Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chữ A Màu Đỏ - Nathaniel Hawthorne

Đọc tác phẩm “Chữ A màu đỏ” của Nathaniel từ đầu tới cuối tôi đều cảm thấy trong mình tràn dâng những cảm xúc mãnh liệt. Cái cách kể chuyện và miêu tả tâm lý nhân vật với những đoạn độc thoại nội tâm gay gắt của người phụ nữ ngoại tình chính là những trang văn in dấu sâu đậm nhất trong tôi. Tôi đã phải tập trung tất cả mọi trí lực và cảm xúc của mình để theo dõi câu chuyện hấp dẫn này. Một câu chuyện cảm động về nghị lực, sự can đảm và tình yêu cuộc sống vô bờ bến của một người phụ nữ trót mang tội trong xã hội.  Với tôi, nó cũng thật sự là một câu chuyện quá đẹp giữa cuộc sống này, nó đem lại cho tôi nhiều tin yêu, nhiều mạnh mẽ và nhiều hi vọng. Những cuốn sách đã trải qua thăng trầm của thời gian để còn lại, để sáng hơn và đem đến cho những độc giả của hôm nay nhiều trải nghiệm sâu sắc hơn. Một câu chuyện về “Chữ A màu đỏ” khép lại, nhưng đã đem lại cho tôi cái nhìn thấu hiểu hơn đối với số phận và nghị lực của những người phụ nữ ngoại tình. Những người phụ nữ ấy không phải ai cũng xấu xa và đáng trách. Họ có những tâm tư thầm kín mà chỉ khi có được sự thấu hiểu và đồng cảm thực sự chúng ta mới có thể hiểu được. Đây là một trong số những câu chuyện nghiệt ngã nhất về số phận của người phụ nữ mà tôi đã từng được biết. Tôi đã đọc cuốn sách với tâm trạng bế tắc, đau đớn, hận thù và hoàn toàn bất lực. Ngay khi bắt đầu đọc “chữ A màu đỏ” tôi đã ngưỡng mộ cô. Tôi chăm chú theo dõi từng bước chân của chị trên hành trình mà chị đang đi. Tôi không rời mắt khỏi con người chị và những người xung quanh chị dù chỉ một giây phút. Và tôi đã nhận ra rằng ánh mắt của những người bên cạnh chị khi nhìn theo chị đã dần khác. Tôi không còn cảm thấy cái ánh mắt ngột ngạt hằn học và căm giận nữa. Tôi bắt gặp một ánh mắt yêu thương, tha thứ, và đồng cảm. Quả thực cuộc sống, tình yêu và sự hi sinh trong sáng của cô đã khiến cho cộng đồng không thể quay lưng với cô nữa. Cô sống giản dị, điềm đạm như biết bao nhiêu người đàn bà khác. Người đời không còn trách cô nữa. Tôi nghĩ đó là điều đương nhiên cô đáng nhận được với những gì mà cô đã trải qua. Tấm lòng nhân hậu đã khiến cho chữ A màu đỏ trên người cô trở thành một dấu vết phai nhòa của quá khứ xa xôi, mà hiện tại khi nhìn về phía cô gái đã từng mang tiếng ngoại tình, chửa hoang ấy người ta chỉ cảm tháy lòng yêu thương, vị tha, và một nguồn an ủi đồng cảm vô tận với số phận của những người phụ nữ trong xã hội này. *** Chữ A màu đỏ, tiểu thuyết của Nathaniel Hawthorne, xuất bản năm 1850, đã được nhiều nhà phê bình đánh giá là một trong những tác phẩm hay nhất của nền văn học thế giới. Câu chuyện xảy ra ở Boston, thủ phủ ban Massachuselle (thuộc miền New England đông bắc nước Mỹ) trong những năm 1640, vào một thời mà xã hội miền này bị giam hãm trong vòng luật lệ và giáo lý nghiệt ngã của nhà thờ Thanh giáo. Một người phụ nữ tên là Hester Prynne, vì một đứa con hoang, đã bị kết án bêu trên bục tội nhân ba tiếng đồng hồ trước công chúng và chịu hình phạt mang một chữ A màu đỏ cài trên ngực cho đến hết đời. chữ A màu đỏ là dấu sỉ nhục về tội ngoại tình (chữ A là chữ đầu từ Adultery : tội ngoại tình). Không ai ngờ được rằng người bố của đứa con hoang ấy lại là người đảm nhiệm phần hồn của Hester Prynne, mục sư Arthur Dimmesdale, một giáo sĩ trẻ đầy tài năng, được con chiên ngưỡng mộ như một vị thiên thần. Hester Prynne chịu đựng nỗi nhục nhã đau đớn. Còn Arthur Dimmesdale, bị sự dày vò khủng khiếp của lòng hối hận, ngày một gầy mòn xanh xao. Thế nhưng quần chúng không hề hay biết gì cả, vẫn sùng kính anh như một vị thánh sống. Giữa lúc đó, xuất hiện thêm một nhân vật, hình thành đủ bộ ba trong diễn biến xung đột của câu chuyện. Đó là chồng của Hester, một con người tuổi đã xế chiều, khô lạnh, dị dạng, mà Hester không hề yêu. Lão đã sống cuộc đời lang bạt, nay vừa đến đây thì thấy vợ trên cái bục ô nhục. Lão bắt đầu một cuộc săn tìm kẻ tình địch để báo thù. Buộc vợ thề không bao giờ lộ tung tích của lão ra, lão đội cái tên giả Roger Chillingworthe, xuất hiện giữa cộng đồng Thanh giáo Boston với danh nghĩa là một thầy thuốc. Như vậy là tác giả Nathaniel Hawthorne đã bắt đầu câu chuyện ở chỗ mà phương sách xử lý cốt truyện cổ truyền thường kết thúc. Mối quan tâm của Hawthorne không phải là ở giai đoạn diễn biến một cuộc tình duyên éo le, mà là ở tâm lý của các nhân vật trong giai đoạn tiếp sau đầy khủng hoảng quyết liệt, và những vấn đề triết lý sâu xa rút ra từ những tình tiết trong cảnh huống ấy. Hester Prynne nhẫn nhục chịu đựng nỗi đau đớn ê chề trước sự ghê sợ khinh bỉ và nhục mạ của mọi người. Chị không bỏ đi nơi khác để làm lại cuộc đời, mà tiếp tục ở lại giữa mảnh đất đã ruồng rẫy chị, coi đó là một định mệnh. Chị giữ một phong cách giản dị khổ hạnh, tích cực lao động kiếm sống cho mình và cho đứa con gái nhỏ. Con người bị xã hội khinh rẻ đã thể hiện một tấm lòng nồng hậu và nhân đạo, tự nguyện làm một bà phước, tận tụy săn sóc cưu mang những người nghèo khổ, ốm đau. Sau những năm dài, cuộc sống trong sáng của chị đã biện hộ cho chị. Dần dần người ta có thiện cảm với chị, tha thứ cho lỗi lầm của chị. Chữ A màu đỏ chỉ còn là một dấu vết của quá khứ đã lùi xa về phía sau, biến thành một biểu tượng mang một ý nghĩa khác : ý nghĩa của sự tích cực, của lòng thương người, của nguồn an ủi. Trong suốt thời gian Hester Prynne triền miên chịu sỉ nhục thì mục sư Arthur Dimmesdale cũng triền miên day dứt, hối hận trong lòng. Sự hối hận thôi thúc anh bộc bạch tội lỗi, nhưng anh không đủ dũng khí, chỉ dùng được những lời ám chỉ để tự phê phán. Nhưng anh càng tự phê phán thì người ta lại càng kính trọng anh. Và anh thấy khổ sở tự ghê tởm mình. Quá trình dày vò dai dẳng ấy làm anh ngày càng héo hon tiều tụy. Lão Roger Chillingworthe từ khi xuất hiện ở Boston đã tiếp cận Dimmesdale, ngỏ ý muốn chữa bệnh cho anh. Những diễn biến đặc biệt trong sự đau ốm của thể chất và tâm thần anh làm lão sinh nghi, càng quyết tâm thâm dò, tìm hiểu. Nhân dân Boston vui mừng vì Thượng đế đã cho một vị bác sĩ y khoa lỗi lạc đến chăm sóc sức khỏe người mục sư mà họ xiết bao yêu quý. Người ta bố trí cho lão ở chung một nhà với Dimmesdale. Bằng sự sắc sảo của một đầu óc thông thái và quỷ quyệt, lão đã dần dần phát hiện và đi đến khẳng định anh chính là kẻ tình địch mà lão đang săn tìm. Thế là từ đấy lão bám sát anh, báo thù theo cách của lão, dùng mọi thủ đoạn kích động hành hạ cho Dimmesdale thêm đau đớn. Bảy năm đằng đẳng trôi qua với sự im lặng chịu đựng của Hester, với nỗi thống khổ khắc khoải trong tâm hồn Dimmesdale mà lão Chillingworth đã nhai xé cho ngày càng trầm trọng, khiến sức khỏe của anh suy sụp chỉ còn như ngọn lửa chập chờn sắp lụi tàn. Hester Prynne thấy giấu kính tông tích lão chồng cũ không phải là tránh được tai họa cho Dimmesdale, nên chị rút bỏ lời thề, nói cho Dimmesdale rõ sự thực. Hai người nhận thấy âm mưu báo thù của lão Chillingworth còn xấu xa hơn nhiều so với tội lỗi của họ. Họ bàn tính cùng nhau bỏ đi thật xa, làm lại cuộc đời. Nhưng Roger Chillingworth biết được ý đồ ấy. Vậy là chỉ còn một nơi để thoát khỏi tay lão : đó là bục tội hình. Ngay sau buổi thuyết giáo của Dimmesdale trong một ngày hội tụ tập đông đảo quần chúng, Dimmesdale gọi Hester và con gái cùng bước lên bục tội hình, nơi mà bảy năm về trước, Hester một mình chịu hình phạt. Đứng trên bục, Dimmesdale bộc lộ lỗi lầm của mình trước đám đông bàng hoàng sững sốt. Vượt qua được ngưỡng cửa của cuộc đấu tranh nội tâm ghê gớm, dành được chiến thắng trong cơn thống khổ cực độ, chàng mục sư trẻ gục xuống trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay của Hester Prynne. * Đọc Nathaniel Hawthorne, chúng ta tiếp xúc với một phong cách đặc biệt, với những diễn biến phức tạp, mãnh liệt trong chiều sâu tư duy, tâm hồn nhân vật. Tác giả kể chuyện, nêu những tình tiết xảy ra rồi phân tích, gợi lên những điều triết lý sâu sắc trong tâm khảm, trong tính cách của từng người, từng lớp người, hoặc của quảng đại quần chúng. Giá trị các tác phẩm của Nathaniel Hawthorne là ở sự phân tích tỉ mỉ, sâu rộng về nội tâm. Hawthorne thừa kế truyền thống nghiêm ngặt của nhà thờ Thanh giáo ; ông quan tâm đến cái mà các nhà thần học thường gọi là “tội lỗi vốn có” của loài người (original sin). Nhưng ông đả phá tính hẹp hòi, cố chấp và tàn ác của nhà thờ Thanh giáo New England. Những tác phẩm của ông thấm nhuần tính nhân đạo sâu sắc. Vấn đề tội lỗi là đề tài được lặp đi lặp lại trong nhiều cuốn truyện của Hawthorne nhưng sự chú ý của Hawthorne không phải là ở bản thân tội lỗi mà là tập trung vào tác động tâm lý do tội lỗi gây ra. Trước con mắt của Hawthorne, tội lỗi lớn nhất Chữ A màu đỏ không phải là tội ngoại tình của Hester Prynne, cũng không phải là tội của Dimmesdale, mà là tội của Roger Chillingworth đã xúc phạm vào cõi thiêng liêng trong tâm hồn Dimmesdale. Hawthorne đã miệt mài để hết tâm trí vào cuộc tranh luận kéo dài năm này sang năm khác về bản chất con người. Trong thế kỷ đương thời, có một dòng tư tưởng lãng mạn tích cực, nhấn mạnh rằng con người bẩm sinh là tốt. Quan điểm này, xuất phát từ Jean Jacques Rousseau và người đề xướng quan điểm này trong văn học Mỹ là Emerson. Hawthorne không lãnh đạm trước sức quyến rũ của tư tưởng tích cực này. Việc Hawthorne xử lý tính cách nhân vật Hester Prynne trong Chữ A màu đỏ tỏ rõ một tấm lòng đồng tình thương cảm. Hester là một phụ nữ cương nghị. Chị không hối hận về hành vi ngoại tình với mục sư Dimmesdale. Chị cũng không đồng tình với nỗi cắn rứt lương tâm của Dimmesdale. Chị nói với Dimmesdale : “Điều chúng ta đã làm có một tính thánh hóa của riêng nó”. Khi chị ngồi với chàng mục sư trong rừng, chị đã bứt chữ A màu đỏ ra khỏi ngực mình và vứt xuống đất. Việc Hester vứt cái dấu sỉ nhục ấy đi là sự “nổi loạn” của chị. Thế nhưng, câu chuyện cũng viện ra nhiều lý lẽ để bảo vệ luật pháp và lương tâm. Dimmesdale không còn tìm cách trốn đi như đã dự tính, mà trái lại, Dimmesdale đã bước lên bục tội hình, bộc lộ thẳng thắng lỗi lầm trước công chúng rồi chịu chết, yên tâm đã chiến thắng bản thân. Các tiểu thuyết của Hawthorne cho hư danh là mọi tội lỗi lớn, dù đó là để bảo toàn thanh danh mình (như Dimmesdale, đóng vai đạo đức giả suốt bảy năm trời). Con người chỉ có thể được “cứu vớt” nhờ sự khiêm nhường, chịu khuất phục ý trí của Đấng thiên liêng. Sự khiêm nhường là yếu tố hòa hợp, cân bằng trong mối quan hệ giữa người với người. Hawthorne đặc biệt nổi bật ở quan điểm về cái thiện và cái ác bên trong một con người. Trong nhiều truyện ngắn và truyện dài sáng tác cả trước và sau Chữ A màu đỏ, cũng như trong truyện này, Hawthorne đã luôn luôn nghiền ngẫm về những mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau giữa cái tốt và cái xấu, về cái xu hướng hòa làm một hoặc đảo chỗ cho nhau giữa hai nhân tố ấy trong từng cá nhân. Dưới một bề ngoài mô phạm đạo đức, bên trong vẫn có những điều đáng hổ thẹn, thậm chí những vết nhơ và tội ác ; ngược lại, dưới cái bề ngoài tội lỗi bị khinh bỉ và bị lên án, lại có một tâm hồn nhân ái, vị tha. Một đặc điểm khác của Hawthorne là tài sử dụng thành thạo lối phúng dụ - tức diễn đạt ngụ ý (allegory) – và lối dùng hình ảnh tượng trưng (symbolism`. Phép diễn đạt ngụ ý và bằng tượng trưng của Hawthorne đặc biệt thành công trong câu chuyện về chữ A màu đỏ, mà nhiều đoạn đã lộ rõ ý của tác giả muốn mô tả thành một truyền thuyết. Mỗi địa điểm, mỗi nhân vật và mỗi sự kiện đều mang một ý nghĩa sâu rộng hơn. Bục tội hình – như một đoạn đầu đài – mang ý nghĩa của sự trừng phạt trong đoạn đầu câu chuyện, và mang ý nghĩa của sự chuộc tội trong đoạn cuối. Rừng hoang là một nơi mà con người sa vào con đường lầm lạc về mặt tinh thần đạo lý. Khóm tầm xuân trước cửa nhà tù, mụ già Hibbins, v.v…, đều mang một ngụ ý. Bản thân chữ A màu đỏ là tượng trung cho tội ngoại tình; ; nhưng còn hơn thế, nó tượng trưng cho mọi tội lỗi ; và khi người ta càng mở rộng tầm của nó ra xa thêm, thì nó lại tượng trưng cho tất cả mọi lỗi lầm và yếu kém ngăn trở sự vận động thỏa đáng của xã hội loài người. Và oái oăm thay, cái chữ A màu đỏ sỉ nhục ấy lại tiến đến chỗ biến thành một biểu tượng mang ý nghĩa khác hẳn : ý nghĩa của lòng nhân ái, của nguồn an ủi, ý nghĩa của chiếc thánh giá trên ngực người nữ tu sĩ, trước con mắt của những tín đồ Thanh giáo khắc nghiệt! Ở Hawthorne, sự sụp ngã của một con người là sự sụp ngã có phúc. Qua tội lỗi và đau khổ, con người đạt tới một chiều sâu tâm hồn và một chiều rộng nhãn quan, mà nếu không va vấp và chịu sự hành xác thì không thể nào đạt tới được. Nathaniel Hawthorne còn có một khả năng nhạy bén về thuật kết cấu câu chuyện (architectonic sense). Cấu trúc của truyện chữ A màu đỏ chặt chẽ. Bốn nhân vật (Hester Prynne, Arthur Dimmesdale, Roger Chillingworth, và bé Pearl) gắn chặt vào nhau trong cái mạng tơ vò của một cảnh huống cuộc đời dường như không thể nào có giải pháp. Việc tác giả sử dụng với một sự sắp đặt cố ý cái bục bêu tội nhân ở ba lớp chủ yếu của câu chuyện (đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn kết) tạo ra sự thống nhất về diễn biến một quá trình diễn biến phát triển chậm rãi nhưng không khoan nhượng đến điểm tột đỉnh là cuộc thú tội của Dimmesdale trước công chúng. Phong cách viết đi vào cõi nội tâm, phân tích những điều triết lý sâu sắc bên trong tinh thần của sự vật khả năng phát triển ý nghĩa của các hình ảnh tượng trưng, cộng với kỹ năng viết điêu luyện – tất cả những đức tính nói trên đã tạo nên cái hay đặc thù của Hawthorne và đã làm cho các tác phẩm của ông được đánh giá cao, gây được sức thuyết phục mạnh mẽ đối với những độc giả từ giữa thế kỷ 20 trở về sau. Hawthorne đã được xem là một nhà văn lớn, một trong những nhà viết tiểu thuyết có tài năng nhất trong nền văn học Mỹ. * Nathaniel Hawthorne sinh năm 1804 ở Salem, bang Massachusetts (miền đông bắc nước Mỹ) thuộc một dòng họ người Anh đã đến đây từ năm 1630 và đã góp phần tạo ra khu định cư đầu tiên của thuộc địa Anh ở miền này, mà những người thực dân Anh đầu tiên đặt tên là “nước Anh mới” (New England). Tại miền này, vào cuối thế kỷ thứ 17, tức khoảng 100 năm trước cuộc Cách mạng nước Mỹ, một số tín đồ Thanh giáo cuồng tín cho rằng con người có thể bán mình cho quỷ dữ và trở thành phù thủy. Thân sinh ra ông nội Nathaniel Hawthorne sống vào thời ấy, là một quan tòa Thanh giáo khắc nghiệt đã kết án treo cổ nhiều người bị gán cái tội ấy. Một trong những nạn nhân của ông đã phát một lời trù rủa độc địa cho ông ta và con cháu ông ta sau này. Những sự kiện này đã có ảnh hưởng lớn tới suy nghĩ của Nathaniel Hawthorne và tác động đến các sáng tác của ông. Bố của Hawthorne là một thuyền trưởng, chết trong một chuyến đi biển, lúc Hawthorne mới bốn tuổi. Tâm trạng đau buồn đã khiến người mẹ tự tách biệt khỏi xã hội, sống ẩn dật. Nếp sống đó cũng có ảnh hưởng tới Nathaniel Hawthorne sau này. Khi đang học ở trường đại học Bôdân (Bowdoin), năm 1828, Hawthorne đã bắt đầu tập viết văn và mang hoài bão muốn trở thành nhà văn lớn. Sau khi tốt nghiệp đại học trở về Salem, Hawthorne trong một thời gian dài vẫn giấu kín bút danh, đóng kín cửa đọc sách, nghiên cứu rèn luyện tư duy và khả năng văn học. Mùa hè, ông đi thăm nơi này nơi nọ trong miền New England, hòa mình vào quần chúng ở các phiên chợ và các cuộc tụ tập, quan sát, tìm hiểu cuộc sống. Trong quá trình tự đào tạo ông đã viết nhiều truyện ngắn, nhưng thường viết xong, ông lại hủy bỏ. Mãi đến năm 1837, ông mới cho ra mắt được cuốn sách đầu tiên mang tên ông. Đó là cuốn Những truyện kể lại vài lần (Twice told tales) tập hợp một số truyện ngắn mà ông đã viết trong những năm qua. Ông xin vào làm ở Sở Thuế quan Boston. Năm 1842, ông cưới vợ và về sống ở một ngôi nhà mục sư cổ tại Concord (cũng bang Massachusetts) trong bốn năm, tiếp tục viết. Một tập truyện ngắn ra đời cuối thời kỳ này với nhan đề “Những mảng rêu từ một ngôi nhà mục sư cổ” (Mosses from an Old Manse) 1846. Chính thời kỳ này đã được ông nhắc đến trong phần mở đầu cuốn Chữ A màu đỏ. Là một đảng viên dân chủ, ông được chính quyền Đảng Dân chủ của Tổng thống Polk cho vào làm ở Phòng Thuế quan Salem. Ba năm sau, Đảng Uých (Whig) lên cầm quyền, ông mất việc. Trong nỗi chán ngán, ông đã ngồi viết Chữ A màu đỏ. Hôm ngồi đọc lại bản thảo cuốn truyện đã hoàn thành này, nhiều lần ông ứa nước mắt. Phải tóm bắt được những giây phút như thế mới hiểu thấu được tâm hồn ông. Cuốn Chữ A màu đỏ đã lập tức làm ông nổi tiếng không những ở Mỹ mà ở cả nước Anh vốn khó tính đối với tác phẩm của các nhà văn Mỹ. Những năm tiếp theo vẫn là thời kỳ đỉnh cao cuộc đời sáng tác của Nathaniel Hawthorne. Ông đã viết cuốn Ngôi nhà bảy đầu hồi (The House of the Seven Gables) cũng là một tác phẩm trứ danh (1851), cuốn Câu chuyện tình ở Blithedale (The Blithedale Romance) (1852), một số truyện cho trẻ em như Cuốn sách kỳ diệu cho các bé gái bé trai (Wonder Book for Girls and Boys) (1852) và Những truyện kể về rừng rậm cho các bé gái bé trai (Tanglewood Tales for Girls and Boys) (1853). Năm 1853, Tổng thống Mỹ Franklin Pierce, bạn học cũ của Hawthorne, cử ông đi làm lãnh sự Mỹ tại Livơpun (Anh). Gia đình ông sang ở Anh từ 1853 đến 1858. Sau đó ông đi du lịch sang lục địa châu Âu. Trong thời kỳ này, Nathaniel Hawthorne viết thêm cuốn Thần Đồng nội bằng cẩm thạch (The Marble Faun) (1860). Đây là cuốn truyện viết hoàn chỉnh cuối cùng của ông, nói về cái thiện và cái ác trong lòng người. 1860, Hawthorne cùng gia đình trở về Mỹ. Những truyện ông viết về cuối đời đều dở dang, chất lượng sút kém. Một lý do nào đấy, không xác định được, đã làm khô cạn tài năng sáng tạo của ông. Nathaniel Hawthorne mất năm 1864, vừa tròn 60 tuổi. Sau khi ông mất, bạn bè tập hợp lại những đoạn bản thảo chưa hoàn thành, xuất bản một số cuốn : Septimius Pelion (1872), “Mối tình Dolliver” (1876), Bí mật của bác sĩ Grimghawe (1883) và Dấu chân tổ tiên (1883). Nói về sáng tác của Hawthorne, người ta không quên nhắc đến những tác phẩm ông viết cho trẻ em. Ông đã đưa một sắc thái hoàn toàn mới mẽ vào nền văn học phục vụ thiếu nhi. Không phải với phương pháp mượn một câu chuyện kể để răn dạy, thuyết giáo con trẻ, ông đã trân trọng viết cho thiếu nhi như viết cho người lớn, có chiều sâu tư tưởng và lực truyền cảm mạnh mẽ. Cuốn sách viết cho thiếu nhi của ông được nhiều người biết tiếng nhất là cuốn Những truyện kể về rừng rậm cho các bé gái bé trai (1853). Nhà văn lớn này đã cống hiến cho thiếu nhi, cũng như đã phục vụ cho người lớn, tài năng đầy chất thơ và tri thức sâu sắc của mình về bản chất con người. NGƯỜI DỊCH Mời các bạn đón đọc Chữ A Màu Đỏ của tác giả Nathaniel Hawthorne.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thời Thơ Ấu - Macxim Gorki
Macxim Gorki (1868 -1936) là nhà văn lớn của nước Nga, mở đầu trào lưu văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ông còn là nhà hoạt động văn hoá- xã hội nổi tiếng thế giới. Hy vọng THỜI THƠ ẤU sẽ làm hài lòng bạn đọc không chỉ các bạn nhìn thấy chính mình trong đó, quan trong hơn chính là bút pháp nghệ thuật điêu luyện của tác giả cuốn hút người đọc đến từng con chữ cuối cùng của tác phẩm. *** Nhận định "Đọc Thời thơ ấu các em sẽ thấy rằng tôi hoàn toàn là một con người nhỏ bé như các em, chỉ khác ở chỗ: ngay từ bé tôi đã duy trì được lòng ham muốn học tập và không sợ bất cứ thứ lao động nào.” (M.Gocki) "Chưa bao giờ chúng tôi đọc trong văn học Nga một tác phẩm nào hay hơn cuốn THỜI THƠ ẤU của anh...Chưa bao giờ anh khéo sử dụng nghệ thuật của mình một cách thành thạo như thế” (R.Rolăng - nhà văn Pháp) *** Gần cửa sổ, trong một gian phòng chật hẹp tranh tối tranh sáng, bố tôi mặc quần áo trắng toát nằm trên sàn. Thân hình bố tôi dài lạ thường, ngón chân xòe ra nom rất kỳ quái; hai bàn tay dịu dàng đặt yên trên ngực, nhưng ngón tay thì co quắp. Hai đồng xu đen tròn bằng đồng che kín cặp mắt tươi vui của bố tôi: khuôn mặt vẫn hiền từ nay tối sầm lại. Hai hàm răng nhe ra làm tôi sợ hãi. Mẹ tôi mặc chiếc váy đỏ, chiếc áo hở ngực, quỳ bên cạnh và lấy chiếc lược đen, mà tôi vẫn thích dùng để cứa vỏ dưa hấu, chải mái tóc dài và mềm mại của bố tôi từ phía trán ra sau gáy. Mẹ tôi nói liên tục, giọng trầm trầm khàn khàn. Cặp mắt xám của mẹ tôi sưng húp và như tan ra thành những giọt nước mắt lớn chảy ròng ròng. Bà tôi giữ lấy tay tôi. Bà tôi người béo tròn có cái đầu lớn, cặp mắt rất to và chiếc mũi xôm xốp nom rất buồn cười; bà tôi mặc toàn đồ đen trông mềm dịu đến hay. Bà tôi cũng khóc, tiếng khóc nức nở lạ lùng, trầm bổng hình như hòa theo những lời than vãn của mẹ tôi. Toàn thân run run, bà tôi kéo tôi và đẩy lại gần chỗ bố tôi. Nhưng tôi cưỡng lại và nấp sau lưng bà; tôi vừa sợ hãi vừa lúng túng. Chưa bao giờ tôi trông thấy người lớn khóc và tôi không sao hiểu được những lời bà tôi nhắc đi nhắc lại: -Cháu từ biệt bố cháu đi, không bao giờ cháu được thấy bố cháu nữa đâu, tội nghiệp, bố cháu chết sớm quá, chưa phải lúc... Tôi bị ốm nặng, vừa mới dậy. Trong lúc tôi ốm -tôi còn nhớ rất rõ -bố tôi nô đùa với tôi rất vui vẻ, sau đó bỗng nhiên bố tôi biến đâu mất, và bà ngoại tôi, con người kỳ lạ ấy, đã thay thế bố tôi. -Bà đi từ đâu đến thế? -Tôi hỏi bà tôi. Bà đáp: -Từ phía trên, từ Nijni đến. Bà không đi bộ, mà đi tàu thủy đến! Người ta không thể đi bộ trên mặt nước được, ông mãnh ạ! Câu trả lời đó thật là buồn cười và khó hiểu. ở trên nhà này chỉ có mấy người Ba-tư rậm râu và tóc nhuộm; còn ở dưới hầm nhà thì có một ông lão da vàng người Kanmưc làm nghề bán da cừu. Từ trên có thể cưỡi tay vịn cầu thang trượt xuống, hoặc nếu có ngã thì lộn nhào ở cầu thang, -điều đó tôi biết rất rõ. Nhưng sao lại có chuyện đi trên mặt nước kia chứ? Tất cả câu chuyện của bà tôi đều vô lý, đều lầm lẫn một cách ngộ nghĩnh. -Thế tại sao cháu lại là ông mãnh? -Tại cháu hay làm ồn lắm, -bà tôi vừa nói vừa cười. Tiếng bà tôi nói rất dịu dàng, vui vẻ và trầm bổng. Ngay từ ngày đầu tiên tôi đã thân với bà tôi, và ngay lúc này tôi cũng muốn bà tôi mau mau đưa tôi rời khỏi căn phòng này. Tiếng khóc than và kêu gào của mẹ tôi làm tôi nôn nao và gây cho tôi một cảm giác lo âu mới. Lần đầu tiên tôi trông thấy mẹ tôi như thế. Mẹ tôi vốn rất nghiêm nghị, ít nói, người sạch sẽ, gọn gàng và to lớn như một con ngựa, mẹ tôi có thân hình rắn chắc và đôi cánh tay rất khỏe. Thế mà bây giờ không hiểu sao khắp người mẹ tôi đều sưng phồng lên nom đến khó coi, đầu tóc rối bù, áo quần tơi tả. Mớ tóc thường vẫn vấn gọn trên đầu như một cái mũ lớn vàng óng thì nay xổ xuống một bên vai trần, xõa xuống mặt, còn nửa kia tết thành bím thì cứ lúc la lúc lắc chạm vào khuôn mặt ngủ say của bố tôi. Tôi đứng trong phòng đã lâu, nhưng mẹ tôi không hề nhìn tôi; và vẫn vừa chải đầu cho bố tôi vừa rên rỉ nức nở. Mấy người mujich mặc toàn đồ đen và một tên cảnh sát ló đầu vào cửa phòng. Tên cảnh sát quát tháo, giọng giận dữ: -Thu dọn nhanh lên! Chiếc khăn san màu đen che cửa sổ phồng lên như một cánh buồm. Tôi bỗng nhớ tới một hôm bố tôi dẫn tôi đi bơi thuyền buồm. Chợt một tiếng sấm nổ vang. Bố tôi cười, kẹp chặt tôi vào hai đầu gối và kêu: -Không sao cả, đừng sợ, Luc ạ! Đột nhiên mẹ tôi nặng nề đứng lên, rồi lại khuỵu xuống, ngã vật ra; tóc xõa tung ra cả sàn. Khuôn mặt trắng trẻo, mờ lệ tái xanh đi và cũng nhe răng ra như bố tôi, mẹ tôi nói, giọng khiếp sợ: -Đóng cửa lại... Dẫn thằng Alêcxây ra ngay! Bà tôi đẩy tôi ra rồi nhảy bổ ra cửa, mồm kêu to: -Bà con thân mến, đừng sợ, cứ để mặc chúng tôi, bà con hãy đi đi, Lạy Chúa tôi! Không phải dịch tả đâu, cháu nó sắp ở cữ đấy. Xin bà con hãy làm phúc làm đức cho! Tôi nấp sau một góc tối, sau cái hòm và nhìn mẹ tôi lăn lộn trên sàn rên siết và nghiến răng ken két. Bà tôi lê vòng quanh, cất giọng dịu dàng và vui vẻ nói: -Nhân danh Cha và Con! Variusa con hãy cố chịu khó một tí!... Lạy Đức Mẹ Rất Thánh che chở chúng con... Tôi sợ quá. Mẹ tôi và bà tôi bò lê trên sàn ngay bên cạnh bố tôi, đụng cả vào người bố tôi và rên rỉ, gào thét, còn bố tôi vẫn nằm im không động đậy và dường như đang cười gằn. Cảnh lồng lộn trên sàn ấy Tức Alêcxây, cách gọi tắt thân mật. Tức Vacvara, cách gọi thân mật. kéo dài khá lâu. Mấy lần mẹ tôi gượng đứng dậy, nhưng lại ngã quỵ xuống. Bà tôi lăn ra khỏi phòng giống như một quả bóng lớn màu đen và mềm nhũn. Sau đó đột nhiên trong bóng tối có tiếng trẻ con khóc thét lên. -Sáng danh Chúa! -Bà tôi nói. -Con trai rồi! Và bà châm một ngọn nến. Sau đó chắc tôi ngủ thiếp đi ở góc nhà nên không nhớ gì nữa. ấn tượng thứ hai còn ghi lại trong trí nhớ tôi là một ngày mưa, tại một góc nghĩa địa hoang vắng. Tôi đứng ở một gò đất trơn, nhớp nháp và nhìn xuống cái huyệt trong đó người ta vừa hạ quan tài bố tôi xuống. Dưới đáy huyệt có nhiều nước và có cả ếch nhái nữa; hai con đã leo lên được chiếc nắp quan tài màu vàng. Đứng bên cạnh huyệt có tôi, bà tôi, tên cảnh sát quần áo ướt sũng và hai người mujich vẻ mặt bực tức, tay cầm xẻng. Những hạt mưa ấm và li ti như những hạt thủy tinh nhỏ rắc lên tất cả mọi người. Mời các bạn đón đọc Thời Thơ Ấu của tác giả Macxim Gorki.
Mối Tình Đầu của Turgenev
Mối Tình Đầu viết dưới dạng tự sự. đó là những mối tình dang dở, những người phụ nữ yêu chân thành và say đắm, luôn luôn vươn tới cái mới, cái thiện nhưng không bao giờ thực hiện được ước mơ vì bản tính của họ mâu thuẫn với thực tại xã hội. Đó là những số phận cay nghiệt ở nước Nga dưới chế độ nông nô và Sa hoàng. Đó là những người đàn ông yếu đuối, nhu nhược và ích kỷ... đại diện cho tầng lớp qúy tộc đang suy tàn. Trong sáng tác của Turgenev phụ nữ chiếm một vị trí đặc biệt. tác giả dành cho những nhân vật nữ quyền phán xét nam giới vì bản tính của nữ giới là mãnh liệt, không khoan nhượng, toàn vẹn, nhạy bén và mơ mộng. nhưng theo Turgenev, tình yêu không những là niềm hạnh phúc lón lao mà còn là tấn bi kịch của đời người. *** Ivan Sergeyevich Turgenev (9 tháng 11 năm 1818 - 3 tháng 9 năm 1883) là một nhà văn và nhà soạn kịch nổi tiếng của Nga thế kỉ 19. Tiểu thuyết Cha và con của ông được coi là một trong những tác phẩm lớn nhất thế kỉ 19. Ivan Turgenev sinh ra trong một gia đình quý tộc ở Oryol thuộc Đế quốc Nga. Cha ông, Sergei Nikolaevich Turgenev, là một đại tá kỵ binh trong quân đội Nga Hoàng, ông mất năm Ivan 16 tuổi, mẹ của Turgenev là bà Varvara Petrovna Lutovinova, một phụ nữ có học, thông minh, chăm lo đến việc học hành của con cái nhưng đối xử tàn nhẫn, khắc nghiệt với nông nô. Hình ảnh bà mẹ khó tính ấy đã khắc sâu trong tâm khảm ông và được ông thể hiện trong nhiều tác phẩm sau này.   Tiểu thuyết 1857 - Rudin 1859 - Tổ quý tộc 1860 - Đêm trước 1862 - Cha và con 1867 - Khói 1877 - Đất hoang 1882 - Thơ văn xuôi Truyện ngắn 1850 - Dnevnik Lishnego Cheloveka 1851 - Provintsialka 1852 - Bút ký người đi săn 1855 - Yakov Pasynkov 1855 - Faust 1858 - Asya 1860 - Mối tình đầu 1870 - Cánh đồng hoang của vua Lear 1872 - Những dòng nước mùa xuân 1881 - Pesn' Torzhestvuyushey Lyubvi 1883 - Klara Milich *** Tiệc đã tan từ lâu. Đồng hồ gỏ mười hai giờ ba mươi phút.. Trong phòng chỉ còn lại vị chủ nhà, Sergei Nilolaevitch và Vladimir Petrovitch. Chủ nhà rung chuông, ra lệnh dọn đi phần còn lại của bửa cơm tối. "Và chúng ta đã đồng ý," ông nhìn quanh, ngồi thoải mái trong lòng chiếc ghế bành, châm một điếu xì gà." mỗi người sẽ nói về mối tình đầu của mình. Tới phiên anh, Sergei Nikolaevich." Sergei Nikolaevich, một người đàn ông thấp bé mập mạp với gương mặt bầu bỉnh, trắng trẻo, đầu tiên nhìn vị chủ nhà, sau đó hướng ánh mắt lên trần. "Tôi không có mối tình đầu," sau cùng ông nói; "Tôi bắt đầu bằng mối tình thứ hai." "Sao lại có thể như thế được?" "Rất đơn giản. Năm mười tám tuổi lần đầu tiên tôi tán tỉnh một cô gái trẻ và duyên dáng, nhưng tôi đeo đuổi nàng như thể không có chi là mới lạ; về sau này với các cô gái khác cũng thế. Nói cho chính xác, lần đầu và cũng là lần cuối, tôi yêu nhũ mẫu của mình khi tôi lên sáu; nhưng đó là chuyện ngày xưa. Tôi không tài nào nhớ được những chi tiết, và ngay cả khi tôi nhớ được, có ai thích nghe chăng? "Vậy về phần tôi thì sao?" ông chủ nhà bắt đầu nói. "Mối tình đầu của tôi cũng chẳng có gì hấp dẫn; tôi chưa từng yêu ai cho đến khi gặp Anna Nikolaeva, nhà tôi hiện nay, -- và tất cả mọi chuyện đều xảy ra hết sức êm đẹp; cha mẹ chúng tôi xếp đặt cuộc gặp gỡ, chúng tôi yêu nhau ngay, và cưới nhau liền sau đó. Chuyện của tôi có thể kể lại vỏn vẹn trong vài ba chữ. Thú thật với các bạn, khi nêu lên chủ đề là mối tình đầu, tôi đã đặt hy vọng nơi các bạn, tôi không nói là đã già, nhưng không còn trẻ trung gì nữa. Vladimir Petrovich, anh có thể làm cho không khí sôi động hơn không ?" "Mối tình đầu của tôi, chắn chắn không bình thường," Vladimir Petrovitch, một người trạc tứ tuần, tóc đen ngã sang màu muối tiêu, hơi ngập ngừng, trả lời. "Ah!" ông chủ nhà và Sergei Nikolaevitch cùng nói một lúc: "Càng tốt...Kể cho chúng tôi nghe đi." "Nếu các bạn muốn...nhưng không; tôi không kể đâu; tôi không biết cách kể chuyện; tôi sẽ làm cho nó khô khan và cộc lốc, hay thêm thắt quá đà. Nếu các bạn đồng ý, tôi sẽ viết tất cả những gì tôi còn nhớ và đọc cho các bạn nghe." Các ông bạn lúc đầu không bằng lòng, nhưng Vladimir Petrovitch nhất định làm theo ý mình. Hai tuần sau, họ gặp lại, và Vladimir Petrovitch giữ lời hứa. Bản thảo của ông chính là câu chuyện sau đây: -- ************* Tôi lên mười sáu. Chuyện xảy ra vào mùa hè năm 1833. Tôi sống tại Moscow với cha mẹ tôi. Họ sở hữu một ngồi nhà nghỉ mát ở gấn cổng Kalouga, đối diện vườn hoa Neskutchny.Tôi đang chuẩn bị vào đại học, nhưng không chăm học và không sốt sắng. Tôi hoàn toàn tự do tự tại, không ai để ý đến tôi. Tôi muốn làm gì tùy thích, nhất là sau khi chia tay với người thầy sau chót, người Pháp, ông này không bao giờ chấp nhận rằng ông đã rơi tỏm vào nước Nga "comme une bombe" (như một quả bom), và nằm bẹp dí trên giường ngày này sang ngày khác với vẻ mặt phẩn uất. Cha tôi tử tế, dễ dãi với tôi, còn mẹ tôi gần như chẳng ngó ngàng gì đến, mặc dù tôi là đứa con độc nhất ; nhiều việc khác chiếm trọn tâm trí của bà. Cha tôi, vẫn còn trẻ và rất đẹp trai, đã kết hôn với mẹ tôi chỉ vì tiền; mẹ tôi lớn hơn cha tôi đến mười tuổi. Mẹ tôi sống một cuộc đời buồn bả; lúc nào cũng bực dọc, ghen tuông và cáu kỉnh, nhưng chỉ khi vắng mặt cha tôi; mẹ tôi rất e sợ ông, và ông luôn luôn nghiêm khắc, lạnh lùng và xa cách... Tôi chưa bao giờ gặp ai trầm tỉnh, tự tin và uy quyền như ông. Tôi không bao giờ quên những tuần lễ đầu tiên sống ở quê. Thời tiết tuyệt diệu; chúng tôi rời thành phố vào ngày 9 tháng Năm, ngày lễ thánh Nicholas. Tôi thường lang thang trong vườn nhà mình, trong vườn hoa Neskutchny, và đi xa khỏi cổng thành; tôi hay mang theo vài quyển sách -- sách giáo khoa của Keidanov, thí dụ vậy -- nhưng hiếm khi đọc, và thường hay ngâm nga những vần thơ; tôi thuộc lòng nhiều bài ; với bầu máu nóng sôi sục, với trái tim đau thương ngọt ngào; lòng tôi tràn đầy niềm tin và hy vọng, tôi hơi sợ sệt một điều gì đó, và thích thú về mọi thứ; trí tưởng tượng của tôi mãnh liệt như lũ chim nhạn lượn lờ quanh tháp chuông lúc rạng đông; tôi mơ mộng, tôi buồn rầu, đôi khi khóc than; nhưng qua những giọt lệ và nỗi buồn gợi ra bởi một vần thơ du dương hay bởi vẽ đẹp của một buổi chiều tà, hượng vị ngọt ngào của tuổi trẻ và cuộc sống sôi động vẫn vươn cao như ngọn cỏ mùa xuân. Tôi có một con ngựa, tôi thường tự thắng lấy yên cương và một mình cởi ngựa rất lâu, phóng nước đại và tưởng tượng như mình là một hiệp sĩ trong trận đấu thương. Gió thổi mơn man tươi vui làm sao! hoặc ngẩng mặt lên, tôi đón lấy vẽ lộng lẫy và xanh mát của bầu trời vào linh hồn tôi rộng mở. Tôi nhớ lúc đó hình ảnh của người đàn bà, gương mặt của tình yêu, hiếm khi hình thành rõ nét trong đầu óc tôi; nhưng tôi có nghĩ đến và cảm thây chung chung ở một cõi mơ hồ kín đáo nào đó, một linh cảm ngượng ngùng về một điều gì đó, mới lạ, vô cùng ngọt ngào, yểu điệu... Mối linh cảm này, niềm hy vọng này, thấm đẫm vào tôi; tôi hít thở trong nó, nó chảy trong huyết quản, trong từng giọt máu...nó là định mênh sẽ sớm được hoàn thành. Địa điểm, nơi chúng tôi sẽ sống trong mùa hè, gồm một dinh thự bằng gỗ và hai căn nhà nhỏ; trong ngôi nhà phía trái là một cơ sở sản xuất giấy dán tường loại rẻ tiền...Đã hơn một lần tôi đi dạo về hướng đó, nhìn thấy khoảng một chục đứa bé gầy còm và luộm thuộm, quần áo dính đầy dầu mở, gương mặt mỏi mệt, thường xuyên nhảy lên những chiếc cần gổ để ép những ô vuông của cái máy in, và do đó, bằng sức nặng mong manh của chúng, tạo nên những mẫu mã khác nhau của giấy dán tường. Căn nhà bên tay mặt không có ai cư ngụ. Một ngày nọ -- ba tuần sau ngày 9 tháng Năm -- màn cửa sổ của ngôi nhá này cuốn lên, những gương mặt phụ nữ xuất hiện -- có một gia đình nào đó dọn tới. Tôi nhớ trong cùng ngày đó, vào bửa ăn tối, mẹ tôi hỏi thăm ông quản gia về người láng giềng mới, và khi mẹ tôi nghe nói tới danh hiệu Công chúa Zasyekin, mẹ tôi ra vẻ tôn kính, " Ah! một công chúa!" ...và thêm vào, " tôi nghĩ là, một công chúa nghèo, phải không?" "Họ đi xe thuê, " ông quản gia kính cẩn nói, đưa cho mẹ tôi một cái dĩa: " họ không có xe riêng, và bàn ghế tồi tàn." "Ah," mẹ trả lời, " vậy càng tốt." Cha tôi đưa ánh mắt băng giá nhìn qua; bà im bặt. Chắc chắn Công chúa Zasyekin không thể là một người giàu có; căn nhà bà dọn vào quá tiêu điều, nhỏ bé và mái dốc thoai thoải, không có ai, ngay cả những người tương đối khá giả trong thế gian này lại bằng lòng vào ở. Tuy thế vào lúc ấy, những gì được nói ra đã chóng bị quên lãng. Tước vị vương giả không tạo ra ấn tượng nào cho tôi.Tôi đang đọc Robbers của Schiller. ... Mời các bạn đón đọc Mối Tình Đầu của Turgenev của tác giả Ivan Turgenev.
Đêm Trước - Cha và Con - Ivan Turgenev
Hai tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Nga Ivan Turgenev có chung đề tài về cuộc sống của thanh niên Nga trong giai đoạn khủng hoảng về tư tưởng xã hội. Tác phẩm Đêm trước viết về tình yêu giữa Elena - người thiếu nữ Nga và Inxarov - một chàng trai Bungari. Họ có chung lí tưởng và cá tính mạnh mẽ, mong muốn thay đổi tình trạng trì trệ, tối tăm của xã hội. Nhưng, Inxarov đã chết trước khi anh kịp làm một điều gì đó cụ thể cho đất nước Bungari của anh và số phận Elena vẫn còn bỏ ngỏ. Cũng tương tự như vậy Bazarov trong Cha và con là một thanh niên thông minh, nhiệt tình và phủ nhận mọi đức tin cũng như những hành động đạo đức nửa vời. Với cá tính mãnh liệt, anh sẵn sàng tranh cãi và thậm chí đấu súng với những người mà anh cho là trưởng giả và lạc hậu. Tuy nhiên, chàng thanh niên theo chủ nghĩa hư vô đó cũng sớm lìa khỏi cuộc sống vì lây bệnh khi anh khám chữa cho những người nông dân. *** Lời của tác giả   “Đêm trước […] bắt đầu một thời đại mới ở nước Nga và những nhân vật như Elena, Inxarov là những người tiên phong của những gì xảy ra sau đó”.  *** Nhận định của văn giới và báo chíHai tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Nga Ivan Turgenev có chung đề tài về cuộc sống của thanh niên Nga trong giai đoạn khủng hoảng về tư tưởng xã hội. Tác phẩm Đêm trước viết về tình yêu giữa Elena - người thiếu nữ Nga và Inxarov - một chàng trai Bungari. Họ có chung lí tưởng và cá tính mạnh mẽ, mong muốn thay đổi tình trạng trì trệ, tối tăm của xã hội. Nhưng, Inxarov đã chết trước khi anh kịp làm một điều gì đó cụ thể cho đất nước Bungari của anh và số phận Elena vẫn còn bỏ ngỏ. Cũng tương tự như vậy Bazarov trong Cha và con là một thanh niên thông minh, nhiệt tình và phủ nhận mọi đức tin cũng như những hành động đạo đức nửa vời. Với cá tính mãnh liệt, anh sẵn sàng tranh cãi và thậm chí đấu súng với những người mà anh cho là trưởng giả và lạc hậu. Tuy nhiên, chàng thanh niên theo chủ nghĩa hư vô đó cũng sớm lìa khỏi cuộc sống vì lây bệnh khi anh khám chữa cho những người nông dân. Lời của tác giả   “Đêm trước […] bắt đầu một thời đại mới ở nước Nga và những nhân vật như Elena, Inxarov là những người tiên phong của những gì xảy ra sau đó”.  *** Nhận định của văn giới và báo chí   “… Trong ông có tình yêu từ ánh sáng, từ mặt trời và chất thơ nhân bản, sống động như là sự khước từ tất yếu tất cả những gì xấu xa, thô thiển và phi lý, điều đó đã đưa ông thành nhà thơ của những gì tốt đẹp nhất trong phẩm chất tự nhiên của con người” - Book Description “Kiệt tác của Turgenev về sự xa cách giữa các thế hệ, với các nhân vật thân thuộc, không thể nào quên, nhất là chàng Bazarov có trái tim vàng, khiến chúng ta suy tư mãi mãi…” - Audio file “Trong Cha và con, nhãn quan của Turgenev về cái phi lý, châm biếm và cả sự bi ai thống thiết thật sự sáng rõ.” - Daily Telegraph “Chàng bác sĩ Bazarov, kẻ nổi loạn trong cuốn tiểu thuyết, là sáng tạo lớn lao nhất của Turgenev.” - The Merriam - Webster Encyclopedia of Literature “Ông đã bị quở trách ghê gớm vì chàng Bazarov, chàng Bazarov băn khoăn, chàng Bazarov buồn chán ấy (biểu hiện của một trái tim vĩ đại), bất chấp cả cái chủ nghĩa hư vô của chàng ta của chàng ta.” - Fedor Dostoevsky “Kì diệu thay vật báu Cha và con ấy… Sự kết thúc của Bazarov này, các cụ già này, và cả Kuscina nữa chứm có quỷ mới biết làm sao có thể viết nổi được những điều đó? Thật thiên tài lắm thay!” *** Khi nhận xét về đặc điểm của nền văn hóa dân tộc Nga A.M. Gorki, người đặt nền móng cho nền văn học Xô Viết đã viết: "Mỗi nhà văn ở nước Nga đều thực sự là một cá tính nổi bật nhưng họ cùng được thống nhất lại bởi một ước vọng bền bỉ, đó là ước vọng muốn hiểu, muốn cảm nhận và muốn thấy trước tương lai của đất nước mình, số phận và vai trò của dân tộc mình trên hoàn cầu". Nhận xét này thật đúng với Turgenev, một nhà văn nổi bật trong các nhà nghệ sĩ ngôn từ về sự cảm nhận những cái mới, sự hưởng ứng nhanh chóng mọi tư tưởng cao quý, mọi nhiệt tình cao cả và trung thực.Ivan Xergeevich Turgenev sinh ngày 28 tháng Mười (9 tháng Mười một theo lịch Nga cũ) năm 1818 tại thành phố Oriol. Nhà văn sống những năm thơ ấu và thời thanh niên tại điền trang của thân mẫu, làng Xpaxxkoie, vùng trung tâm Nga. Tại đây ông đã cảm thụ sâu sắc và yêu quý thiên nhiên thân thuộc mà sau này được lưu truyền lại muôn thuở trong các tác phẩm của ông.Đồng thời tại Xpaxxkoie cậu bé Turgenev thường phải chứng kiến cảnh những người nông nô bị trừng phạt nghiệt ngã theo lệnh của mẹ cậu. Tâm hồn nhạy cảm, xa lạ với đau khổ và bất công của Turgenev nguyện thề đấu tranh đến cùng chống lại chế độ nông nô và ông mãi mãi trung thành với lời nguyền. Tập ký Bút ký người đi săn (1847 - 1852) của ông bằng bút pháp thi vị là "bản cáo trạng buộc tội chế độ nông nô" (Gerxen). Chủ đề chính của Bút ký người đi săn là mối quan hệ tương hỗ giữa địa chủ và nông dân. Turgenev đã vạch trần thói ích kỷ, tàn nhẫn của địa chủ, đồng thời mở ra trước mắt bạn đọc hình ảnh người nông dân với trí thông minh, tấm lòng vị tha, hào hiệp, tài năng bẩm sinh và khả năng cảm thụ sâu xa. Năm 1827 gia đình Turgenev chuyển về Maxcơva, tại đây Turgenev theo học nhiều trường nội trú tư và đến năm 1833 ông thi đậu vào khoa ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Maxcơva. Ít lâu sau, vì gia đình về sống ở Peterburg nên Turgenev chuyển về học tại trường Đại học Tổng hợp Peterburg. Năm tháng sinh viên đã đánh dấu những thử nghiệm văn học đầu tiên của nhà văn trẻ Turgenev đồng thời ghi lại sự quen biết của ông với nhiều văn sĩ xuất chúng của thời kỳ đó.Năm 1838, sau khi tốt nghiệp trường đại học tổng hợp, Turgenev khởi hành một chuyến du lịch dài sang Thụy Sĩ, Đức và sau đó là Italia. Năm 1841 ông trở về Nga và theo ý muốn của thân mẫu, ông vào làm việc ở văn phòng Bộ Nội vụ. Đây cũng là thời kỳ ông thực sự bước vào sự nghiệp văn chương một cách nghiêm túc và có chiều sâu. Phạm vi sáng tác của Turgenev rất rộng. Ông làm thơ, viết kịch, truyện, tiểu thuyết về đời sống của mọi tầng lớp trong xã hội Nga. Trong những năm 40 - 50 của thế kỷ XX, nhà văn đi vào tìm tòi những nhân vật tích cực của thời đại trong tầng lớp trí thức quý tộc. Ở hàng loạt truyện và các tiểu thuyết Rudin, Một tổ quý tộc ông miêu tả mối xung đột tồn tại giữa những nhân cách anh tài xuất chúng với điều kiện xã hội lúc bấy giờ. Khi đó ở nước Nga xuất hiện "những con người thừa". Đó là những đại diện ưu tú nhất của tầng lớp quý tộc trẻ mang trong mình những tư tưởng tiên tiến. Nhưng lòng nhiệt tình cao cả của họ vấp phải sự cổ hủ, trì trệ đang ngự trị khắp đất nước.Song vào cuối những năm 50 - đầu những năm 60, trong xã hội Nga xuất hiện một lực lượng xã hội mới - đó là các nhà trí thức dân chủ bình dân. Dù rằng về mặt tư tưởng Turgenev ngày càng xa rời họ nhưng với tư cách một nhà văn ông không thể bỏ qua tính cách mới được hình thành từ phía dân chủ này. Vậy nên ra đời các tiểu thuyết Đêm trước, Cha và con . Đến những năm 70, khi trên vũ đài xã hội xuất hiện phái dân túy, Turgenev đã viết cuốn tiểu thuyết Đất hoang, trong đó ông làm sáng tỏ tư tưởng của những người dân túy.Từ giữa những năm 40, Turgenev chủ yếu sống ở nước ngoài và luôn tuyên truyền không mệt mỏi những tư tưởng của nền văn học Nga. Khi các nhà văn Nga như Mikhail Xantưcov-Sedrin, Gleb Uxpenxki, Alekxei Pixemxki đến Paris thăm ông, Turgenev thường tổ chức nhiều buổi nói chuyện văn học, đã giới thiệu Xantưcov-Sedrin với Zola và Flaubert. Năm 1877 Turgenev cũng không vắng mặt trong việc thành lập Hội bảo trợ các họa sĩ Nga. Hoạt động của ông trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học đã được đánh giá xứng đáng ở Pháp và Anh: năm 1878 ông được bầu là phó chủ tịch Hội nghị văn học quốc tế tại Paris, còn năm 1879 ông được Trường Đại học tổng hợp Oxford phong học vị tiến sĩ luật học. Và công lao của ông cũng được ghi nhận tại Nga: năm 1859 ông được bầu là hội viên chính thức của Hội yêu văn học Nga, đồng thời ông cũng là thành viên của Quỹ bảo trợ văn học. Những năm cuối cùng sống ở Nga Turgenev tích cực đẩy mạnh mọi hoạt động xã hội, văn hóa - giáo dục.Mùa hè năm 1881 là mùa hè cuối cùng của Turgenev ở làng Xpaxxkoie thân yêu. Mùa thu năm ấy ông ra nước ngoài, đến mùa xuân năm 1882 thì sức khỏe của ông giảm sút mau chóng. Ngày 22 tháng Tám (ngày 3 tháng Chín theo lịch Nga cũ) năm 1883 Turgenev mất tại Bougival (gần thủ đô Paris). Ông được đưa về mai táng tại nghĩa trang Volkov, Saint-Peterburg.Các tác phẩm của Turgenev đã trở thành di sản quý báu của nền văn học thế giới và tên tuổi của ông đã được mãi mãi ghi vào lịch sử tư tưởng của xã hội. Bằng những hình tượng nghệ thuật tuyệt đỉnh, Turgenev đã biết cách kể với toàn nhân loại sự thật về nước Nga, về thế hệ trẻ Nga anh hùng tràn đầy khí thế cách mạng, tinh thần hy sinh quên mình vì lợi ích nhân dân, về những tình cảm tuyệt vời như tình yêu, tình bạn, về sự tươi đẹp của thiên nhiên nước Nga. ... Mời các bạn đón đọc Đêm Trước - Cha và Con của tác giả Ivan Turgenev.
Có Anh Trong Đời - Debbie Macomber
Adam và Eva lén nếm trái cấm, để lại tội tổ tông cho bao nhiêu thế hệ loài người. Song đó cũng là một minh chứng cho sự cần thiết phải hòa hợp tâm hồn và thể xác. Làm tình ràng buộc người ta, nhưng là một mối ràng buộc êm đềm. Rosie và Zach hiểu ra điều đó khi lần tìm nhau trong đêm mờ ảo, trên đệm mềm, trên da thịt tràn trề hơi ấm. Tình yêu tưởng chứng đã phôi phai lại trở nên nồng nàng sau mỗi lần xác thân hòa quyện. Sự khám phá lại nhau, không ngờ còn nhiều kích thích hơn lần đầu chinh phục. Với Maryellen, làm tình đánh thức bản năng đàn bà của nàng, tái tạo từng tế bào cảm xúc, đưa nàng lên chốn thiên đường yêu đương, tưởng chừng quên lãng đã bao năm. Sau nhiều đêm hoang mang mộng mị, sau nhiều ngày cô quạnh lẻ loi, chỉ một lần cùng Jon vào vườn Eden đã giúp nàng tìm được hoàng tử đích thực của đời mình. “Debbie nổi bật trong nghệ thuật viết lách, đặc biệt là những tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc trong long người đọc. Những giọt nước mắt vui mừng sẽ lăn dài trên má khi bạn đọc đến đoạn kết.” - Book Cove Reviews *** Debbie Macomber, tác giả của những bộ tiểu thuyết lãng mạn dài tập Trở lại phố Blossom, Khu vườn nhà Susannah, Một câu chuyện hay; Cửa hàng trên phố Blossom, Giữa những người bạn và Chuyện tình vịnh Cedar. Là một trong những cây bút hàng đầu hiện nay về dòng văn học giành cho phụ nữ. Debbie nổi tiếng nhất với khả năng tạo ra các nhân vật có sức chiến đấu và thổi hơi thở cuộc sống vào những câu chuyện của họ. Rút ra từ những trải nghiệm của bản thân và những người trong gia đình cũng như bạn bè, bà đã chứng minh khả năng nhìn thấu tâm hồn những người phụ nữ và khả năng diễn đạt trạng thái cảm xúc, các giá trị cũng như những lo lắng của họ. Trong bất kỳ cuốn sách nào của bà cũng thể hiện tính hài hước nổi bật. Thường xuyên xuất hiện trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất với hơn 100 triệu bản in, tác giả giành được nhiều giải thưởng này đã ghi một mốc son chói lọi trong sự nghiệp của bà vào tháng 9 năm 2007 khi tập sách mới đây nhất về Chuyện tình vịnh Cedar, 74 SEASIDE AVENUE (Vì anh yêu em), cùng lúc chiếm vị trí số 1 trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất của NEWYORK TIMES, USA TODAY, Publishers Weekly, Bookscan. Với những cuốn sách được dịch ra 23 thứ tiếng khác nhau, bà được độc giả trên toàn thế giới yêu mến. - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do Amazon.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do BordersBooks.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất do BarnesandNoble.com bình chọn - Top những cuốn sách bán chạy nhất của New York Times, USA Today, Publishers Weekly, Wall Street Journal, Waldenbooks, Los Angeles Times, Chiacago Tribune, Seattle Times… Truyện mở ra tại Vịnh Cedar, một thị trấn mơ mộng nằm trên bờ vịnh cùng tên, nơi mỗi sớm nắng nhuộm màu hồng mặt nước và mỗi đêm hải đăng hắt ánh vàng trên những lớp sóng lô xô, Đâu phải vì yêu là vở nhạc kịch tình say đắm về 2 đôi uyên ương mà số phận dun dủi kéo họ lại chung một lối. Olivia Lockhart đã tưới lọ nước hoa hạnh phúc cho Ian và Cecillia Randall, rồi chính bản thân nàng cũng nhận được cho mình vài giọt trong veo, nồng nàn quyến rũ. Ian và Cecil tìm lại nhau nhờ sự thu hút xác thân mãnh liệt, còn Jack đến với Olivia vì nàng nổi bật trên muôn người. Vượt qua mọi đam mê bản năng giữa đàn ông và đàn bà, chàng giục ngã trước vẻ đẹp tâm hồn và cá tình nàng. Họ sẽ đi về đâu với những đam mê ấy? Bằng ngòi bút lãng mạn và lôi cuốn, Debbie Macomber từng bước xây dựng cả một thiên đường tình ái đầy thiết tha mời gọi giữa chốn nhân gian này... *** Những lời ca ngợi dành cho tiểu thuyết của Debbie Macomber “Thật thú vị khi phát hiện ra một nhà văn không hề dựa vào tình dục và những hành động báng bổ để viết nên những câu chuyện hấp dẫn tuyệt vời.” – G.Schmorleizt, một độc giả ở California đã vượt qua chứng trầm cảm nhờ đọc tiểu thuyết “Tiểu thuyết lãng mạng của Debbie Macomber rất mới lạ vì cách phát triển đầy thực tế, nhẹ nhàng và mãnh liệt của câu chuyện. Nó vươn mình trong thế giới tình yêu, một thế giới cho phép sự say mê, đắm đuối phát triển thành một thứ gì đó tồn tại mãi mãi và đủ đặc biệt để vượt qua mọi khó khăn thử thách!...” – CrystalRiviers.com “Những cuốn sách trong loạt truyện về Vịnh Cedar của Macomber giống như một hộp bánh nướng Krispy Kreme: nhừ và mịn nhưng cực kỳ ngon và càng ăn càng nghiện.” – Publishers Weekly “Đôi khi lối kể chuyện của Macomber khiến người ta trào nước mắt, có lúc lại khiến người ta mỉm cười.” – Newport News, VA, Daily Press *** Series truyện Chuyện tình Vịnh Cedar hiện đã xuất bản 9 cuốn: 1. Đâu phải vì yêu​ 2. Ngày mai không hẹn trước 3. Tìm lại tình yêu 4. Có anh trong đời 5. Vẫn mãi yêu anh 6. Đánh thức trái tim 7. Vì em yêu anh 8. Hơn cả yêu thương 9. Giáng sinh ngọt ngào *** Ngay từ lúc đặt chân vào phiên tòa xử ly hôn ở vịnh Cedar, Rosie Cox đã có cảm giác thất bại, và cả nỗi ám ảnh vì bị phản bội. Song gặp hoàn cảnh này thì bất cứ ai cũng rơi vào tâm trạng như vậy mà thôi. Suốt mười bảy năm của cuộc hôn nhân tưởng chừng lý tưởng, chưa bao giờ cô ngờ rằng Zach có thể phản bội mình. Zach chẳng mảy may công khai thú nhận về mối quan hệ bất chính của anh. Rosie cũng chưa hề phát hiện ra bằng chứng cụ thể hay biểu hiện đáng ngờ nào từ chồng mình. Cô không bắt gặp anh và cô trợ lý dùng bữa ở những nhà hàng sang trọng, không tìm thấy hóa đơn những món trang sức đắt tiền hay hóa đơn nhà nghỉ, nhưng trong sâu thẳm trái tim mình, Rosie biết chồng đang ngoại tình, đó là điều mà một người vợ luôn luôn cảm nhận được. Rosie thừa nhận rằng cô rất tức giận, và cương quyết thể hiện sự tức giận ấy bằng cách làm cho cuộc ly hôn trở nên phức tạp và khó khăn tột độ. Việc gì cô phải dễ dãi với Zach hay nhẹ nhàng bước ra khỏi cuộc hôn nhân của họ mà không tỏ rõ thái độ bất bình. Vì vậy cô đã đấu tranh quyết liệt. Nhưng khi rời khỏi tòa án với phán quyết cuối cùng trong tay Rosie nhận ra mình đã phạm sai lầm. Cô những tưởng một khi chính thức ly hôn, những tháng ngày mệt mỏi đầy cay đắng và giận hờn sẽ tan biến. Nhưng cô đã lạc quan quá sớm. Một nỗi buồn thậm chí còn não nề hơn mau chóng bao trùm lên tâm trí và thể xác cô. Hai vợ chồng họ đã lập một bản thỏa thuận chung tỉ mỉ đến từng chi tiết về quyền chăm sóc con cái, nào ngờ vừa trình lên, tòa án đã bác bỏ nó. Thay vào đó, người chủ tọa phiên tòa là thẩm phán Lockhart đã phán quyết rằng bọn trẻ sẽ bất lợi về mặt tình cảm khi cứ một vài ngày lại phải di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Bà ta nói Allison và Eddie không đòi ly hôn, vì vậy chúng xứng đáng được hưởng một cuộc sống ổn định. Chắc hẳn sẽ có nhiều người cho rằng vị thẩm phán này quá cách tân hoặc mất trí rồi, Rosie nghĩ, sự can thiệp của bà ta quả là điên rồ. Ngôi nhà được giao cho bọn trẻ, như vậy chính Rosie và Zach mới là người phải chuyển tới chuyển lui. Quả là nực cười và không tưởng! Giờ đây, khi thủ tục ly hôn đã kết thúc, Rosie và Zach sẽ phải tính toán việc sắp xếp chỗ ở. Chưa rời tòa án mà Rosie đã thấy tình hình trở nên bất lợi cho mình. Sharon Castor, luật sư của Rosie giữ cô lại ở hành lang ngoài phòng xử án, “Rosie! Chúng ta phải gặp chồng cũ của bà”. Nhìn ánh mắt Sharon, Rosie hiểu rằng vị luật sư này đang bối rối y như mình vậy. Otto Benson, luật sư của Zach cũng có cùng tâm trạng đó. Mặc dù gắng giữ vẻ bình tĩnh, nhưng anh ta không che giấu nổi sự căng thẳng lồ lộ trên khuôn mặt. Rosie không dám liếc về phía Zach. Cô đã tránh nhìn thẳng vào người chồng cũ ngay từ khi bước vào phòng xử án. Luật sư của Zach đề nghị, “Chúng ta tìm một phòng họp để thảo luận chi tiết nhé”. Zach đang đứng sau Otto, dường như anh cũng không vui vẻ gì hơn Rosie trước quyết định của thẩm phán, nhưng chắc chắn anh không thể suy sụp bằng cô được. “Rosie và tôi có thể tự giải quyết vấn đề,” Zach càu nhàu, giọng pha chút bực bội. Rosie hiểu khi mọi việc đã căng thẳng đến nước này thì câu nói của Zach sẽ không hứa hẹn điều gì tốt đẹp cả. Cô lập tức lên tiếng: “Không ích gì đâu! Chắc anh còn nhớ chúng ta đã mất hàng tuần tranh cãi về việc thỏa thuận nuôi con thế nào rồi chứ?”. Cô thích thú nhắc nhở, muốn Zach hiểu anh thật rất ngớ ngẩn nếu định tiết kiệm tiền thuê luật sư bằng cách tự bàn bạc lấy với cô. Giả sử việc này khiến anh ta phải chi ít tiền hơn cho cô trợ lý của mình thì Rosie sẽ thấy thật hả hê. Tay nắm chặt, Zach làu bàu gì đó qua hơi thở, Rosie hầu như không nghe thấy, nhưng cô đã kiên quyết dặn lòng phải giữ bình tĩnh và cảm thấy tự hào về khả năng tự chủ của mình. “Điều gì khiến anh nghĩ rằng chúng ta có thể đi đến thỏa thuận mà không cần người dàn xếp?”, cô hỏi một cách mỉa mai. “Được thôi”, Zach lẩm bẩm với một cái bĩu môi giống hệt cậu con trai chín tuổi của họ. Bây giờ, khi nhìn kỹ Zach, Rosie khó lòng tin nổi mình đã từng yêu anh ta. Zach không chỉ tự mãn, hay lý sự và tự cao tự đại mà còn không hề có một khái niệm gì về trách nhiệm của người chồng, người cha. Không thể phủ nhận Zach là một người đàn ông quyến rũ, hơn nữa, vẻ bề ngoài còn cho thấy anh ta là một doanh nhân thành đạt, một người hết sức lịch lãm. Tuy vậy, ai kém tinh tường đến đâu cũng có thể nhận ra Zach làm nghề kế toán ngay từ cái nhìn đầu tiên. Đôi mắt sẫm màu của anh ta nheo nheo như thể phải dành hàng tiếng đồng hồ mỗi ngày cho những cột số li ti. Tuy thế, trông anh ta vẫn rất hấp dẫn với bờ vai rộng, nó làm tôn lên giá trị của bộ vét đắt tiền trên người, cộng thêm sự quyến rũ của mái tóc dày và sẫm màu. Có thời Zach đã là một vận động viên, bây giờ anh ta vẫn có thói quen đi bộ để duy trì vóc dáng. Rosie từng yêu và say đắm vuốt ve những cơ bắp săn chắc ấy mỗi lần ân ái. Nhưng đã hàng tháng qua họ không ngủ chung giường, và còn lâu hơn nữa kể từ khi họ thực sự làm tình với nhau. Rosie thậm chí không nhớ gì về lần cuối cùng. Nếu biết trước có ngày hôm nay thì cô đã trân trọng nó hơn, nấn ná thêm một chút bên chồng, tận hưởng vòng tay ôm ấp của anh. Nhưng có một điều chắc chắn là Zach đã không còn hứng thú gì với cô kể từ ngày anh tuyển Janice Lamond làm trợ lý riêng. Cứ nghĩ đến việc anh ta và Janice quấn lấy nhau Rosie lại thấy nghẹn thở. Khó khăn lắm cô mới gạt được hình ảnh đó ra khỏi đầu. Nỗi tức giận và cảm giác bị tổn thương vì sự thiếu chung thủy của người chồng - không, phải nói là chồng cũ mới đúng - dâng lên đầy ứ trong cổ họng cô. Zach lên tiêng khiến cô bừng tỉnh, hình như anh ta đã đồng ý để luật sư đàm phán vấn đề rắc rối nảy sinh trong phán quyết ly hôn này. Otto đang làm việc với một nhân viên tòa án để tìm một phòng họp trống. Khi đã tìm được một căn phòng khá riêng tư trong thư viện luật, Zach và luật sư của anh ta ngồi bên bàn đối diện với Rosie và luật sư của cô. Hai luật sư tỏ rõ bối rối trước chiều hướng của vụ việc. “Tôi chưa bao giờ gặp phán quyết nào như thế này”, Sharon mở đầu cuộc nói chuyện. “Tôi cũng vậy”. Otto cau mày. “Đáng lẽ tình huống này chỉ xảy ra trong tiểu thuyết hoặc phim ảnh”. “Chẳng sao cả”, Zach nói cộc lốc. “Sự việc không bình thường, nhưng chúng ta đều là người lớn và đủ sức giải quyết vấn đề. Tôi thì lúc nào cũng tha thiết quan tâm đến lợi ích của bọn trẻ trước tiên”. Anh ta trừng trừng nhìn Rosie như muốn ám chỉ rằng cô thì trái ngược. “Nếu tha thiết thật, anh đã phải cân nhắc kỹ càng trước khi ngủ với con đàn bà dâm đãng đó”. Rosie chẳng muốn tranh luận, nhưng thái độ giả dối của người chồng cũ khiến cô phát cáu. Giả sử biết ngó ngàng đến lợi ích của bọn trẻ thì anh ta đã không phá vỡ lời thề hôn ước của họ như vậy. “Tôi chẳng hơi đâu giải thích hay thanh minh với cô làm gì”, Zach nói qua kẽ răng. “Nếu cô ở nhà nhiều hơn thay vì cứ chăm chăm vào các hoạt động tình nguyện chẳng hữu ích gì cho các con ấy thì cô đã...”. “Đừng hòng tìm cách đổ lỗi cho tôi vì những gì anh đã làm”. Rosie rít lên. Lúc nào Zach cũng phàn nàn về các hoạt động tình nguyện của cô. Nay anh ta thỏa nguyện rồi, vì Rosie phải từ bỏ mọi vị trí mà cô đang giữ. Cô đã hi sinh tất cả vì gia đình, đã nghỉ làm ở nhà, bỏ qua cơ hội có được một công việc với mức lương ổn định. Cô hy vọng anh ta sẽ vui. Kể từ khi bọn trẻ được sinh ra, Rosie luôn dành tất cả cho chúng, chỉ hiềm không phải lúc nào cô cũng có mặt ở nhà mà thôi. “Tôi nghĩ chúng ta vào đây để thảo luận về phán quyết ly hôn phải không?”. Zach hỏi với vẻ chán nản, một biểu hiện hiển nhiên là có lợi cho cô. “Đừng lăng mạ nhau nữa, tôi không trả tiền để các luật sư ngồi đây nghe đâu”. Đúng vậy, Rosie đăm chiêu, cô hài lòng khi biết Zach sẽ phải chịu chi phí cho luật sư của cả hai bên. Anh ta có một công việc được trả lương cao. Còn cô hiện đang theo một khóa học hè để nâng cấp chứng chỉ dạy học của mình. Học phí cũng do Zach thanh toán. Đó là một vết khía vào lòng cô, bởi nó là một thoả thuận được dàn xếp trong cuộc ly hôn của họ. Rosie đã nộp đơn vào trường South Kitsap của thị trấn, và nhờ các mối quan hệ quen biết của mình, cô sẽ dễ dàng được tuyển làm giáo viên vào tháng Chín này. “Hãy lập danh sách những điều chúng ta cần thỏa thuận”,Sharon nhanh nhảu nói, phớt lờ cuộc tranh cãi giữa Rosie và Zach. “Mặc dầu cuộc hôn nhân của ông bà đã tan vỡ, nhưng cả hai đều khẳng định rằng lợi ích của bọn trẻ là trước tiên và trên hết”. Rosie và Zach cùng gật đầu. Sharon mỉm cười. Cô là mẫu phụ nữ đầy lý trí, không dễ bị tình cảm chi phối. “Được rồi, vậy chúng ta đã có điểm chung để bắt đầu”. “Tôi muốn khen ngợi thái độ của cả hai ông bà”. Otto nói và lấy một tập giấy tờ pháp lý từ trong cặp ra như muốn chứng minh anh ta xứng đáng được trả công. Zach đã chọn luật sư có uy tín nhất và vì thế Rosie cũng chọn một luật sư tương xứng. Và cả hai luật sư đều có giá rất cao. “Vâng”, Zach mỉa mai. “Nếu chúng tôi hòa hợp hơn, chúng tôi đã không chia tay”. “Anh phải tự biết ai là người có lỗi trong chuyện này”, Rosie ngắt lời. “Có chứ, tôi biết”, Zach bác lại ngay. “Cô thực sự ở nhà được bao nhiêu đêm? Cô đã nấu được bao nhiêu bữa cơm tối? Nếu cô không nhớ thì đẽ tôi nói cho cô biết. Con số đó đếm trên đầu ngón tay”. Sharon thở dài thườn thượt. “Thôi nào, bàn đến bọn trẻ trước. Hiện thời ngôi nhà là của chúng. Ba ngày mỗi tuần, khi Zach ở với các con, Rosie sẽ phải tìm một nơi nào đó để trú chân”. Nơi nào đó để trú chân? Rosie choáng váng, cảm giác bàng hoàng luồn dọc sống lưng, bây giờ cô mới ý thức được hậu quả tồi tệ của phán quyết kia. “Và cô ta cũng phải trả một nửa số tiền nhà cho bọn trẻ”, Zach nói thêm và mỉm cười đôn hậu một cách giả tạo. “Nhưng tôi không thể”, Rosie không thể không nghĩ được xa hơn. “Bây giờ tôi vẫn chưa tìm được việc. Làm sao tôi chi trả nổi cho một căn hộ như vậy với hàng loạt phí tổn liên quan?”. Thật thiếu công bằng, Zach phải nhận thấy yêu cầu đó là vô lý chứ. Cô cũng có cuộc sống riêng và cô không thể xây dựng cuộc sống đó nếu cứ phải chi tiêu từng đồng xu kiếm được cho hai căn hộ riêng biệt. Rosie ngó Zach chằm chằm, anh ta cũng gườm gườm nhìn lại. “Tôi có một gợi ý thế này”, Sharon đề xuất. “Cô nói thử xem sao”, luật sư của Zach lộ vẻ háo hức vì dường như anh ta cũng không còn ý tưởng gì. “Trong ba ngày Zach ở với bọn trẻ, căn hộ của ông ấy sẽ để trống, đúng không?”. Cô ta quay sang phía Zach để xác minh. Rosie cũng quan sát chồng cũ. Thực chất Sharon muốn ngầm hỏi Zach có ý định đưa Janice và đứa con trai bằng tuổi Eddie về chung sống trong căn hộ đó không. “Để trống”, Zach nhấn mạnh. “Vậy nếu...”. Sharon liếc từ người này sang người kia, “Rosie chuyển đến căn hộ trong thời gian ông ở cùng bọn trẻ thì sao? Ông từng nói đó là một căn hộ có hai phòng ngủ phải không?”. Rosie thấy lòng chứa đầy mâu thuẫn. Cô không muốn dính dáng gì đến người chồng cũ nữa, càng không muốn bị đặt vào một vị trí quá gần Zach, gần những đồ vật của anh ta hoặc những đồ vật đã từng là của họ. Cô cũng không muốn bắt gặp những dấu vết chứng tỏ tình cảm qua lại giữa anh ta và ả nhân tình. “Không đời nào tôi để Rosie bước vào căn hộ của tôi”, Zach cũng chung mối e ngại với người vợ cũ. “Chúng tôi đã ly hôn, và phải mất hàng tháng trời để đạt được điều đó. Rosie muốn đi và cô ấy đã được thỏa nguyện”. “Anh mới là người đầu tiên dọn đi”, Rosie khinh khỉnh nhắc. “Hoàn toàn chính xác. Cô đá tôi ra khỏi nhà”. Rosie không thể tin nổi là Zach cố tình bóp méo sự thật như vậy, “Chính anh khăng khăng bắt tôi gặp luật sư, anh quên rồi à?”. Zach khịt mũi và nhìn Sharon. “Tôi thật ngu ngốc”. Luật sư của Rosie xòe tay năn nỉ. “Nghe này, đây chỉ là lời gợi ý giúp cả hai tiết kiệm một khoản tiền”. Cô ta lại quay sang Rosie “Nếu may mắn, có thể bà sẽ tìm được một căn hộ, thậm chí một căn phòng rất nhỏ, nhưng nó sẽ có giá không dưới năm hay sáu trăm đô một tháng”. “Zach sẽ phải trả”. “Tôi có bị điên đâu”. “Quyết định ly hôn đã có hiệu lực”, Otto Benson chỉ rõ. “Zach không phải chi trả thêm bất cứ khoản nào ngoại trừ những gì đã được thống nhất”. Rosie nhìn sang luật sư, Sharon miễn cưỡng gật đầu. Tình huống này thực quá sức chịu đựng của Rosie. Không những mất chồng, cô còn bị tống ra khỏi nhà mình. Nước mắt chực tuôn rơi, nhưng cô gắng kìm lại. Zach không được phép biết anh ta đã làm cô khốn khổ đến mức nào. Một lúc lâu sau Zach lên tiếng. “Thôi được, tôi đồng ý cho Rosie ở căn hộ của tôi trong khi tôi ở cùng bọn trẻ, miễn là cô ấy đồng ý chia đôi tiền thuê nhà”. Rosie nhận thức được rằng mình không còn sự lựa chọn nào khác, nhưng cô cũng có lòng tự trọng riêng và kiên quyết giữ vững nó. “Với một điều kiện”, cô ngẩng cao đầu yêu cầu. “Gì nữa đây?”. Zach hỏi cùng tiếng thở dài đầy chịu đựng. ... Mời các bạn đón đọc Có Anh Trong Đời của tác giả Debbie Macomber