Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PDF TRƯỜNG CA CHĂM - Ariya Cam - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ

Đầu thế kỉ XX, một nhà xã hội học người Pháp thời danh là Paul Mus đánh giá văn học Chăm một cách oan uổng rằng nó chỉ có thể tóm tắt trong 20 trang sách, nghĩa là không có gì đáng nói cả! Thế nhưng, vào năm 1994-95, một nhà nghiên cứu Chăm lúc đó còn vô danh: Phú Trạm, bút danh là Inrasara, sau 20 năm sưu tầm nghiên cứu đã làm điều ngược lại: bộ Văn học Chăm, khái luận-văn tuyển 1.200 trang của ông được xuất bản, đánh dấu một bước ngoặc quan trọng trong việc giới thiệu nền văn học dân tộc phong phú và đặc sắc có nguy cơ thất truyền này đến với cộng đồng các dân tộc Việt Nam và thế giới.Công trình mang tính khai phá này đã được Trung tâm nghiên cứu Lịch sử và Văn minh Đông dương (CHCPI) thuộc Trường Đại học Sorbonne (Pháp) công nhận bằng Giải thưởng năm 1995 dành cho nó. Giám đốc Trung tâm Lafont xem “đây là công trình có giá trị khoa học lớn”. và GS Nguyễn Tấn Đắc “tin rằng Văn học Chăm sẽ được đón nhận như một tin vui lớn, không những trong cộng đồng người Chăm, trong các tộc người trên đất nước Việt Nam, mà cả trong giới chuyên môn trên thế giới” (Tựa: Văn học Chăm – Khái luận, NXB Văn hóa Dân tộc, 1994).Mười năm đi qua, bộ ba Văn học Chăm đã hết. Nhà thơ kiêm nhà nghiên cứu ngôn ngữ – văn chương Chăm không dừng ở đó. Ông tính sẽ cho ra mắt bạn đọc cả nước và thế giới một công trình đầy đủ hơn, và đồ sộ hơn: Tủ sách Văn học Chăm. Dự tính 10 tập trong sẽ lần lượt xuất bản trong 5 năm: 2006-2010.Trường ca Chăm nằm trong Tủ sách ấy.Trích “Lời nói đầu”:“Trường ca Chăm là tập 3 trong bộ sách có tên gọi Tủ sách Văn học Chăm, gồm 10 tập, do Inrasara chủ trì biên soạn. Bộ sách sẽ ra mắt độc giả tuần tự trong 5 năm tới.Trường ca Chăm gồm 2 ariya thế sự: Ariya Glơng Anak, Ariya Ppo Parơng và 2 ariya trữ tình: Ariya Xah Pakei, Ariya Cam – Bini. Mỗi tác phẩm được trình bày qua nguyên tác bằng Akhar thrah (gồm cả bản chép tay và bản chữ Chăm truyền thống trên máy vi tính), chuyển tự Latin, đối chiếu dị bản, dịch nghĩa, dịch thơ và phần Index.Trước đó, ở Phần dẫn nhập, Inrasara nêu khái quát vài nét đặc trưng của ngôn ngữ và thi ca Chăm, thể thơ ariya của Chăm, tình trạng văn bản cũng như tình hình sưu tầm và công bố văn bản Chăm trong hơn thế kỉ qua. Trong kho tàng văn bản chép tay này, người viết đưa ra nêu lên vài tiêu chí để xác định đâu là văn bản văn chương và phân loại các thể loại văn chương. Sau đó là việc xét đến vị trí của 4 ariya trên trong văn chương Chăm; cuối cùng là phần phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của mỗi tác phẩm.”Đây là công trình nghiên cứu có giá trị khoa học cao, một ý hướng và thành tựu đáng kể nhằm khôi phục một phần quan trọng trong nền văn hóa dân tộc có bề dày truyền thống, cống hiến vào nền văn hóa đại gia đình văn hóa Việt Nam, góp phần thiết thực vào sự hiểu biết chung giữa các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

TRUYỆN CỔ NƯỚC NAM - ÔN-NHƯ NGUYỄN VĂN NGỌC
Xưa có một anh chàng ngu dại quá mà yêu thương vợ cũng quá. Gặp khi vợ đang nằm bếp anh cứ lại luôn bên giường hỏi : « Mình ăn gì ? Mình ăn gì để tôi mua ». Xưa có một anh chàng ngu dại quá mà yêu thương vợ cũng quá. Gặp khi vợ đang nằm bếp anh cứ lại luôn bên giường hỏi : « Mình ăn gì ? Mình ăn gì để tôi mua ».Đang lúc mệt không buồn nói, lại được ông chồng cứ kè kè hỏi đi, hỏi lại mãi vợ tức mình, khùng lên đáp rằng : « Ăn gì ? Ăn gì ? Ăn cái con tù lì ». Chồng nghe nói, ngỡ thật, vội vàng đi kiếm được tám tiền, xăm xăm ra chợ để mua tù lì. Đi khắp chợ dưới, chợ trên, chợ đông, chợ đoài, thấy ai bán con gì cũng hỏi, nhưng không thấy ai nói là bán tù lì cả. Chiều đã xế bóng, trong bụng đang băn khoăn, không biết mua đâu cho ra tù lì, thì chợt nó trông thấy bên đường có một con sông nước trong leo lẻo. Nó liền cởi khố để trên bờ, rồi nhảy xuống sông tắm. Lúc tắm xong lên, thì cái khố không cánh đã bay đi đằng nào mất. Nó hốt hoảng cứ tồng ngồng thế đi tìm khố. Đi vào làng kia, nó thấy một người đang cầm cái cờ đi dẫn đám ma. Quáng mắt, nó tưởng cái khố của nó, nó mởi rảo cẳng chạy lại kêu to lên rằng : « Cha tổ bây ! Ơi bây ! Sao dám lấy khố của ông mà dẫn người chết ? » Nhà đám thấy thằng láo xược, bảo nhau đánh nó. Nó ù té chạy về nhà, vừa khóc, vừa mếu, kể lể với vợ rằng : « Tôi đem tiền đi mua tù lì về cho u nó ăn. Tù lì mua chẳng được, tôi cởi khố xuống sông, tôi tắm mát. Thì đến lúc lên, cái khố của tôi nó mất biến đi đâu mất. Tôi vào làng kia, tìm khố thì chẳng may bị người một nhà đám nó đánh tôi đau lắm… » Vợ hỏi : « Khổ chưa ! Sao lại để nó đánh cho ? » Chồng vừa quệt nước mắt, vừa nói : « Tôi tưởng nó lấy khố của tôi, nó làm cờ dẫn ma, nên tôi chửi nó, tôi đòi lại ». ... Đang lúc mệt không buồn nói, lại được ông chồng cứ kè kè hỏi đi, hỏi lại mãi vợ tức mình, khùng lên đáp rằng : « Ăn gì ? Ăn gì ? Ăn cái con tù lì ». Chồng nghe nói, ngỡ thật, vội vàng đi kiếm được tám tiền, xăm xăm ra chợ để mua tù lì. Đi khắp chợ dưới, chợ trên, chợ đông, chợ đoài, thấy ai bán con gì cũng hỏi, nhưng không thấy ai nói là bán tù lì cả.Chiều đã xế bóng, trong bụng đang băn khoăn, không biết mua đâu cho ra tù lì, thì chợt nó trông thấy bên đường có một con sông nước trong leo lẻo. Nó liền cởi khố để trên bờ, rồi nhảy xuống sông tắm.Lúc tắm xong lên, thì cái khố không cánh đã bay đi đằng nào mất. Nó hốt hoảng cứ tồng ngồng thế đi tìm khố. Đi vào làng kia, nó thấy một người đang cầm cái cờ đi dẫn đám ma. Quáng mắt, nó tưởng cái khố của nó, nó mởi rảo cẳng chạy lại kêu to lên rằng : « Cha tổ bây ! Ơi bây ! Sao dám lấy khố của ông mà dẫn người chết ? »Nhà đám thấy thằng láo xược, bảo nhau đánh nó. Nó ù té chạy về nhà, vừa khóc, vừa mếu, kể lể với vợ rằng : « Tôi đem tiền đi mua tù lì về cho u nó ăn. Tù lì mua chẳng được, tôi cởi khố xuống sông, tôi tắm mát. Thì đến lúc lên, cái khố của tôi nó mất biến đi đâu mất. Tôi vào làng kia, tìm khố thì chẳng may bị người một nhà đám nó đánh tôi đau lắm… »Vợ hỏi : « Khổ chưa ! Sao lại để nó đánh cho ? »Chồng vừa quệt nước mắt, vừa nói : « Tôi tưởng nó lấy khố của tôi, nó làm cờ dẫn ma, nên tôi chửi nó, tôi đòi lại »....
AI CÓ VỀ QUY NHƠN - TRẦN ĐÌNH THÁI
Ấn tượng về “tư thế 100 năm Quy Nhơn” còn là hình ảnh của những con đường : mạng lưới đường bê tông nhựa đang hoàn chỉnh ở phía Đông sân bay Quy nhơn, đại lộ xuyên thành phố trên cơ sở đường băng cũ đang vươn mình; các đường ngang như Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu đã được làm mới... Những con đường mới không chỉ dừng lại ở nội thành. Thành phố còn vươn xa hơn trên những công trình đường Nguyễn Huệ , đoạn đường Quy Nhơn – Sông Cầu đang mở... Ấn tượng về “tư thế 100 năm Quy Nhơn” còn là hình ảnh của những con đường : mạng lưới đường bê tông nhựa đang hoàn chỉnh ở phía Đông sân bay Quy nhơn, đại lộ xuyên thành phố trên cơ sở đường băng cũ đang vươn mình; các đường ngang như Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu đã được làm mới... Những con đường mới không chỉ dừng lại ở nội thành. Thành phố còn vươn xa hơn trên những công trình đường Nguyễn Huệ , đoạn đường Quy Nhơn – Sông Cầu đang mở... Những con đường phóng ngang phóng dọc trên bản đồ như những mạch máu căng tràn sức sống, nuôi sống cơ thể thành phố. Mới đây khi tìm tư liệu ở thư viện Bình Định, tình cờ tôi có trong tay tập sách “ Ai có về Quy Nhơn” của Trần Đình Thái xuất bản năm 1973, giá trị của nó có lẽ còn nhiều điều để bàn nhưng từ sự mô tả đường phố, đời sống môi trường... Quy Nhơn lúc ấy, bất chợt tôi ra đứng ở ban công nhìn ra con đường Trần Phú, chỉ nhìn thôi và với chừng âý so sánh giữa hai thời điểm 1973 với 1997 đã thấy cả một sự thay đổi đến diệu kỳ.
CÕI ĐÁ VÀNG - NGUYỄN THỊ THANH SÂM
Trần thả ngòi bút trên trang giấy chi chít những dòng chữ, trận đánh cuối mùa chiến dịch Đông Xuân với những hình ảnh sống động độc đáo nhất được chàng trần thuật lại trên mười trang giấy bằng một giọng văn thâm trầm sắc sảo. Chàng đứng dậy vuôn vai, sự mệt nhọc xâm chiếm cơ thể, chàng bước tới đẩy liếp cửa ra sân, mảnh trăng khuyết còn lơ lửng góc trời, ánh sáng mờ đục bàng bạc khắp nơi, Trần mỉm cười với trăng, nghĩ bâng quơ: “Ờ, thế mà tưởng là đã lặn rồi chứ.”  Khí núi mát lạnh làm chàng tỉnh táo, người cảm thấy nhẹ nhàng, chàng bách bộ quanh sân, tận hưởng phút giao hòa của Trời Đất bên triền đồi núi này, một chút kinh ngạc thích thú thoáng hiện trong mắt chàng. “Thế ra trời sắp sáng chứ không phải là nửa đêm, ánh sáng này pha lẫn bình minh chứ không phải là ánh trăng khuya, ra mình đã thức trắng đêm nay, đã viết triền miên như vô cùng tận, vậy mà vẫn không kịp, không đủ, không hề đủ. Cuộc sống quả là kỳ diệu, ta mãi mãi ngạc nhiên mà vẫn không vơi những chuyện lạ, ta nghĩ hoài về nó mà không hề mãn ý, ta sẽ sống hoài những đêm tràn đầy như đêm nay, mười năm, hai mươi năm, một trăm, một ngàn năm sau nữa, có lẽ cũng không hề đủ.
TRƯƠNG CHI - NGUYỄN HUY THIỆP
Bấy giờ có một chàng trai làm nghề chài lưới tên là Trương Chi. Hàng ngày Trương Chi chèo thuyền đến quãng sông đó quăng chài, giăng lưới để kiếm sống. Trương Chi xấu người nhưng hát thì tuyệt hay. Trương Chi, khi chàng vừa cất lời vừa gõ mái chèo cho động cá thì tiếng hát chàng hãy còn khoan nhặt, khi chàng ngừng gõ mái chèo rồi thì cả quãng sông chỉ còn thiết tha tiếng hát… Bấy giờ có một chàng trai làm nghề chài lưới tên là Trương Chi. Hàng ngày Trương Chi chèo thuyền đến quãng sông đó quăng chài, giăng lưới để kiếm sống. Trương Chi xấu người nhưng hát thì tuyệt hay. Trương Chi, khi chàng vừa cất lời vừa gõ mái chèo cho động cá thì tiếng hát chàng hãy còn khoan nhặt, khi chàng ngừng gõ mái chèo rồi thì cả quãng sông chỉ còn thiết tha tiếng hát… Truyện cổ tích Việt Nam  là những truyện truyền miệng dân gian kể lại những câu chuyện tưởng tượng xoay quanh một số nhân vật quen thuộc như nhân vật thông minh,ngốc nghếch, nhân vật dũng sĩ, người mồ côi, người em út, người con riêng, người nghèo khổ, người quái hình dị dạng và cả những câu chuyện kể về các con vật nói năng và hoạt động bình thường như con người.nó còn là chuyện từ ngày xưa chưa biết là có thật hay không.Truyện cổ tính thường mang yếu tố hoang đường, kì ảo, thể hiện ươc mơ của nhân ta về chiến thắng cuối cùng của cái thiện và cái ác, sự công bằng và bất công.Truyện cổ tích Việt Nam