Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sao Mai

Tác phẩm hay nhất năm 2014 do Entertaiment Weekly, Buzzfeed và Shelf Awarness bình chọn Trái Đất đang chết dần. Dưới những tầng đất sâu của Sao Hỏa, có một cộng đồng những con người mắt và tóc đỏ quạch như màu của hành tinh mà họ đang sống. Nhiệm vụ của họ là khai thác Helium 3 - một thứ nguyên tố được cho là sẽ biến bề mặt Sao Hỏa thành nơi con người có thể sinh sống được. Họ là niềm hy vọng cuối cùng của nhân loại. Họ là Đỏ. Ngoại trừ… tất cả là một lời nói dối khổng lồ. Các Đỏ không phải những người tiên phong. Họ chỉ là những nô lệ bị lợi dụng làm việc quần quật cho đến chết! Đỏ trỗi dậy phảng phất đâu đó những nét quen thuộc với các độc giả của Đấu trường sinh tử, Chúa ruồi, Trò chơi của Ender hay Trò chơi vương quyền. Nhưng đây vẫn là một cuốn sách hết sức khác biệt. Hồi hộp đến nghẹt thở, bất ngờ đến choáng váng, tàn nhẫn đến lạnh người. Rơi xuống chói lòa như một ngôi sao băng và cuốn ta đi như một cơn bão.  *** Thời cơ đã đến.Gánh lấy trách nhiệm lãnh đạo cuộc nổi dậy liên hành tinhvới những liên minh không ổn định và khó lòng bền vững, Darrowvật lộn để tìm xem ai là người có thể tin tưởng. Cậu đang phải trực tiếp đối mặtnhững kẻ thù hiểm độc, gian hùng và tàn nhẫn nhất màtrong số đó, có cả những ngườicậu từng coi là bạn. Xảy ra trong khoảng 9-12 tháng sau những sự kiện của Đứa Con Hoàng Kim,nhữnggì được kể trong Sao Mai đã xuất sắc khép lại bộ ba Đỏ trỗi dậy– thiên sử thi về Darrow,chàng thanh niên Đỏ đã chiến đấu để sống sót quacuộc Tạo Tác vĩ đại, ẩn nhẫn chờ thời, từng bước leo lên nấc thang danh vọng, vượt qua những cuộc chiến tranh tàn khốc từ Học Viện đến Viện Hàn Lâm, trở thành chiến binh Hoàng Kim hùng mạnh nhất. Trong khi hai cuốn trước tập trung vào những thách thức cá nhân của Darrow, cuốn tiểu thuyết này tôn vinh tình bạn. Một dấu chấm rực rỡ và cảm động cho thiên sử thi đầy máu, nước mắt của những người vùng lên từ lòng đất. *** Tiểu thuyết gia Pierce Brown sinh ngày 28-1-1988 tại Thành phố Denver, bang Colorado- Hoa Kỳ. Là Tiểu thuyết gia sinh thuộc cung Bảo Bình, cầm tinh con (giáp) mèo (Đinh Mão 1987). Pierce Brown xếp hạng nổi tiếng thứ 29753 trên thế giới và thứ 176 trong danh sách Tiểu thuyết gia nổi tiếng. Tổng dân số của Hoa Kỳ năm 1988 vào khoảng 244,498,982 người. Tiểu thuyết gia của thể loại khoa học viễn tưởng và nhà biên kịch người là tác giả của tờ New York Times bán chạy nhất Red trilogy Rising trong đó bao gồm các chức danh Red Rising, Kim Sơn và Morning Star.  Trước khi bán Red Rising, anh là tác giả tiểu thuyết và đã bị từ chối bởi nhiều hơn 120 đại lý. Ông là một khoa học và kinh tế chính trị lớn tại Đại học Pepperdine. Ông đã làm việc như là một trang trong chương trình trang NBC khi sống trong nhà để xe giáo viên khoa học chính trị của ông khi ông bán Red Rising. *** Sâu thẳm trong bóng đêm, xa khỏi sự ấm áp, khỏi mặt trời và các vệ tinh, tôi nằm im lặng như những tảng đá đang vây quanh giam giữ cơ thể còng queo của tôi trong hầm mộ kinh hoàng. Tôi không thể đứng dậy. Không thể duỗi chân tay. Chỉ có thể cuộn tròn như quả bóng, một hóa thạch héo hắt đã từng là người. Hai tay bị còng sau lưng. Tôi trần truồng trên nền đá lạnh. Hoàn toàn cô độc cùng bóng đêm. Dường như đã nhiều tháng, nhiều năm, cả thiên niên kỷ trôi qua, kể từ lần cuối hai đầu gối của tôi được duỗi thẳng, kể từ lần cuối sống lưng tôi không phải oằn lại. Đau nhức đến điên cuồng. Các khớp xương của tôi rệu rã. Đã bao lâu kể từ khi tôi chứng kiến các bạn Hoàng Kim của mình đổ máu xuống mặt cỏ? Kể từ khi tôi cảm nhận nụ hôn của anh bạn Roque hiền hòa đặt lên má trong lúc cậu ta bóp vỡ trái tim tôi? Thời gian không phải một dòng sông. Không phải ở đây. Trong hầm mộ này, thời gian là đá. Nó là bóng tối, vĩnh viễn và kiên định, thước đo duy nhất của nó là con lấc kép của sự sống - hơi thở và nhịp đập của trái tim. Hít vào. Thình… thịch. Thình… thịch. Thở ra. Thình… thịch. Thình… thịch. Hít vào. Thình… thịch. Thình… thịch. Và nó lập lại mãi mãi. Cho đến khi… đến khi nào? Đến khi tôi chết vì tuổi già? Đến khi tôi đập đầu vào đá? Hay đến khi tôi moi ra những cái ống mà các Vàng đã lắp vào bụng dưới tôi để đẩy chất dinh dưỡng vào và đổ chất thải ra? Hay cho đến khi mày phát điên? “Không.” Tôi nghiến răng. Phảiiiii. “Chỉ là bóng tối thôi.” Tôi hít thở. Bình tĩnh lại đi. Tôi chạm vào tường để trấn tĩnh. Lưng, các ngón tay, xương cụt, gót chân, ngón chân, đầu gối, đầu. Rồi lặp lại. Cả chục lần. Cả trăm lần. Tại sao không làm nhiều hơn để chắc chắn? Cứ làm cả nghìn lần đi. Phải. Tôi đơn độc. Tôi đã nghĩ có những số phận còn tôi tệ hơn thế này, nhưng giờ đây tôi biết không có gì tôi tệ hơn. Con người không phải một hòn đảo. Chúng ta cần những người yêu thương mình. Chúng ta cần những người ghét bỏ mình. Chúng ta cần có người ràng buộc mình với cuộc đời, cho chúng ta lý do để sống, để cảm nhận. Tất cả những gì tôi có là bóng tối. Đôi lúc tôi hét lên. Đôi lúc tôi bật cười giữa đêm, giữa ngày. Ai mà biết? Tôi cười để giết thời gian, để thải ra số calo mà Chó Rừng cho tôi, và để cơ thể tôi run rẩy chìm vào giấc ngủ. Tôi cũng khóc. Tôi ngân nga hát. Tôi huýt sáo. Tôi lắng nghe những giọng nói phía trên. Những giọng nói vọng lại từ đại dương của bóng tối sâu thẳm. Hòa cùng chúng là tiếng leng keng điên loạn của xích và xương, rúng động qua những bức tường của nhà ngục. Thật gần mà lại xa cả nghìn cây số, như thể cả thế giới đang tồn tại ngay phía trên bóng tối mà tôi lại không thể nhìn thấy, không thể chạm vào, nếm nó, cảm nhận nó, hay đâm qua tấm màn để lại được sống giữa thế giới ấy. Tôi bị giam cầm trong tịch mịch. Lúc này tôi lại nghe thấy những tiếng động. Những sợi xích và những lóng xương dần lộ ra trong hầm ngục. Có phải những tiếng động đó là của tôi? Tôi cười trước ý nghĩ ấy. Tôi chửi tục. Tôi bày mưu lập kế. Giết. Tàn sát. Đẽo khoét. Xé toạc. Thiêu rụi. Tôi cầu xin. Tôi ảo tưởng. Tôi thương thuyết. Tôi thút thít nói những lời nguyện cầu với Eo, cảm thấy hạnh phúc vì em đã không phải chịu đựng số phận này. Cô ta đâu thèm lắng nghe. Tôi hát những bài ca thời thơ ấu và ngâm Trái Đất lụi tàn, Người Thắp Đèn, Ramayana, Odyssey bằng tiếng Hy Lạp và tiếng Latin, rồi bằng những từ ngữ như tiếng Ả Rập, tiếng Anh, tiếng Trung và tiếng Đức, nhớ lại từ những dữ liệu mà Matteo đã tải cho khi tôi vẫn còn là một thằng nhóc. Truy cầu sức mạnh từ vị anh hùng ngoan cường thành Argos, vốn chẳng mong cầu gì hơn tìm được đường về nhà. Ngươi đã quên những gì hắn làm. Odysseus là một vị anh hùng. Ông đã vượt qua tường thành của Troy bằng con ngựa gỗ của mình. Như tôi đã đập tan đội quân Bellona bằng Cơn Mưa sắt xuống Sao Hỏa. Và rồi… “Không,” tôi gắt gỏng. “Im đi.” …họ đã tiến vào thành Troy. Đã tìm thấy những bà mẹ, những đứa trẻ. Và hãy đoán xem họ đã làm gì? “Im đi!” Ngươi biết họ đã làm gì. Mồ hôi. Xương. Máu. Da thịt. Tro tàn. Tiếng khóc than. Bóng tối râm ran những tiếng cười khúc khích. Thần Chết ơi Thần Chết… Chiến công nào rốt cuộc chẳng nhuộm trong máu tươi. Tôi đang ngủ mê chăng? Hay đang thức? Tôi đã mất phương hướng. Mọi thứ lẫn vào nhau, nhấn chìm tôi trong những mộng ảnh, tiếng thì thầm và tiếng huyên náo. Hết lần này đến lần khác, tôi kéo hai cổ chân mảnh dẻ nhỏ nhắn của Eo. Đánh vỡ mặt Julian. Nghe Pax, Quinn, Tactus, Lorn và Victra trút hơi thở cuối cùng. Quá nhiều khổ đau. Mà để làm gì kia chứ? Để khiến vợ tôi phải thất vọng. Để khiến người của tôi phải thất vọng. Để Ares, và để những người bạn của mày phải thất vọng. Còn lại được bao nhiêu người? Sevro? Ragnar? Ngựa Hoang? Ngựa Hoang, Nếu cô ta biết mày ở đây thì sao… Nếu cô ta không thèm bận tâm thì sao… Mà tại sao cô ta phải bận tâm? Mày là kẻ đã phản bội lại cô ta. Mày là kẻ đã lừa dối cô ta. Mày là kẻ đã lợi dụng tâm trí, cơ thể và máu của cô ta. Mày đã cho cô ta thấy bộ mặt thật của mình và cô ta đã bỏ chạy. Nếu đó là cô ta thì sao? Nếu cô ta là người phản bội lại mày thì sao? Khi đó mày có còn yêu cô ta nữa không? “Im đi!” Tôi thét lên với chính mình, với bóng tối. Đừng nghĩ đến cô ấy. Đừng nghĩ đến cô ấy. Tại sao không? Mày nhớ cô ta kìa mà. Mộng ảnh của cô hiện lên trong bóng tối như nhiều mộng ảnh khác đã hiện lên trước đó - một cô gái đang cưỡi ngựa trước mặt tôi ở phía bên kia cánh đồng xanh, xoay người trên yên ngựa và cười bảo tôi hãy đuổi theo. Mái tóc cô gợn sóng như những sợi rơm mùa hè rung rinh trên chiếc xe kéo của người nông dân. Mày thèm khát cô ta. Mày yêu cô ta. Cô gái Hoàng Kim. Hãy quên ả chó cái Đỏ ấy đi. “Không.” Tôi đập đầu vào tường. “Chỉ là bóng tối mà thôi,” tôi thì thầm. Chỉ là bóng tối đang đùa bỡn với tâm trí. Nhưng tôi vẫn cố quên đi Ngựa Hoang và Eo. Không có thế giới nào khác ngoài nơi này. Tôi không thể nhớ những gì không tồn tại. Máu nóng nhỏ xuống trán từ vết thương đã khô giờ đây lại tróc vảy. Nó chảy xuống mũi tôi. Tôi thè lưỡi ra, lần trên lớp đá lạnh cho đến khi tìm thấy những giọt máu. Chúng có vị muối, sắt của Sao Hỏa. Chậm rãi. Chậm rãi. Hãy để sự thi vị của cảm giác ấy được trường tồn. Để vị máu vấn vương và nhắc tôi nhớ rằng tôi là con người. Một Đỏ của Lykos. Một Chim Lặn. Không. Mày không phải. Mày chẳng là gì cả. Vợ mày đã bỏ rơi mày và cướp đi đứa con của mày. Ả điếm của mày đã quay lưng lại với mày. Mày không đủ tốt. Mày quá cao ngạo. Quá ngu ngốc. Quá xấu xa. Giờ thì mày đã bị quên lãng. Thật sao? Lần cuối gặp Ngựa Hoang, tôi đang quỳ gối bên cạnh Ragnar trong hầm mỏ ở Lykos, khẩn cầu cô gái Hoàng Kim phản bội giống loài của cô ấy và sống vì điều cao cả hơn. Tôi biết nếu cô quyết định gia nhập cùng chúng tôi, ước mơ của Eo sẽ bừng nở, một thế giới tốt đẹp hơn sẽ nằm trong lòng bàn tay chúng tôi. Nhưng thay vào đó, cô đã bỏ đi. Có lẽ nào cô đã quên tôi? Có lẽ nào tình yêu mà cô dành cho tôi đã rời bỏ cô? Cô ta chỉ yêu cái mặt nạ của mày. “Chỉ là bóng tối mà thôi. Chỉ là bóng tối mà thôi. Chỉ là bóng tối mà thôi,” tôi lẩm bẩm mỗi lúc một nhanh hơn. Đáng lẽ tôi khỏng nên ở đây. Đáng lẽ tôi phải chết. Sau cái chết của Lorn, tôi bị áp giải đến chỗ của Octavia để các Nhà Tạo Tác của bà ta mổ xẻ hòng tìm ra bí mật đã giúp tôi trở thành Hoàng Kim. Để biết liệu có còn những kẻ khác như tôi hay không. Nhưng Chó Rừng đã thương thuyết để được giữ tôi bên mình. Hắn đã tra tấn tôi tại dinh thự ở Attica của hắn, đã hỏi tôi về Các Con Trai Của Ares, về Lykos, và về gia đình tôi. Hắn chưa bao giờ nói làm thế nào hắn khám phá ra bí mật của tôi. Tôi đã cầu xin hắn kết liễu mạng sống của tôi. Cuối cùng, hắn giam tôi vào ngục đá. “Khi đã mất đi tất cả, người có chí khí sẽ đòi được chết,” Roque đã từng nói với tôi. “Đó là một cái kết đáng phục.” Nhưng một gã thi sĩ giàu có thì hiểu gì về cái chết? Chỉ kẻ nghèo hèn mới hiểu. Chỉ các nô lệ mới hiểu. Nhưng ngay cả khi thèm khát nó, tôi vẫn sợ nó. Vì càng chứng kiến thế giới tàn bạo này, tôi càng ít tin ràng nó kết thúc bằng một điều hư cấu êm tai. Cửu Nguyên không có thật. Đó là lời nói dối mà bố mẹ nói với lũ con đang chết đói của mình, để giải thích cho nỗi kinh hoàng. Chẳng có lời giải thích nào cả, Eo đã mất. Em đã không theo dõi tôi chiến đấu vì giấc mơ của em. Em đã không ngó ngàng đến việc tôi tạo ra được định mệnh gì à Học Viện, không bận tâm liệu tôi có yêu Ngựa Hoang hay không, vì ngày em ra đi, em đã trở thành hư vô. Chẳng có gì khác ngoài thế giới này. Đó là khởi nguồn và là kết thúc của chúng tôi. Cơ hội duy nhất để chúng tôi tận hưởng niềm vui trước khi chấm dứt đời mình. Phải. Nhưng mày không cần phải chấm dứt. Mày có thể thoát khỏi nơi này, bóng tối thì thầm với tôi. Chỉ cần nói ra những lời ấy. Nói ra. Mày biết cách mà. Nó nói đúng. Tôi biết. “Tất cả những gì mày cần nói là ‘tôi kiệt quệ rồi’, và toàn bộ chuyện này sẽ kết thúc,” Chó Rừng đã nói với tôi từ rất lâu, trước khi hắn ném tôi vào địa ngục này. “Tao sẽ đưa mày đến sống tại một dinh thự đẹp đẽ suốt quãng đời còn lại và sẽ gửi cho mày những ả Hồng xinh xắn, ấm áp, và đủ thức ăn để khiến mày béo tốt hơn cả Lãnh Chúa Tro Tàn. Nhưng những lời ấy đi kèm một cái giá.” Xứng đáng thôi. Hãy cứu bản thân mày. Không còn ai khác đến cứu mày đâu.   Mời các bạn đón đọc Sao Mai của tác giả Pierce Brown.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Me Tư Hồng - Nguyễn Ngọc Tiến
Hơn trăm năm rồi, người ta vẫn muốn đặt câu hỏi: Cô Tư Hồng là người có công hay có tội? Dựa trên các trang tư liệu, giai thoại dân gian về cuộc đời của người đàn bà có tính cách mạnh mẽ, quyết liệt nhưng cũng nữ tính, báo chí trước đây đã khai thác các khía cạnh khác nhau với những góc nhìn khác nhau, đôi khi đối nghịch. Cô Tư Hồng là người nổi danh khắp Bắc Kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX vì trúng thầu phá tường thành Hà Nội năm 1894 – một sự kiện đụng chạm đến di sản “cung điện nghìn năm” của nhiều triều đại lẫn tổn thương tinh thần sĩ phu Bắc Hà trong hoàn cảnh thuộc địa. Nhưng đời cô Tư Hồng còn nhiều câu chuyện đình đám khác: mở công ty buôn bán đầu tiên của người Việt, làm từ thiện, lấy chồng Tàu, chồng Tây. Xinh đẹp, khêu gợi, thông minh đến độ tinh quái và làm đàn ông say mê, cuộc đời cô Tư Hồng vẫn còn đầy bí ẩn như một huyền thoại đất Hà thành. 120 năm sau, hiện ở Hà Nội vẫn tồn tại những công trình liên quan đến cô Tư Hồng quanh hồ Hoàn Kiếm hay khu phố Tây, chẳng hạn như hai chiếc ghế đá đầu tiên nơi công cộng của Hà thành ở 16 Lê Thái Tổ ngày nay hay khu nhà ở phố Quán Sứ, trường Việt Đức… Tiểu thuyết Me Tư Hồng của Nguyễn Ngọc Tiến dựa theo cuộc đời của cô Tư Hồng, có sự hư cấu mang “hình dáng tiểu thuyết chân dung”. Tuy nhiên cùng với nhân vật cô Tư Hồng, rất nhiều nhân vật khác trong tiểu thuyết là những người có thật. Bên cạnh đó hoàn cảnh lịch sử trong tiểu thuyết, địa danh, thời gian xảy ra sự kiện… cũng đã được ghi trong chính sử và dã sử, vì vậy có thể gọi Me Tư Hồng là tiểu thuyết tư liệu. Đây là một cố gắng nhìn lại con người và xã hội cách chúng ta đã hơn một thế kỷ. Qua tiểu thuyết Me Tư Hồng, người đọc nhận diện được một xã hội Việt Nam vào thời điểm đã suy vong các giá trị cũ, và cả nỗi bi kịch của con người trong sự va chạm giữa đạo đức truyền thống và văn minh vật chất tân thời, một bi kịch vẫn đậm tính thời sự. *** Sân ga Hàng Cỏ đông đúc. Khách xuống chuyến sớm đứng ngáp vặt chờ người thân đến đón. Khách lần đầu ra Hà Nội lơ ngơ chưa biết về đâu. Đám xe kéo xúm lại mời chào. Đầu phố Gambetta, một gánh xẩm chào đón họ bằng tiếng nhị eo éo và lời hát vui tai. Cái lạnh làm người khỏe phải xuýt xoa mà ông lão vẫn hát. Bắc Kỳ vui nhất Hà thành Phố phường sầm uất văn minh rợp trời Thanh tao, thanh lịch đủ mùi Cao lâu rạp hát vui chơi đủ đầy Đâu đâu khắp hết đông tây Thăng Long thắng địa xưa nay tiếng đồn Cũ thời băm sáu phố phường Ngày nay mở rộng đến hàng vài trăm... Gió thổi ào ào kèm theo vài hạt mưa. Mọi người vội chạy vào nấp dưới mái hiên, chỉ còn trơ hai người. Lan như kẻ mất hồn, mặc cho gió thổi tung cái khăn lụa đỏ, cô đứng im như không có mưa. Laglan quay mặt về phía tòa nhà, điếu thuốc lá trên môi cháy đỏ. Tòa xử đã cho hai người ly hôn và hôm nay Laglan đi tàu xuống Hải Phòng về Pháp. Tối qua, Laglan khóc lóc trên giấy nói xin Lan bỏ qua mọi chuyện. Rằng ông không biết sẽ thế nào nếu sống thiếu cô nhưng Lan cương quyết không chịu. Cô chỉ đồng ý sẽ ra ga tiễn ông. Có lẽ chẳng gì nặng nề hơn chia ly, bao điều cần nói, cần thanh minh, giải thích hay xin lỗi đã nói rồi, chia ly là bậc cuối cùng trong nấc thang tình cảm. Laglan quay lại nhìn Lan rồi rút túi đưa cho cô mảnh giấy. - Đây là bức thư Hồng gửi cho tôi lúc hai ta cưới nhau chưa lâu. Lan đã đọc thư này. Sao từ ngày đó ông ta không bao giờ nhắc đến, hôm nay đưa lại chắc có ý “tôi yêu cô, thế mà cô lại bỏ tôi”. Lan lắc đầu: - Ông ta gửi anh thì nó là của anh. Laglan thả xuống sân ga. Tiếng loa thông báo mời khách lên tàu đã giải thoát cho cả hai. Móc lá thư trong túi, giọng Laglan trầm trầm. ... Mời các bạn đón đọc Me Tư Hồng của tác giả Nguyễn Ngọc Tiến.
Giờ Thứ 25 - Constantin Virgil Gheorghiu
Đối với Xã hội kỹ thuật hóa, đây là một mặt thật của Kiếp người, sống trong thời buổi giá trị con người bị tiết giảm xuống con số không: nhân vị, cá nhân, tình cảm hầu như không còn nữa. Máy móc. Tất cả đều sử dụng theo máy móc, đều hành động một cách máy móc, nên con người cũng bỏ lần nhân cách để theo kịp đà tiến hóa kỹ thuật rồi trở thành nô lệ cho kỹ thuật và lôi cuốn đồng loại mình vào trận cuồng phong, vào vực thẳm. Có còn chăng chút hy vọng lập lại xã hội loài người, như lời mục sư Koruga, trong truyện: “Sau rốt, Chúa lại đến phải xót thương con người, - như Chúa đã từng thương hại nhiều lần. Và, giống chiếc thuyền của ông Noé trên lượn sóng trận đại hồng thủy, vài người thật là người, còn giữ được chân tính, sẽ nổi trôi trên trận vận xoáy nhiễu loạn của đại nạn tai ương tập thể này. Và chính nhờ mấy người ấy mà loài người sẽ được bảo tồn cứu vãn, như đã trải qua bao lần trong lịch sử”. Lời dịch giả Thi sĩ kiêm văn sĩ Constantin Virgil Gheorghiu sanh ngày 15-9-1916 tại Razboeni-Neamtz xứ Roumanie, con của một vị linh mục ở Moldavie. Học triết lý và thần học tại Đại học đường Bucarest và Heidelberg (Đức). Ông sáng tác nhiều quyển sách mà thi phẩm Calligraphie sue la neige được giải thưởng Hoàng gia về thi ca (Prix Royal de Poésie) năm 1940, ở Roumanie. Ông cưới vợ là nữ sĩ, năm ngày trước trận Thế chiến thứ Hai. Với lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ, thi sĩ công phẫn và xúc động khi bọn thân phát-xít ám sát Thủ tướng dân chủ Armand Calinesco, nên viết quyển thi binh vực tự do, chống phát-xít, lấy tên là Armand Calinesco (1939). Hậu quả của thi phẩm này là ông suýt bị bọn “cơ quan sắt” thủ tiêu. Và cũng với lòng công phẫn mà ông viết quyển “Bờ sông Dniestr bừng lửa”, xuất bản ở Bucarest, chống bọn chống phát-xít đã tàn sát một phần ba dân số miền Bessarabie, quê hương ông. Tác phẩm này về sau, đã làm dư luận Pháp chống lại ông. Nhưng theo ông, “đứng trước những tàn phá giết chóc dã man, bất cứ từ đâu đến, thi sĩ không thể không công phẫn”. Năm 1943, hai vợ chồng phụ trách về liên lạc văn hóa tại Bộ Ngoại giao Roumanie ở Zaghreb. Được một năm, nước Roumanie theo phe Nga. Quân Đức bắt vợ chồng ông giam trong một trại giam các nhà ngoại giao tại Đức. Kế Đức quốc xã thua, vợ chồng ông bị quân Mỹ giam mỗi người một nơi, mãi hai năm sau (1947), mới được thả ra và gặp nhau ở Heidelberg (Đức). Trong thời gian bị giam cầm, ông viết quyển “Giờ thứ hai mươi lăm”. Nhằm lúc đồng mark mất giá, không thể sống ở Đức, vợ chồng ông đi bộ sang Pháp, đem quyển này dịch ra Pháp văn và cho xuất bản ở Paris (1949). Đây là một trong những tác phẩm bi đát nhứt của thời đại. Gabriel Marcel, trong bài tựa, đã viết: “Tôi tưởng không còn tìm ra một tác phẩm nào ý nghĩa hơn, phác họa rõ ràng hơn tình trạng hãi hùng mà nhân loại đang bị chìm đắm”. Tác giả quyển sách bán chạy nhất, - bán 600.000 quyển trong vài tuần lễ, riêng tại Pháp đến 300.000 quyển, - lại bị dư luận Pháp chống đối (1950), khi biết ông là tác giả quyển Bờ sông Dniestr bừng lửa, nghĩa là ông binh vực phát-xít. Trong một bài tự thuật, Virgil viết: “... Dấu ô nhục chống phát-xít đốt cháy da thịt ta ở Bucarest, và dấu ô nhục phát-xít bị đóng ở Paris chỉ là duyên cớ giản dị để quần chúng bóp chết ta... Phải chăng người ta chỉ được lên án những sự độc ác dã man của một bên... Không, nhà thơ ấy chỉ lấy vĩnh cửu làm khuôn vàng thước ngọc...” Thi sĩ đã đi tu. Lễ thăng thiên, ngày 23-5-1963, ông được Đức giám mục từ Nữu Ước đến làm lễ thụ phong linh mục giáo hội Chính Thống tại nhà thờ Lỗ-ma-ni ở Ba Lê. Ông qua đời ngày 22-6-1992 tại Ba Lê. *** Bà West, tôi muốn nói chuyện riêng với bà! Eleonora để tập hồ sơ trên bàn, ngó Trung úy Lewis. Ông đang ngồi tại bàn giấy, chân tréo, ưỡn ngực dựa lưng ghế và hút thuốc. Trung úy Lewis là trưởng phòng Phòng tuyển mộ ngoại kiều đến tình nguyện xin vô quân đội Mỹ. Eleonora là nhân viên và thông dịch viên tại Phòng này. Nàng làm việc từ sáu tháng nay, dưới quyền Trung úy Lewis. Nora ngó đôi vớ cuốn kèn quanh ống quyển Trung úy, rồi nghĩ thầm: “Tại sao hắn không mang dây kẹp vớ? Và tại sao hắn ngồi ghế như ngồi ngựa vậy? Giống như bọn thủy thủ ở bến tàu! Vậy mà hắn cũng là con nhà có giáo dục, cũng xuất thân trường đại học. Dầu hắn có tự do quá mức đi nữa, hắn cũng không được phép ở trong phòng văn, đưa cặp giò trước mặt một người đàn bà như thế này!” Nàng thấy như bị tát tai mỗi khi Trung úy Lewis bắt tay nàng mà miệng còn ngậm điếu thuốc, hoặc mỗi lần quăng một hồ sơ trên bàn cho nàng, như ném miếng xương cho chó. Trung úy Lewis không ngờ Nora đã nghĩ gì đến mình, trái lại, còn tưởng nàng phục mình lắm. Nhưng đôi mắt nhìn của ông vẫn còn ngượng nghịu. Nora đáp: - Tôi xin nghe ông. - Bà West có bằng lòng ưng làm vợ tôi không? Trung úy ngồi bật ngửa, xích đòng đưa chiếc ghế, chiếc ghế chỉ còn đứng có hai chân. Nora trả lời: - Tôi không ưng làm vợ ông! - Vậy bà có những dự tính nào khác sao? - Không có! Nhưng câu trả lời của tôi là: không bằng lòng. Nora giở tập hồ sơ ra, song không làm việc được. Mắt ngó giấy tờ mà trí ở đâu đâu. Nàng ở tù hai năm trong trại giam, rồi đương nhiên được thả ra, cũng vô căn cứ, như lúc bị bắt. ... Mời các bạn đón đọc Giờ Thứ 25 của tác giả Constantin Virgil Gheorghiu.
Đường Về Trùng Khánh - Han Suyin
Đường về Trùng Khánh (1973)—Destination Tchounking (1953) Tác giả Han Suyin aka Hàn Tú Anh Dịch giả Trùng Dương & Hồ Hải Nhà xuất bản Tổ Hợp Gió 1973 LỜI NGƯỜI DỊCH Qua Đường Về Trùng Khánh, người đọc có thể nhận ra những nhân vật điển hình — những diễn viên kỳ cựu — của bất cứ vở kịch chiến tranh nào xẩy ra từ trước tới nay trong lịch sử nhân loại : đó là đám nông dân cổ cày vai bừa sẽ chết, trong khi đám con cháu các gia đình khá giả lười biếng ăn chơi hay học hành tại các trường đại học và sửa soạn vào các nghề tài chánh, y khoa, hay luật sư và dĩ nhiên, cũng có những ngoại lệ và tuy thế cũng không phải là ít và thực đáng cảm động: “ Tôi không thể nào ngồi yên được nữa, tôi phải tham dự vào cuộc chiến, tôi phải tham dự vào cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Hoa. Tôi phải về nước. Dù không làm được gì quan trọng tôi cũng phải về, tôi cần hiện diện để chia sẻ những khổ cực và gian nguy. Tôi là người Trung Hoa mà.” Đó là câu nói của nhân vật chính của tác giả, Hàn-tú-Anh, người nữ văn sĩ mang hai giòng máu Trung Hoa—Bĩ. *** Tựa Của Tác Giả Người ta đã yêu cầu tôi viết bài tựa cho cuốn Destination Tchoungking đã được xuất bản lần đầu tiên tại Anh vào năm 1942. Bằng cả tâm hồn và thể xác, tôi đã sống lùi lại mười một năm về trước, hồi còn trẻ, tại Trùng Khánh, ngập mình trong binh lửa, và thấy lại trọn vẹn cảnh tượng lúc bấy giờ: những chữ ở đây đều có một nghĩa tuyệt đối; những mục tiêu tự nó tồn tại, chính đáng và đáng kính; đạo đức và niềm tin đã chống cự lại nạn đói kém, nỗi đau khổ và sự buồn nản. Chúng tôi đã tin tưởng rằng sẽ tồn tại để cất lên tiếng cười, để tận dụng cuộc sống, mặc trạng huống hiện hữu, mặc những điệp khúc vô tận của những trận mưa bom mỗi ngày khô ráo mỗi tái diễn. Rồi thì cuối cùng mọi sự đều đã được giải quyết ổn thỏa. Tôi không có một mảy may ý định viết văn. Hồi đó tôi tập sự nghề cô đỡ tại một bảo sinh viện nhỏ dưới quyền điều khiển của Marian Manly, một nhà nữ truyền giáo Hoa Kỳ, ở Thành Đô thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Pao, chồng tôi, đóng tại Tây Bắc, và trong thời gian chàng vắng nhà, tôi ở lại nhà thương với Marian. Cha mẹ của Marian đã từng là những nhà truyền giáo tại Trung Hoa. Chị nàng cũng thế. Chính nàng ta, một y sĩ kiêm truyền giáo, đã trải qua phần lớn đời nàng tại Trung Hoa. Nàng đã vẻ kiểu và xây lấy ngôi bảo sinh viện này, và tại đây, nàng huấn luyện các cô đỡ Trung Hoa cho đến khi những người này tốt nghiệp, gửi họ về các vùng quê, hay đưa đến những đô thị bị cô lập để làm cái việc cần thiết nhất tại Trung Hoa là giúp các sản phụ sinh nở dễ dàng và hợp vệ sinh. Một đêm nọ, tôi ngồi với nàng trong phòng nàng, trước ngọn lửa được đốt bằng củi để sưởi ấm, và chúng tôi đã thảo luận về những cuốn sách đã đọc. Nàng nói với tôi là đã nhiều lần nàng hy vọng sẽ viết một cuốn sách về tất cả những kinh nghiệm đã trải qua ở Trung Hoa trong tình thương và thông cảm. Nàng đã viết nhiều truyện ngắn và thơ nhưng chưa có được cuốn sách nào cả. Tôi đưa cho nàng xem những ghi chú và những đoạn văn mà tôi thường viết khi nhàn rỗi, cho những bạn bè ở Anh quốc muốn biết những gì đang xảy ra tại Trung Hoa. Nàng xem xong, bảo tôi: "Đây là những chất liệu quý giá có thể dùng để cấu tạo nên một cuốn truyện. Tại sao chị không viết nó thành cuốn sách nhỉ? Điều đó làm tôi run sợ. Anh văn của tôi, học từ hồi mười tuổi tại Bắc Kinh, và về sau này có được dồi dào thêm là nhờ đọc chứ chẳng phải nhờ thực tập, chắc đâu đủ để cho phép tôi viết thành một cuốn sách! Nhưng nhờ sự khích lệ nóng bỏng của Marian, tôi đã bắt tay vào việc hình thành cuốn Destination Tchoungking. Cuốn sách này đã được viết bằng những tờ rời, từng đoạn một, đôi khi vào buổi tối, dưới ánh đèn dầu trong những cái còn lại của một căn phòng sau trận oanh tạc vừa qua; đôi khi vào buổi trưa, trở về nhà sau một cuộc đỡ đẻ kéo dài từ sáng tới tối; hoặc vào khoảng giữa công việc bếp núc nhà cửa và việc quan sát những dấu vết địch quân trên trời. Tôi đã từng đem theo bản thảo Destination Tchoungking vào hầm trú ẩn trong quả đồi gần nhà, nhét giữa cái nồi thổi cơm và con gái tôi. Trong phần lớn thời gian viết cuốn sách này, Marian và tôi ở xa nhau. Tôi ở với Pao ở Trùng Khánh hoặc theo chàng xê dịch trong vùng Trung Hoa tự do. Nàng vẫn không rời bệnh viện của nàng ở Thành Đô. Tuy thế, sự hợp tác giữa chúng tôi vẫn không bị đứt khoảng, và điều này nói ra không khỏi tầm thường nhưng tôi vẫn cảm thấy phải nói, là nếu không nhờ có Marian sửa chữa, phê bình cùng tu bổ cho từng chương một, chắc chắn cuốn sách này đã không có dịp ra đời. Ngay khi vừa hoàn tất một chương, tôi gửi bằng máy bay tới Marian liền. Bản thảo bay tới bay lui giữa tác giả và đồng tác giả(co-auteur) trên vòm trời Trùng Khánh, được đánh máy trên những tờ giấy thực mỏng với tất cả thận trọng và rõ ràng để có thể nhét vào phong thơ của bưu điện hàng không. Rồi, một ngày đẹp trời nọ, nhà xuất bản nhận lời in. Tuy nhiên, vào thời đó, chưa thể tiết lộ tên tác giả được vì một lý do kỳ khôi. Hồi đó, nhờ chồng tôi nên tôi tạm thời trở thành một nhân viên ngoại giao của xứ tôi. Các bà trong ngoại giao đoàn không được phép viết văn. Nơi chúng tôi sống, người ta coi viết văn như một nghề ít phụ nữ tính và độc hại, y như nghề kịch sĩ vậy. Ngay cả cuốn tự truyện đầy sinh động và duyên dáng, Huilan Koo, của bà Wellington Koo, phu nhân của ông đại sứ Trung Hoa tại Hoa Thịnh Đốn, đã đột nhiên bị cấm lưu hành một cách bất công. Cuốn sách của tôi không bị số phận đó, nhưng trong nhiều năm, tôi khá thấu đáo về vấn đề này. Đó là câu chuyện đằng sau cuốn Destination Tchoungking của tôi. Ngoài bài mở đầu này ra, kỳ dư tôi không hề sửa đổi chi tiết nào trong cuốn sách khả dĩ khác với lần xuất bản đầu tiên, trừ vài lỗi chính tả và văn phạm. HÀN TÚ ANH Tháng 2, 1953 Mời các bạn đón đọc Đường Về Trùng Khánh của tác giả Han Suyin.
Đôi Mắt Người Xưa - Ngọc Linh
Ngọc Linh (1935 - 2002), xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, Cà Mau. Ông từng làm thư ký tòa soạn tuần báo Nhân loại, báo Lẽ sống, mở Nhà xuất bản Phù Sa, là ký giả kịch trường và điện ảnh, thành viên hội đồng tuyển chọn tuyển chọn giải Thanh Tâm trước 1975 (sau này ông là người sáng lập và tổ chức giải thưởng Trần Hữu Trang). Ông có hơn 70 tiểu thuyết đề cao lòng yêu nước và đạo đức gia đình. Nhiều tiểu thuyết nổi tiếng được chuyển thể thành kịch bản phim, cải lương, kịch nói. Sau giải phóng, ông được phân công chỉ đạo nghệ thuật nhiều đoàn kịch nói, cải lương, là Phó Tổng biên tập tuần báo Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh và làm cố vấn cho tờ báo đến ngày mất. *** Trân ngừng xe cách tiệm Ngọc Thanh của Diệp Thúy chừng hơn trăm thước, rồi bảo Ngọc Dung: - Đó... Em thấy chưa? Tiệm sách kia là của bác mua cho con vũ nữ đó. Ngọc Dung đọc hiệu tiệm rồi nhìn vào trong, thấy thấp thoáng nhiều người. Nàng bảo Trân: - Em sẽ đến đó, xem có ba em không? Và xem cô ta ra làm sao? Nàng nói xong, mở cửa xe bước ngay xuống đất. Trân lúng túng chưa biết tính sao? Hắn không ngờ Ngọc Dung hành động liền như vậy. Lúc nãy, hắn đang ở trên phòng buyn đinh Rose thì Ngọc Dung đến bảo hắn đưa nàng đến chỗ nhà bác sĩ Vũ mua cho Diệp Thúy. Trân tưởng đâu Dung chỉ muốn thấy tận mắt cái nhà sách của Thúy thôi, ai ngờ bây giờ nàng lại muốn giáp mặt Vũ và Thúy. Gặp như vậy thì khó quá! Chính hắn cũng không muốn giáp mặt Thúy trong trường hợp nầy. ... Mời các bạn đón đọc Đôi Mắt Người Xưa của tác giả Ngọc Linh.