi quay mặt vào nhau. Qua cái cổng để ngỏ vọng đến tiếng người đang vui chơi, ăn uống, tiệc tùng. Có những người lính đứng gác ở cổng Hatyapul, nhưng tư thế của họ thoải mái. Những rào cản thực còn ở phía trước. Đây là nơi công cộng, một chốn dành cho việc họp hành, mua bán và giải trí. Người ta vội vã đi qua trước mặt khách lữ hành, bị thôi thúc bởi cái đói và cơn khát. Ở cả hai bên con đường lát đá giữa cổng bên ngoài và bên trong là những nhà trọ, quán rượu, tiệm ăn, cả người bán hàng rong đủ loại. Công việc mua bán muôn đời chính là đây. Quần áo, đồ bếp núc, đồ trang sức rẻ tiền, vũ khí, rượu rum. Chợ chính nằm ở phía dưới cổng thành nhỏ hơn về phía Nam. Cư dân trong thành thường mua bán ở đó mà tránh nơi này, vốn chỉ dành cho những người mới đến ngờ nghệch không biết giá thật của các thứ. Đây là chợ của những kẻ bịp bợm, chợ của kẻ cắp, những kẻ giọng khàn, nói thách và bần tiện. Song những khách lữ hành mệt mỏi, không rành địa bàn thành phố, bao giờ cũng ngại, không muốn đi bộ vòng quanh bức tường thành bên ngoài để đến khu chợ lớn giá cả phải chăng hơn, nên họ không còn cách nào ngoài giao dịch ngay với các thương gia ở cổng voi. Nhu cầu của họ thường khẩn và đơn giản. Lũ gà sống, kêu ầm ĩ vì hoảng sợ, bị treo ngược đầu, đập cánh loạn xạ, hai chân bị trói vào nhau, chờ nồi nước sôi. Đối với người ăn chay thì có thứ khác, những cái nồi yên ả hơn; rau cỏ không kêu gào. Và có phải người khách nghe thấy trong gió tiếng những người đàn bà đang kêu réo, đùa bỡn, chào mời, cười cợt những người đàn ông vô hình? Có phải đó là những người đàn bà mà y ngửi thấy mùi trong gió chiều? Dù sao thì cũng đã quá muộn, không thể đi tìm hoàng đế đêm nay được. Khách có tiền trong túi và đã trải qua một hành trình dài, vòng vo. Con đường y đi như thế này: tiến đến đích một cách gián tiếp, với nhiều lần tạt ngang, thơ thẩn. Kể từ đặt chân đến Surat, y đã đi qua Burhanpur, Handia, Sironj, Narwar, Gwalior và Dholpur cho đến Agra, rồi từ Agra đến đây, kinh đô mới này. Bây giờ y muốn có một cái giường thật tiện nghi, và một người đàn bà, tốt nhất là không có ria, và cuối cùng là một lượng lãng quên, trốn chạy khỏi chính mình nhất định, thứ không bao giờ tìm thấy được trong vòng tay đàn bà mà chỉ có trong cơn say đến độ. Sau đó, khi những khát khao được thỏa mãn, y lăn ra ngủ trong một nhà chứa nồng nặc, ngáy ầm ĩ bên một gái điếm bị mắc chứng mất ngủ, và mơ. Y có thể mơ bằng bảy thứ tiếng: Ý, Tây Ban Nha, Ả Rập, Ba Tư, Nga, Anh, Bồ Đào Nha. Y nhặt được các thứ tiếng này dọc đường đi theo cách giống như hầu hết cánh thủy thủ nhiễm bệnh vào người; ngôn ngữ là bệnh lậu của y, bệnh giang mai của y, bệnh xcobuýt của y, bệnh truyền nhiễm của y. Ngay khi y thiếp đi, một nửa thế giới bắt đầu thì thào trong óc y, kể những câu chuyện của những lữ khách phi thường. Trong thế giới mới được khám phá nửa vời này, mỗi ngày đều mang đến tin tức về những phép màu mới. Bài thơ-giấc mộng thấu thị và khai ngộ của cái hằng ngày hãy còn chưa bị nghiền nát bởi thực tế buồn tẻ, bị che đậy. Bản thân y, một người kể chuyện, bị những câu chuyện kỳ thú đưa chân ra khỏi nhà, một trong số đó có thể đem lại cho y một gia tài hoặc khiến y phải trả giá bằng sinh mạng. Mời các bạn mượn đọc sách Nàng Phù Thủy Thành Florence của tác giả Salman Rushdie & Nguyễn Thị Hiền Thảo (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ma Cà Rồng Ở Dallas
Khi chàng ma cà rồng Bill Thompton tiếp nhận vị trí Điều tra viên khu vực Số Năm, Sookie Stackhouse mặc nhiên được những ma cà rồng quyền lực nhất vùng bảo vệ. Nhưng, được coi như món đồ thuộc quyền sở hữu của Bill, cô buộc phải sử dụng khả năng đọc tâm trí của mình để phục vụ những kẻ khát máu. Với điệp vụ đầu tiên trong vai trò một tay lính đánh thuê, cô phải lặn lội cùng Bill tìm lời giải đáp cho sự mất tích bí ẩn của một ma cà rồng đồng tính tận Dallas. Cô những tưởng mình chỉ cần đọc tâm trí một vài người thường nào đó. Cô cũng đã tưởng mình có thể bảo vệ những con người liên quan đến vụ việc. Chỉ có điều, mối nguy hiểm không phải lúc nào cũng chỉ đến từ phía ma cà rồng. Và, lý thuyết bao giờ cũng đơn giản hơn thực tế… Một lần nữa, chính mạng sống của cô lại bị treo trên đầu sợi tóc… Charlaine Harris (sinh 25/11/1951) sinh ra và lớn lên tại Tunica, Mississippi và hiện giờ đang sống ở Arkansas cùng chồng và ba người con. Bà sáng tác thơ, truyện ngắn, kịch và tiểu thuyết. Chết trước hoàng hôn (Dead Until Dark) là tập đầu tiên trong bộ tiểu thuyết ăn khách The Southern Vampire Mysteries (Bí ẩn ma cà rồng miền Nam), từng giành được giải Anthony Award cho Tác phẩm thần bí xuất sắc nhất 2001. Bộ tiểu thuyết này cũng được đạo diễn Alan Ball chuyển thể thành series phim truyền hình ăn khách nhiều năm liên tiếp True Blood. “Thật khó tưởng tượng ra cảnh ma cà rồng và người sói cùng lượn lờ ở mỗi góc đường, nhưng Harris đã biết cách khiến người đọc yêu thích, bị lôi cuốn và cuối cùng là mê mệt những câu chuyện của bà.” – The Monroe News-star “Một cuốn sách bạn muốn đọc trước giờ đi ngủ, chắc mẩm sẽ chỉ theo dõi hết chương đầu tiên, nhưng hóa ra lại chỉ dừng lại được khi đã đi đến trang cuối cùng.” – Alan Ball, biên kịch American Beauty và đạo diễn True Blood “Bằng sự hòa quyện của những pha hành động, tình cảm và các chi tiết hài hước, Harris đã tạo ra một thế giới sống động đầy tính hiện thực, tất nhiên, nếu không kể đến ma cà rồng và những sinh vật siêu nhiên khác.” – The Toronto Stars *** Andy Bellefleur đã say khướt. Chuyện này chẳng bình thường với Andy chút nào - tin tôi đi, tôi biết hết mấy tay nát rượu ở Bon Temps. Nhờ nhiều năm làm việc trong quán bar của Sam Merlotte, tôi đã quen mặt tất cả bọn họ. Nhưng Andy Bellefleur, người gốc địa phương và là thanh tra trong lực lượng cảnh sát ít ỏi ở thị trấn Bon Temps, thì trước giờ chưa từng say xỉn ở quán Merlotte. Tôi cực kỳ tò mò muốn biết vì sao tối nay lại là ngoại lệ. Vì Andy và tôi chẳng hề quen thân nên tôi không thể hỏi thẳng anh ta được. Nhưng vẫn còn vài cách khác mà, thế là tôi quyết định dùng các cách ấy. Mặc dù tôi luôn cố hạn chế sử dụng khiếm khuyết, hay tài năng của mình, muốn gọi sao cũng được, để tìm ra những thứ có thể ảnh hưởng đến tôi hoặc những thứ thuộc về tôi, nhưng đôi lúc sự tò mò lại thắng thế. Tôi hạ rào chắn tâm trí xuống để đọc suy nghĩ của Andy. Rồi tôi lại thấy hối hận. Sáng nay Andy đã tóm một tên bắt cóc. Gã đàn ông đó đã bắt cóc cô bé hàng xóm mới mười tuổi mang vào rừng hãm hiếp. Cô bé đó hiện đang ở bệnh viện, còn gã kia đang ở trong tù, nhưng tổn hại mà hắn đã gây ra thì chẳng thể nào khắc phục được. Tôi buồn đến phát khóc. Tội ác ấy chạm vào sâu thẳm quá khứ của chính tôi. Sự trầm uất của Andy làm tôi thấy thích anh ta hơn một chút. “Này Andy Bellefleur, đưa chìa khóa xe anh đây,” tôi nói. Gương mặt to bành của Andy ngước lên nhìn tôi, ngơ ngác. Sau một hồi lâu ngẩn ngơ để cho lời tôi nói thẩm thấu vào trí óc rối bời của mình, Andy thò tay lục túi quần kaki rồi đưa tôi một chùm chìa khóa nặng trịch. Tôi đặt thêm một ly bourbon pha coca trên quầy bar trước mặt anh ta. “Tôi mời,” tôi nói, rồi lấy điện thoại ở cuối quầy bar gọi cho Portia, em gái Andy. Hai anh em nhà Bellefleur sống ở một căn biệt thự lớn kiểu tiền Nội Chiến hai tầng màu trắng trước đây hẳn rất tráng lệ nhưng giờ đang xuống cấp, nằm trên con phố xinh xắn nhất trong khu vực đẹp nhất thị trấn Bon Temps. Trên đường Magnolia Creek, mọi ngôi nhà đều quay mặt ra phía dải công viên có dòng suối nhỏ len qua, bắc rải rác ngang con suối là những cây cầu hoa hòe hoa sói chỉ dành riêng cho người đi bộ; đường lộ chạy dọc hai bên công viên. Trên đường Magnolia Creek còn có vài căn nhà xưa khác nữa, nhưng tất cả đều được chăm chút hơn nơi ở của gia đình Bellefleur, căn Belle Rive. Việc duy tu căn nhà Belle Rive vượt quá khả năng chi trả của Portia, một luật sư, và của Andy, một cảnh sát, vì số tiền để duy trì căn nhà cùng đất đai vườn tược chung quanh đã hết từ lâu rồi. Nhưng bà của họ, Caroline, lại gàn bướng không chịu bán. Portia nhấc điện thoại sau hồi chuông thứ hai. “Portia à, tôi là Sookie Stackhouse đây,” tôi phải lên giọng để át đi âm thanh ồn ã trong quán bar. “Hẳn là cô vẫn đang ở chỗ làm.” “Phải rồi. Andy đang ở đây, say mèm rồi. Tôi đã thu chìa khóa xe của anh ấy. Cô đến đón Andy được không?” “Andy quá chén à? Hiếm nhỉ. Được rồi, tôi sẽ đến đó trong vòng mười phút,” cô ta hứa, rồi cúp máy. “Cô tốt bụng quá, Sookie,” tự nhiên Andy thốt lên. Anh ta đã nốc cạn ly rượu tôi vừa rót. Tôi gạt cốc ra chỗ khuất mắt, mong rằng anh ta không đòi thêm nữa. “Cảm ơn anh, Andy,” tôi nói. “Anh cũng là người tốt bụng mà.” “Bạn trai… đâu ấy nhỉ?” “Ngay đây này,” một giọng nói lạnh lùng đáp lại, và Bill Compton xuất hiện ngay đằng sau Andy. Tôi mỉm cười với anh qua đầu Andy lúc này đang gục xuống. Bill cao khoảng một mét tám, tóc và mắt cùng một màu nâu sẫm. Anh có bờ vai rộng và đôi cánh tay cuồn cuộn cơ bắp như của người đã lao động chân tay suốt nhiều năm liền. Trước khi đi lính, Bill đã làm việc ở trang trại, đầu tiên là cùng bố, sau đó làm một mình. Trong cuộc Nội Chiến thì phải. “Chào M.B.!” Micah, chồng của Charlsie Tooten, cất tiếng. Bill phẩy tay đáp lại, Jason, anh trai tôi, thì chào hỏi vô cùng lịch sự, “Chào buổi tối nhé, ma cà rồng Bill.” Jason, trước đây không mấy sẵn lòng đón chào Bill bước vào gia đình nhỏ của chúng tôi, nhưng giờ lại thay đổi thái độ hoàn toàn. Trong thâm tâm tôi gần như vẫn nín thở chờ xem thái độ được cải thiện này có tồn tại mãi không. “Này Bill, anh là một tay hút máu tốt bụng đấy,” Andy nói vẻ đánh giá, rồi xoay người đối mặt Bill. Tôi lại nâng cấp quan điểm của mình về Andy khi say xỉn, vì khi tỉnh táo có bao giờ anh ta tỏ ra sẵn lòng chấp nhận ma cà rồng vào xã hội con người trên đất nước này đâu cơ chứ. “Cảm ơn anh,” Bill đáp bằng giọng khô khốc. “Với một tay nhà Bellefleur thì anh cũng đâu quá tệ.” Anh rướn người qua quầy hôn tôi. Đôi môi anh cũng lạnh như chính giọng nói. Phải làm quen với điều này thôi. Như khi ngả đầu lên ngực anh, chẳng ai nghe thấy được nhịp tim đập trong ấy. “Chào buổi tối, cưng à,” anh nói nhỏ. Tôi đẩy qua quầy bar một ly B trừ, loại máu nhân tạo được Nhật Bản phát chế, anh ngửa cổ nốc cạn rồi liếm môi. Gần như ngay lập tức trông anh hồng hào hẳn. “Cuộc họp sao rồi cưng?” tôi hỏi. Bill đã ở Shreveport hầu như cả đêm hôm nay. “Anh sẽ kể cho em sau.” Tôi hy vọng những chuyện liên quan đến công việc của anh không quá bi thương như chuyện của Andy. “Được thôi. Em mong là anh sẽ giúp Portia dìu Andy ra xe cô ấy. Cô ấy đến kia kìa,” tôi nói, hất đầu về phía cửa. Đấy là lần đầu tiên tôi không thấy Portia vận bộ đồng phục váy công sở, sơ mi, áo khoác, tất dài cùng giày đế bệt. Portia đã thay quần jean xanh và một chiếc áo lạnh Sophie Newcomb nhàu nhĩ. Thân hình Portia to cao như người anh mình, nhưng cô có mái tóc màu hạt dẻ dài và dày. Chăm sóc cho mái tóc mình đẹp đẽ là một nét đặc trưng của bản thân mà Portia chưa muốn từ bỏ. Cô chỉ đưa mắt khắp đám đông om sòm chăm chăm tìm một thứ. “Ôi, anh ấy xỉn quá rồi, hay nhỉ,” cô thốt lên, thẩm định tình trạng ông anh trai của mình. Portia cố phớt lờ Bill, người đang làm cô thấy hết sức khó chịu. “Chuyện này không xảy ra thường xuyên đâu, nhưng nếu đã muốn uống thật là anh ấy sẽ uống quắc cần câu luôn.” “Portia này, Bill có thể dìu anh ấy ra ngoài xe giúp cô,” tôi nói. Andy cao và đậm người hơn Portia, rõ ràng là nặng quá sức cô em gái. “Tôi nghĩ mình có thể tự lo được,” Portia quả quyết với tôi, vẫn không thèm nhìn qua Bill, lúc này đang nhướn mày nhìn tôi. Thế là tôi để cô vòng tay qua người ông anh trai, cố nhấc anh ta ra khỏi ghế. Andy vẫn ì ra đó. Portia liếc nhìn quanh tìm Sam Merlotte, chủ quán bar, tuy anh này có vẻ ngoài nhỏ thó gầy gò nhưng thật ra lại rất khỏe. “Sam đang đi pha chế rượu cho một buổi tiệc kỷ niệm ở câu lạc bộ ngoại ô mất rồi,” tôi nói. “Tốt hơn hết là cứ để Bill giúp đi.” “Ừ thôi cũng được,” cô luật sư cứng nhắc đáp, mắt nhìn chăm chăm lên mặt gỗ quầy bar bóng loáng. “Cảm ơn rất nhiều.” Trong chớp mắt Bill đã xốc Andy lên đi ra phía cửa, mặc cho hai chân Andy cứ muốn nhũn như chi chi. Micah Tooten bật dậy mở cửa, để Bill có thể dìu Andy thẳng ra ngoài bãi đỗ xe. “Cảm ơn cô, Sookie,” Portia nói. “Tiền rượu anh ấy đã trả hết chưa?” Tôi gật đầu. “Được rồi,” cô nói, vỗ nhẹ tay xuống bàn để ra hiệu là cô về đây. Cô phải nghe hàng đống lời khuyên đầy thiện chí khi theo bước Bill ra khỏi cửa chính của quán Merlotte. Đó là lý do vì sao mà chiếc Buick cũ kỹ của thanh tra Andy Bellefleur lại đỗ trong bãi xe quán Merlotte suốt đêm đến tận ngày hôm sau. Sau này hẳn anh ta sẽ thề rằng dĩ nhiên không có ai trong chiếc Buick ấy khi mình bước ra khỏi xe đi vào quán. Hẳn anh ta cũng sẽ khai rằng trước đó do quá bận tâm về cơn hỗn loạn nội tâm nên đã quên khóa cửa. Đâu đó trong khoảng thời gian từ tám giờ tối, khi Andy bước vào quán Merlotte, đến mười giờ sáng hôm sau, khi tôi đến để giúp mở cửa tiệm, xe của Andy đã có thêm một hành khách mới. Người này chắc chắn sẽ gây ra một nỗi xấu hổ trầm trọng cho viên cảnh sát. Hắn đã chết. Đáng lẽ ra tôi không nên đến đây làm gì. Đêm trước tôi đã làm ca khuya, và nhẽ ra tối hôm sau tôi lại phải làm ca khuya nữa. Nhưng Bill đã yêu cầu tôi đổi ca với một đồng nghiệp khác, bởi anh cần tôi đi cùng đến Shreveport, và Sam đã không phản đối. Tôi đã nhờ chị bạn Arlene đổi ca với tôi. Hôm ấy là ngày nghỉ của chị, nhưng Arlene luôn muốn kiếm những món tiền boa hậu hĩnh hơn khi làm việc ca tối, nên chị đồng ý đến quán vào lúc năm giờ chiều. Kỳ thực, lẽ ra Andy đã phải đến lấy xe buổi sáng hôm đó, nhưng anh ta vẫn còn quá váng vất không đủ sức làm trò buộc Portia cho quá giang đến quán Merlotte, quán này thì không nằm trên đường tới đồn cảnh sát. Cô bảo buổi trưa sẽ đến đón anh ở chỗ làm, và cả hai sẽ dùng bữa ở quán. Sau đó thì anh ta có thể lấy xe. Thế nên chiếc Buick, cùng vị hành khách câm lặng của mình, đã phải chờ lâu hơn thời gian cần thiết mới được phát hiện. Tôi đã ngủ khoảng sáu tiếng đêm trước đó, nên cảm thấy trong người khá khỏe khoắn. Hẹn hò với ma cà rồng có thể sẽ làm khó cho sự cân bằng của bạn nếu bạn thực là người sống về ban ngày, như tôi đây này. Tôi giúp mọi người đóng cửa quán, rồi về nhà với Bill trước một giờ sáng. Hai chúng tôi cùng tắm trong bồn tắm nước nóng nhà anh, rồi làm vài chuyện khác nữa, nhưng tôi đã đi ngủ sau hai giờ một chút, và mãi đến gần chín giờ sáng mới thức dậy. Lúc đó thì Bill đã xuống lòng đất từ lâu rồi. Tôi uống thật nhiều nước, nước cam cùng một viên vitamin tổng hợp và một viên bổ sắt vào bữa sáng, đó là chế độ dinh dưỡng của tôi kể từ khi Bill bước vào đời tôi và mang theo (cùng với tình yêu, trò phiêu lưu, lẫn sự phấn khích) mối đe dọa triền miên của chứng thiếu máu. Thời tiết đang dần trở nên mát mẻ hơn, tạ ơn Chúa, khi tôi ngồi trước hiên nhà Bill, mặc áo len móc dài tay và chiếc quần dài màu đen mà chúng tôi vẫn mặc làm việc ở quán Merlotte mỗi khi trời quá lạnh không thể mặc quần soóc được. Chiếc áo sơ mi đánh gôn trắng của tôi có thêu chữ BAR MERLOTTE’S bên ngực trái. Khi đang đọc lướt qua tờ báo buổi sáng, một phần tâm trí khác của tôi giúp tôi nhận ra một thực tế rõ ràng là cỏ mọc không nhanh như trước kia. Có vẻ như một vài ngọn cỏ bắt đầu ngả màu dần. Tình trạng sân bóng trong trường trung học chắc hẳn sẽ khá xấu vào tối thứ Sáu tới đây. Mùa hè ở Louisiana cứ dùng dằng mãi không dứt, kể cả ở miền Bắc Louisiana cũng thế. Mùa thu đến rất miễn cưỡng, cứ như thể bất cứ lúc nào mùa thu cũng có thể bỏ cuộc để lại nhường chỗ cái nóng hầm hập của tháng Bảy vậy. Nhưng tôi vốn mẫn cảm, và có thể điểm mặt được những dấu hiệu của mùa thu vào buổi sáng hôm nay. Mùa thu và mùa đông đến có nghĩa là đêm được dài hơn, thời gian ở bên Bill được lâu hơn, và giấc ngủ được thêm vài giờ nữa. Nên tôi đi làm với tâm trạng vui vẻ. Khi thấy chiếc Buick vẫn còn đỗ một mình trước quán bar, tôi nhớ lại chầu rượu say bí tỉ bất thường của Andy tối qua. Phải thú thật rằng, tôi đã mỉm cười khi nghĩ đến cảm giác của anh ta sáng nay. Ngay khi chuẩn bị vòng xe ra đằng sau để đỗ xe cùng với những nhân viên khác, tôi nhác thấy cửa sau của xe Andy mở he hé. Nếu cứ để như vậy thì đèn trần chắc chắn sẽ sáng hoài, phải không nào? Và ắc quy xe anh ta sẽ cạn mất. Và chắc hẳn anh ta sẽ cáu điên lên, rồi phải vào trong quán bar mà gọi xe đến cẩu đi, hoặc nhờ ai đó làm nóng xe cho mình… nên tôi đỗ xe vào bãi rồi ra khỏi xe, cứ để máy nổ. Hóa ra đây lại là một sai lầm tai hại vì lạc quan quá mức. Tôi ẩy cánh cửa vào, nhưng nó chỉ nhích tới có một phân. Thế nên tôi tì cả người vào cánh cửa, nghĩ rằng nó sẽ dập khóa lại và tôi có thể đi làm việc khác. Nhưng một lần nữa, cánh cửa không chịu sập lại. Tôi sốt ruột giật toang cửa ra để xem thứ gì kẹt trong cửa xe. Một luồng hôi thối ùa tràn ra bãi đỗ xe, một mùi hôi thối chết chóc. Tôi nghẹn họng mất hết tinh thần, vì tôi chẳng xa lạ gì với mùi hôi thối ấy. Tôi thò đầu vào trong băng ghế sau của xe, tay bịt chặt miệng, dù rằng làm thế cũng chẳng ngăn được thứ mùi này. “Ôi, trời ơi,” tôi thì thào. “Ôi, chết tiệt.” Lafayette, tay bếp làm một ca ở quán Merlotte, đã bị nhồi vào ghế sau. Trần truồng. Chính bàn chân nhỏ màu nâu của Lafayette với những móng chân sơn màu mận chín đã ngăn không cho cánh cửa đóng sập lại, và chính cái xác của Lafayette đã tạo ra thứ mùi xóc cả óc đó. Tôi vội nhảy phắt ra sau, lẩy bẩy leo vào xe mình rồi lái vòng ra phía sau quán, bấm còi inh ỏi. Sam chạy ra từ phía cửa dành cho nhân viên, tạp dề cột quanh eo. Tôi tắt máy xe và lao bắn ra ngoài nhanh đến nỗi chính bản thân còn không nhận thức được mình đã ra khỏi xe, và tôi ôm choàng lấy anh như một chiếc tất tích điện. “Chuyện gì thế?” Tiếng Sam vang lên trong tai tôi. Tôi ngửa người ra sau ngước nhìn anh, chẳng phải ngước lên quá cao làm gì vì Sam hơi nhỏ con. Mái tóc vàng hoe hoe đỏ của anh lấp lánh dưới ánh mặt trời buổi sớm. Cặp mắt xanh biêng biếc đang mở to khiếp đảm. “Lafayette đó,” tôi nói, bắt đầu thút thít. Khóc lóc thì kỳ cục, ngớ ngẩn và vô tích sự thật, nhưng tôi không kìm lại được. “Anh ấy chết rồi, trong xe của Andy Bellefleur ấy.” Vòng tay của Sam siết chặt sau lưng tôi khi anh lại kéo tôi sát vào lòng. “Sookie, thật tiếc là em đã phải nhìn thấy cảnh ấy,” anh bảo. “Chúng ta sẽ gọi cảnh sát. Lafayette tội nghiệp.” Việc làm đầu bếp ở quán Merlotte không nhất thiết đòi hỏi tay nghề bếp núc cao siêu gì, vì Sam chỉ bán vài món sandwich và khoai tây chiên, nên vị trí này thay người luôn. Nhưng bất ngờ thay, Lafayette lại là người làm việc ở đây được lâu nhất. Lafayette là người đồng tính, đồng tính kiểu hoa hòe hoa hoét, kiểu trang-điểm-và-để-móng-tay-dài. Người dân miền Bắc Louisiana vẫn còn khó chấp nhận được chuyện này hơn dân ở New Orleans, nên tôi ngờ rằng Lafayette, một người da màu, đã phải hứng chịu khó khăn gấp đôi. Mặc cho - hay nhờ vào - những khó khăn đó, anh ấy vẫn luôn vui vẻ, lém lỉnh khôi hài, thông minh, và là đầu bếp giỏi thực thụ. Anh ấy đã chế một loại xốt đặc biệt để ướp hamburger, và người ta gọi món burger Lafayette khá thường xuyên. “Anh ấy có người thân nào ở đây không nhỉ?” tôi hỏi Sam. Chúng tôi tự giác rời nhau ra và rảo bước về phía tòa nhà, vào văn phòng của Sam. “Anh ấy có một tay anh em họ nào đó,” Sam vừa nói vừa nhấn 9-1-1. “Làm ơn đến quán Merlotte trên đường Hummingbird ngay,” anh nói với người trực tổng đài. “Có một xác chết đàn ông trong xe ở đây. Phải, trong bãi đỗ xe, ngay trước cửa quán. À, chị cũng làm ơn báo cho Andy Bellefleur đi. Xe của anh ta đấy.” Từ chỗ đang đứng, tôi có thể nghe thấy tiếng trả lời bai bải ở phía đầu dây bên kia. Danielle Gray và Holly Cleary, hai phục vụ bàn ca sáng, bước vào qua cửa sau, cười hô hố. Hai cô này đều đã ly dị lúc hai lăm hai sáu tuổi, là bạn với nhau từ thuở thiếu thời, có vẻ như đều khá hài lòng với công việc này miễn là được làm việc cùng nhau. Holly có một cậu con trai năm tuổi đang học mẫu giáo, còn Danielle có một cô con gái bảy tuổi và một cậu con trai chưa đến tuổi đi học để ở nhà cho bà trông khi cô ấy đến quán Merlotte làm việc. Tôi chẳng bao giờ gần gũi được với hai người phụ nữ này - dù rằng họ cũng sàn sàn tuổi tôi - bởi họ luôn chăm chắm quan tâm tới nhau mà thôi. “Có chuyện gì vậy?” Danielle hỏi khi cô ta nhìn thấy mặt tôi. Khuôn mặt choắt và đầy tàn nhang của cô ta lập tức trở nên lo lắng. “Sao xe của Andy ở trước cửa quán vậy?” Holly hỏi. Có thời cô ấy đã cặp kè với Andy Bellefleur, tôi chợt nhớ ra. Holly có mái tóc vàng tém ngắn lòa xòa quanh mặt như những cánh hoa cúc dại héo rũ, và làn da đẹp nhất mà tôi từng thấy. “Anh ta ngủ qua đêm trong xe à?” “Không phải,” tôi đáp, “mà là người khác kia.” “Ai?” “Lafayette ở trong xe.” “Andy để một tay lập dị da đen ngủ trong xe của mình sao?” Câu này của Holly, người khi nào cũng thẳng thừng vô duyên. “Chuyện gì đã xảy ra với anh ta thế?” Câu này của Danielle, người thông minh hơn trong hai cô. “Tụi này không biết nữa,” Sam đáp. “Cảnh sát đang trên đường đến đây.” “Ý anh là,” Danielle nói, thật chậm rãi từng chữ một, “anh ta đã chết.” “Phải,” tôi bảo cô ta. “Đó chính xác là ý của tụi này.” “Này, một giờ nữa là chúng ta phải mở cửa rồi,” Holly chống tay lên bờ hông tròn trịa của mình. “Chúng ta sẽ xử lý chuyện này ra sao đây? Nếu cảnh sát cho chúng ta mở cửa, ai sẽ làm bếp chứ? Mọi người vào quán, họ sẽ muốn dùng bữa trưa.” “Tốt hơn là cứ chuẩn bị sẵn sàng đi, để đề phòng thôi,” Sam nói. “Dù tôi đang nghĩ là mãi đến chiều mình mới được phép mở cửa kia.” Anh vào văn phòng để bắt đầu gọi cho mấy tay đầu bếp thay thế. Thật lạ lẫm khi phải làm những việc chuẩn bị thường ngày trước khi mở cửa quán, cứ như thể Lafayette sẽ đi vào bất cứ lúc nào cùng một câu chuyện về buổi tiệc nào đó mà anh ấy đã tham dự, như mới vài ngày trước đây anh cũng đã đi vào như thế. Tiếng còi hụ của xe cảnh sát vang vọng từ con đường chạy ngang qua trước quán Merlotte. Tiếng bánh xe nghiến lạo xạo trên bãi xe rải sỏi của Sam. Đến khi chúng tôi hạ hết ghế xuống, bày biện bàn ăn, cuộn thêm vài bộ dao nĩa dự phòng vào khăn ăn để sẵn sàng thay thế cho những bộ dao nĩa đã được dùng đến, thì cảnh sát bước vào. Quán Merlotte nằm ngoài phạm vi thị trấn, nên viên cảnh sát trưởng địa phương, Bud Dearborn, sẽ đảm trách vụ này. Bud Dearborn là một người bạn rất thân của ba tôi trước kia, giờ đây mái tóc đã điểm bạc. Ông có khuôn mặt bèn bẹt, như người mang mặt chó Bắc Kinh, và đôi mắt nâu mờ đục. Khi ông bước vào cửa trước quán, tôi nhận ra Bud vẫn còn đang đi đôi bốt nặng nề và đội chiếc mũ lưỡi trai đội bóng Saints. Chắc hẳn ông bị gọi đến khi vẫn đang làm việc ngoài nông trại. Bud đi cùng Alcee Beck, viên thanh tra da màu duy nhất trong lực lượng cảnh sát địa phương. Da Alcee đen đến nỗi chiếc sơ mi trắng của anh ta sáng lóa lên vì tương phản. Chiếc cà vạt được thắt ngay ngắn, bộ vét hết sức chỉnh tề. Còn đôi giày da thì được đánh bóng loáng lấp lánh. Bud và Alcee thay phiên nhau coi quản trong vùng… ít nhất thì cũng có vài người quan trọng hơn để giữ cho khu vực này còn hoạt động. Mike Spencer, giám đốc công ty mai táng kiêm nhân viên pháp y của địa phương, cũng là người có vai vế trong địa phương, là bạn thân của Bud. Tôi sẵn sàng đánh cuộc rằng lúc này Mike đã ra ngoài bãi xe, tuyên bố Lafayette tội nghiệp đã chết. Bud Dearborn hỏi, “Ai là người phát hiện ra cái xác?” “Tôi đây.” Bud và Alcee liếc nhìn nhau đầy ẩn ý và bước về phía tôi. “Sam à, bọn tôi mượn văn phòng của cậu được chứ?” Bud hỏi. Không cần đợi Sam trả lời, ông ta hất đầu ra dấu cho tôi đi vào. “Chắc chắn rồi, thẳng vào trong ấy đấy,” ông chủ của tôi đáp khô khốc. “Em ổn chứ, Sookie?” “Không sao đâu mà, Sam.” Tôi không chắc điều này có thật hay không, nhưng Sam có phản ứng kiểu gì với cái yêu cầu này thì cũng gặp rắc rối hết, vô ích thôi. Mặc dù Bud ra dấu cho tôi ngồi xuống, tôi lắc đầu khi ông ta và Alcee an vị trên hai cái ghế trong văn phòng. Bud, tất nhiên là ngồi trên cái ghế to bành của Sam, còn Alcee thì giành lấy chiếc ghế phụ vẫn còn ngon, chiếc ghế vẫn còn lại chút ít nệm lót ấy. “Kể cho chúng tôi nghe về lần cuối cùng cô gặp Lafayette còn sống đi,” Bud gợi ý. Tôi suy nghĩ. “Anh ấy không làm việc tối qua,” tôi nói. “Mà là Anthony. Anthony Bolivar.” “Ai thế nhỉ?” Vầng trán rộng của Alcee nhăn lại. “Không nhận ra cái tên đó.” “Anh ta là bạn của Bill. Anh ta đang lang bạt qua vùng này, và cần một công việc. Anh ta có kinh nghiệm.” Anh ta đã làm việc tại quán ăn trong thời kỳ Đại Khủng hoảng. “Ý cô là tay đầu bếp tạm thời ở đây là một ma cà rồng? “Thì sao chứ?” tôi hỏi lại, khóe miệng cong lên ương bướng, lông mày nhíu lại, và tôi biết rằng khuôn mặt mình đang dần toát lên vẻ giận dữ. Tôi đang cố hết sức để không phải đọc tâm trí của họ, cố bằng mọi giá để hoàn toàn không thông tâm gì cả, nhưng việc này không dễ dàng. Bud Dearborn thì thường thường thôi, nhưng Alcee thì phóng suy nghĩ ra cứ như kiểu ngọn hải đăng truyền phát tín hiệu vậy. Ngay lúc này đây anh ta đang tỏ vẻ ghê tởm và kinh sợ. Trong thời gian trước khi gặp Bill, và nhận ra anh quý trọng khiếm khuyết của tôi - là tài năng, như cách anh nhìn nhận - tôi đã cố hết sức để dối gạt bản thân và lừa phỉnh mọi người rằng tôi thực sự không biết “đọc” tâm trí. Nhưng kể từ khi Bill giải thoát tôi khỏi lao tù nhỏ bé mà tôi tự xây lên cho bản thân, thì tôi đã thực tập và trải nghiệm, trong sự khuyến khích của Bill. Vì anh, tôi đã mô tả thành lời những thứ mà mình đã và đang cảm nhận suốt hàng mấy năm trời. Có vài người gửi đi những thông điệp hết sức mạnh mẽ, rõ ràng, như Alcee đây. Còn đâu thì hầu hết mọi người lúc này lúc khác, như Bud Dearborn vậy. Theo như những gì tôi biết thì chuyện này phụ thuộc rất nhiều vào việc cảm xúc của họ mãnh liệt đến đâu, mức độ tỉnh táo của họ ra sao, thời tiết như thế nào. Còn có vài người thì kín như bưng đến nỗi gần như không thể biết được họ đang nghĩ gì. Có lẽ tôi có thể đọc được tâm trạng của họ, nhưng tất cả chỉ có vậy. Tôi đã thừa nhận rằng nếu được chạm vào người khác khi cố đọc tâm trí họ, thì bức tranh trở nên sáng sủa hơn - như sử dụng đường truyền cáp sau khi dùng ăng ten ấy. Và tôi cũng phát hiện ra rằng nếu mình “gửi” những hình ảnh thư giãn cho người ta, thì tôi có thể len lỏi vào tâm trí của họ dễ như bỡn. Tôi thì không muốn thâm nhập vào suy nghĩ của Alcee Beck chút nào. Nhưng tôi đang hoàn toàn miễn cưỡng đón nhận bức tranh toàn cảnh về phản ứng mê tín đến độ cực đoan của Alcee khi anh ta nhận ra có một ma cà rồng làm việc ở quán Merlotte, về nỗi khiếp sợ của anh ta khi phát hiện ra tôi là người phụ nữ mà anh ta đã nghe nói đang hẹn hò với ma cà rồng, về lời kết tội từ trong sâu thẳm của anh ta cho rằng tên đồng tính công khai Lafayette là một nỗi ô nhục cho cộng đồng người da màu. Alcee đoán rằng ai đó hẳn là muốn chơi khăm Andy Bellefleur, khi tống xác của một gã đồng tính da màu vào xe của Andy. Alcee đang băn khoăn không rõ Lafayette có bị nhiễm AIDS không, rồi liệu làm sao đấy mà con virút ấy có thấm vào ghế xe Andy và cứ tồn tại ở đó không. Alcee sẽ bán xe ngay, nếu đó là xe của anh ta. Nếu chạm vào Alcee, hẳn là tôi sẽ biết được luôn cả số điện thoại và cỡ áo ngực của vợ anh ta nữa. Bud Dearborn nhìn tôi kỳ kỳ. “Chú vừa nói gì ạ?” tôi hỏi. “Phải. Ta thắc mắc không biết cháu có gặp Lafayette ở đây suốt tối qua không. Anh ta có ghé vào quán uống ẩm gì chăng?” “Cháu chẳng bao giờ gặp anh ấy ở đây cả.” Ngẫm lại chuyện này, thì tôi chẳng bao giờ thấy Lafayette uống rượu. Lần đầu tiên, tôi mới nhận ra rằng mặc dù đám người đến ăn trưa có cả người da màu và người da trắng, nhưng những vị khách đến quán buổi tối hầu như rặt là người da trắng. “Anh ta hay tụ tập ở đâu?” “Cháu chịu.” Tất cả những câu chuyện Lafayette kể đều được thay đổi tên họ để bảo vệ danh tính những người vô tội. À ừ, thực ra, là những kẻ có tội thì đúng hơn. “Lần cuối cùng cháu gặp anh ta là khi nào?” “Đã chết, nằm trong xe.” Bud cáu kỉnh lắc đầu. “Lúc còn sống cơ, Sookie à.” “Hừmm, cháu nghĩ là… cách đây ba ngày. Anh ấy vẫn ở đây khi cháu đến làm ca của mình, và bọn cháu chào nhau. À, anh ấy có kể cho cháu nghe về một buổi tiệc mà mình đã đến dự.” Tôi cố nhớ lại chính xác những lời của anh. “Anh ấy bảo đã đến một ngôi nhà nơi diễn ra đủ kiểu làm tình hoang đàng trụy lạc.” Hai người đàn ông há hốc nhìn tôi. “Vâng, anh ấy đã bảo thế đấy! Cháu cũng không biết chuyện đó có bao nhiêu phần sự thật.” Tôi hình dung ra khuôn mặt của Lafayette khi anh ta kể tôi nghe chuyện này, cái cách anh ta điệu đà đặt ngón tay ngang môi ngụ ý rằng anh ta sẽ không nói cho tôi biết bất kể cái tên hay địa điểm nào cả. “Cháu không nghĩ là người khác phải biết chuyện này à?” Bud Dearborn trông bàng hoàng. “Đó là một bữa tiệc riêng tư. Sao cháu phải kể cho người khác chứ?” Nhưng kiểu tiệc tùng như thế không được phép diễn ra trong địa phận của hai người này. Hai người đàn ông vẫn chằm chằm nhìn tôi. Bud hỏi qua kẽ răng, “Lafayette có kể cho cháu nghe gì về chuyện sử dụng ma túy trong buổi gặp gỡ ấy không?” “Không, theo cháu nhớ thì không.” “Bữa tiệc đó được tổ chức ở nhà người da trắng hay người da đen?” “Da trắng,” tôi đáp, rồi lại ước gì mình đã lấy cớ không biết. Nhưng Lafayette đã thật sự ấn tượng với ngôi nhà - mặc dù không phải vì căn nhà mỹ miều hay to lớn gì. Thế sao anh ấy bị ấn tượng đến thế? Tôi không chắc Lafayette sẽ thấy ấn tượng với những thứ gì, anh đã sinh ra, lớn lên và mãi đến bây giờ vẫn trong cảnh nghèo khó, nhưng tôi chắc chắn rằng anh ấy đã kể về nhà của một người da trắng nào đó, vì anh ấy có nói, “Tất cả ảnh trên tường đều chụp những người trắng như hoa huệ và mỉm cười như cá sấu.” Tôi không kể lời nhận xét đó ra cho đám cảnh sát, và họ cũng không hỏi gì thêm. Rời khỏi văn phòng của Sam, sau khi giải thích lý do trên hết vì sao xe của Andy lại ở trong bãi xe, tôi trở ra đứng sau quầy. Tôi không muốn quan sát những gì đang diễn ra ở bãi đỗ xe, và chẳng có khách hàng nào để phục vụ cả, vì mọi lối vào bãi đỗ xe đã bị cảnh sát chặn hết rồi. Sam đang sắp xếp những chai rượu đằng sau quầy, vừa đi vừa phủi bụi chúng, còn Holly và Danielle đã ngồi phịch xuống một bàn ở khu vực hút thuốc để Danielle có thể hút một điếu. “Mọi chuyện thế nào?” Sam hỏi. “Cũng chẳng có gì nhiều. Họ không thích nghe chuyện Anthony làm việc ở đây, và họ cũng không ưa những gì em kể về bữa tiệc mà Lafayette cứ lải nhải hôm trước ấy. Anh có nghe thấy anh ấy kể với em không? Cái vụ làm tình tập thể ấy?” “Có, anh ta cũng kể mấy chuyện đó với anh nữa. Buổi tối hôm đó với anh ta hẳn là đã lắm. Nếu quả thật là có bữa tiệc kiểu đó.” “Anh nghĩ rằng Lafayette bịa chuyện sao?” “Anh không nghĩ ở Bon Temps lại có nhiều buổi tiệc kiểu tạp chủng, lưỡng tính thế đâu,” anh đáp. “Nhưng đó chẳng qua là vì không có ai mời anh cả thôi,” tôi nói thẳng ra. Tôi băn khoăn không hiểu liệu mình có biết tí gì về những chuyện diễn ra nơi thị trấn nhỏ bé này không. So ra với tất cả mọi người ở Bon Temps thì tôi phải là người biết rõ mọi thứ từ trong ra ngoài, vì mọi thông tin ít nhiều gì cũng sẵn ra đấy, nếu tôi muốn bới móc tìm hiểu, “Ít nhất thì, theo em đây là lý do chứ nhỉ?” “Ừ đấy là lý do đấy,” Sam đáp, khẽ mỉm cười với tôi trong lúc chùi một chai whiskey. “Em nghĩ thiệp mời của em cũng bị thất lạc ở bên bưu điện mất rồi.” “Em có nghĩ rằng Lafayette trở lại đây tối hôm qua là để kể cho anh hoặc em nghe về bữa tiệc đó không?” Tôi nhún vai. “Có lẽ anh ta chỉ hẹn gặp ai đó ở bãi đỗ xe thôi. Dù sao thì, ai cũng biết quán Merlotte ở đâu mà. Mà anh ấy đã lấy lương chưa?” Đã cuối tuần rồi, thường thì đây là lúc Sam trả tiền cho bọn tôi. “Chưa. Có lẽ anh ấy đến cũng vì chuyện đó, nhưng anh định hôm sau mới đưa cho anh ta. Hôm nay này.” “Em thắc mắc không biết ai đã mời Lafayette đi dự tiệc.” “Câu hỏi hay đấy.” “Anh không nghĩ rằng anh ta ngu đến nỗi cố tống tiền ai đó chứ nhỉ?” Sam cọ cọ lớp gỗ giả trên mặt quầy bằng một chiếc giẻ sạch. Quầy đã sạch bóng lên rồi, nhưng anh vẫn cứ thích luôn chân luôn tay, tôi nhận thấy thế. “Anh không nghĩ vậy,” anh nói sau một hồi suy nghĩ. “Không thể nào, họ hẳn đã chọn nhầm người rồi. Em biết Lafayette tám đến cỡ nào mà. Anh ta không chỉ kể cho chúng ta nghe việc mình đi đến một buổi tiệc như thế - anh dám cá là anh ta không được phép kể - mà còn muốn lợi dụng buổi tiệc để làm tiếp những chuyện mà mấy người khác, à ừ, mấy người tham gia ấy, sẽ phải khó chịu.” “Kiểu như là, giữ liên lạc với những người cũng từng tham gia bữa tiệc ấy? Nháy mắt đưa tình với họ ở chốn đông người?” “Đại loại như thế.” “Em nghĩ rằng nếu ta có làm tình với ai đó, hoặc xem họ làm tình với nhau, ta sẽ cảm thấy rằng mình ngang hàng với họ.” Tôi không quả quyết lắm khi nói ra điều này, vì không có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực ấy lắm, nhưng Sam lại đang gật gù. “Điều Lafayette mong muốn nhất là được mọi người chấp nhận bản chất con người mình,” anh nói, và tôi buộc phải đồng ý. Mời các bạn đón đọc Ma Cà Rồng Ở Dallas của tác giả Charlaine Harris & Thiện Hoàn (dịch).
Sa Môn Không Hải Thết Yến Bầy Quỷ Đại Đường Tập 1
Nhà sư trẻ tuổi Không Hải, cùng người bạn thân Quất Dật Thế, từ Nhật Bản xa xôi vượt biển tới Đại Đường với tư cách sứ thần sang du học. Vào thời đại đó, Trường An, kinh đô của nhà Đại Đường là nơi nổi tiếng thịnh vượng phồn hoa, tập trung nhiều sắc dân từ khắp nơi đổ về. Như bóng tối luôn song hành cùng ánh sáng, nhiều loài yêu ma quỷ quái cũng bị thu hút về đây. Một con yêu quái mèo đã ám dinh cơ của viên chức dịch họ Lưu và đưa ra lời tiên tri về cái chết của hoàng đế. Tự tin vào vốn kiến thức uyên bác cùng tài ứng biến phi thường của bản thân, Không Hải đã dẫn Quất Dật Thế đến nhà họ Lưu để đương đầu với yêu mèo. Song họ không ngờ, mình đã vô tình dính líu vào một sự kiện lớn làm rung chuyển nhà Đường. Kiệt tác tiểu thuyết truyền kỳ Nhật Bản lấy bối cảnh Trung Hoa mở ra từ đây. *** Không Hải (Kukai, 774 - 835) là Tổ sư của phái Chân Ngôn Tông (Shingon-shu) Phật giáo Nhật Bản. Với phương tiện tra cứu ngày nay, người ta có thể dễ dàng tìm thấy tranh vẽ chân dung, bút tích và các trước tác của Không Hải trên mạng, trong các sách nghiên cứu xưa nay nhưng những thông tin ấy không hề làm giảm sút nét “siêu phàm thoát tục”, thần bí nơi vị Tổ sư này. Sách xưa không thuật rõ thuở nhỏ như thế nào chỉ biết năm mười lăm tuổi Không Hải đã học thông các sách chữ Hán căn bản như Luận Ngữ, Hiếu Kinh; năm mười tám tuổi làu thông Tả Thị Xuân Thu, Thượng Thư. Từ năm mười chín tuổi, Không Hải bắt đầu tu tập trong rừng sâu núi cao; năm hai mươi tư tuổi đã viết sách so sánh, bình luận Phật - Nho - Lão. Cũng vào thời gian này, Không Hải bắt đầu tiếp xúc và nghiên cứu Đại Nhật Kính - một trong những bộ kinh Mật giáo cơ sở, học tiếng Trung Hoa, chữ Phạn (Sanskrit) và chữ Tất Đàm (Shiddam). Đồng thời, Không Hải được một vị sư không rõ danh tính truyền cho phép tu “Hư Không Tạng Cầu Văn Trì” và lui vào chuyên tu trong một hang đá (nay vẫn còn di tích ở thành phố Muroto, tỉnh Kochi). Sau khi tu tập thành công, tương truyền Không Hải có trí nhớ siêu phàm - sự việc gì đã nghe, đã thấy một lần lập tức nhớ mãi không quên, về sau, chính nhờ trí nhớ siêu việt và trình độ, năng lực ngoại ngữ tuyệt vời mà Không Hải được triều đình Nhật Bản thời bấy giờ chọn đưa sang Trung Hoa du học. Truyền kỳ kể Hòa thượng Huệ Quả - tổ thứ bảy của Mật giáo Trung Hoa - vừa nhìn thấy Không Hải lần đầu tại Thanh Long Tự đã nói “ta chờ con đã lâu” và lập tức truyền thụ mọi sở học của mình cho Không Hải. Với năng lực phi phàm của mình, Không Hải đã hoàn thành chương trình học trong hai năm thay vì du học hai mươi năm như dự định ban đầu. Sư đã dùng một số tiền rất lớn, vốn mang theo để trang trải cho vỉệc du học, vào việc thỉnh kinh sách và các pháp khí cần thiết mang về Nhật Bản. Năm 806, Không Hải từ Trung Hoa trở về Nhật Bản, sớm hơn rất nhiều so với dự kiến nhưng phải đợi đến năm 809 mới được chấp thuận cho vào kinh đô yết kiến Thiên hoàng. Câu chuyện chậm trễ này cũng không có ghi chép cụ thể nào trong sử sách chính thống và, do đó, phủ thêm một lớp thần bí nữa lên cuộc đời Không Hải. Sau khi về kinh, Không Hải lập tức được trọng dụng, đóng góp rất nhiều cho triều đình thời đó. Không Hải xây dựng tổ đình ở núi Koya (tỉnh Wakayama, Nhật Bản) đúc kết và phát triển kiến thức tu học từ Trung Hoa thành Chân Ngôn Tông và truyền dạy cho rất nhiều đệ tử. Năm 835, Không Hải “nhập định vĩnh viễn” ở tuổi sáu mươi mốt. Người ta không dùng từ “viên tịch” hay “nhập diệt” mà dùng “nhập định” vì tin rằng Không Hải vẫn còn sống và chỉ nhập định trong căn phòng nhỏ được xây ngầm dưới nền một ngôi miếu ở phía sau tổ đình Chân Ngôn Tông trên núi Koya. Cho đến tận khi bạn đang đọc những dòng này thì hằng ngày, các vị sư ở nơi ấy vẫn đều đặn dâng cơm nước đúng giờ buổi sáng và buổi trưa vào tận cửa phòng. Mỗi năm, các sư lại dâng một bộ cà sa mới cho Tổ sư và mang bộ cũ đi đốt. Không Hải ở thế kỷ hai mươi mốt vẫn là một nhân vật thần bí sống động như thế. Bạn đọc đang cầm trên tay tập đầu tiên trong bộ trường thiên tiểu thuyết Sa môn Không Hải thết yến bầy quỷ Đại Đường gồm bốn tập của nhà văn Yumemakura Baku - tác giả rất nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết truyền kỳ tại Nhật Bản, được Uyên Thiểm chuyển dịch sang tiếng Việt rất nhuần nhị. Uyên Thiểm là dịch giả quen thuộc được bạn đọc biết đến qua các bản dịch văn chương Nhật Bản do Nhã Nam ấn hành. Tôi tin bạn đọc lần này cũng sẽ đớn nhận và yêu quý tác phẩm Sa môn Không Hải thết yến bầy quỷ Đại Đương, thích thú với tuyến nhân vật được xây dựng rất công phu, giàu cá tính và các tình tiết được đan xen khéo léo, đầy kịch tính. Mời các bạn vào truyện... Nguyễn Anh Phong Đà Lạt, Vu Lan 2019 *** CÁC NHÂN VẬT CHÍNH Từ đời Đức Tông hoàng đế đến đời Thuận Tông hoàng đế Không Hải (âm Nhật là Kukai): Vị tăng trẻ sang Đường tìm học Mật. Quất Dật Thế (âm Nhật là Tachibana-no-Hayanari): Nho sinh Nhật Bản tới Trường An theo đoàn thuyền Khiển Đường sứ. Bạn thân Không Hải. Đan Ông: Vị đạo sĩ luôn giúp rập và thoắt ẩn thoắt hiện xung quanh Không Hải. Lưu Vân Tiêu: Chức dịch Trường An, bị yêu miêu ám trong nhà và cướp mất người vợ yêu. Từ Văn Cường: Chủ nhân của cánh đồng trồng bông, nơi xảy ra vụ án có tiếng thì thầm bí ẩn. Trương Ngạn Cao: Chức dịch Trường An, người quen của Từ Văn Cường. Đại Hầu: Gã hộ pháp sinh ra ở Thiên Trúc. Ngọc Liên: Kỹ nữ của Hồ Ngọc Lâu. Lệ Hương: Kỹ nữ của Nhã Phong Lâu. Mohammed: Thương nhân người Ba Tư, cớ ba cô con gái là Trisnai, Tursungri, Griteken. Huệ Quả: Vị hòa thượng của Thanh Long Tự. Phụng Minh: Tăng môn của Thanh Long Tự. Người Tây Tạng. An Tát Bảo: Người coi giữ đền thờ Hiên giáo. Bạch Lạc Thiên: Một thi nhân lớn về sau. Đang ấp ủ bản trường ca về mối tình của Đường Huyền Tông và Dương Quý Phi. Vương Thúc Văn: Tể tướng dưới thời Thuận Tông hoàng đế. Liễu Tông Nguyên: Kẻ thân cận của Vương Thúc Văn. Văn nhân tiêu biểu thời kỳ trung Đường. Hàn Dũ: Đồng liêu của Liễu Tông Nguyên. Cũng là một văn nhân tiêu biểu thời kỳ trung Đường. Tử Anh: Bộ hạ của Liễu Tông Nguyên. Xích: Bộ hạ của Liễu Tông Nguyên. Chu Minh Đức: Phương sĩ. Thủ hạ của Druj. Druj*: Karapan (một kiểu pháp sư ở Ba Tư). Đời Huyền Tông hoàng đế A Bội Trọng Ma Lữ (âm Nhật là Abe-no-Nakamaro): Sang Đường vào đời Huyền Tông. Sống ở Đường đến hết đời. Tên Trung Quốc là Triều Hành. Lý Bạch: Thi nhân tiêu biểu đời Đường. Được Huyền Tông sủng ái, nhưng về sau thì thất sủng. Huyền Tông: Hoàng đế nhà Đường. Mê đắm thiếp yêu là Dương Quý Phi. Dương Quý Phi: Thiếp yêu của Huyền Tông. Nhận được tất cả sự sủng ái của Huyền Tông, song đã phải chịu cải chết thê thảm bởi Loạn An Sử. An Lộc Sơn: Tướng nhà Đường. Được Quý Phi yêu mến và nhận làm con nuôi, nhưng về sau làm phản và đuổi bọn Huyền Tông chạy khỏi Trường An. Cao Lực Sĩ: Hoạn quan hầu cận của Huyền Tông. Hoàng Hạc: Đạo sĩ người Hồ. Kẻ đã hiến một kế về việc xử tử Dương Quý Phi. Đan Long: Đệ tử của Hoàng Hạc. Bạch Long: Đệ tử của Hoàng Hạc. Bất Không: Mật giáo tăng.   Mời các bạn đón đọc Sa Môn Không Hải Thết Yến Bầy Quỷ Đại Đường Tập 1 của tác giả Baku Yumemakura.
Địa Cung Rực Lửa
Thần Apollo chất chơi một thuở, giờ đây bị Zeus đày xuống trần trong hình hài thằng nhóc hậu đậu Lester Papadopoulos. Để trở về Olympus, Lester buộc phải khôi phục năm nguồn Sấm Truyền đã rơi vào tay kẻ địch. Nhưng thần phải thực hiện cái nhiệm vụ bất khả thi này mà chẳng có chút sức mạnh nào trong tay, cũng như phải phục dịch cho đứa con gái nhếch nhác của Demeter, Meg. Cám ơn nhiều nha bố yêu. Nhờ có một số á thần trợ giúp, Lester đã sống sót vượt qua hai thử thách đầu tiên, một ở Trại Con Lai, một ở Indianapolis, cũng là nơi Meg nhận được Lời Tiên Tri Hắc Ám. Những lời cô bé thốt ra trên Chiếc Ngai Kí Ức dự báo một cuộc tấn công vào Trại Jupiter của bọn Tam đầu chế. Leo vội vàng cưỡi Festus đi báo tin cho trại La Mã, còn Lester và Meg phải băng qua Mê Cung tới vùng tây nam nước Mỹ để tìm tên hoàng đế thứ ba, cùng với nguồn Sấm Truyền chuyên môn đánh đố. Lời tiên tri u ám chỉ mang đến một tia hy vọng duy nhất: Mang móng guốc, kẻ dẫn đường nắm rõ. Họ sẽ được đồng hành với một thần rừng, và Meg biết phải triệu hồi ai đây rồi… *** Bộ sách Những thử thách của Apollo gồm có: Sấm Truyền Bí Ẩn Lời Tiên Tri Hắc Ám Địa Cung Rực Lửa Lăng Mộ Bạo Chúa ,,, *** Rick Riordan là tác giả có sách bán chạy nhất do tờ New York Times bình chọn cho bộ truyện dành cho trẻ em: Percy Jackson và các vị thần trên đỉnh Olympus và bộ Tiểu thuyết trinh thám dành cho người lớn Tres Navarre. Ông có 15 năm giảng dạy môn tiếng Anh và Lịch sử ở các trường trung học cơ sở công và tư ở San Francisco Bay Area ở California và Texas. Ông cũng từng nhận giải thưởng Giáo viên ưu tú đầu tiên của trường năm 2002 do Saint Mary’s Hall trao tặng. Rick Riordan hiện đang sống ở San Antonio, Texas cùng vợ và hai con trai. Ông dành toàn bộ thời gian cho sáng tác. *** Từng là Apollo Giờ chỉ là chuột trong Mê cung Cứu, mang theo bánh nữa Không. Ta từ chối chia sẻ khúc này trong chuyện đời của ta. Đó là cái tuần hèn mọn nhất, sỉ nhục nhất và tệ bạc nhất trong suốt 4000 năm cuộc đời có lẻ của ta. Bi kịch. Thảm họa. Đau lòng. Ta sẽ không kể cho các ngươi về nó đâu. Tại sao các ngươi vẫn ở đây hả? Đi ra đi! Lạy thánh thần trên cao, ta đoán là ta chẳng có lựa chọn nào nữa rồi. Không còn nghi ngờ gì nữa, chính Zeus cũng muốn ta kể câu chuyện này cho các người vì nó là một phần trong hình phạt của ta. Việc ông ta biến ta, một người đã từng là vị thần Apollo tối cao, trở thành một thằng nhãi con đầy mụn, đầy mỡ, lại còn có cái tên giả Lester Papadopoulos nữa, vẫn là chưa đủ. Ông ta đẩy ta vào cái nhiệm vụ đầy nguy hiểm để giải cứu cho năm Nhà tiên tri cổ đại vĩ đại từ tay ba tên hoàng đế La Mã độc ác cũng vẫn là chưa đủ. Thậm chí là biến ta-người từng là đứa con trai yêu quý của ông ta-thành nô lệ của một đứa á thần huênh hoang 12 tuổi tên Meg, cũng vẫn chưa bao giờ đủ! Quá đáng nhất là, Zeus muốn ta ghi lại tất cả những sự nhục nhã này để truyền cho con cháu đời sau. Được thôi. Nhưng ta cũng phải cảnh báo các người. Ở những trang tiếp theo, chỉ toàn là những đau khổ đang chờ đợi các ngươi mà thôi. Bắt đầu từ đâu ta? Với Grover và Meg, dĩ nhiên rồi. Trong suốt hai ngày, chúng ta đã du hành ở trong Mê cung- đi qua hàng bao nhiêu cái hố đầy bóng đêm và những hồ thuốc độc, đi qua những khu mua sắm đổ nát chỉ có toàn mấy cửa hàng bán đồ Halloween giảm giá và những bữa tiệc buffet đồ Trung Quốc đáng ngờ. Mê cung có thể là một nơi khiến người ta hoang mang. Nó giống như một mạng lưới mao mạch chảy ngay bên dưới lớp da của thế giới. Nó kết nối những căn hầm, cống rãnh, và cả những đường hầm đã bị bỏ quên trên toàn địa cầu, bất chấp tất cả những định luật thời gian và không gian. Một người có thể bước vào Mê cung qua một lỗ cống ở Rome, đi tầm mười thước, mở cánh cửa ra, và nhận ra bản thân đang ở trại huấn luyện chú hề tại Buffalo, Minnesota. (Đừng có hỏi. Ám ảnh lắm.) Ta sẽ tránh xa Mê cung bằng mọi giá. Đáng buồn thay, lời tiên tri chúng ta nhận được ở Indianna lại chỉ điểm khá rõ ràng: "Xuyên qua mê cung tối tăm tới vùng đất tử thiêu". Hihi vui dễ sợ! "Duy nhất kẻ móng guốc dẫn đường mở lối." Trừ một việc, là kẻ dẫn dường có móng guốc của chúng ta, thần rừng Grover Underwood, có vẻ là đếch có biết cái đường nào hết. "Ngươi đi lạc rồi đấy," Ta nói, lần thứ 40. "Lạc đâu mà lạc!" Cậu ta cãi lại. Cậu ta chạy nước kiệu với cái quần bò thụng và chiếc áo phông màu xanh lá cây, hai đuôi móng guốc lảo đảo trong đôi giày New Balance 520s được làm riêng cho mình cậu ta. Một chiếc mũ đan tay màu đỏ che phủ mái tóc xoăn xoăn. Tại sao cậu ta lại nghĩ là cải trang kiểu này giúp cậu ta nhìn giống người thường hơn thì ta cũng không biết. Hai cái sừng của cậu ta nhú lên rõ ràng bên dưới chiếc mũ. Đôi giày của cậu ta bật ra khỏi bộ móng cứ mỗi ngày phải vài lần, và ta thì chán cái việc phải cong mông chạy đi nhặt lại giày cho cậu ta lắm rồi. Cậu ta dừng lại ở một ngã rẽ chữ T ở hành lang. Ở mỗi hướng đều là những bức tường bằng gạch cứng sù sì dẫn thẳng vào bóng tối. Grover giật giật chòm râu thưa. "Thế nào rồi?" Meg hỏi. Grover nao núng. Cũng như ta, cậu ta nhanh chóng trở nên sợ hãi trước sự không hài lòng của Meg. Không phải là Meg McCaffrey nhìn đáng sợ đâu. Cô bé thậm chí là nhìn còn nhỏ hơn tuổi, với bộ đồ đèn giao thông-váy xanh lá cây, tất bó màu vàng và chiếc áo đỏ-tất cả đều rách rưới và bẩn thỉu nhờ vào mấy trận bò lê bò lết trong mấy cái đường hầm chật hẹp. Tơ nhện giăng đầy trên mái tóc màu tối cắt ngắn ngang tai. Cặp kính mắt mèo bụi bặm tới mức ta không hiểu làm thế nào mà cô bé có thể nhìn thấy được. Nhìn tổng quan thì, cô bé trông như một đứa trẻ mẫu giáo vừa mới sống sót qua trận đánh nhau tranh giành trò đu dây. Grover chỉ về phía đường hầm phía bên phải. "Tôi-tôi khá chắc là Palm Springs ở hướng đó." "Khá chắc?" Meg hỏi. "Như lần trước, cái lần mà chúng ta đi vào một cái nhà tắm và làm một tên Cyclops đang ngồi toilet phát hoảng ấy hả?" "Đó đâu có phải lỗi của tôi!" Grover vặc lại. "Với lại, cái hướng này có MÙI khá đúng. Mùi... cây xương rồng." Meg khịt khịt vào không khí. "Tôi không có ngửi thấy mùi xương rồng." "Meg," ta nói, "Thần rừng là người dẫn đường của chúng ta. Chúng ta không có nhiều lựa chọn ngoài tin cậu ta đâu." Grover giận dỗi. "Cảm ơn vì giúp cho sự tự tin của tôi tăng lên nhé. Giờ thì là lời nhắc nhở trong ngày này: Tôi không hề YÊU CẦU được triệu hồi một cách thần kỳ từ nửa kia của đất nước và rồi tỉnh dậy ở một khu vườn cà chua trên một nóc nhà tại Indianapolis đâu nhé!" Nói thì lớn lao thế thôi, nhưng cậu ta lại nhìn chằm chằm vào chiếc nhẫn đôi ở ngón tay giữa của Meg, cứ như thể cậu ta lo sợ cô bé sẽ triệu hồi hai thanh mã tấu vàng rồi xẻ cậu ta thành món dê xiên nướng vậy. Từ khi biết được Meg là con gái của Demeter, nữ thần của vạn vật đâm chồi nảy lộc, Grover Underwood đã hành xử như thể cậu ta bị đe dọa bởi cô bé hơn là bởi ta, một cựu thần Olympus tối cao. Cuộc sống thật chẳng công bằng chút nào. Meg quẹt mũi. "Được thôi. Tôi chỉ không nghĩ là chúng ta sẽ cứ đi lòng vòng trong này trong suốt hai ngày vừa rồi thôi. Trăng non sẽ lên -" "Sau ba ngày nữa," ta nói, cắt lời cô bé. "Chúng ta biết." Có thể là ta đã quá lỗ mãng, nhưng ta không cần được nhắc nhở về phần còn lại của lời tiên trị đâu. Khi chúng ta đi về hướng nam để tìm Nhà tiên tri tiếp theo, anh bạn Leo Valdez của chúng ta đã lái con rồng đồng một cách tuyệt vọng tới Trại Jupiter, trại huấn luyện Á thần La Mã tại phía bắc California, hy vọng có thể cảnh báo họ về trận lửa, những chết chóc mất mát và những thảm họa mà họ có thể sẽ phải đối đầu khi kỳ trăng non tới. Ta cố dịu giọng lại. "Chúng ta phải tin là Leo và những Á thần La Mã có thể chống lại được bất cứ thứ gì đang tiến về phía bắc. Chúng ta có nhiệm vụ riêng của mình rồi. "Và hàng đống những trận lửa của riêng mình nữa." Grover thở dài. "Như thế nghĩa là gì?" Meg hỏi. Cũng như cách hành xử trong suốt hai ngày vừa rồi, Leo lại thoái thác. "Tốt nhất là không nên nói về chuyện đó . . . ở đây." Cậu ta liếc nhìn xung quanh một cách lo lắng như thể mấy bức tường có tai và đang lắng nghe vậy, điều mà dứt khoát là có thể xảy ra. Mê cung là một công trình sống. Dựa vào những mùi phát ra từ một vài hành lang, ta khá chắc là nó ít nhất cũng phải có một cái ruột. Grover cào cào vào hai bên sườn. "Tôi sẽ cố đưa chúng ta tới đó thật nhanh," cậu ta hứa. "Nhưng mà Mê cung cũng có suy nghĩ của riêng nó nữa. Lần trước khi tôi ở đây, với Percy . . ." Biểu cảm của cậu ta trở nên đăm chiêu, như bao lần cậu ta nhớ lại những cuộc hành trình xưa cũ cùng với người bạn thân nhất, Percy Jackson. Ta không thể trách cậu ta được. Percy đúng là một á thần có ích để có bên mình. Không may là, cậu ta không dễ để cứ thế triệu hồi từ một vườn cà chua như cậu Thần rừng dẫn đường này được. Ta đặt một tay lên vai của Grover. "Chúng ta biết là ngươi đang làm hết sức rồi. Hãy cứ đi tiếp thôi. Và trong khi ngươi tiếp tục ngửi thấy mùi xương rồng, nếu ngươi có thể tập trung lỗ mũi của mình vào mấy món ăn sáng nữa-chẳng hạn như là cà phê và bánh rán vòng vị chanh ấy-vậy thì sẽ tuyệt lắm." Chúng ta theo chân người dẫn đường tiến vào đường hầm bên tay phải. Chẳng mấy lâu sau, con đường hẹp lại, bắt buộc chúng ta phải né người và đi lạch bạch từng người một. Ta ở vị trí giữa, vị trí an toàn nhất. Các ngươi có thể không nghĩ đó là hành động dũng cảm, thế nhưng Grover là chúa tể của thế giới Hoang dã, một thành viên của Hội đồng Bô lão Cloven. Thế là cũng coi như là cậu ta sở hữu sức mạnh to lớn, mặc dù ta cũng chưa nhìn thấy cậu ta sử dụng sức mạnh bao giờ. Còn Meg, cô ấy không chỉ biết chiến đấu với hai lưỡi kiếm vàng, mà cô ấy còn có thể làm đủ trò hay ho với những túi hạt giống làm vườn mà cô bé đã chất đầy mình khi còn ở Indianapolis nữa. Ta, mặt khác, thì lại ngày càng trở nên yếu và không phòng ngự nổi hơn. Kể từ trận chiến với Hoàng đế Commodus, người mà ta đã làm mù bởi một trận ánh sáng của thần, ta chưa thể nào triệu hồi lại được dù chỉ một mẩu nhỏ sức mạnh thần thánh nào cả. Những ngón tay ta dần trở nên chậm chạp trên những sợi đàn của chiếc đàn ukulele chiến đấu. Khả năng cung thuật cũng ngày càng giảm đi. Ta thậm chí đã bắn trượt khi ta bắn tên Cyclops trong cái nhà vệ sinh đó đấy. (Ta không chắc ta hay là hắn là người xấu hổ hơn nữa.) Thêm vào đó, những viễn cảnh lâu lâu khiến ta tê liệt dạo này cũng xuất hiện thường xuyên hơn và khắc nghiệt hơn. Ta chưa chia sẻ nỗi lo lắng của ta với những người bạn của mình. Chưa phải lúc. Ta muốn tin là sức mạnh của ta chỉ là đang được nạp lại mà thôi. Xét cho cùng, thử thách ở Indianapolis cũng gần như phá hủy ta rồi. Nhưng cũng có một khả năng khác nữa. Ta đã bị đẩy từ đỉnh Olympus rồi ngã cắm mặt vào một thùng rác ở Manhattan từ hồi tháng Một rồi. Bây giờ đã là tháng Ba. Nghĩa là ta đã làm người thường trong vòng hai tháng rồi. Cũng có thể là ta ở dạng người thường càng lâu thì ta sẽ càng yếu đi, và cũng càng khó để ta trở lại thể thần thánh trước kia của ta. Hai lần trước Zeus đẩy ta xuống hạ giới có như thế này không ấy nhỉ? Ta cũng chẳng nhớ nữa. Một vài ngày, ta thậm chí còn không nhớ nổi vị của bánh thánh, hoặc là tên của những chú ngựa kéo cỗ xe mặt trời của mình, hoặc là khuôn mặt của cô em gái sinh đôi Artemis của ta. (Thường thì ta sẽ nói đó là một lời chúc phúc, không nhớ mặt cô em gái ấy, nhưng ta nhớ con bé đến điên cả lên. Đừng có hòng mách con bé là ta đã nói vậy đấy.) Chúng ta bò theo sườn hành lang, mũi tên thần kỳ của Dodona rung rung trong bao đựng tên như chiếc điện thoại đã tắt tiếng, như thể nó đang muốn được lấy ra và được hỏi ý kiến. Ta cố tảng lờ nó đi. Những lần trước khi ta hỏi mũi tên cho lời khuyên, nó không có ích cho lắm. Tệ hơn là, nó đưa mấy lời khuyên vô ích bằng tiếng Anh thời Shakespeare. Có quá nhiều những từ NGƯỜI, NHÀ NGƯƠI, TÁN THÀNH và VÔ CÙNG bằng tiếng Anh cổ, nhiều hơn những gì ta có thể chịu đựng. Ta chưa bao giờ thích những năm có đuôi 90s. (Ý ta là những năm 1590s ấy). Có thể ta sẽ bàn bạc với mũi tên khi chúng ta tới Palm Springs. NẾU như chúng ta tới được Palm Spring . . . Grover dừng lại ở một ngã rẽ chữ T nữa. Cậu ta đưa mũi ngửi ngửi bên phải, rồi bên trái. Mũi cậu ta chun lại như mũi con thỏ mới ngửi phải một con chó vậy. Bất chợt, cậu ta thét lên "Lùi lại!" và ngã ngửa lại đằng sau. Cái hành lang quá chật hẹp nên cậu ta đổ nhào lên đùi ta, bắt buộc ta phải ngã nhào lên đùi của Meg, cô bé ngồi phịch xuống một cách nặng nề và làu bàu hốt hoảng. Trước khi ta có thể cằn nhằn rằng ta không thích massage nhóm, hai tai của ta bật lên. Toàn bộ khí ẩm đang bị rút cạn khỏi không khí. Một mùi hương cay xè trườn qua người ta-như là mùi nhựa đường còn mới trên một con đường cao tốc ở Arizona vậy-và từ bên kia hành lang, ngay trước mặt chúng ta nổi lên một lớp lửa vàng kè, một xung điện của cái nóng khủng khiếp biến mất nhanh chóng như khi nó xuất hiện vậy. Hai tai ta nứt rạn . . . có thể là do dòng máu đang sôi sùng sục bên trong đầu ta. Miệng ta khô tới mức nuốt thôi còn thấy khó. Ta không thể nào nói được là chỉ có ta đang run rẩy đến mất cả kiểm soát hay là cả ba chúng ta đều vậy. "Cái-cái gì vậy?" Ta tự hỏi tại sao phản ứng đầu tiên của ta là hỏi đó là KẺ NÀO. Có gì đó về luồng hơi đó quen thuộc một cách đáng sợ. Trong luồng khói cay độc đang lơ lửng, ta nghĩ là mình nhận ra được cái mùi khó chịu của sự ghét bỏ, niềm hoang mang và cơn đói cồn cào. Chiếc mũ đan tay màu đỏ của Grover bốc khói. Cậu ta ngửi y như đống lông dê bị đốt cháy. "Cái đó," cậu ta nói một cách yếu ớt, "nghĩa là chúng ta đang ở rất gần rồi đó. Chúng ta cần phải nhanh lên." "Đúng như những gì tôi đã nói đi nói lại đấy," Meg gầm gừ. "Giờ thì đứng dậy ngay." Cô bé lấy đầu gối đá vào mông ta. Ta khó nhọc đứng dậy, ít nhất là đứng ở chiều cao mà cái hầm kẹp chặt cho phép. Đám lửa qua rồi, da ta cảm giác sền sệt. Hành lang trước mặt chúng ta trở nên tối tăm và im thin thít, như thể là chưa hề có một chút lửa địa ngục nào mới phun ra vậy, nhưng ta đã dành đủ thời gian với cỗ xe mặt trời để có thể đo độ nóng của lửa. Nếu như chúng ta bị luồng hơi đó phun trúng, thì chúng ta đã bị nấu chảy thành huyết thanh luôn rồi. "Chúng ta sẽ phải rẽ trái thôi," Grover quyết định. ... Mời các bạn đón đọc Những thử thách của Apollo Tập 3: Địa Cung Rực Lửa  của tác giả Rick Riordan.
Đồ Nhi, Vi Sư Không Xuống Núi
Tu Thần xuyên việt tới một thế giới huyền huyễn, thức tỉnh hệ thống Lĩnh Vực Vô Địch, ở trong phạm vi lĩnh vực thì hắn là vô địch! Hắn còn có thể thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ của hệ thống này để dần dần mở rộng phạm vi và tăng cấp độ của lĩnh vực. Tại thế giới, nơi mà một chưởng của cường giả nhân loại có thể làm rách hư không, và lũ yêu quái hung hăng hiếu sát, Tu Thần tỏ ý quyết không xuống núi! Nhận vài đồ đệ, sau đó để chúng xuống núi, quấy cho toàn bộ thế giới trời long đất lở, gà bay chó sủa. Đánh không lại thì chạy về mời Tu Thần rời núi báo thù. Tu Thần vừa ăn cánh phượng hoàng mới nướng chín, vừa khoát tay áo nói: Đồ nhi ngoan, vi sư không xuống núi, chi bằng các ngươi gọi bọn họ tới đây? *** Trên đỉnh núi Thiên Tử tại lãnh thổ Quảng Nguyên có một sơn miếu. Trên cửa sơn miếu có treo một tấm hoành phi, viết năm chữ - Miếu Sơn Thần Thiên Tử. Sơn miếu này thoạt nhìn có phần cổ xưa, gạch xanh ngói đỏ đã bắt đầu phai màu, để lộ màu xám của lớp bột hồ. Bao quanh sơn miếu là một tường đất cao hơn một thước màu vàng pha đỏ, trước cửa là một con đường đá gập ghềnh quanh co kéo dài xuống dưới chân núi. Ở sau lưng sơn miếu này là vách đá vực sâu, gió mạnh rít gào, sâu không thấy đáy. Chung quanh là núi non trùng điệp, mây mù mờ mịt. Sau khi tiến vào cửa là một sân nhỏ rộng chừng hơn mười mét vuông, nền lát gạch xanh, trống hoác không có gì cả. Hai bên trái phải mỗi bên đều có một căn phòng ngói gạch xanh cũ, mà phía trước là chủ đường của sơn miếu này. Bên trong miếu có một pho tượng đá, chín mắt tám tay bảy chân, trông khá hung thần ác sát. Lúc này có một thanh niên với bộ dạng vô cùng tuấn tú đang ngồi xếp bằng trên bồ đoàn bên dưới tượng đá, tay hắn chống cằm, miệng thì ngậm một cành cây. Một lão già đầu trọc đang nhắm mắt ngồi ở phía đối diện với thanh niên kia, lông mi lão trắng dài rủ xuống đất, khuôn mặt đầy những nếp nhăn. "Sư phụ, lần này là thật hay giả? Đây đã là lần thứ tám trong tháng ngài nói muốn tọa hóa rồi." Tu Thần cắn cành cây, nhìn lão già chằm chằm hỏi. Lão già chậm rãi mở mắt, trợn mắt trừng Tu Thần: "Đừng ầm ĩ nữa, hóa bây giờ đây!" Tu Thần trợn trắng mắt, sau đó nằm luôn ra đất, nhìn hoa văn trên xà nhà cười nhạo: "Ta từng nghe nói đại nạn sắp tới sau đó tọa hóa chờ chết, thật chưa từng nghe nói ai giống như ngài. Ngày hôm qua còn vui vẻ xuống dưới chân núi bắt gà rừng, mà bây giờ lại nói mình muốn tọa hóa, một tháng muốn hóa tới tám lần, ngài đang trị bệnh bằng hóa chất sao?" "Gà Xích Diễm dưới chân núi đều bị ngài bắt tới tuyệt chủng rồi, dựa vào thể chất này của ngài, sợ là Diêm Vương gia cũng không dám nhận đâu." Lão già nheo mắt, thở phì phì nói: "Lão phu tu vi thông thiên, muốn tọa hóa chỉ là chuyện phút chốc! Chủ yếu là tọa hóa cũng phải xem ngày chọn giờ hoàng đạo! Nếu không chẳng phải là bôi nhọ uy danh Đệ Nhất Ma Tăng của lão phu?" Tu Thần liếc mắt nhìn lão đầu. Lão già này lại bốc phét rồi. "Ta cảm thấy nên đi xuống núi mua chút pháo về đốt thì hơn, pháo nổ đùng đùng còn chân thật một chút. Chứ tọa hóa mà còn phải xem giờ, chẳng lẽ ngài muốn đợi linh khí thiên địa này tụ hội về đỉnh núi Thiên Tử, mây đỏ che lấp mặt trời, điềm lành giáng xuống bốn phương hay sao?" Tu Thần nói. Ông lão bị lời này của Tu Thần làm cho tức giận muốn hộc máu, mắng: "Nghĩ lại một đời anh danh của Ma Đế ta, môn đồ người nào không phải cường giả một phương, sao lại thu một tên đệ tử quan môn như ngươi chứ!" Lại nữa rồi. Tu Thần lắc đầu. Ba năm trước, lúc hắn xuyên tới nơi này thì đã bị lão già này liên tục dụ dỗ lừa thu thành đồ đệ, luôn nói bản thân lợi hại trâu bò cỡ nào, lôi đại một tên đồ đệ cũng là cao thủ tuyệt thế. Nhưng hắn lại chưa từng thấy sư huynh sư tỷ nào tới nơi này? Hơn nữa, thực lực lão già này thoạt nhìn cũng không có gì đặc biệt, còn nói là cao thủ tuyệt thế, bảo lão mang hắn bay một chút cũng không làm được. "Tới rồi!" Đột nhiên, ánh mắt lão già sáng lên, sau đó lập tức nhắm mắt bế khí. Tu Thần tiếp tục nằm, hoàn toàn không tin lời lão. "Ong!" Đột nhiên, trên bầu trời truyền tới tiếng vù vù cực lớn, cảm giác như cả ngọn núi đều rung chuyển, khiến Tu Thần sợ tới mức ngồi bật dậy. Hắn nhìn ngoài cửa, sau đó lại nhìn về phía lão già. Chỉ thấy sắc mặt lão già lúc này xám ngoét không còn sức sống. "Lão già? Lão già?" Tu Thần có hơi hốt hoảng, đứng dậy lay bả vai ông lão. Lão già gian nan mở hai mắt ra, con ngươi đục ngầu kia bỗng nhiên trở nên dày đặc tử khí. "Con mẹ nó, lão làm thật đấy à? Hóa thật đó sao?" Đầu Tu Thần muốn nổ tung. "Thần à..." Lão già chậm rãi lên tiếng, âm thanh vô cùng suy yếu. "Ngươi nói... Ngươi từ đâu tới nơi này, vì sao không thể tu luyện..." "Ai... Anh danh một đời của lão phu... Bị tên nhóc ngươi phá hỏng rồi..." Ánh mắt Tu Thần có chút kích động, lần này không phải là muốn đi thật chứ? "Ta nói ta tới từ Địa Cầu, là thân thể xuyên qua đây, cấu tạo cơ thể không giống với nhân loại nơi này, nên không thể tu luyện." Tu Thần bất đắc dĩ nói. Vì sao lại luôn hỏi vấn đề này chứ? "Địa Cầu... Là loại cầu gì thế?" "Thôi... Thôi... Thời gian cũng đã tới rồi. Nhớ kỹ, có thể không xuống núi thì đừng xuống núi, thế giới bên ngoài rất nguy hiểm..." Tu Thần sốt ruột nói gấp: "Sư phụ, ngài đừng làm ta sợ, ta chỉ là một tên Muggle, không thể lăn lộn ở cái thế giới này được đâu." Bản thân hắn ngay cả gà Xích Diễm cũng không đối phó được, nếu sư phụ thật sự chết đi, không phải hắn sẽ đói chết sao? "Mỗi người có con đường của mình, vi sư không giúp ngươi được cả đời..." "Cả đời vi sư đi lại một mình, khác biệt không giống ai, sau khi chết cũng phải vậy. Nhớ kỹ lấy, phần mộ của lão phu không thể giống những người khác, phải lập dị... Nhớ lấy nhớ lấy..." Tu Thần bị những lời này của lão già dọa tới mức muốn nổ đầu. Tử vong là chuyện thần thánh trang nghiêm cỡ nào, lão muốn làm cho người ta cười ra nước mũi hay sao? "Đây là yêu cầu cuối cùng trước khi chết của vi sư, ngươi phải đáp ứng đấy, bằng không ta chết không nhắm mắt, tọa mà không hóa..." Tu Thần sốt ruột nói gấp: "Được được được, ta đáp ứng ngài, người khác đều làm phần mộ gồ lên, còn lão nhân gia ngài thì ta sẽ lấy ao làm phần mộ. Ta sẽ khắc tên ngài lên xương đùi gà Xích Diễm làm bia cắm trước đầu phần mộ ngài." Nghe xong lời này của Tu Thần, đôi con ngươi dày đặc tử khí của ông lão bỗng nhiên lấp lánh chút ánh sáng. "Bia xương gà? Ao phần mộ? Tốt... Muốn..." Lời còn chưa nói hết, ông lão đã trực tiếp nhắm mắt ngã trên đất. Tu Thần: "???" "Không phải chứ sư phụ? Ngài đùa thật à?" Tu Thần hoàn toàn ngây ngốc tại chỗ. Mời các bạn đón đọc Đồ Nhi, Vi Sư Không Xuống Núi của tác giả Vô Địch Tái Lãng.