Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vinh Quang Và Quyền Năng - Graham Greene

Graham Greene, nhà văn Anh nổi tiếng được công chúng Việt Nam biết đến với tiểu thuyết The quiet American (Người Mỹ trầm lặng) đã được dựng phim hai lần, ông được coi là người viết về chiến tranh Việt Nam ấn tượng nhất. Là người sống cuộc đời đầy phiêu lưu và mạo hiểm nên, Greene thích đưa các nhân vật người Anh dè dặt của mình vào những tình huống khắc nghiệt, ở những nơi chốn khác lạ. Trong thế kỷ 20, không nhà văn nào có được những nhìn nhận tinh tế hơn Graham Greene khi đưa ra sự so sánh giữa con người với con người. Khi mà ngày càng có ít các nhà văn cố gắng phân tích những đức tính tốt đẹp của con người rơi vào sự sa ngã, thì Greene là bậc thầy trong sự phân minh đầy tính phức tạp này. Nhân vật của ông tồn tại trong hệ thống phẩm hạnh được xác định rõ ràng… Với thành công đó, nhà văn nào cũng thèm muốn có được sức tưởng tượng chứa đầy sự đột phá vô cùng hấp dẫn như Greene - người không bao giờ thiếu chuyện để viết mà ngược lại, luôn ngập trong những áng văn không ngừng tuôn chảy trong mình. Greene từng nói rằng, thời niên thiếu không hạnh phúc là sự cân bằng vô cùng bổ ích cho ông. Tuổi thơ của ông là sự khổ cực ở trường học, những cuộc vật lộn với thầy hiệu trưởng lại là chính người cha của mình; tìm cách tự vẫn ở tuổi vị thành niên và rồi lại si tình đến mê muội người vợ của chuyên gia tâm thần học chữa bệnh cho mình; không đam mê thể thao và thường bỏ học để dành thời giờ đọc tiểu thuyết phiêu lưu của các nhà văn như Rider Haggard và R. M. Ballantyne… Chính những câu chuyện đó đã có ảnh hưởng sâu đậm tới Greene và giúp ông tạo được phong cách văn chương của mình. Graham Greene là người trầm lặng, kín đáo nhưng cuộc sống riêng tư của ông lại rối như tơ vò. Ông tự nhận mình là “một người chồng tồi và người yêu không kiên định” bởi có quan hệ với nhiều phụ nữ, chưa kể thú đam mê rượu đến mức trở thành huyền thoại. Năm 1925, khi mới 21 tuổi, Graham Greene phải lòng Vivienne Dayrell-Browning – một cô gái xinh đẹp theo đạo Công giáo. Nhà văn tương lai mất hai năm ròng với hàng trăm lá thư tình mùi mẫn mới chinh phục được người đẹp. Chưa hết, trước khi được Vivienne mở lời nói câu đồng ý trước bàn thờ Chúa, Greene còn phải cải đạo để vừa lòng ý trung nhân. Hai người kết hôn năm 1927. Họ đã có một thời gian khá mặn nồng, nhưng càng ngày, bất đồng giữa hai người càng lớn. Vivienne khá khắt khe và có cái nhìn cao đạo với vấn đề tình dục. Trong khi chồng cô lại là một người rất trần tục và luôn thẳng thắn thể hiện các nhu cầu bản năng. Họ có hai người con Lucy Caroline và Francis. Cuộc hôn nhân tan vỡ từ năm 1939 nhưng đến năm 1947, hai người mới chính thức chia tay. Cuốn “Vinh quang và quyền năng” có lẽ là một lời biện hộ muộn màng cho hôn nhân tan vỡ của mình. *** Là tài năng hiếm có trong thế giới văn chương ngày càng mang tính bản địa, một người theo chủ nghĩa quốc tế tài năng có nhận thức chính trị sắc bén, nhưng Graham Greene lại từ chối nhìn nhận mình là một nhà văn chính trị. Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của ông, Thư viện Anh tổ chức một cuộc triển lãm các kỷ vật của Green; còn tại thành phố Berkhamstead quê bương ông thuộc Tây Bắc London diễn ra hội nghị kéo dài một tuần, trong đó bàn đến những đóng góp của Greene cho nền điện ảnh, món nợ văn chương của ông với Joseph Conrad và mối quan hệ với Vua hề Charlie Chaplin... Nếu còn sống, chắc chắn Graham Greene sẽ là người phản đối quyết liệt cuộc chiến của Mỹ ở Iraq, bởi ông từng lớn tiếng lên án cuộc chiến tranh của Mỹ ở VN: "Đây không chỉ là việc làm xấu xa mà là cuộc chiến xuẩn ngốc nhất...", Greene nói như vậy trong một cuộc phỏng vấn năm 1967. Ông còn chỉ trích về chính sách đối ngoại của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan. Greene từng nói rằng, nhiệm vụ của ông là mô tả "nỗi cam go của sự việc theo tâm lý, và đôi khi theo quan điểm chính trị". Đọc sách , độc giả nhận thấy phần lớn trong hơn hai chục tiểu thuyết của ông bộc lộ sự xung đột giữa lòng trung thành và khát vọng, sự giao thoa đầy khó khăn giữa chính trị và đạo đức. *** Tác phẩm của một tiểu thuyết gia công giáo người Anh, một người Anh giáo trở lại, như cuốn “Vinh Quang và Quyền Năng” trước hết mang lại cho tôi cảm giác bỡ ngỡ. Chắc chắn là tôi tìm được trong đó môi trường tâm linh quen thuộc, chính trong sâu thẳm của màu nhiệm quen thuộc mà Graham Greene đã đưa tôi vào. Nhưng mọi việc diễn ra cứ như thể tôi đi vào một khu nhà cổ qua một cánh cửa bị che khuất sau những dây leo, cành cây, mà tôi không biết, và bỗng chốc tôi nhận ra cái lối đi lớn trong vườn nơi ngày xưa tôi thường nô đùa, và tôi nhẩm đọc những chữ viết tắt mà tôi đã khắc lên thân cây sồi trong những kỳ nghỉ hè năm nào. Một người công giáo Pháp chỉ đi vào giáo hội qua cổng chính; họ bị chi phối bởi lịch sử chính thức của giáo hội Pháp; họ dự phần vào những cuộc tranh luận đã từng phân hoá giáo hội Pháp trong nhiều thế kỷ, người ta khám phá ra người nào đó thuộc phe Port Royal hay Dòng tên, họ về phe Bossuet chống lại Fenelon hay họ về phe với Lamenais và Lacordaire hay với Louis Veuillot. Không thể không liên tưởng đến tác phẩm của Bernanos khi đọc “Vinh quang và Quyền năng”. Những tranh luận của giới công giáo trong suốt bốn thế kỷ qua như được phác hoạ lại nơi đây. Sau cha xứ Donissan trong “Dưới ánh mặt trời của Satan” xuất hiện cha sở xứ Ars. Những vị thánh của Bernanos, những linh mục có khuynh hướng tự do, những giáo dân ngoan đạo mà ông mô tả với giọng điệu cay cú nói ngược lại sự tôn kính và sự gớm ghiếc của ông. Phần mình, Graham Greene đã lén lút đi vào vương quốc bí nhiệm, trong vương quốc của thiên nhiên và ân sủng. Không có thiên kiến nào làm vẩn đục cái nhìn của ông. Không có luồng tư tưởng nào làm ông rời xa phát hiện của ông, cái bí quyết mà ông đã đột nhiên tìm thấy. Ông không có một định kiến nào về cái mà chúng ta gọi là “linh mục tội lỗi”. Có thể nói rằng, ông không có trong đầu óc một mô hình đạo đức nào cả. Có bản tính tự nhiên hay hư nát và có Ân sủng quyền năng; có con người khốn khổ, không đáng giá gì sất, ngay cả để làm điều tội lỗi và cái tình yêu nhiệm màu bao trùm con người trong cái khốn nạn cũng như trong cái hổ nhục để biến họ thành thánh, một vị tử đạo. Vinh quang và quyền năng của Chúa Cha toả rạng nơi bản thân một linh mục Mexico nghiện rượu và đã có con với một nữ giáo dân của mình. Mô típ lố bịch, tầm thường và tội trọng của ông chỉ làm cho người ta cười nhạo hay nhún vai và ông linh mục tội lỗi nhận biết điều đó. Cái mà cuốn sách này muốn chứng minh cho chúng ta là, nếu tôi nói không quá, là việc thánh hoá tội lỗi nhờ ân sủng. Vị linh mục phản động, bị chính quyền kết án tử hình, đầu ông bị treo giá (cuốn truyện mượn khung cảnh một nước Mexico bị thao túng bởi những người cầm đầu chống đạo) đã tìm cách đi trốn, như những linh mục khác đã làm, ngay cả những vị thánh thiện nhất. Ông chạy trốn, đã vượt được qua biên giới, nhưng lại quay về khi có người hấp hối cần đến ông hay cả khi ông biết sự hiện diện của ông không mang lại gì hay cả khi ông biết đó là một cái bẫy, rằng người đến kêu cứu ông là người chỉ điểm. Vị linh mục nghiện rượu, tội lỗi, run sợ trước cái chết, đã hiến dâng mạng sống mình nhưng không bao giờ quên cái cảm giác hèn hạ, nhục nhã của mình. Ông ta sẽ cho là chuyện tiếu lâm nếu ai đó nói ông là Thánh. Ông được bảo vệ cách lạ lùng chống lại thói kiêu ngạo, sự tự mãn. Ông đi tử đạo nhưng luôn mang trong mình ý thức về sự sa đoạ, phạm thánh của một linh mục đang trong tình trạng tội trọng, đến nỗi ông hy sinh thân mình nhưng qui chiếu tất cả cho Thiên Chúa, cho quyền lực và vinh quang của Ngài nơi con người khốn nạn nhất trong những con người: chính bản thân ông ta. Và càng đi đến hồi kết, chúng ta càng thấy con người tội lỗi tầm thường này càng hoá thân nên giống Chúa Kitô để nên giống Ngài, nhưng chưa đủ: đến mức đồng hoá mình với Chúa của mình. Mầu nhiệm Thương khó tái hiện nơi tội nhân này, tội nhân được lựa chọn trong cặn bã của nhân loại và đã lặp lại điều Đức Kitô đã làm, không phải ở trên bàn thờ dưới hình bánh hình rượu và mình thì chẳng mất gì, nhưng là hiến tế chính máu và thịt mình trên Thánh giá. Ở nơi con người vị “linh mục tội lỗi” này, không phải là những nhân đức đã tỏ rạng để đối lập với tội lỗi, nhưng chính là đức tin - đức tin vào cái dấu ấn vô hình ông đã lãnh nhận ngày thụ phong, vào cái kho tàng mà chỉ có mình ông (bởi vì những linh mục khác đã bỏ trốn hay đã bị sát hại) còn mang trên đôi tay bất xứng nhưng đã được Thánh hiến. Vị linh mục cuối cùng còn lại trong vùng, ông không thể tin được rằng sau ông sẽ còn linh mục để cử hành thánh lễ, để giải tội, để giúp kẻ liệt trước ngưỡng cửa đời sống vĩnh cửu. Và dù sao đức tin của ông đã không lay chuyển dù ông không biết rằng, ngay khi ông vừa gục ngã dưới làn đạn, một linh mục khác đã đột ngột xuất hiện. Qua đó, chúng ta cảm nhận sự hiện diện bí ẩn của Thiên Chúa trong một xã hội vô thần, cái giòng chảy ngầm của ân sủng đã làm Graham Greene choáng ngợp hơn là cái mặt tiền hoành tráng mà giáo hội trần thế trình ra trước mặt các dân tộc. Nếu có một ki tô hữu nào đó mà sự sụp đổ của giáo hội hữu hình không làm cho xao xuyến, chính là Graham Greene mà tôi nghe nói ở Bruxelles, trước mặt hàng ngàn tín hữu và sứ thần toà thánh, đã gợi lên hình ảnh vị giáo hoàng cuối cùng trong một Âu châu hoàn toàn mất đức tin, đứng xếp hàng trước quầy vé, mặc chiếc quần tây xoàng xĩnh, cầm trên tay, còn lấp lánh chiếc nhẫn của “người đánh cá”, cái cặp giấy carton. Có thể nói rằng, cuốn sách này là một thông điệp gởi đến thế hệ trong đó mọi cái đều bị xem là phi lý. Những người trẻ thời đại Jean Paul Sartre, Camus, những con mồi tuyệt vọng của cái tự do phù phiếm. Graham Greene hé lộ rằng, có thể, sự phi lý này thực ra chỉ là một tình yêu không bờ bến. Ông cũng gởi thông điệp cho những người ngoan đạo, những người chưa bao giờ nghi ngờ về những giá trị của chính mình và luôn mang trong đầu những mô thức thánh thiện, với những phương thế chuyên biệt để đạt được những mức độ đạo đức khác nhau. Ông đặc biệt nhắm tới những kitô hữu, linh mục và giáo dân, các tiểu thuyết gia đang rao giảng con đường thập giá nhưng phải nói là họ chưa chịu “đóng đinh” đủ. Bài học lớn cho những người bị ám ảnh bởi sự toàn thiện, những con người khốn khổ săm soi những khiếm khuyết của mình mà quên rằng ngày phán xét sau cùng, theo thánh Gioan Thánh giá, chính tiêu chuẩn tình yêu là tiêu chí phán xét. Cái đất nước ông mô tả truy lùng các linh mục và giết hại các ngài, đúng là cái đất nước mà chúng ta đang thấy hình thành trước mắt. Đây là giờ của “hoàng tử thế gian”, nhưng ông mô tả họ không chút hận thù: ngay với tên đao phủ, ông cảnh sát trưởng đều mang dấu ấn của lòng thương xót. Họ tìm kiếm chân lý; họ tin đã tìm thấy chân lý và đang phục vụ chân lý, cái chân lý đòi phải hy sinh một số đồng loại. Bóng tối bao trùm vùng đất mà ông mô tả, nhưng có một tia sáng nào đó đang xuyên qua. Dù gì đi nữa, chúng ta không nên sợ hãi, tác giả đã nhắc cho chúng ta rằng điều bí ẩn sẽ được nhận biết, cũng còn những giá trị cho thế giới phi lý này. Cái tự do mà Sartre đề nghị cho con người có những giới hạn: chúng ta biết rằng, những tạo vật được yêu thương như chúng ta không có tự do nào khác ngoài cái tự do từ chối tình yêu đó… Francois Mauriac. Mời các bạn đón đọc Vinh Quang Và Quyền Năng của tác giả Graham Greene.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vịnh Mõm Đen
(Gồm 2 truyện dài là Vịnh Mõm Đen và Kolkhida) Tác giả: Konstantin Paustovsky Nguyên tác: Кара-Бугаз (1932), Колхида (1933) Dịch giả: Nguyễn Hải Hà NXB: Thanh Niên (1978) Ghi chú: Bản dịch đã được sửa phiên âm và hiệu đính khá nhiều lỗi dịch thuật, có tham khảo thêm bản tiếng dịch tiếng Anh. Nguồn text: bản chụp của bạn qingqing T ên tuổi nhà văn Xô-viết Konstantin Paustovsky từ lâu đã trở nên quen thuộc và được bạn đọc nước ta, đặc biệt là bạn đọc trẻ tuổi, ưa thích. Nếu bạn đã say mê văn học, và tìm thấy ở văn học một cuộc sống thật sự của ngày mai, một sức mạnh hướng dẫn đầy ân tình và đủ sức thuyết phục thì, có lẽ bạn sẽ khó có thể thờ ơ được khi thấy người bên cạnh mê mải với những «Bông hồng vàng» và «Truyện ngắn Paustovsky». Tác giả «Bông hồng vàng» và những truyện ngắn kỳ diệu đó đã tìm thấy phương châm sống và sáng tạo nghệ thuật của mình trong câu nói nổi tiếng của nhà thơ Ba Tư Saadi, mà ông đã trích dẫn trong bài «Một con người lớn lao» viết năm 1919 nhân dịp kỷ niệm M. Gorky 50 tuổi: «Tôi dùng 30 năm để chu du. Tôi đã sống nhiều ngày với những con người thuộc mọi dân tộc và đã sưởi ấm bên nhiều đống lửa trại. Tôi đã thấy chút ít vẻ đẹp lớn lao tràn đầy vũ trụ. Tôi đã dùng 30 năm để học và 30 năm cuối cùng để sáng tác. Sung sướng thay kẻ nào, sau khi sống cuộc đời như thế, đã để lại cho con cháu dấu ấn của tâm hồn mình» . Và, noi theo gương M. Gorky, Paustovsky đã ra sức trau dồi vốn sống, bởi vì theo ông: «Cuốn sách hay chỉ ra đời như kết quả của một cuộc đời đầy giá trị và sáng tạo» . Trước Cách mạng tháng Mười, Paustovsky đã từng đi lái xe điện, làm y tá trên các đoàn tàu cứu thương, làm người chọn phế phẩm ở xí nghiệp sản xuất đạn trái phá, học nghề đánh cá, rồi làm báo... Trong thời kỳ đó và trong những năm đầu của Cách mạng tháng Mười ông đã viết rất nhiều, nhưng trong nhiều năm các nhân vật của ông vẫn chơi vơi trong bầu trời lạnh lẽo của những cá nhân tự coi là phi thường nên đơn độc (tiểu thuyết Những đám mây lấp lánh (1929) và tập truyện Những người lãng mạn (viết từ năm 1916 đến năm 1923, in năm 1935). Họ cảm thấy mình «ở ngoài cuộc sống chung» , vì thế họ bị coi là «những con người tình cờ» đến sống giữa thế gian này. Nhưng không khí sôi nổi, xây dựng đất nước cuối những năm 20, đầu những năm 30, khi Liên Xô đang sải rộng đôi cánh công nghiệp hóa trên đà bay thần kỳ của những kế hoạch năm năm đã giúp cho ngòi bút của Paustovsky đi đúng hướng: ông không phải đi đâu xa để tìm tính chất lãng mạn cho ngòi bút của mình, vì chính nó đang hiện hiển sinh động ở ngay trong cuộc sống xây dựng lớn lao bề bộn đó. Sự ra đời của Kara-Bugaz  [1] và Kolkhida đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời sáng tác của Paustovsky và làm cho tên tuổi ông nổi tiếng khắp Liên bang. Trong Kara-Bugaz và Kolkhida Paustovsky muốn phản ánh tính chất lãng mạn và tinh thần anh hùng được thể hiện một cách sinh động trong cái bình thường mà không phải bất kỳ ai cũng dễ dàng nhận thấy. Là một vịnh biển huyền bí nằm bên một vùng sa mạc hoang vu, Kara-Bugaz – nơi có trữ lượng muối mirabilite phong phú nhất thế giới - đã gắn liền với những vụ đầu cơ, lường gạt, ăn trộm và khai thác một cách vô tổ chức của một số nhà tư bản dưới thời Nga hoàng. Kara-Bugaz, với hòn Đảo Đen - là nơi bọn Bạch vệ mưu toan đẩy hàng trăm tù binh Hồng quân vào bàn tay thần chết trước giờ phút bọn chúng rút chạy - đã nhắc nhở mọi người rằng mỗi tấc đất quê hương mà ta đang xây dựng hôm nay đã được giành giật, giữ gìn bằng xương máu của biết bao liệt sĩ. Còn Kolkhida, địa danh khởi nguồn từ Colchis - trong thần thoại Hy Lạp là nơi các dũng sĩ Hy Lạp với con tàu Argo dưới sự chỉ huy của Jason đã đến và tìm được ở đó thứ lông cừu vàng mà người xưa hằng mơ ước – lại là một vùng đầm lầy với khí hậu á nhiệt đới vô cùng khắc nghiệt và bệnh sốt rét ác hại đã cướp đi từng làng, thậm chí từng vùng. Nhưng với những con người giàu lòng tin ở sức mạnh của chính mình và của tập thể thì «Trong thiên nhiên quanh ta hầu như không có tai ương nào không thể đem sử dụng cho nhu cầu và lợi ích của con người» . Và với kỹ sư Prokofyev say sưa đi tìm ngọn nguồn của dầu lửa, với nhà địa chất Vasilyev đi thăm dò các vỉa than và phosphorite, với kỹ sư Davydov cả đời lăn lộn trên sa mạc, với những dự án phát triển sản xuất lớn, tới Khorobrykh trẻ tuổi quyết mang hết sức mình ra tìm cách làm con đường đi tới Kara-Bugaz, và với đội ngũ trùng trùng điệp điệp những con người say mê làm giàu cho Tổ quốc, Kara-Bugaz đã trở thành một khu liên hiệp công nghiệp hóa chất với một vành đai công nghiệp lớn bao quanh. Và đầm lầy Kolkhida đã biến thành một vùng đất trồng trọt phì nhiêu, xanh tốt, thành đất vàng đầu bạc tràn đầy khí trời và ánh nắng dưới bàn tay lao động cần cù sáng tạo của một lớp người dũng cảm ngoan cường, như Gabunia, người ký sự đào kênh tưới nước, như Kahiani, nhà cải tạo chất đất, như Pakhomov, người tìm cách làm khô cạn đầm lầy bằng phương pháp bồi lắng, như Nevskaya, nữ kỹ sư ươm cây nhiệt đới... Trong Kara-Bugaz và Kolkhida những chủ đề Tuổi trẻ, Khoa học và Ước mơ luôn luôn là ba người bạn đồng hành thân thiết. Là nhà văn của những chân trời xa, Paustovsky đã dẫn người đến với một Kara-Bugaz trong giai đoạn công nghiệp hóa Liên bang Xô-viết, với một Kolkhida đã thực sự trở thành một thiên nhiên mới đối với những người lao động tự do. Theo Paustovsky, bản chất của cách mạng là sáng tạo và ước mơ: «Tính lãng mạn đầy sinh khí đi cùng đường với cách mạng và xây dựng... Nếu không được ánh sáng lãng mạn chiếu rọi, chủ nghĩa thực dụng sẽ chết cứng» . Nhận thức văn học là bông hoa của lòng kiên trì và tình yêu cuộc sống, Paustovsky đã coi sáng tác của nhà văn là việc gom góp bụi vàng của người quét bụi để đúc nên bông hồng vàng. Với ý nghĩ đó, Kara-Bugaz và Kolkhida cũng chính là những bông hồng vàng xinh xắn mà Paustovsky đã đúc nên bằng những hạt vàng do ông kiên trì thu lượm trong đời đề tặng lại cho đời. Những tác phẩm hay bao giờ cũng làm cho người ta thêm yêu đời, chắp cánh cho tâm hồn bạn đọc và hướng dẫn bạn đọc đến với cái đẹp của thực tế cuộc đời. Xin thân ái gửi các bạn một sáng tác của Paustovsky - mà với nó Paustovsky có quyền vui sướng, vì theo ông: «Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường vào cái đẹp, của người biết đi tới tương lai, nơi nhân dân dốc hết sức hy vọng của mình để vươn tới» - và chúc các bạn lập nhiều chiến công. Hà Nội, tháng 6 năm 1978, Nhà xuất bản Thanh Niên     Ghi chú [1] Kara-Bugaz: nghĩa là Mõm Đen không bao giờ đã khát (tiếng Armenia). Chúng tôi xin đổi tên truyện này là Vịnh Mõm Đen (Nhà xuất bản và người dịch). ***   Mời các bạn đón đọc Vịnh Mõm Đen của tác giả Konstantin Paustovsky.
Đứa Con Muộn
Anatoly Georgyevich Alexin (tên thật là Goberman) sinh năm 1924 tại Moskva. Ông làm thơ đăng báo từ thuở bé, trải qua những năm Chiến tranh Vệ quốc chống phát xít trên công trường xây dựng ở ngoại ô thành phố Moskva và làm biên tập báo địa phương ở Ural, tốt nghiệp ngành Ấn Độ học tại Viện Đông phương học Moskva vào năm 1950. Năm 1950 cũng là năm Alexin cho ra mắt tập truyện đầu tay Ba mươi mốt ngày. Tập truyện được đón nhận tích cực và những tác phẩm tiếp sau đó, như Sasha và Shura(1956), Những cuộc phiêu lưu lạ thường của Seva Kotlov (1958), Tầng bảy đang phát thanh (1959), Kolia viết cho Olia, Olia viết cho Kolia (1965), Anh trai tôi chơi kèn clarinet (1968), Đứa con muộn (1976), Người thứ ba ở hàng thứ năm (1977), Evdokina dở hơi (1978), Những người phát tín hiệu và thổi kèn hiệu (1985)… đã đem lại cho ông danh hiệu “nhà văn của tuổi trẻ”. Alexin chủ yếu viết về lứa tuổi thiếu niên, về những cuộc đụng độ của họ với thế giới người lớn. Đó là những bức tranh cuộc sống thường nhật trong gia đình, trường học – những chốn thân quen gần gũi nơi các cô bé, cậu bé trải qua những thử thách đầu tiên của cuộc đời để lớn lên thành người. Đó cũng là những bức chân dung của thế hệ trẻ, cũng như của người Xô Viết nói chung các thập niên 1950 – 1980. Không ít sắc thái tươi sáng lãng mạn, lý tưởng, đồng thời có cả những gam màu tối dự báo về sự tha hóa đạo đức. Những câu chuyện giản dị, nhẹ nhàng, hài hước nhưng cũng đầy kịch tính, những miêu tả tinh tế về đời sống sinh hoạt cũng như tâm lý con người thời đại đã khiến tác phẩm của Alexin trở thành các bài học đạo lý sâu sắc không chỉ dành riêng cho trẻ em, mà cả cho người lớn. Alexin còn viết tiểu thuyết và kịch. Nhiều kịch bản phim được chính ông chuyển thể từ các truyện vừa và truyện ngắn của mình. Alexin nhận được nhiều giải thưởng, trong đó có bốn lần được trao Giải thưởng Nhà nước của Liên Xô và của Liên bang Nga. Ông được bầu làm Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học Giáo dục Liên Xô năm 1982. Năm 1993, ông rời Nga đến Israel định cư vì lý do sức khỏe, và từ năm 2011 sống ở Luxembourg cùng gia đình con gái. Tuy nhiên, nhà văn từng nói với báo chí: “Trái tim tôi nằm ở Moskva, tôi là nhà văn Nga…” Ngày 1 tháng 5 năm 2017, Alexin ra đi ở tuổi 93 và được đưa về quê hương chôn cất. Trái tim nhà văn Nga sẽ mãi mãi nằm lại ở Moskva đúng như di nguyện của ông.   Người dịch *** Anh trai tôi chơi kèn Clarinet Ngày 21 tháng Mười Hai Hầu như tất cả bọn con gái trong lớp tôi đều viết nhật ký. Bọn nó viết trong đó đủ thứ vớ vẩn. Chẳng hạn: “Vasia hôm nay hỏi mượn mình quyển vở Hình học. Hỏi một cách kín đáo và rất khẽ, để không ai nghe thấy. Để làm gì? Tại sao cậu ấy lại bí mật và hồi hộp như thế? Đã nửa đêm rồi, nhưng mình cứ nghĩ mãi về chuyện này và đến tận sáng vẫn không ngủ được”. Vasia chỉ đơn giản muốn chép bài tập về nhà môn Hình học mà thôi. Đúng là như thế, bởi cậu ta cũng đã chép của tôi. “Khẽ khàng, kín đáo!...” – Thử hỏi ai lại làm chuyện đó một cách ồn ào? “Hồi hộp!” – Làm sao mà thằng Vasia không hồi hộp được! Bọn con gái luôn thích gán cho những hành vi bình thường nhất của bọn con trai ý nghĩa đặc biệt nào đó. Tôi cũng là một cô bé, nhưng tôi hiểu là nhật ký phải được viết bởi những người xuất chúng. Không, tôi không nghĩ đó là tôi. Nhưng tôi có một người anh, anh ấy đang học năm thứ hai ở nhạc viện. Anh ấy sẽ trở thành một nhạc sĩ vĩ đại. Điều này là chắc chắn. Tôi không hoài nghi về việc đó! Và qua nhật ký của tôi, người ta sẽ biết anh ấy hồi thơ ấu như thế nào. Anh trai tôi chơi kèn clarinet. Tại sao lại không chơi vĩ cầm, hay dương cầm, như ông nội mong muốn. Ông nội mất khi tôi mới hai tuổi. Còn anh Leva lớn hơn tôi những năm tuổi, và ông nội đã bắt đầu dạy nhạc cho anh ấy. Từ nhiều năm tôi đã nghe nói, rằng ông nội tôi “chơi nhạc ở phoi-ơ[1]”. Tôi không biết “phoi-ơ” là gì, nhưng tôi thấy từ đó rất đẹp. “Phoi-ơ” – tôi phát âm rất rõ ràng. Nhưng khi lần đầu tiên vào rạp chiếu phim và nhìn thấy các nhạc công chơi đàn trong phoi-ơ, tôi thấy thương ông nội tội nghiệp của tôi lắm: Khán giả thì nói chuyện với nhau, nhai bánh kẹp, sột soạt giở báo, còn những nhạc công già trên sân khấu chơi một bản valse. Họ áp cằm vào đàn và nhắm mắt: Có thể là vì say mê, nhưng cũng có thể để không nhìn thấy các khán giả nhai bánh kẹp. Anh trai tôi sẽ không chơi nhạc ở phoi-ơ! Anh ấy sẽ biểu diễn trong những hội trường nhạc thính phòng sang trọng. Bây giờ anh ấy đang chuẩn bị cho cuộc thi của các nhạc công trình diễn kèn hơi. Tôi thấy tiếc là clarinet lại bị gọi là kèn hơi. Khi tôi nghĩ đến kèn hơi, không biết sao lại lập tức nhớ đến các đám tang và đội kèn đồng đi theo sau quan tài. Lẽ ra kèn clarinet phải được gọi bằng một cái tên khác... Nhưng biết làm sao được! Tôi học trung bình, nhưng điều này không có ý nghĩa gì cả. Tôi quyết định hiến dâng toàn bộ cuộc đời mình không phải cho bản thân, mà là cho anh trai. Các em gái của vĩ nhân đều như thế. Họ thậm chí còn không lấy chồng. Và tôi cũng không lấy chồng. Không đời nào! Không bao giờ!... Đúng thế đấy. Leva cũng biết về điều này. Ban đầu anh ấy phản đối, nhưng sau đó đã đồng tình. Chúng tôi đã thỏa thuận, rằng khác với tôi, bản thân Leva thì phải có quyền cho cuộc sống riêng của mình, nhưng chỉ khi đã đạt được những thành tựu âm nhạc lớn. Bởi Leva sẽ phải thuộc về nghệ thuật một cách trọn vẹn. Anh ấy sẽ không có thời gian cho những công việc và mối quan tâm bình thường của con người. Mọi thứ đó sẽ do tôi đảm nhiệm. Thực ra tôi từ chối cuộc sống riêng của mình là vì anh trai! Và vì thế những điểm Ba[2] của tôi chẳng có nghĩa lý gì cả. Tiếc là bố và mẹ lại chẳng hiểu điều đó. – Con sắp đặt cũng không tồi. – Mẹ nói – Nghĩa là, Leva sẽ học, từ sáng đến tối chơi clarinet, tu dưỡng, chuẩn bị cho các kỳ thi, còn con sẽ dâng hiến cả cuộc đời mình cho anh con. Con thật toàn có ý nghĩ điên rồ! – Thế có nghĩa em gái của Chekhov cũng là điên rồ sao? – Tôi vặc lại. – Thôi… đủ rồi đấy! Mẹ ngán ngẩm khoát tay. Khi không nói gì được nữa, thì dễ hơn cả là khoát tay. Nói chung, bản thân tôi cũng có lỗi: Không nên quá cởi mở với cha mẹ mình – họ nhất định sẽ lợi dụng sự cởi mở đó để chống lại mình. Nhưng rồi khi nào người ta viết sách về Leva, những đoạn nhật ký của tôi sẽ được đưa vào trong đó. Cách đây không lâu tôi có đọc một cuốn sách viết về một nhà thơ vĩ đại. “Em gái nhà thơ” – dưới một bức ảnh có ghi như thế. Còn dưới ảnh của tôi người ta sẽ viết: “Em gái của nghệ sĩ kèn clarinet”. Hay thế này thì hơn: “Em gái của nhạc sĩ”. Đó sẽ là phần thưởng khiêm tốn dành cho tôi. Đấy, vì sao mà tôi viết nhật ký. – Bố chưa bao giờ nghe nói đến cái nghề như vậy: Nghề em gái của nghệ sĩ clarinet! – Có lần bố tôi nói với tôi. Chao, cả ông cũng không phải lúc nào cũng hiểu tôi. Thật không may là chẳng phải ai cũng biết clarinet là nhạc cụ quan trọng như thế nào. Chính nó khởi đầu cho bản giao hưởng số năm của Tchaikovsky. Chẳng lẽ nhiều người biết chuyện đó sao? “Nhân vật không nổi bật của dàn nhạc” – Leva nói như thế về clarinet. Anh ấy thậm chí còn mừng vui vì clarinet là nhạc cụ “không nổi bật”. Cả anh ấy nữa, có lẽ cũng muốn không nổi bật. Tính anh ấy thế. Nhưng tôi không để chuyện đó xảy ra! Mùa hè, cả nhà tôi vang lừng tiếng kèn clarinet. Nhưng nhiều người không biết những âm thanh đó phát ra từ cửa sổ nhà ai. Tôi giải thích rằng đó là anh trai tôi chơi kèn. Thậm chí khi trời lạnh tôi cũng mở toang cửa sổ để mọi người không quên tiếng kèn clarinet của anh Leva. Tôi kể cho tất cả hàng xóm rằng Leva đang chuẩn bị cho cuộc thi âm nhạc. Cứ mặc mọi người bảo tôi không khiêm tốn: Tôi sẵn sàng chịu mọi đau khổ vì anh trai mình! Nói chung, từ lâu tôi đã quyết định viết nhật ký. Nhưng tôi không muốn bắt đầu nó một cách đơn giản, mà phải bắt đầu từ một ngày trọng đại nào đó. Và ngày hôm đó đã đến! Hôm nay, trước khi hồi chuông đầu tiên đổ, anh học sinh lớp Mười Robert, có biệt danh là “Robert – nhà tổ chức” túm lấy tôi ở chỗ gửi áo khoác. Tác phong của anh ấy là thế, không chặn lại, không nắm lấy tay ai anh ấy đang cần gặp, mà là túm lấy. Túm lấy bất cứ chỗ nào lọt vào tay anh ấy: tay, vai, thậm chí là cổ. Bạn tưởng tượng được không? Anh ấy túm lấy tay áo tôi. – Em thu xếp mời anh em nhé? Cho buổi dạ hội của học sinh năm cuối! Robert chỉ nói được câu đầu là bình thường, theo cách của con người, còn sau đó anh ta chẳng còn thời gian để giãi bày. Anh bắt đầu nói liến thoắng, bỏ qua cả các động từ, cứ như đang đọc điện tín vậy. – Dạ hội mừng năm mới! Phần một – thơ và nhạc cổ điển. Phần hai – Jazz và khiêu vũ. Ta không có nhạc cổ điển. Mọi hy vọng trông vào anh trai của em. Tôi lập tức hình dung, rằng trong đời sẽ không có thêm một cơ hội tuyệt vời như thế để có thể vinh danh khắp trường. Tôi không thể đi báo cho mọi người rằng anh trai tôi học ở nhạc viện, nhưng bây giờ thì mọi người đều lập tức biết ngay! Tuy nhiên, tôi quyết định làm khó Robert một tí, để anh ta không nghĩ rằng có thể có được anh tôi một cách dễ dàng như thế. – Anh biết không? – Tôi bắt đầu – Anh em đang chuẩn bị cho cuộc thi dành cho các nhạc sĩ trình diễn… Tôi bỏ qua các từ “nhạc cụ bộ hơi”. – Dạ hội dành cho học sinh lớp cuối, chỉ cho lớp Mười thôi! – Robert nói – Em mới học lớp Bảy. Nhưng có hai vé cho em đây! Cho em và cho anh trai em. Em thu xếp được không? Bọn bạn gái của tôi sẽ thế nào khi chúng nó biết tôi được mời đến dự dạ hội của học sinh lớp cuối? Điều mà chúng nó chỉ có nằm mơ! Một giấc mơ hạnh phúc nhất!... Mời các bạn đón đọc Đứa Con Muộn của tác giả Anatoly Alexin.
Canh Bạc Hôn Nhân
Một thập kỷ trước, Hầu tước Bourne bị chính kẻ từng nâng đỡ mình chiếm đoạt hết gia sản, chỉ còn lại hai bàn tay trắng. Thời gian sau, anh gây dựng lại cơ ngơi và trở thành đối tác của một sòngbạc nổi tiếng nhất London. Nhưng con người lạnh lùng đó vẫn nuôi ý định trả thù và sẵn sàng làm bất cứ điều gì để lấy lại tài sản từng mất, kể cả việc kết hôn với quý cô Penelope Marbury - người có phần thừa kế gồm cả gia sản của anh. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân đầy toan tính đó cuối cùng lại biến thành một cuộc hôn nhân của tình yêu thật sự, giúp Bourne tìm được người con gái luôn sẵn lòng đặt cược tất cả - kể cả trái tim cô - để bảo vệ tình yêu dành cho anh. *** Sarah MacLean sinh ngày 17 tháng 12 năm 1978 tại Rhode Island, nước Mỹ. Bà là một cây bút đầy tài hoa chuyên về tiểu thuyết lãng mạn lịch sử, đồng thời cũng là một trong các tác giả của những cuốn sách ăn khách nhất do New York Times và Romantic Times bình chọn. Bà tốt Smith năm nghiệp 1978 và có chuyên tại bằng tiểu ngành thạc bang sĩ Lịch chuyên Rhode sử ngành Nhân loại học tại Đại học Harvard. Hiện tại bà đang sống tại New York cùng chồng, con gái và sở hữu một bộ sưu tập những cuốn tiểu thuyết lãng mạn hết sức đồ sộ. Sarah có niềm đam mê với lịch sử và văn học lãng mạn từ khi còn rất nhỏ. Bà từng dành hầu hết thời gian trong suốt thời niên thiếu vùi mình trong các thư viện sách. Đó cũng chính là nơi đã khơi dậy trong bà nhiệt huyết với sự nghiệp viết lách, để sau đó trở thành một trong những tiểu thuyết gia lãng mạn nổi tiếng thế giới. Khi rảnh rỗi, bà thích du ngoạn khắp mọi miền đất nước, tìm hiểu về các nền văn hóa, giáo dục, và khám phá thế giới xung quanh dưới con mắt của một lữ khách đầy lạc quan, yêu đời. Các bài viết của bà thường xuyên xuất hiện trên chuyên mục của New York Times Book Review, Washington Post và Parents Magazine. MacLean tự nhận mình là người theo chủ nghĩa bình quyền, và đó cũng chính là phương châm xuyên suốt các tác phẩm của bà, đan xen với dòng chảy của những điều lãng mạn, ngọt ngào. Bà là một trong các tác giả ăn khách nhất do New York Times, USA Today và Romantic Times bình chọn. Cuốn tiểu thuyết đầu tay - 9 tuyệt chiêu tóm kẻ phóng đãng - ra đời ngay sau khi Sarah tốt nghiệp đại học đã giúp tên tuổi của bà trở nên quen thuộc với nhiều độc giả khi được dịch ra mười thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tác phẩm này thuộc series Love By Numbers, cùng hai tác phẩm 10 bí quyết chinh phục trái tim và 11 tai tiếng hạ gục công tước đã được Bách Việt xuất bản vào năm 2013. Hãy thử cầm trên tay những tác phẩm của Sarah MacLean để cảm nhận được ma lực từ một cây viết đầy trí tuệ và tài hoa. Hãy bước vào thế giới muôn hình vạn trạng trong tiểu thuyết của bà để thấu hiểu những giá trị nhân văn sâu sắc qua từng trang sách...   Các tác phẩm đã và sẽ được BachvietBooks giới thiệu tới độc giả: - 9 Tuyệt Chiêu tóm kẻ Phóng Đãng - Sarah Maclean (2013) - 10 Bí quyết chinh phục trái tim - Sarah Maclean (2013) - 11 Tai Tiếng hạ gục Công tước - Sarah Maclean (2013) - Canh bạc hôn nhân (2014) - Chàng Có Thể Hủy Hoại Em Không? (2014) - Đam Mê và Thù Hận - Sarah MacLean (Quý II/2015) - Sự Trả Thù Của Quý Cô *** London Mùa đông, 1821 Lá tám rô đã hủy hoại cuộc đời anh. Nếu nó là con sáu, anh còn có thể cứu lấy mình. Hoặc giả như nó là con bảy, anh sẽ ra khỏi nơi đó với tài sản nhân ba. Nhưng nó lại là con tám. Hầu tước Bourne trẻ tuổi nhìn lá bài bay qua tấm vải len xanh lá và lướt đến chỗ kế bên lá bảy chuồn nằm lật ngửa trên bàn, như đang trêu tức anh. Mắt anh đã nhắm lại từ lúc nào, luồng không khí hết sức khó chịu ồ ạt thoát khỏi căn phòng. Hai mươi hai. Hơn một điểm so với hai mươi mốt mà anh đặt cược. Nhưng anh đã đặt cược mọi thứ. Những tiếng thở gấp trong phòng vang lên khi anh vẫn giữ nguyên chuyển động của lá bài bằng một đầu ngón tay - trong lúc những người ngoài cuộc đứng xem nỗi kinh hoàng với vẻ thích thú mãnh liệt hiện rõ trên mặt những kẻ vừa thoát chết trong gang tấc. Tiếng xì xào bắt đầu vang lên. “Ngài ấy cược hết à?” “Tất cả những thứ không nằm trong quyền thừa kế.” “Trẻ quá nên mới hành động thiếu khôn ngoan như vậy.” “Đủ chín chắn rồi chứ, không gì khiến một người đàn ông trưởng thành nhanh hơn việc này.” “Cậu ta thật sự mất toàn bộ mọi thứ sao?” “Mất hết.” Anh mở mắt ra, tập trung vào người đàn ông ngồi phía bên kia bàn, bắt gặp cái nhìn u tối, lạnh lẽo anh đã biết từ lâu. Tử tước Langford từng là một người bạn và hàng xóm của cha anh - Hầu tước Bourne đời trước. Ông ta được cha anh cẩn thận lựa chọn làm người giám hộ cho đứa con trai và người thừa tự duy nhất của mình. Sau cái chết của cha mẹ anh, Langford chính là người đã bảo vệ danh vị của Hầu tước Bourne, làm cho tài sản của anh tăng lên gấp mười lần, và bảo đảm cho nó phát triển thịnh vượng. Rồi chiếm lấy nó. Hàng xóm thì có thể. Bạn thì đừng hòng. Cảm giác bị phản bội chạy vụt qua chàng hầu tước trẻ. “Ông cố tình làm thế.” Lần đầu tiên trong hai mươi mốt năm, anh nghe thấy giọng mình có phần trẻ người non dạ. Và anh ghét điều đó. Đối thủ của anh cầm tờ giấy có chữ ký ở chính giữa bàn lên, mặt không chút cảm xúc. Bourne kìm nén thôi thúc muốn cau mày trước nét ký nguệch ngoạc một cách kiêu ngạo của mình ở bên kia trang giấy trắng - bằng chứng cho thấy anh đã mất tất cả. “Đó là lựa chọn của cậu. Cậu đã chọn đặt cược nhiều hơn khả năng thua cuộc của mình.” Anh đã bị lừa. Langford dồn ép anh hết lần này đến lần khác, thúc ép anh nhiều và nhiều hơn nữa, để anh thắng cho đến khi anh không thể hình dung được có lúc mình sẽ thua cuộc. Đó là một mánh khóe cũ rích, nhưng Bourne còn quá trẻ, nên không thể nhận ra. Quá hăm hở. Bourne ngước lên nhìn chằm chằm Langford, vẻ tức giận và bực bội làm anh nghẹn lời. “Và ông chọn cách đoạt lấy nó.” “Không có ta thì đừng mơ có gì để chiếm đoạt”, người đàn ông lớn tuổi nói. “Cha ơi”, Thomas Alles, con trai của tử tước và là bạn lâu năm nhất của Bourne bước tới, giọng run run, “Đừng làm thế”. Langford ung dung gấp tờ giấy có chữ ký lại và đứng lên khỏi bàn, phớt lờ con trai mình. Thay vào đó, ông ta phóng cái nhìn lạnh lùng về phía Bourne. “Cậu nên cảm ơn ta vì đã dạy cho cậu một bài học đáng giá khi ở độ tuổi còn trẻ như vậy. Thật không may là bây giờ cậu chẳng còn gì ngoài bộ quần áo trên người và một trang viên trống rỗng.” Tử tước liếc nhìn chồng tiền trên bàn - phần còn lại của số tiền thắng cuộc từ buổi chiều tối. “Thế này nhé, ta sẽ để lại cho cậu số tiền kia, được không? Một món quà từ biệt, nếu cậu muốn. Xét cho cùng, cha của cậu sẽ nói sao nếu ta bỏ đi mà không để lại gì cho cậu?” Bourne bật dậy khỏi ghế, đẩy nó lùi ra sau. “Ông không đủ tư cách để nói về cha tôi.” Langford nhướng một bên mày trước việc biểu lộ cảm xúc không kiềm chế ấy, và để sự im lặng bao trùm một lúc lâu. “Cậu biết đấy, ta tin rằng rốt cuộc thì mình sẽ lấy số tiền đó thôi. Và cả tư cách hội viên của cậu ở câu lạc bộ này. Đến lúc cậu phải rời đi rồi.” Má Bourne đỏ bừng khi thấm thía từng từ ngữ kia. Tư cách thành viên câu lạc bộ của anh. Đất đai, người hầu, ngựa, quần áo của anh, tất cả mọi thứ. Toàn bộ ngoại trừ một căn nhà, vài mẫu đất, và một tước hiệu. Một tước hiệu giờ đây trở thành nỗi nhục nhã. Tử tước nhếch mép cười nhạo báng và búng một đồng ghi-nê qua không trung về phía Bourne. Theo bản năng, anh vươn tay ra bắt lấy đồng tiền vàng khi nó lóe lên trong ánh đèn sáng rực của căn phòng đánh bài ở White. “Hãy chi tiêu một cách khôn ngoan nhé chàng trai. Nó là thứ cuối cùng cậu có được từ ta.” “Cha à”, Tommy thử lần nữa. Langford chĩa mũi dùi sang cậu. “Không nói thêm một lời nào nữa. Ta sẽ không để ngươi cầu xin cho nó.” Người bạn lâu năm nhất của Bourne nhìn anh buồn bã, giơ bàn tay ra dấu lực bất tòng tâm. Tommy cần cha của mình. Cần tiền của ông ta. Sự chu cấp của ông ta. Bourne đã không còn những thứ đó cho riêng mình. Lòng căm thù bùng lên mãnh liệt và dữ dội trong giây phút ngắn ngủi, trước khi nó biến mất và bị dập tắt bởi vẻ kiên quyết lạnh lùng. Bourne bỏ đồng tiền vào túi rồi quay lưng lại với giới quý tộc của anh, câu lạc bộ của anh, thế giới của anh, và cuộc sống mà anh đã luôn quen thuộc. Thề sẽ báo thù. Mời các bạn đón đọc Canh Bạc Hôn Nhân của tác giả Sarah MacLean.
Trân Châu Cảng
*“Trân Châu cảng” - ngày 07/12/1941 - một sự kiện kinh hoàng cho nước Mỹ và cả thế giới khi không quân Nhật bất ngờ tấn công vào Trân Châu cảng. Điều này đã đặt dấu chấm hết cho thời kỳ “ngây thơ vô tội”…và là sự khởi đầu đầy vinh quang của nước Mỹ. *Với bút pháp thần kỳ, mang đậm nét nhân văn, Randall Wallace sẽ mang đến cho độc giả sự đồng cảm sâu sắc về nỗi đau, nỗi mất mát lớn lao về tinh thần lẫn thể xác mà chiến tranh để lại cho nhân loại. *“Trân Châu cảng” - một câu chuyện bất ngờ gây chấn động, một thất bại thảm hại, một chiến thắng anh dũng và vượt trên tất cả là sự gắn kết một chuyện tình tuyệt đẹp! *** Trận Trân Châu cảng là một chiến thắng thể hiện rõ tinh thần và khả năng của quân nhân Nhật Bản, đặc biệt là hải quân và không quân. Ngoài ra nó cũng cho thấy kỹ nghệ phục vụ chiến tranh của Nhật Bản rất phát triển, thể hiện rõ qua số lượng tàu sân bay cao hơn cả của Mỹ và Anh cộng lại vào thời điểm đó. Tuy nhiên, tham vọng quá lớn của giới quân phiệt đã đẩy Nhật Bản đến thất bại cay đắng và như giới chuyên môn đã nhận định, việc lôi kéo Hoa Kỳ vào cuộc chiến là sai lầm chiến lược dẫn đến thất bại của phe trục trong Thế chiến 2. Cuốn sách tổng hợp rất nhiều thông tin chi tiết, bố cục hợp lý, là một tài liệu tham khảo tốt. *** Mùi thơm ngọt ngào của mảnh gỗ thông bay đến mũi Danny Walker. Rafe McCawley đã khoan hai lỗ nhỏ bằng đầu đinh rồi luồn sợ dây thừng qua. Sau đó, hai thằng bé cột chặt sợ dây ngang thắt lưng trông cho giống dây an toàn thường thấy trên máy bay. Hai đứa đang ngồi trong một thùng bia cũ bằng gỗ. Miệng thùng chẳng to hơn cái thố đựng nước là mấy, tuy nhiên cũng đủ rộng cho hai thân hình mỏng dính gầy gò. Rafe và Danny mới 10 tuổi đầu. Chúng ở trên mảnh đất vốn là một thái ấp cũ. Lúc này, nước Mỹ đang trong cơn đại khủng hoảng của những năm 1930. Nhưng hai thằng bé này sang lắm! Có máy bay riêng! Một chiếc máy bay có hai tầng cánh, thuộc loại nhỏ dùng để rải phân bón ngoài ruộng - một phương tiện lao động thường thấy ở khắp miền Nam nước Mỹ. Cha của Rafe mang chiếc máy bay cũ kỹ ấy về nhà. Thân máy bay bị bể. Máy móc hư nát, không thể dùng được. Ông tháo tung cỗ máy cồng kềnh ấy ra để lấy những phần phụ tùng còn tận dụng được. Lúc này, cánh máy bay là những mảnh gỗ, giẻ rách và đống dây kẽm gai rỉ sét. Quạt gió là cái cánh quạt gẫy nát ai đó vất sau góc vườn nhà. Rafe lượm về lắp cho máy bay của mình. Còn kính chắn gió của máy bay được làm bằng tổ chim sẻ. Khi còn nguyên vẹn, máy bay này đã từng lướt nhẹ trên bầu trời Tennessee. Bây giờ trong tâm trí của hai thằng bé sống nơi thôn dã, chiếc máy bay này là thứ tàu lượn bay nhanh nhất và xa nhất thế giới. Rafe hét lên: - Quân địch đang tới từ phía cánh trái kìa! Nó giả vờ nghiêng ngửa, ngả vai vào người Danny. Tuy tay thằng Rafe gầy gò, chỉ có da bọc xương, nhưng thân hình khá cao ráo. Đặc biệt, nó có cặp mắt nhanh nhẹn của một phi công. Mặc dù mới bước sang tuổi 11 nhưng Danny cũng nhận ra Rafe có tố chất thiên bẩm qua ánh mắt của bạn mình. Không hề có sự sợ hãi, tức giận. Chỉ là ánh mắt rất tinh tường và quả quyết. - Tớ thấy chúng rồi! - Danny trả lời. Trong khi ấy, thằng Rafe đá lưỡi kêu rừ rừ tạo Rafe âm thanh gầm rú của những chiếc máy bay tưởng tượng. Vừa la lối, và vừa cầm chiếc chổi cũ lượn tới lượn lui như thể nó đang lướt đi trong không trung vậy. - Danny! Hạ chúng ngay! - Được rồi! Rafe.. pằng pằng.. Thằng Danny mím môi phát ra âm thanh giả tiếng súng máy đang nã đạn. Danny thích cái cách Rafe gọi tên nó. Nghe âu yếm như hai người anh em ruột gọi nhau vậy. Rafe là người duy nhất trên đời này gọi nó là Danny. Trước đây, mẹ nó cũng gọi nó là Danniel. Nhưng bà đã chết khi Danny mới lên 4 tuổi. Cái từ đẹp đẽ nhất mà cha nó thường gọi nó chỉ đơn giản là nhóc tỳ mà thôi.   Mời các bạn đón đọc Trân Châu Cảng của tác giả Randall Wallace.