Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giải Mã Tâm Linh -Sự Sống Sau Cái Chết Linh Hồn - Có Hay Không? - Jeffrey Long, M.D. & Paul Perry

Bằng chứng khoa học thuyết phục nhất về đời sống sau cái chết : "Có đời sống sau cái chết không?"... Bác sĩ chuyên khoa xạ trị ung thư Jeffrey Long lý luận: "Nếu bạn tìm hiểu các bằng chứng khoa học thì câu trả lời ở đây chắc chắn là có. "Nghiên cứu nội dung các trải nghiệm cận tử suốt hàng chục năm qua... ông rút ra kết luận gây nhiều tranh cãi đó." "Cuốn sách giá trị tìm hiểu về trải nghiệm cận tử này trình bày những bằng chứng thuyết phục cho thấy rằng ý thức con người không bị ràng buộc bởi những hoạt động của não bộ." *** Paul Perry là một nhà báo và nhà sản xuất phim tài liệu nổi tiếng. Ông là thành viên của Trung tâm Nghiên cứu Truyền thông Gannett tại Đại học Oregon ở Eugene, Oregon, Mỹ và là Tổng biên tập của tạp chí American Health. Paul Perry từng được Hoàng gia Bồ Đào Nha phong tặng *** Năm 1984, tôi tình cờ đọc được khái niệm về Trải nghiệm Cận tử (TNCT) trong một tạp chí y học nọ. Vài năm sau, tôi lại nghe vợ của một người bạn kể về TNCT khi cô ấy sắp qua đời do phản ứng sốc thuốc trong lúc được gây mê. Hơn mười năm sau, năm 1998, tôi bắt đầu nghiên cứu về vấn đề này và thành lập Tổ chức Nghiên cứu về Trải nghiệm Cận tử (NDERF: Near Death Experience Research Foundation) và trang web NDERF.org ra đời từ đó. Một trong những mục tiêu của tôi khi thành lập trang web này là thu thập nhiều TNCT rồi tổng hợp lại bằng 1 bảng câu hỏi để dễ phân loại và nghiên cứu từng yếu tố liên quan đến TNCT. Với bảng câu hỏi này, tôi có thể nghiên cứu các yếu tố độc lập trong TNCT hoặc toàn bộ TNCT. Tôi nghĩ rằng mình phải rất nỗ lực mới có thể mong thành công phần nào, cuối cùng hóa ra tôi lại thành công trên mức mong đợi. Trong 10 năm đầu tiên, hơn 1.300 người trải nghiệm TNCT đã dành nhiều thời gian quý báu để tham gia trả lời hơn 100 câu hỏi chi tiết trên trang web NDEFR. Họ là những người đến từ nhiều chủng tộc, tín ngưỡng, và hầu như khắp mọi nơi trên trái đất. Việc có nhiều người sẵn lòng chia sẻ TNCT của mình cùng người khác cho thấy rằng các trải nghiệm này thực sự ảnh hưởng lớn đến từng cá nhân. Họ mô tả trải nghiệm của mình bằng nhiều cách khác nhau, có người cho rằng “không thể nói được” không thể tả được “không bao giờ quên được”, “trên cả tuyệt vời”,... Hơn 95% cảm thấy TNCT của mình là “rất thật”, trong khi những người còn lại thì cho rằng “có thể thật”. Không một ai cho rằng “hoàn toàn không thật”. Một số người cho rằng không những họ đã trải qua những sự kiện rất thật mà còn xem đó là một sự trải nghiệm kỳ diệu trong đời mình. Dưới đây là chia sẻ của một người suýt chết trong một lần tự sát: Tôi cảm thấy bình yên. Không chút đau đớn. Tôi thấy cuộc đời mình tràn ngập tình yêu của Chúa. Tôi không còn chút bận tâm nào với những gì tôi đã làm thậm chí với cả hành động tự sát vừa rồi. Sức mạnh của tình yêu thật sự đã thay đổi hành vi của tôi. Chính hồng ân của Chúa, chấp nhận hoàn toàn, và tình yêu trọn vẹn đem lại niềm vui trong tôi. Tôi tìm được tình yêu trong tôi không chỉ từ ánh sáng của Chúa rọi vào tim tôi, mà tình yêu đó chính là một phần gắn liền con người tôi. Trong tôi tràn ngập tình yêu. Tôi cảm nhận được sự hân hoan trong khoảnh khắc ấy. Tôi không thể diễn tả hết cảm xúc kỳ diệu này. Tôi đã nghe sự mô tả như thế này từ nhiều người có TNCT. Bạn hãy hình dung xem - một trải nghiệm khởi đầu bằng nỗi khiếp sợ khi sự sống bị đe dọa và hóa thành một sự kiện kỳ diệu và bí ẩn? Tôi là một nhà khoa học, và vì thế NDERF của tôi cũng làm việc rất khoa học. Tại NDERF, chúng tôi nghiên cứu tất cả các yếu tố của TNCT nơi hơn một nghìn người khác nhau. Để có được kết luận chính xác chúng tôi luôn tuân thủ nguyên tắc cơ bản của khoa học là: những gì có thật sẽ không thay đổi trong mọi tình huống khác nhau. Theo kết quả nghiên cứu từ NDERF, có một điều rất đáng lưu ý nơi nội dung TNCT. Những nghiên cứu ở đây cho thấy rằng những gì người ta khám phá qua TNCT về Thượng đế, tình yêu, kiếp sau, những khó khăn trần tục, sự tha thứ, và nhiều khái niệm khác không hề chịu sự tác động của sự thay đổi về nền văn hóa, chủng loài, và tín ngưỡng của từng cá nhân. Đồng thời, những khám phá này không phải là những niềm tin đã tồn tại trước đó, không phải là các giáo điều xưa cũ, hay bất kỳ sự hiểu biết trần tục nào. Trong một thế giới hiện đang tồn tại quá nhiều thứ gây tổn hại đến tâm hồn con người như thế này, khám phá trên quả là một tin tốt lành. Những vấn đề của cá nhân và xã hội mà nhân loại hiện đang phải đối mặt - ma túy, nghiện rượu, trầm cảm, bạo lực, lo lắng, xung đột tôn giáo, phân biệt chủng tộc v.v... - có thể bị ảnh hưởng sâu sắc bởi một trải nghiệm phổ biến và có tác động mạnh như thế. Vì TNCT xảy ra với mọi người trên thế gian, TNCT sẽ là yếu tố tâm linh đưa chúng ta xích lại gần nhau, trải nghiệm này nhắc nhở chúng ta về tính tương tác tâm linh giữa người và người. Ít ra thì tổ chức nghiên cứu NDERF cũng góp phần nâng cao kiến thức của chúng ta về mối quan hệ tâm linh này. Những nghiên cứu của NDEKF cũng rất đáng giá khi nó giúp chúng ta có được sự hiểu biết sâu sắc về những gì sẽ xảy ra khi chúng ta qua đời. Đã từ lâu tôi không còn tin rằng chết là chấm dứt sự tồn tại. Tôi đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu vấn đề này. Tôi được sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa học. Cha tôi là trưởng khoa Dược lý tại Đại học Iowa và đã từng được đề cử giải Nobel. Chính cha tôi và những thành viên khác trong gia đình đã giúp tôi phát huy tối đa niềm đam mê khoa học của mình. Tôi đã vận dụng khoa học để nghiên cứu hơn 1300 trường hợp chia sẻ cùng NDERF, tôi tin rằng với 9 loại bằng chứng được trình bày trong quyển sách này sẽ chứng minh một điểm chung là: có sự sống sau cái chết. Bảng câu hỏi và những tài liệu khác trong sách này đều có trên website NDERF (http://www.nderf.org/afterlife). Bảng câu hỏi này tập trung vào các khái niệm được trình bày trong suốt quyển sách này. Do vậy tôi khuyến khích bạn đọc hết quyển sách này trước khi bạn điền vào bảng câu hỏi. ĐIỀU GÌ XẢY RA TRONG TRẢI NGHIỆM CẬN TỬ Trước khi tiếp tục, tôi cần phải giải thích Trải nghiệm Cận tử là gì. Trải nghiệm Cận tử (TNCT) là những sự kiện xảy ra với một người sắp chết, hoặc chết lâm sàng. Người có Trải nghiệm Cận tử được gọi là các(cận tử nhân". Năm 1975, tiến sĩ Raymond Moddy là người đầu tiên nghiên cứu và mô tả lại một cách khoa học về Trải nghiệm Cận tử trong quyển sách tiên phong trong lĩnh vực này, cuốn Life after Life, sau đó các bác sĩ và các nhà nghiên cứu khác cũng tiếp tục nghiên cứu sâu hơn hiện tượng này. Không có một định nghĩa nào về Trải nghiệm Cận tử được chấp nhận hoàn toàn. Nghiên cứu của NDERF định nghĩa rõ hai từ “cận tử” và “trải nghiệm”. Tôi cho rằng một người được xem là “cận tử” khi họ có nguy cơ chết nếu sự tổn hại về thể xác của họ không được khắc phục kịp thời. Các cận tử nhân thường rơi vào trạng thái hôn mê và chết lâm sàng, có nghĩa là không còn nhịp tim và hơi thở. Còn “trải nghiệm” phải diễn ra ngay thời điểm họ sắp chết. Ngoài ra, trải nghiệm này cũng phải thật rõ ràng, không phải là những mảnh ký ức được chắp vá rời rạc. Quyển sách này sẽ trình bày kết quả nghiên cứu của tổ chức nghiên cứu Trải nghiệm Cận tử NDERF. Nghiên cứu này là kết quả của cuộc khảo sát 613 cận tử nhân mới nhất đã điền đầy đủ vào bảng câu hỏi mới nhất của NDERF. Phiên bản này bao gồm rất nhiều câu hỏi được sắp xếp theo cấp độ trải nghiệm TNCT khác nhau. Bảng câu hỏi gồm có 16 câu hỏi về nội dung của sự trải nghiệm và là phương pháp nghiên cứu hợp lý nhất để phân biệt đâu không phải là TNCT và đâu chính là TNCT. Tất cả 613 các cận tử nhân mà tôi sẽ trình bày dưới đây đều có điểm từ 7 trở lên, là số điểm được cho là phù hợp với Trải nghiệm Cận tử. Khảo sát đầu tiên của NDERF nghiên cứu phản ứng của 413 cận tử nhân. Bảng câu hỏi điều tra theo cấp độ này đã không được sử dụng trong lần khảo sát đầu tiên. Không có 2 Trải nghiệm Cận tử nào giống hệt nhau. Tuy nhiên, khi nghiên cứu nhiều Trải nghiệm Cận tử, chúng ta nhận thấy các yếu tố chung thường xảy ra ở TNCT. Những yếu tố này thường xảy ra theo trật tự cố định. Các nhà nghiên cứu kết luận rằng TNCT có thể có một số hoặc tất cả 12 yếu tố sau: 1. Trải nghiệm thoát xác (OBE): linh hồn thoát ra khỏi cơ thể. 2. Dâng trào cảm xúc. 3. Xuất hiện các tình cảm tích cực mãnh liệt. 4. Đi vào hoặc xuyên qua một đường hầm. 5. Đi vào vùng ánh sáng rực rỡ huyền bí. 6. Gặp các linh hồn khác, các nhân vật huyền bí hoặc người thân và bạn bè quá cố. 7. Cảm giác không gian hoặc thời gian bị biến đổi. 8. Hồi tưởng lại cuộc đời. 9. Bước vào một thế giới thoát tục (“giống thiên đàng”). 10. Có được những hiểu biết đặc biệt. 11. Tiếp cận một ranh giới hay một rào cản. 12. Trở về thể xác dù tự nguyện hoặc không tự nguyện.   Mỗi yếu tố trên đều được mô tả một cách tỉ mỉ qua từng trường hợp cụ thể cũng như tỷ lệ sẽ các cận tử nhân đã từng trải qua yếu tố trên mà tôi đã thu thập qua hơn mười năm nghiên cứu. Mời các bạn đón đọc Giải Mã Tâm Linh -Sự Sống Sau Cái Chết Linh Hồn - Có Hay Không? của tác giả Jeffrey Long, M.D. & Paul Perry.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lưỡi - Jo Kyung-ran
 Jo Kyung Ran đã viết nên một tác phẩm mang nhiều sắc thái của tình yêu có lúc yên bình khi lại vô cùng dữ dội, thông qua "lưỡi" - một hình ảnh trần trụi khiến người ta phải tò mò. Jo Kyung Ran viết Lưỡi xoay quanh một đầu bếp người Hàn chuyên ẩm thực Ý. Mối tình 7 năm của cô vừa kết thúc, cô dần mất niềm đam mê cho nấu ăn và mất cả vị giác. Tác phẩm như một làn gió mới trong nền văn học Hàn hiện đại khi nó không đặt nặng yếu tố văn hóa quốc gia như thường thấy. Sách viết theo ngôi thứ nhất, với nhân vật chính kể về nỗ lực cô tiếp tục sống sau tan vỡ tình cảm, niềm đam mê ẩm thực, ký ức tuổi thơ và về cuộc sống đời thường của cô đầu bếp trẻ. Dù không yêu thích nấu ăn nhưng có lẽ bạn vẫn sẽ bị  Lưỡi cuốn hút bởi những khía canh khác tình cảm, gia đình, xã hội… được Jo Kyung Ran thể hiện nhiều trong cuốn sách. Tiểu thuyết Lưỡi vượt ra khỏi ranh giới Hàn Quốc, được cộng đồng độc giả Anh ngữ đánh giá cao. Những câu văn Jo Kyung Ran miêu tả thực phẩm, quá trình chế biến, phục vụ và thưởng thức đồ ăn thật sự độc đáo, chúng được tác giả sử dụng như ẩn dụ cho tình yêu và đôi lúc là cả tình dục. Nét miêu tả của tác giả biến hóa vô cùng đa dạng từ gợi hình gợi cảm của một trái táo tầm thường: "Táo có hương vị của tự nhiên , của huyền bí, của hình dáng những đám mây và tiếng gió luồn qua kẽ lá, nhưng chính các tăng lữ lại cấm người ta ăn táo. Tất cả là do vị ngọt ngập đầy khoang miệng khi vừa bập răng vào". Nhưng ngay lập tức lại khiến người đọc cảm thấy rợn người với cách người ta làm ra một món ăn xa xỉ như gan ngỗng: "Để có gan ngỗng béo, người ta gây sốc điện trên não bộ con ngỗng, thậm chí khoét mắt nó, vậy là con vật chẳng bận tâm điều gì khác ngoài thao tác ăn cặm cụi như máy bất chấp đói no cho đến khi béo xù đủ đem mổ thịt". Nữ nhà văn cũng nhiều lần đưa đầu mối về nội dung đoạn kết xuyên suốt tập truyện để người đọc giải mã nhưng cho đến chương cuối vẫn là một kết cục bất ngờ. Jo giữ vững văn phong giàu tính biểu tượng của mình như một tuyên ngôn bất hủ về tình yêu: “Đem lòng yêu cũng giống như xăm chữ lên mu bàn tay. Dù cố sức tẩy xóa thì về sau vẫn còn dấu tích mờ. Bởi vậy cậu phải chắc chắn rằng cậu thực sự muốn thế. Phải chắc chắn rằng cậu đã suy nghĩ kỹ càng”. Tình yêu còn được Jo lồng ghép vào những món ăn qua cách miêu tả gia vị cũng giàu hình tượng càm cảm xúc. Với cô, lá húng quế là biểu tượng của nỗi buồn, dù điều này có thể khiến các ẩm thực gia phản đối.  Xuyên suốt tác phẩm, nhà văn 45 tuổi đổi giọng văn liên tục để tách biệt suy nghĩ của cô về tình yêu và cuộc sống. Tác giả đưa vào truyện một vụ tự tử - một cái chết buồn – chi tiết hay được Jo đưa vào truyện của mình. Cô xuất sắc lựa chọn câu chữ thể hiện rõ nét buồn và bất ổn trong tính cách nhân vật chính, qua việc cô đầu bếp xui xẻo thay đổi tâm trạng và nơi ở liên tục. Câu chuyện nhiều tình tiết kết nối, nút thắt, là kiệt tác viết về một tâm hồn trẻ tan vỡ, mất định hướng trước cuộc sống. Nhưng đôi khi người đọc lại cảm thấy không hài lòng về lối viết văn tự sự chắp nối nhiều câu chuyện của tác giả. Dù cho những ai yêu thích văn chương Hàn đều nhận ra đó là phong cách viết rất được ưa chuộng nhất trong thể loại văn viễn tưởng tại quốc gia này. Và còn một điều lạ lùng nhất khiến nhiều người đọc thắc mắc sau khi khép cuốn sách lại đó chính là các nhân vật trong Lưỡi ăn uống với tốc độ tia chớp – điều được Jo đưa vào tác phẩm để nhấn mạnh tới chủ đề nỗi ám ảnh. *** Jo Kyung Ran sinh năm 1969 tại Hàn Quốc, tốt nghiệp khoa Sáng tác Học viện Nghệ thuật Seoul, từng tham gia Chương trình Viết văn Quốc tế của Đại học Iowa. Từ khi ra mắt tác phẩm đầu tay vào năm 28 tuổi đến nay, cô đã giành được nhiều giải thưởng văn học, đáng kể nhất là Giải Văn học Dong-in, Giải Nghệ sĩ Trẻ Ngày nay của Bộ Văn hóa và Du lịch Hàn Quốc… *** Đồng tử to, ánh đen và nâu nhạt. Đôi mắt này từng lấp lánh vì ý chí mạnh mẽ, từng lung linh vì khoái cảm mãnh liệt. Tôi không thể chịu đựng được chúng – đôi mắt đẫm lệ đang phản chiếu dưới đáy nồi đồng, đôi mắt mong chờ một điểu gì từ ai đó mặc dù biết rõ kết quả chỉ là thất vọng mà thôi. Đừng khóc nào, mình không thể khóc được. Tôi nhắm mắt, rồi lại mở ra. Giờ thì ổn rồi. Tôi lật nghiêng cái nồi và treo nó lên móc. Thật may, nước mắt không ứa ra. Tôi chuyển hướng đến cái giá xoay chất đầy dầu mỡ, chọn lấy một chai dầu ô liu nguyên chất và quay lại với chín học viên đã tụ tập ở đây từ bảy giờ tối, trong những trang phục nhăn nhúm lúc cuối ngày. Chúng tôi đang tập trung ở đây – Bếp Won – giữa lò nướng pizza bằng đá sứ, tủ lạnh, máy rửa bát đĩa, máy pha cà phê, máy xay, máy trộn, máy nghiền thực phẩm, nồi cơm điện, bếp ga. Trên tường, từ cao xuống thấp là nồi đồng và chảo thép không gỉ treo lẩn lượt theo cỡ: to-vừa-nhỏ. Ngoài ra còn ly cốc tách, quạt thông gió, máy nghiền-nén thức ăn thừa, vỉ điện, chạn, chụp hút khói, lò hâm nóng, bàn bếp, ghế đẩu, và một nồi nước sôi sùng sục. Bà tôi luôn kê một chiếc bàn lớn trong bếp. Cả nhà hay quây quần quanh chiếc bàn gỗ hình chữ nhật đơn giản và mộc mạc như bàn làm việc ấy đến tận khuya mới giải tán. Sau này chuyển lên thành phố ở, Bà vẫn giữ cái bàn, giữa bàn thường đặt giỏ tre đựng hoa quả hoặc rau. Cứ bày nguyên liệu nấu ăn trong tầm mắt như thế, Bà sẽ có hứng chế biến món mới mỗi lần đi ngang qua bàn. Thi thoảng trong giỏ lại xuất hiện khoai lang hoặc khoai tây luộc còn nóng, bốc hơi nghi ngút. Bà là đẩu bếp cừ nhất mà tôi từng biết, nhưng với những nguyên liệu như khoai lang, khoai tây hay bí ngô, Bà lại không làm gì cầu kỳ hơn là luộc hoặc nướng. Chỉ cần rải phô mai lên khi còn nóng hoặc thả vào nước xuýt là có ngay món xúp hay cháo đặc, nhưng Bà không làm thế. Bà nói những món này nên ăn theo cách chân chất, vì mình đang ăn tinh hoa của đất đai. Khi tôi nhận ra câu nói ấy tượng trưng cho đời Bà, cho cuộc sống giản dị và đẹp đẽ của Bà, thì Bà không còn ở bên chúng tôi nữa. Nắng sớm lăn tăn trên những bông hoa lê và hoa táo bên ngoài, chảy vào bếp qua ô cửa trổ hướng Đông, Bà che mắt cho khỏi chói và xì xụp món xúp cải dại. Bíp. Âm báo hẹn giờ lò nướng. Tôi rải khoai tây phơi khô, nấm xắt lát dày, lá húng quế và phô mai mozzarella lên khay bột nhào, xong rưới hai thìa dầu ô liu và đút cả vào lò đã bật nóng. Nướng mười lăm phút để phô mai chảy ra và vỏ bột sém màu bắt mắt, thế là có món chính cho buổi hôm nay, pizza-khoai-tây-khô-và-nấm. Hôm nay tôi không nghĩ mình có thể làm mấy món ân vặt để chia cho các học viên hoặc chuyện phiếm về thời tiết trong lúc đợi bánh chín như mọi ngày. Thay vào đó, tôi hướng dẫn họ cách làm khoai tây khô bằng lò sấy ở nhà. Khoai tây phơi khô tự nhiên có hương vị đậm đà hơn khoai tây tươi, nhưng lại là nguyên liệu chuyên dụng đắt đỏ. Vẫn còn mười phút. Tôi thò tay vào cái giỏ trước mặt và nhặt lấy thứ chạm đến đầu tiên. Một quả táo. – Đa dạng và ngẫu hứng, là hai điều tối quan trọng cẩn ghi nhớ trong khi nấu nướng. Mọi người đổ dồn mắt vào quả táo tôi đang giơ ngang tầm mắt. Theo giới tăng lữ thời Trung cổ, loại quả này chứa đựng tâm ý của đấng Sáng tạo. Táo có hương vị của tự nhiên, của huyền bí, của hình dáng những đám mây và của tiếng gió luồn qua kẽ lá, nhưng chính các tăng lữ lại cấm người ta ăn táo. Tất cả là do vị ngọt ngập đầy khoang miệng khi vừa bập răng vào. Họ tin rằng vị ngọt đó là một sự cám dỗ, khiến con người chểnh mảng với lời răn dạy của Thượng đế. Rồi khi vị ngọt qua đi, thì nơi đầu lưỡi còn lại toàn chua với gắt. Các tăng lữ cho rằng đó là hương vị của độc dược, của quỷ dữ. Vị ngọt, giôn giốt, chua gắt của táo chính là hương vị làm Eva lạc lối. – Nếu khống thích nấm, các bạn có thể thay bằng táo. Xắt nó thành những lát mỏng cỡ năm mi-li-mét và nếm trải một sự khác biệt. Khác hắn với vị dìu dịu của nấm, táo hơi ngọt, nhưng độ giòn của nó sẽ khiến bạn thấy mới mẻ. Giá tôi đang cẩm cà tím chứ không phải táo. Tôi chưa bao giờ làm pizza mà lại dùng táo thay cho nấm. Dối trá! Điều tôi trông chờ ở anh hóa ra lại là sự dối trá ư? Vị thứ nhất của táo, lời dụ dỗ của con rắn, ngọt ngào như mật. Vị thứ hai, tư vị khi bị trục xuất khỏi vườn Địa đàng, thì chua. Khác với trái cây thông thường, táo chín sẽ giòn lên chứ không mềm đi. Tôi rút con dao nhỏ gọt hoa quả từ giá dao mười hai chiếc. Thay vì bổ quả táo làm đôi, tôi bập chéo dao theo hình chữ V, khoét một miếng và thảy nó vào miệng.  Ngày trước, trong căn bếp đầu tiên của mình, tôi đã có đủ mọi thứ, giống như Bà. Nắng, chậu cây, đồng hồ, báo, thư, hoa quả, rau, sữa, phô mai, bánh mì, bơ, các hũ thủy tinh lớn đựng rượu trái cây, các hũ nhỏ hơn đựng gia vị, mùi cơm đẩm ấm và hương thảo ngan ngát. Có cả anh bên tôi. Để mở trường nấu ăn, chúng tôi bắt đầu tìm một nơi khác có chỗ cho căn bếp rộng hơn. Với các cửa sổ lớn, như yêu cầu của tôi. Tôi không ngó ngàng tới dạng tầng hầm dù chúng thường rộng rãi và giá thuê rẻ như cho. Ý thích về cửa sổ có lẽ bắt nguồn từ những ký ức vể căn bếp của Bà. Tôi cho rẳng mọi thứ vào nhà qua đường bếp, vì thế chúng tôi cần những khung cửa cao đảm bảo được nguồn sáng tốt. Đi du lịch tôi cũng chỉ đến những quán hàng quay mặt ra phố. Chính anh đã tìm được ngôi nhà hai tầng nhiều cửa sổ này. Tôi vô cùng phấn khích, trước cả khi cải tạo xong căn bếp để làm cho nó rộng hơn. ... Mời các bạn đón đọc Lưỡi của tác giả Jo Kyung-ran.
Lâu Đài
Frank Kafka (3/7/1883 – 3/6/1924), sinh ra trong một gia đình Do Thái trung lưu ở Prague, Bohemia (nay thuộc cộng hòa Czech), viết bằng tiếng Đức. Tác phẩm của ông, nhiều tác phẩm chưa hoàn thành và phần lớn xuất bản sau khi ông mất – đã trở thành những thành tựu lớn, có tầm ảnh hưởng bậc nhất của văn học phương Tây. Các tác phẩm chính: tiểu thuyết Vụ án (1925), Lâu đài (1926), Nước Mỹ (1927) và nhiều truyện ngắn. *** Tiểu thuyết kể về một người làm đạc điền đến lâu đài của bá tước West West để tìm việc là K., anh được thông báo là chuẩn bị nhận việc, và chức sắc trong vùng là Klamm còn viết thư động viên K. làm việc. Tuy có quen một số người như Barnabás , Olga, Frida, nhưng K. cũng không sao gặp được nhà chức trách để xem kết quả tuyển dụng. * K. đành phải chờ và sống mòn mỏi , kiệt sức trong cảnh lo âu chờ đợi. K. sống trong một thế giới có thực mà cứ như là ảo, anh nhìn thấy Lâu đài, nhưng không sao trực tiếp gặp được Klamm cũng như chức sắc cao nhất trong vùng. Tiểu thuyết "Lâu đài" là hình ảnh huyền thoại về một tổ chức quyền lực quan liêu với những sợi dây vô hình đã trói buộc cuộc đời của từng con người. Thế giới của Lâu đài là thế giới của mê cung, mang sức mạnh siêu nhiên. Con đường dẫn K vào Lâu đài là một tiểu mê cung. Ngay từ đầu, K đã muốn đi vào nhưng con đường rất dài và nó không dẫn chàng đến Lâu đài. Khi đến gần, dường như cố ý, nó lại vòng sang lối khác. Nhìn từ xa, K có thể thấy Lâu đài, song chàng không thể và vĩnh viễn không bao giờ đến được Cùng với con đường, hình ảnh Lâu đài thấp thoáng hiện lên trái với logic thông thường. Lâu đài không có vẻ cổ kính, tráng lệ mà chỉ là những quần thể nhà hợp thành, không ai biết đó là Lâu đài. Có một tháp chuông nhưng không thể nhận ra đó là tháp chuông ở nhà thờ hay của nhà ở. Con quạ xuất hiện báo hiệu sự chết chóc. Đó là quan sát từ xa. Còn nhìn gần, "Lâu đài này trong thực tế chỉ là một thị trấn thảm hại". Tiếng chuông nghe ma quái "Đổ từng hồi trầm ấm vang lên một cách vui vẻ, tiếng chuông như đe dọa vì nó cũng vang lên đau đớn". Sau đó là những tiếng chuông yếu ớt vang lên "lay lắt". Bộ máy hành chính của Lâu đài cũng là một thứ mê cung. Lâu đài thông qua những mắt xích vô tận các viên chức, thư ký, liên lạc đều nhằm đích là chống lại K. Ngẫu nhiên, Lâu đài viết thư nhận K làm đạc điền, rồi có thư khen thưởng K về công việc tuy thật ra K chưa hề biết công việc đạc điền. Qua những cuộc tiếp xúc của K với nhân viên Lâu đài, ta thấy K bị lừa. Viên trưởng thôn đã nói trắng ra: "Những cuộc tiếp xúc ấy chỉ là giả tạo, nhưng vì thiếu hiểu biết ông lại tưởng thật". K chỉ còn biết tìm đến chánh thanh tra Klamm để tìm hiểu thực hư. Song, Klamm là một chánh thanh tra quan liêu, không thèm nói chuyện với bất cứ ai trong làng, chưa một ai thật sự biết mặt y, bởi Klamm luôn thay đổi hình dạng, bí hiểm. Vì vậy, K cố biết sự thật về Lâu đài, nhưng càng theo đuổi mục đích này, anh lại càng xa nó hơn. Lâu đài là một mê cung của thế giới hành chính quyền lực vô hình. Nó cũng giống như mê cung luật pháp trong Vụ án: không thể tiếp cận, không thể tìm gặp, nó tồn tại trong cụ thể; khắp mọi nơi đều có nó mà vẫn như không có nó. *** Khi K. đến nơi thì đêm đã khuya. Ngôi làng yên nghỉ dưới lớp tuyết dày. Sương mù và bóng tối bao phủ, không thể nhìn thấy ngọn đồi có thành lũy và tòa Lâu đài lớn, dù chỉ là một ít ánh sáng mờ nhạt nhất. K. đứng hồi lâu trên chiếc cầu gỗ dẫn từ đường quốc lộ vào làng và nhìn vào khoảng không. Sau đó chàng đi tìm nơi nghỉ. Trong quán trọ người ta vẫn còn thức. Không có phòng cho thuê, nhưng ông khách đến muộn này đã làm cho người chủ quán bị bất ngờ và bối rối, anh ta đề nghị K. ngủ trên đệm rơm trong quầy uống. K. đã đồng ý. Một vài người nông dân vẫn còn ngồi lom khom bên cốc bia, nhưng chàng không muốn bắt chuyện với ai cả. Chàng mang đệm rơm xuống nằm cạnh lò sưởi. Quán trọ ấm áp, những người nông dân ngồi im lặng. K. quan sát họ một lúc bằng đôi mắt mệt mỏi rồi chàng ngủ thiếp đi. Nhưng chẳng mấy chốc người ta đã đánh thức chàng dậy. Một gã trẻ tuổi mặc quần áo như người thành phố, có khuôn mặt nghệ sĩ, - mắt ti hí, lông mày rậm, - đang đứng bên chàng cùng với chủ quán. Những người nông dân vẫn chưa về, một số quay ghế lại để nhìn và nghe cho rõ hơn. Gã trẻ tuổi xin lỗi K. một cách lịch sự vì đã đánh thức chàng dậy rồi tự giới thiệu mình là con trai quan phòng thành. Gã nói: - Cái làng này là của Lâu đài, ai sống hoặc nghỉ đêm ở đây cũng đều như là sông hoặc nghỉ đêm trong Lâu đài. phải được phép của bá tước. Ngài không có giấy tờ gì, chí ít thì ngài đã không cho chúng tôi xem. K. chống hai tay ngồi dậy, vuốt lại tóc, nhìn mọi người, hỏi: - Tôi lạc vào làng nào thế này? Chẳng lẽ ở đây có Lâu đài à? - Có chớ! - gã trẻ tuổi kiên nhẫn trả lời, và K. thấy một vài người lắc đầu. - Lâu đài của bá tước West West. - Phải có giấy phép thì mới được nghỉ đêm tại đây à? - K. hỏi như thể muốn tin chắc điều mình vừa nghe là không phải ở trong mơ. - Phải có giấy phép. - có tiếng đáp, và như để cợt nhạo K., gã trẻ tuổi dang cánh tay về phía chủ quán và những người khách: - Hay là không cần giấy phép nhỉ? - Vậy thì tôi đi xin phép. - K. vừa ngáp vừa nói, rồi hất chiếc chăn khỏi người như thể chàng muốn ngồi dậy. ... Mời các bạn đón đọc Lâu Đài của tác giả Franz Kafka & Trương Đăng Dung (dịch).
Hiệu Hạnh Phúc Các Bà - Emile Zola
Tác giả được xem như sáng lập và nhà lý luận của chủ nghĩa tự nhiên trong văn học Pháp, nhưng ông đã trờ thành nhà văn lớn chính lại nhờ ông đã vượt lên trên những nguyên lý của chủ nghĩa tự nhiên để tiến gần đến chủ nghĩa hiện thực. Với một số điểm cách tân so với chủ nghĩa hiện thực phê phán cổ điển của Banzắc và Xtăngđan và mở ra thời kỳ của chủ nghĩa hiện thực phê phán. Thường được biết đến với tên Émile Zola, là một nhà văn nổi tiếng của văn học Pháp trong thế kỉ 19, người được coi là nhà văn tiên phong của chủ nghĩa tự nhiên (naturalism). Bên cạnh những tiểu thuyết nổi tiếng, Zola còn được biết tới như là một trong những nhân vật quan trọng dẫn tới việc xét xử lại Vụ Dreyfus. Sách của ông đa phần đều thuộc loại ăn khách. “Hiệu Hạnh phúc các bà" không trở thành cái gì nặng nề quá quắt như ở một số tác phẩm khác của Émile Zola, nó là nền tảng cho hai cuộc đấu tranh gay gắt và căng thẳng - Cuộc đấu tranh giữa buôn bán nhỏ và buôn bán lớn; cuộc đấu tranh nội bộ giữa các nhân viên bán hàng thể hiện cái học thuyết đấu tranh sinh tồn của của Charles Darwin. *** Denise cùng hai em trai xuống tàu Cherbourg ở ga Saint Lazare, đi bộ sau một đêm ngồi ghế cứng trên một toa xe hạng ba. Nàng dắt tay Pépé, Jean đi theo sau, cả ba mỏi nhừ vì chuyến đi, kinh hoàng và lạc lõng giữa Paris mênh mông, hếch mũi lên như các nhà, ở mỗi ngã tư lại hỏi thăm về phố La Michodière, nơi có nhà ông chú Baudu. Nhưng cuối cùng, khi tới quảng trường Gaillon, cô gái đột ngột dừng lại ngỡ ngàng. - Ôi! - Cô nói - Jean ơi, trông kìa! Và họ đứng sững, siết chặt lấy nhau cả ba đều mặc đồ đen đã cũ vì sắp mãn tang bố. Cô gái, mảnh khảnh với tuổi hai mươi, vẻ con nhà nghèo, tay xách một gói nhẹ; còn phía bên kia thì đứa em nhỏ lên năm, níu lấy tay, sau lưng là thằng anh lớn, mười sáu tuổi, vênh vênh, phơi phới, đứng thõng hai tay. - Chà, tuyệt, - Sau một phút im lặng cô nói - một cửa hàng như thế chứ! Đó là, ở góc phố La Michodière và phố Neuve Saint Augustin, một cửa hiệu tân phẩm, hàng bày nổi bật lên những màu rực rỡ trong ánh ngày tháng mười dịu nhạt. Chuông nhà thờ Saint Roch điểm tám giờ, trên bờ hè chỉ có dân Paris dậy sớm, những nhân viên tới sở và những bà nội trợ chạy các cửa hàng. Trước cửa hiệu, hai viên thư ký bán hàng len trên một chiếc thang đôi, sắp treo xong những hàng len, còn trong một tủ kính phố Neuve Saint Augustin thì một viên thư ký khác, ngồi xổm và quay lưng đang thận trọng xếp nếp một tấm lụa xanh da trời. Trong cửa hiệu còn vắng khách mà nhân viên, thì mới đến lác đác, râm ran như một tổ ong thức dậy. - Ui chao! - Jean nói - Nó đánh bạt Valognes... Hiệu của chị chẳng đẹp đến thế. Denise lắc đầu. Cô đã hai năm làm việc ở đó, nhà Comai, tay bán tân phẩm số một thành phố; thế mà cửa hiệu này, cô bắt gặp đột ngột, nó thật là đổ sộ đối với cô, khiến cô hào hứng, xúc động, chăm chú, quên hết mọi sự. Trên vạt tường cách ngang nhìn ra quảng trường Gaillon, chiếc cửa ra vào, toàn bằng gương, cao tới tầng một, giữa những trang trí phức tạp, mạ vàng khắp lượt. Hai nhân vật biểu tượng, hai người đàn bà tươi cười, hở vú và ưỡn ra, trương lên tấm biển: Hiệu hạnh phúc các bà. Rồi những tủ kính chạy dài, suốt dọc phố La Michodière và phố Neuve Saint Augustin, ngoài ngôi nhà ở góc, chúng choán bốn ngôi nhà khác, hai bên phải, hai bên trái, gần đây mới mua và được tu sửa. Cả một cuộc triển khai dường như vô tận, mất hút theo đường viễn thị, với những hàng bầy ở tầng dưới và những tấm gương không tráng ở tầng trên, qua đó người ta nhìn thấy cả cuộc sống bên trong của các quầy hàng. Ở phía trên, một cô gái, mặc đồ lụa, gọt một chiếc bút chì trong khi hai cô khác, gần đấy, mở ra những chiếc măng-tô nhung. ... Mời các bạn đón đọc Hiệu Hạnh Phúc Các Bà của tác giả Emile Zola.
Đợi Chờ Ký Ức... - Born
Born –tác giả của "Sẽ để em yêu anh lần nữa" đã trở lại cùng cuốn tiểu thuyết mới nhất mang tên "Đợi chờ ký ức". Là tác giả từng gây nên cơn sốt trong văn học mạng, Born tiếp tục tung ra cuốn tiểu thuyết tiếp theo cũng gây nên làn sóng chấn động không kém với độc giả trẻ Việt Nam. Tiểu thuyết Đợi chờ ký ức lần này tiếp tục khai thác đề tài tình yêu, tuy nhiên là một câu chuyện éo le, đẹp nhưng cũng mang một nỗi buồn phảng phất. "Người ta nói, trên đời này thứ bền vững nhất, khó quên lãng nhất chính là ký ức. Dù là ký ức hạnh phúc hay đau thương, nó đều ghi khắc vào trong tâm trí ta, mãi mãi không rời. Vậy mà ký ức của em lại như một sợi dây mong manh, dễ dàng bị đứt lìa, rồi chìm vào quên lãng. Em thường hỏi tại sao? Nhưng trả lời em chỉ là bóng tối của sự tìm kiếm. Có phải bởi vì những ký ức bị quên lãng kia tràn ngập tình yêu của em dành cho anh, tràn ngập sự nhớ nhung và đau khổ. Cho nên em chọn cách quên lãng. Nếu ký ức của em là sợi dây mong manh, vậy thì ký ức của anh là một sợi tơ dài và dai. Nó không phai tàn theo năm tháng, cũng không dễ dàng bị đứt lìa. Bởi vì không lúc nào anh không nhớ đến em. Nỗi nhớ em chiếm trọn tâm trí anh, tình yêu dành cho em chứa đầy trong tim anh, khiến anh đau nhức từng đêm từng đêm. Nước mắt lăn dài trên mặt, rơi vào miệng, anh mới hay, thì ra tình yêu không chỉ có vị ngọt của hạnh phúc mà còn có sự mặn đắng của khổ đau…" Với mạch cảm xúc ấy, câu chuyện là một nỗi đau rất thật, nỗi đau khi tình yêu bị lãng quên, và người còn lại trở thành những ký ức mơ hồ. Viết bằng con mắt thấu hiểu tâm lý người trẻ, Born đã thổi vào cả câu chuyện một nỗi buồn kỳ dị. Tình yêu giữa hai con người vốn lung linh đầy màu sắc, bỗng chốc trở thành những cơn gió mong manh chỉ vụt mất tan. Nhưng cũng vì thế, người đọc mới có thể thấy được sự kỳ diệu của tình yêu, sự mạnh mẽ của trái tim khi yêu và những điều không ai có thể ngờ tới mà nó mang lại. *** Người ta nói, trên đời này thứ bền vững nhất, khó bị quên lãng nhất chính là ký ức. Dù ký ức hạnh phúc hay là những ký ức đau thương nhất. Nó đều ghi khắc vào trong tâm trí ta, mãi mãi không rời. Vậy mà ký ức của em lại như một sợi dây mong manh, dễ dàng bị đứt lìa. Rồi chìm vào quên lãng. Em thường hỏi tại sao? Nhưng trả lời em chỉ là bóng tối của sự tìm kiếm. Có phải bởi vì những ký ức bị quên lãng kia tràn ngập tình yêu của em dành cho anh, tràn ngập sự nhớ nhung và đau khổ. Cho nên em chọn cách quên lãng. Nếu ký ức của em là sợi dây mong manh, vậy thì ký ức của anh là một sợi tơ dài và dai. Nó không phai tàn theo năm tháng, cũng không dễ dàng bị đứt lìa. Bởi vì không lúc nào anh không nhớ đến em. Nỗi nhớ em chiếm trọn tâm trí anh, tình yêu dành cho em chứa đầy trong tim anh, khiến anh đau nhức từng đêm từng đêm. Nước mắt lăn dài trên mặt rơi vào miệng, anh mới hay thì ra tình yêu không chỉ có vị ngọt của hạnh phúc mà còn có sự mặn đắng của khổ đau. ------------------------------------------------------ Nhìn những vì sao lấp lánh trên bầu trời Anh bỗng thấy tim mình đau nhói Bởi vì anh nhớ em Nhớ người đã làm lòng anh tan nát Nhưng sao anh vẫn yêu em Người con gái đã từng làm anh hạnh phúc Đã tạo cho anh sự ấm áp. Nhưng rồi em lại nhẫn tâm đem nó đi. Yêu em, nhớ em, muốn gặp em Nhưng anh lại sợ mình không chịu nổi đau đớn này. Đành chôn chặt em vào trong trái tim Anh chưa từng quên phút giây bên em Giọng nói, ánh mắt, nụ cười của em Anh chưa bao giờ quên Bây giờ em đã lựa chọn bên người khác Anh chỉ có thể một mình gặm nhắm nỗi đau này. Chỉ muốn hét lên với em rằng. Anh yêu em, mãi mãi yêu em. Anh sẽ chờ em Chờ em quay về bên anh. Trong quán bar, nữ ca sĩ có chất giọng trầm buồn, cất lên những điệu nhạc sâu lắng khiến cho tất cả mọi người trong quán bar đều im lặng thưởng thức. Một vài cô gái mẫn cảm đã bật khóc sau khi nghe bài hát. ... Mời các bạn đón đọc Đợi Chờ Ký Ức... của tác giả Born.