Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Miền Đất Hứa Của Tôi - Khải Hoàn Và Bi Kịch Của Israel

Miền đất hứa của tôi là cuộc phiêu lưu cá nhân của một người Israel, băn khoăn trước ngập tràn biến cố lịch sử trên quê hương mình. Đây là một hành trình vượt không gian và thời gian của một người sinh ra tại Israel, nhằm khám phá câu chuyện đại sự của dân tộc mình. Thông qua lịch sử gia đình, lịch sử cá nhân và các bài phỏng vấn sâu, Shavit đã cố gắng tiếp cận câu chuyện sâu xa hơn và những câu hỏi sâu sắc hơn về Israel, về sự định hình tương lai của người Do Thái. Đây là một trong những cuốn sách quan trọng và có tác động mạnh mà Ari Shavit viết nhằm phục hồi cảm giác về thực tính của Israel và say sưa với nó, để khôi phục lại sự hùng vĩ của một thực tế đơn giản trong cái nhìn đầy đủ về các sự kiện phức tạp. Miền đất hứa của tôi gây ngạc nhiên về nhiều mặt, nhất là việc nó tương đối ít chú trọng tới việc cung cấp cho người đọc các thông tin về chính trị. Shavit, nhà bình luận trong ban biên tập của Haaretz, có một tư duy độc lập, không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ học thuyết nào. Ông viết không để ca ngợi hay đổ lỗi, dù trong quá trình ấy ông đã làm cả hai điều này, thay vào đó, với sự uyên bác và tài hùng biện; ông viết để quan sát và phản ánh. Đây là cuốn sách ít thiên vị nhất về Israel. Một cuốn sách Phục quốc Do Thái nhưng không bị kích động bởi chủ nghĩa phục quốc. Nó nói về toàn thể trải nghiệm Israel. Shavit đắm mình trong toàn bộ lịch sử của đất nước mình. Dù một số  sự kiện trong đó làm ông tổn thương, song không gì là xa lạ đối với ông. Ông đã viết một chương xuất sắc về chính trị gia tham nhũng nhưng đầy sức hút, Aryeh Deri, và sự trỗi dậy trên chính trường của tôn giáo dòng Sephardi tại Israel, qua đó minh họa rõ nét tầm hiểu biết của mình. Tuy nhiên thật may đây không phải là một cuốn hồi ký; nó là một cuộc điều tra được viết với văn phong gần gũi. Shavit khám phá xã hội của ông với sự tỉ mỉ của một người đàn ông cảm thấy bản thân mình gắn với số phận của nó, và ông không ngần ngại nói về sự tan rã của nước cộng hòa Israel trong những năm gần đây. Theo quan sát của ông “Trong vòng chưa đầy 30 năm, Israel đã trải qua bảy cuộc nổi loạn trong nước khác nhau: cuộc nổi dậy của người định cư, các cuộc nổi dậy hòa bình, cuộc nổi dậy vì tự do tư pháp, cuộc nổi dậy phương Đông, cuộc nổi dậy của dòng Chính thống cực đoan, cuộc nổi dậy của chủ nghĩa khoái lạc cá nhân và cuộc nổi dậy của người Israel gốc Palestine.” Ông lo lắng, có lẽ có phần hơi quá, rằng đất nước ông đang tan rã: “Quốc gia khởi nghiệp này phải tự khởi động lại”. Chắc chắn là không có tình tiết giảm nhẹ nào cho sự bất bình đẳng kinh tế và xã hội mà ông mô tả, hoặc những xáo trộn hoàn toàn các chính sách định cư trong vùng lãnh thổ mà Israel có một mối quan tâm khẩn cấp và lâu dài trong việc di tản. Nhưng những lời khuyên và khích lệ của Shavit rằng “luận điểm cũ về nghĩa vụ và sự cam kết đã được thay thế bằng một luận điểm mới về sự phản kháng và chủ nghĩa khoái lạc”, và “thách thức trước mắt là thách thức giành lại quyền lực quốc gia”, là u ám và khắc nghiệt hơn so với giọng văn đầy nhiệt huyết và phóng khoáng trong cuốn sách. Và khái niệm “quyền lực quốc gia” thì đi kèm với những mối liên hệ không mấy hấp dẫn. Vùng đất hỗn loạn và ồn ào trong Miền đất hứa của tôi sẽ không thể được chữa lành chỉ với những cố gắng đơn thuần để đưa nó trở lại bình thường như trước đây. *** NHỮNG DẤU CHẤM HỎI Những gì tôi còn nhớ được là nỗi sợ hãi. Nỗi sợ hãi mang tính sinh tồn. Nơi tôi lớn lên - Israel giữa thập niên 1960 - đầy nghị lực, nhiệt huyết, và hy vọng. Nhưng tôi luôn cảm thấy đằng sau những ngôi nhà đẹp đẽ với bãi cỏ phía trước nhà của tầng lớp thượng lưu thành phố quê hương tôi là một đại dương tăm tối. Tôi lo sợ có ngày đại dương tăm tối đó sẽ trào dâng và nhấn chìm tất cả chúng tôi. Một trận sóng thần như trong thần thoại sẽ đập vào bờ và cuốn Israel của tôi đi. Nó sẽ thành một Atlantis(1) nữa, chìm sâu dưới đáy biển. Một sáng tháng 6 năm 1967, khi tôi chín tuổi, tôi đến bên cha dang cạo râu trong nhà tắm. Tôi hỏi ông, liệu người Ả-rập có thắng không. Liệu người Ả-rập có chinh phục Israel của chúng ta hay không? Liệu họ có ném tất cả chúng ta xuống biển không? Vài ngày sau, Chiến tranh Sáu ngày(2) bắt đầu. Tháng 10 năm 1973, tiếng còi báo động của thảm họa bắt đẩu rền rĩ. Tôi đang bị cúm, phải nằm trên giường sau buổi trưa ngày lễ Yom Kippur(3) yên tĩnh, khi những chiếc phản lực F-4 đang xé nát bầu trời. Chúng bay ở độ cao 500 feet(4) trên mái nhà chúng tôi hướng đến kênh đào Suez, chống lại lực lượng xâm lược Ả-rập bất ngờ đánh chiếm Israel. Nhiều chiếc, trong đó đã không bao giờ trở lại. Lúc đó tôi 16 tuổi, sững sờ khi nghe tin quân đội Israel thua trận tại sa mạc Sinai và Cao nguyên Golan. Trong 10 ngày kinh hoàng này, dường như nỗi sợ hãi ban sơ của tôi đã được chứng minh. Israel đang nguy nan. Những bức tường của Ngôi đền Thứ ba(5) của người Do Thái đang rung lắc. Tháng 1 năm 1991, Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất bùng nổ. Tel Aviv bị tên lửa SCUD của Iraq bắn phá. Có người còn lo lắng về khả năng Israel bị tấn công bằng vũ khí hóa học. Trong nhiều tuần, người dân Israel mang theo mặt nạ phòng độc khi đi lại. Thi thoảng, khi có cảnh báo là đầu đạn tên lửa đã được bắn ra, chúng tôi liền đeo mặt nạ chui vào những căn phòng bịt kín. Mặc dù sau đó hóa ra không phải, nhưng có điều gì đó khủng khiếp về thứ nghi lễ kỳ quái này vẫn đọng lại. Tôi lắng nghe âm thanh còi báo động, và hoang mang nhìn vào đôi mắt kinh hãi của người thân nhốt trong những chiếc mặt nạ chống độc do Đức sản xuất. Tháng 3 năm 2002, một làn sóng khủng bố làm Israel lo lắng. Hàng trăm người chết khi những đối tượng đánh bom cảm tử Palestine tấn công các xe buýt, câu lạc bộ đêm, và trung tâm mua sắm. Một đêm, khi tôi đang viết bài nghiên cứu về Jerusalem thì nghe một tiếng nổ lớn. Tôi nhận ra chắc là ở quán bar trong khu nhà tôi. Tôi chộp lấy tập giấy viết và lao ra phố. Ba chàng trai – ngồi trong quán trước những vại bia vơi một nửa - đã chết. Một phụ nữ nhỏ nhắn chết gục trong góc. Những người bị thương thì đang gào thét và khóc lóc. Khi nhìn vào địa ngục xung quanh trong ánh đèn sáng rực của quán bar đã nổ tung, tôi - một nhà báo - tự hỏi: Cái gì sẽ đến? Chúng tôi có thể chịu đựng được sự điên rồ này bao lâu nữa? Liệu có lúc nào sinh lực sống đầy tự hào của người Israel chúng tôi sẽ phải đầu hàng các thế lực gây chết chóc đang cố gắng hủy diệt mình? Chiến thắng quyết định trong cuộc chiến năm 1967 đã xua tan những nỗi sợ trước chiến tranh. Sự phục hồi vào các thập niên 1970 và 1980 đã chữa lành vết thương sâu của năm 1973. Tiến trình hòa bình thập niên 1990 đã hàn gắn thương tích năm 1991. Sự thịnh vượng cuối thập niên 2000 đã che đậy nỗi kinh hoàng của năm 2002. Chính xác là do ít hiểu biết, nên người Israel chúng tôi cứ khăng khăng tin vào bản thân, tin vào quốc gia-dân tộc và tương lai của mình. Nhưng qua nhiều năm, nỗi sợ hãi câm lặng của tôi vẫn không bao giờ qua di. Dù bàn bạc hay biểu đạt nỗi sợ hãi này là điều kiêng ky, nhưng nó vẫn luôn đeo bám tôi mọi nơi. Các thành phố của chúng tôi dường như được xây trên cát trượt. Nhà ở của chúng tôi dường như không bao giờ vững chắc hoàn toàn. Ngay cả khi dân tộc tôi trở nên mạnh mẽ và giàu có hơn, tôi vẫn cảm thây nó dễ bị tổn thương. Tôi nhận ra chúng tôi thường xuyên bị nguy hiểm đe dọa. Vâng, cuộc sống của chúng tôi tiếp tục sôi động, giàu có, và hạnh phúc về nhiều mặt. Israel tạo nên một cảm giác an toàn xuất phát từ thành công về vật chất, kinh tế, và quân sự. Sinh lực sống hằng ngày của chúng tôi thật thần kỳ. Nhưng vẫn luôn tồn tại nỗi sợ, rằng một ngày nào đó cuộc sống thường nhật sẽ tê liệt như ở Pompeii(6). Quê hương yêu dấu của tôi sẽ vụn nát khi đội quân Ả-rập khổng lồ hoặc lực lượng Hồi giáo hùng mạnh vượt qua hàng phòng thủ và xóa sổ sự tồn tại của nó. Những gì tôi còn nhớ được là sự chiếm đóng. Chỉ một tuần sau khi tôi hỏi cha, liệu các nước Ả-rập có chinh phục Israel không, thì Israel đã chinh phục những vùng đất người Ả-rập cư trú ở Bờ Tây và Gaza. Một tháng sau, cha mẹ, em trai và tôi bắt đầu một chuyến đi gia đình đến các thành phố bị chiếm đóng là Ramallah, Bethlehem, và Hebron. Đi qua nơi nào chúng tôi cũng thấy dấu tích của những chiếc xe jeep, xe tải và xe quân sự Jordan bị cháy. Những lá cờ trắng đầu hàng treo trên hầu hết các ngôi nhà. Một số con phố bị chặn lại bằng những xác xe hơi Mercedes đen vốn sang trọng nhưng đã biến dạng do xe tăng Israel nghiến lên. Nỗi sợ hãi hiện ra trong đôi mắt những dứa trẻ Palestine bằng và ít tuổi hơn tôi. Cha mẹ chúng xem ra đã bị đánh bại và bẽ mặt. Trong vài tuần, người Ả-rập hùng mạnh đã biến thành nạn nhân, còn người Israel bị nguy cấp lại trở thành kẻ chinh phục. Quốc gia Do Thái giờ đây hân hoan chiến thắng, tự hào và say sưa với cảm giác cuồng nhiệt về sức mạnh. Khi tôi ở tuổi vị thành niên, mọi thứ còn tốt đẹp. Chúng tôi hiểu chung chung rằng việc chiếm đóng quân sự là nhân đạo. Israel hiện đại đã mang đến sự tiến bộ và phồn vinh cho các vùng đất Palestine. Giờ đây, những người láng giềng lạc hậu của chúng tôi đã có điện, nước máy, và sự chăm sóc y tế mà họ chưa bao giờ có trước đây. Họ cần phái nhận thức được rằng cuộc sống của họ chưa bao giờ tốt đến vậy. Chắc chắn họ biết ơn vì những gì chúng tôi dành cho họ. Và khi hòa bình được thiết lập, chúng tôi sẽ trả lại phần lớn các lãnh thổ đã chiếm đóng. Nhưng lúc này, mọi thứ trên Đất Israel đều ổn cả. Trên khắp đất nước, người Ả-rập và Do Thái chung sống, bình yên, và sung túc. Chỉ khi đi lính tôi mới hiểu được có điều gì đó không ổn. Sáu tháng sau khi gia nhập lữ đoàn dù ưu tú của Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF),(7) tôi được điều động đến chính những thành phố bị chiếm đóng mà mình đã đi qua lúc còn bé 10 năm trước. Giờ thì tôi bị phân công làm những nhiệm vụ bẩn thỉu: kiểm tra, quản thúc tại gia, giải tán biểu tình bằng bạo lực. Điều làm tôi tổn thương nhất là đột nhập vào những ngôi nhà, lôi các chàng trai ra khỏi giường ấm nệm êm đi thẩm vấn lúc nửa đêm. Thứ quái quỷ gì đang xảy ra thế này, tôi tự hỏi. Tại sao tôi lại bảo vệ tổ quốc mình bằng cách hành hạ những thường dân đã bị tước đoạt quyền và tự do? Tại sao Israel của tôi lại chiếm đóng và đàn áp dân tộc khác? Vì vậy, tôi trở thành người phản chiến. Trước tiên, với tư cách một người hoạt động xã hội trẻ tuổi và sau là nhà báo, tôi đã hăng hái đấu tranh chống lại sự chiếm đóng. Trong thập niên 1980, tôi phản đối việc thiết lập các khu định cư trên lãnh thổ Palestine. Thập niên 1990, tôi ủng hộ sự thành lập nhà nước Palestine do Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO)(8) lãnh đạo. Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, tôi tán thành việc Israel đơn phương rút khỏi Dải Gaza. Nhưng hầu hết các chiến dịch chống lại sự chiếm đóng mà tôi tham gia cuối cùng đều thất bại. Gần nửa thế kỷ sau chuyến đi đầu tiên của gia đình tôi ở Bờ Tây bị chiếm đóng, Bờ Tây vẫn bị chiếm đóng. Như khối u ác tính, chiếm đóng trở thành một phần không tách rời trong sự tồn tại của nhà nước Do Thái. Nó cũng đổng thời trở thành một phần không tách rời trong cuộc đời tôi với tư cách một người Israel. Mặc dù tôi phản dối sự chiếm đóng, nhưng tôi cũng chịu trách nhiệm về sự chiếm đóng này. Tôi không thể phủ nhận sự thật hoặc chạy trốn sự thật là dân tộc mình đã trở thành một dân tộc đi chiếm đóng. Mãi đến vài năm trước, tôi đột nhiên nhận ra rằng nỗi sợ hãi mang tính sinh tồn liên quan đến tương lai dân tộc mình không tách rời tổn thương về đạo đức liên quan đến chính sách chiếm đóng của đất nước mình. Một mặt, Israel là dân tộc duy nhất ở phương Tây đi chiếm đóng dân tộc khác. Mặt khác, Israel là dân tộc duy nhất ở phương Tây bị đe dọa sự tồn tại. Cả sự chiếm đóng lẫn sự đe dọa đều khiến tình trạng của Israel trở nên đặc biệt. Đe dọa và chiếm đóng trở thành hai trụ cột trong tình trạng của chúng tôi. Phần lớn các nhà quan sát và phân tích phủ nhận tính hai mặt này. Những người cánh tả đề cập sự chiếm đóng và không chú ý đến sự đe dọa, trong khi những người cánh hữu chú tâm vào sự đe dọa và bỏ qua sự chiếm đóng. Nhưng sự thật là nếu không kết hợp cả hai yếu tố trong một thế giới quan, thì không thể hiểu hết Israel hay cuộc xung đột Israel-Palestine. Bất kể cách tư duy nào không gắn với hai điểm cốt lõi này, chắc chắn đều không đầy đủ và vô dụng. Chỉ có cách tiếp cận thứ ba mới thực tế, xem xét cả việc đe dọa và chiếm đóng, biết phải trái và nhìn nhận đúng lịch sử Israel. Tôi sinh năm 1957 tại thành phố đại học Rehovot. Cha tôi là nhà khoa học, mẹ là nghệ sĩ, và trong số những người sáng lập ra tổ chức Zion(9) có các cụ của tôi. Giống như phần lớn thanh niên Israel, tôi đi nghĩa vụ quân sự ở tuổi 18, tham gia lực lượng nhảy dù, và khi hoàn thành nghĩa vụ, tôi học triết tại Đại học Hebrew ở Jerusalem, nơi tôi tham gia phong trào hòa bình và sau đó là phong trào nhân quyến. Từ năm 1995, tôi viết cho tờ báo tự do hàng đầu của Israel, Haaretz. Mặc dù tôi luôn ủng hộ hòa bình và ủng hộ giải pháp hai quốc gia,(10) nhưng tôi dần nhận thấy những khiếm khuyết và thành kiến của phong trào hòa bình. Hiểu biết của tôi về sự chiếm đóng và đe dọa khiến tiếng nói của tôi có phần khác với mọi người trên truyền thông. Là người phụ trách chuyên mục, tôi thách thức các giáo điều của cả cánh hữu lẫn cánh tả. Tôi biết rằng không có câu trả lời đơn giản cho Trung Đông, và cũng không có giải pháp tình thế cho mâu thuẫn Israel-Palestine. Tôi nhận ra tình huống của Israel là vô cùng phức tạp, có lẽ thậm chí còn bi thương nữa. Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, Israel đã hành động hiệu quả. Khủng bố lắng xuống, công nghệ cao bùng nổ, cuộc sống hằng ngày sôi động. Về mặt kinh tế, Israel đã trở thành mãnh hổ. Để tồn tại, đất nước này đã trở nên mạnh mẽ, đầy sinh lực, sáng tạo và thích hưởng thụ. Nhưng đằng sau ánh sáng rực rỡ của câu chuyện thành công phi thường, lo lắng đang dâng trào. Mọi người bắt đầu lên tiếng hỏi những câu mà suốt đời tôi đã luôn tự hỏi. Giờ không chỉ là chính trị phe tả hay phe hữu nữa. Cũng không chỉ là thế tục đối lập với tôn giáo. Có điều gì đó sâu xa hơn đã xảy ra. Nhiều người Israel không an lòng với Israel mới nổi. Họ tự hỏi liệu mình còn thuộc về quốc gia Do Thái nữa hay không. Họ đã mất niềm tin vào khả năng chịu đựng của Israel. Một số đã lấy hộ chiếu nước ngoài; một số gửi con đi du học. Tầng lớp thượng lưu nhìn thấy một lựa chọn khác bên cạnh lựa chọn Israel. Dù phần lớn người Israel vẫn yêu quê hương và mừng vui với phúc lành của dân tộc, nhưng nhiều người đã mất niềm tin vững chắc vào tương lai đất nước. Khi thập niên thứ hai của thế kỷ 21 bắt đầu, có năm vấn đề khác nhau gây hoài nghi về khát vọng sống tham lam của Israel: quan niệm rằng xung đột Israel-Palestine có thể không giải quyết được trong tương lai gần; lo ngại rằng quyền bá chủ chiến lược khu vực của Israel bị thách thức; e sợ rằng tính hợp pháp của nhà nước Do Thái bị xói mòn; quan ngại rằng xã hội Israel vốn đã biến đổi sâu sắc giờ lại bị phân chia và phân cực, nền tảng dân chủ-tự do của đất nước đang sụp đổ; và nhận thức rằng chính phủ yếu kém của Israel không thể giải quyết triệt để những thách thức nghiêm trọng như chiếm đóng và rạn nứt xã hội. Mỗi vấn đề ở đây đều ẩn chứa một mối đe dọa đáng kể, nhưng ảnh hưởng chung của chúng còn gây ra nỗi sợ hãi khủng khiếp hơn. Nếu hòa bình không khả thi, liệu chúng tôi có chống lại được một xung đột kéo dài một thế hệ khi ưu thế về chiến lược bị đe đọa, tính hợp pháp đang mất dần, bản sắc dần chủ đang rạn nứt, và những mâu thuẫn nội bộ đang chia rẽ chúng tôi? Trong khi vẫn đổi mới, quyến rũ và mạnh mẽ, Israel đã trở thành một quốc gia bị nghi ngờ. Cảm giác lo lắng cứ lơ lửng trên mảnh đất này, như cái bóng lớn của một ngọn núi lửa sắp phun trào. Đây chính là lý do tôi dấn thân vào chuyến đi này. Sáu mươi lăm năm sau khi thành lập, Israel quay lại những câu hỏi chủ chốt. Một trăm lẻ sáu năm sau khi ra đời, chủ nghĩa Zion giờ dang đối mặt với những mâu thuẫn cơ bản của mình. Thách thức giờ đây vượt xa vấn đề chiếm đóng, và củng sâu sắc hơn hẳn vấn đề hòa bình. Điều mà tất cả chúng tôi phải đối mặt là câu hỏi về ba khía cạnh của Israel: Tại sao? Là gì? Sẽ thế nào? Câu hỏi này về Israel không thể trả lời bằng các bài bút chiến. Vì rất phức tạp, nên nó cũng không tự trở thành vấn đề để tranh cãi và phản đề được. Cách giải quyết duy nhất là kể câu chuyện về Israel. Đây chính là điều tôi cố gắng làm trong cuốn sách này. Theo cách riêng và qua lăng kính chủ quan, tôi đã cố gắng nhìn nhận sự tồn tại của chúng tôi trong một tổng thể, theo cách tôi hiểu. Cuốn sách này là cuộc phiêu lưu cá nhân của một người Israel, bối rối trước biến cố lịch sử ngập tràn trên quê hương mình. Đây là một chuyến đi trong không gian và thời gian của một người sinh ra tại Israel, nhằm khám phá câu chuyện rộng lớn của dân tộc mình. Thông qua lịch sử gia đình, lịch sử cá nhân, và các bài phỏng vấn sâu, tôi sẽ cố gắng nói đến câu chuyện rộng hơn và câu hỏi sâu hơn về Israel. Điều gì đã xảy ra trên quê hương tôi trong hơn một thế kỷ, đưa chúng tôi đến nơi mình đang sống? Chúng tôi đã đạt được điều gì ở đây và vấp phải sai lầm nào ở đây, và chúng tôi đang hướng tới đâu? Cảm giác lo âu sâu sắc của tôi có cơ sở không? Nhà nước Do Thái có thật sự lâm nguy không? Có phải người Do Thái chúng tôi đang mắc kẹt trong một bi kịch tuyệt vọng, hay chúng tôi vẫn có thể hồi sinh, tự cứu mình, và lấy lại được đất đai mà chúng tôi vô cùng yêu quý? (1) Atlantis là hòn đảo hư cấu được nói đến trong tác phẩm của triết gia Hy Lạp cổ đại Plato viết khoảng năm 360 trước công nguyên (TCN). Mặc dù sống trong một xã hội văn minh, nhưng con người ở đây trở nên tham lam, nhỏ nhen, suy đồi về đạo đức, nên các vị thần đã nổi giận, dùng lửa và động đất nhấn chìm Atlantis xuống biến sâu. Lưu ý: Toàn bộ chú thích trong sách là của người dịch, trừ các chú thích ghi rõ (BT) là của người biên tập. (2) Chiến tranh diễn ra từ 5-10/6/1967 giữa Israel và các quốc gia Ả-rập lân cận là Ai Cập, Jordan, và Syria. Israel chiến thắng áp đảo (nhờ yếu tố bất ngờ, kế hoạch chiến đấu sáng tạo) giành quyến kiểm soát Dải Gaza, bán đảo Sinai của Ai Cập, Bờ Lây và Đông Jerusalem của Jordan và Cao nguyên Golan của Syria. (3) Còn gọi là Ngày chuộc tội/Ngày lễ sám hối. Là ngày lễ thiêng liêng nhất trong năm của Do Thái giáo. Đế chuộc tội và ăn năn, người Do Thái dành 25 giờ ăn chay, chuyên tâm cầu nguyện và thường xuyên tham gia các nghi lễ ở giáo đường Do Thái. (4) 500 feet tương đương 152,4 m. (5) Trong lịch sử người Do Thái, Ngôi đền Thứ nhất do vua Solomon xây dựng vào khoảng thế kỷ 10 TCN, sau đó bị phá hỏng vào khoảng năm 587 TCN. Ngôi đền thứ hai được xây dựng vào năm 516 TCN và lai bị phá hỏng vào khoảng năm 70 sau CN. Ngôi đền Thứ ba chưa dược xây dựng. Nó vẫn nằm trong mong ước của người Do Thái. (BT) (6) Pompeii, thành phố La Mã cổ đại bị phá hủy và chôn vùi hoàn toan khi núi lửa Vesuvius phun trào năm 79, tình cờ được khám phá năm 1748 (sau 1.700 năm) nham thạch đã xóa sạch mọi sự sống, hơn 2.000 người chết, hơi nóng khủng khiếp khiến cơ thế họ ngừng hoạt động gần như ngay lập tức. (7) Viết tắt của “Israel Defense Forces”. (8) Palestine Liberation Organization, thành lập năm 1964 Hội nghị Thượng đỉnh Ả-rập năm 1974 công nhận PLO là “đại diện hợp pháp và duy nhất của nhân dân Palestine.” Năm 1993, PLO đã công nhận nhà nước Israel và Israel đã công nhận PLO là đại diện hợp pháp của nhân dân Palestine. (9) Zion là một phong trào chính trị ủng hộ sự phát triển nhà nước Israel; đây cũng là tên ngọn đồi phía đông thành phố Jerusalem, từng là trung tâm văn hóa-chính trị cúa người Do Thái dưới thời Vua David. Sau khi Vương quốc Judea thất thủ năm 70, Zion trở thành biểu tượng cho hy vọng phục quốc của người Do Thái. (10) Giải pháp cho cuộc xung đột Israel-Palestine, thành lập hai nhà nước của hai dân tộc: nhà nước Palestine độc lập tồn tại cùng nhả nước Israel ở bờ Tây sông Jordan.   Mời các bạn đón đọc Miền Đất Hứa Của Tôi- Khải Hoàn Và Bi Kịch Của Israel của tác giả Ari Shavit.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ngỡ Đã Là Yêu - Yasmina Khadra
Trong một nhà hàng tại Tel-Aviv, một phụ nữ tự làm mình nổ tung giữa hàng chục khách hàng khác... Trong bệnh viện thành phố, Amine, vị bác sĩ người Israel gốc Palestine đang phẫu thuật cho hàng chục bệnh nhân sống sót qua vụ khủng bố... Bác sĩ không thể ngờ người vợ trẻ mình luôn hết lòng yêu thương lại chính là kẻ khủng bố cảm tử gây ra thảm kịch kia. Người đàn ông mang trong mình những dằn vặt khôn nguôi, và để có được lời giải đáp, anh lao vào một hành trình tìm kiếm tưởng như vô vọng. Thế rồi, một bí mật vĩ đại của tình yêu dần được hé mở... Cuốn tiểu thuyết góp phần khẳng định tên tuổi Yasmina Khadra đã nhận được trên mười giải thưởng văn học trong và ngoài nước, trong đó phải kể đến Giải thưởng lần thứ 25 do Hiệp hội các nhà sách bình chọn, đồng thời xuất hiện trong danh sách đề cử của các giải thưởng văn học danh giá như Goncourt, Renaudot và Giải thưởng lớn dành cho Tiểu thuyết của Viện Hàn lâm Pháp. *** Chọn một chủ đề rất mực thời sự: nạn đánh bom cảm tử vẫn được đề cập đến hằng ngày trên các bản tin, cuốn tiểu thuyết Ngỡ đã là yêu của nhà văn Algeria Yasmina Khadra (NXB Văn Học ấn hành) mặc nhiên có sức hút đặc biệt với độc giả, kể cả với những ai không quan tâm đến chính trị. Vì vậy, Ngỡ đã là yêu đủ sức tạo nên cơn sốt. Không mấy khó để nhận ra rằng thế giới này thật sự bị bao trùm bởi những nỗi nghi ngờ, hư ảo. Nhưng ẩn sâu trong mỗi ngôn từ đầy biến hóa của Yasmina Khadra là những tiếng gào thét bất lực của khát vọng, của lòng xót thương và cả thù hận. Cuộc sống tất bật, vòng xoáy của khát vọng thành đạt khiến cho mỗi người tự khu biệt quyền lợi, nghĩa vụ của chính mình. Để rồi không ai ngoài bản thân họ còn có đủ khả năng nghe được tiếng lòng của chính mình. Amine, nhà nghiên cứu Israel gốc Palestine, có một cuộc sống sung túc với người vợ mà anh hết mực yêu thương. Hẳn nhiên, ông cũng cảm nhận được tình yêu ấy từ Sihem, một người phụ nữ dịu dàng và xinh đẹp. Cho đến một hôm, một cuộc tấn công khủng bố xảy ra ở Tel Aviv làm chết nhiều đứa trẻ và vợ ông chính là nghi phạm. Câu hỏi “tại sao?” liên tiếp hối thúc được trả lời. Tại sao vợ ông, người phụ nữ phúc hậu, không oán thù ai, không có gì khó hiểu, lại tự nổ một khối bom trong một quán ăn rất đông trẻ em? Tại sao chị không hề hé môi với ông về ý đồ này? Và tại sao ông, một nhà khoa học kiệt xuất, người yêu vợ hết lòng, người trao tặng chị tất cả cuộc sống, lại không cảm nhận được nỗi đau bao ngày của chị? Hàng loạt câu hỏi tại sao mà Amine đặt ra cũng chính là những tự vấn lương tâm của ông. Phải chăng, chính ông đã “quên” (một cách vô tình hay cố ý) việc phải lắng nghe người khác. Mỗi người đều có một cách riêng của mình để cảm nhận và có những hành động của riêng mình về tình yêu. Nhưng ai trong họ có thể tự hào rằng cách yêu của mình là đúng nhất. Bởi ngay cả với Amine, một người yêu vợ đến tôn thờ nhưng khi Sihem qua đời, ông mới biết rằng thực sự ông chưa bao giờ yêu vợ cả. T.Vũ - (Nguồn: Báo Người lao động) *** Yasmina Khadra, tên thật là Mohammed Moulessehoul, sinh năm 1955 giữa vùng sa mạc Sahara thuộc Algeria. Ông là nhà văn được chào đón và được biết đến trên toàn thế giới với những tác phẩm như Lũ sói mơ gì, Nhà văn, Sự giả dối của ngôn từ, Chị họ K. Các tiểu thuyết này của ông đã được chuyển ngữ tại hai mươi hai quốc gia. Những cánh én thành Kaboul và Ngỡ đã là yêu là hai trong số ba tiểu thuyết của ông viết về cuộc đối thoại thầm lặng giữa phương Đông và phương Tây, xuất hiện trong tuyển tập Những hồi còi thành Bagdad. Ngỡ đã là yêu đã được trao các giải: Prix des Libraires 2006, Prix Tropiques 2006, Giải thưởng lớn từ phía độc giả tạp chí Côté Femme, giải thưởng văn học do học sinh trung học và trung cấp chuyên nghiệp Bourgogne bình chọn và giải thưởng từ phía độc giả tờ Télégramme. Hiện Ngỡ đã là yêu đang được các nhà điện ảnh Mỹ chuyển thể thành phim. Nhà văn đoạt giải Nobel J.M. Coetzee nhìn thấy ở nhà văn có bút lực dồi dào này một tiểu thuyết gia hàng đầu.   Mời các bạn đón đọc Ngỡ Đã Là Yêu của tác giả Yasmina Khadra.
Hoang Dã - Jill Barnett
Bị những người dân làng mê tín xa lánh, Teleri Người Rừng nhận thấy thế giới thật đáng sợ. Bao năm qua cô ẩn náu ở sâu trong rừng già nơi những người bạn duy nhất là các sinh linh trong rừng. Nhưng khi cô tìm thấy một hiệp sĩ bị thương trầm trọng thì nơi ẩn trú của cô không còn yên bình nữa. Với tài năng chinh chiến và ngoại giao vang khắp, Roger FitzAlan được cử đi xây dựng một thành lũy nơi biên giới xứ Wales. Bị mai phục và bỏ mặc đến chết bởi một kẻ thù giấu mặt, giờ đây Roger phải chiến đấu không chỉ cho mạng sống của mình – anh phải chiếm được lòng tin và tình yêu của một thiếu nữ hoang dã, người có mọi lý do e sợ anh. Rogers biết mình không thể sống trong thế giới của Teleri, và cô cũng sợ thế giới của anh. Khi hồi phục lại, Roger quyết định tìm kẻ đã định giết mình. Và Teleri phải lựa chọn ở lại nơi hẻo lánh với con tim tan nát – hay là tin người chiến binh mạnh mẽ đã đe dọa tất cả những gì cô thương mến. Họ cùng nhau tới một nơi mà nhiệm vụ là hàng đầu, nơi danh dự của người đàn ông chứ không phải trái tim anh ta - dẫn đường. Ở đó, giữa những bí mật của quá khứ, họ phải mạo hiểm mọi thứ để tìm kiếm một tình yêu vĩnh cửu. *** Bạn đọc thân mến, Tôi thật lòng hi vọng các bạn sẽ yêu thích câu chuyện tình yêu của Roger và Teleri. Phải nói rằng có những ngày tháng hai người ấy chẳng hề hợp tác với tôi chút nào. Nhưng chính nhân vật đôi khi làm nên chuyện, cứ  đứng dậy và cố gắng viết nên câu chuyện của chính họ với tôi đây khập khiễng theo sau. Nhưng hãy để các nhân vật sang một bên, bây giờ tôi cần cám ơn những con người thực. Con gái tôi, khi nghe tôi đọc một cảnh đã vô tình chỉ ra những chi tiết thừa, nhăn nhăn cánh mũi hay mặt mày với vẻ khó chịu làm tôi chạy lại ngay máy tính mà lầm bầm. Đặc biệt cảm ơn em gái tôi, Jan, đã bị chú gá không đầu đuổi theo cách đây nhiều nhiều năm trước và đã kể câu chuyện đó. Một số chú thích lịch sử: Truyền thuyết về Arthur là một phần quan trọng của xứ Wales thời trung cổ. Người xứ Wales tin rằng trong lần thứ hai vua Arthur và các hiệp sĩ của ngài đến, tất cả họ, theo truyền thuyết đều sống trong một cái hang lớn ở giữa những quả đồi xứ Wales, cho tới một ngày họ cưỡi ngựa quay lại giải cứu xứ Wales. Có những lời đồn đại đã trông thấy và có những người quả quyết đã nhìn thấy bóng những người đàn ông bí ẩn cưỡi ngựa qua sườn đồi. Ở xứ Wales tràn ngập những địa danh mang tên theo Arthur – đồi núi, sông suối, giếng nước hay hang động. Một số dựa theo sự trông thấy, và số khác dựa theo truyền thuyết địa phương nhưng giống như những vòng tròn đá, tất cả chúng đều còn bí ẩn cho tới ngày nay. Tôi muốn đem những truyền thuyết này vào trong giọng viết của tôi, bởi khi tôi nhìn thấy một câu chuyện tưởng tượng thật hoang dã tự nhiên như thế, tôi muốn bước ngay vào và tự mình sống trong truyền thuyết. Khi bạn đang đọc những dòng này, là tôi đang vui vẻ viết hay có lẽ lại khập khiễng theo sau – Hiệp sĩ Tobin và tiểu thư Sofia, trong câu chuyện của họ có tên - Wicked (Ma mãnh) mà Pocket Books sẽ xuất bản vào thời gian nào đó năm 1999. Tôi có một linh cảm Sofia sẽ gây khó khăn cho tôi như cô ấy làm với hiệp sĩ Tobin de Clare, nhưng tôi biết mình sẽ gặt hái những niềm vui. Và tôi nghĩ cuộc đời của hiệp sĩ Tobin cũng cần khuấy động đôi chút, phải không các bạn? Hãy thụ hưởng niềm vui sống trong truyền thuyết nhé, các bạn của tôi. Jill Barnett *** Jill Barnett là một tác giả tiểu thuyết lãng mạn và tiểu thuyết bán chạy nhất của New York Times. Năm 1988, Jill Barnett đã bán cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình, The Heart's Haven, cho Pocket Books. Nó được xuất bản hai năm sau đó, và dành ba tuần trong danh sách bán chạy nhất.   Mời các bạn đón đọc Hoang Dã của tác giả Jill Barnett.
Thầy Lang - Tadeusz Dolega-Mostowicz
TADEUSZ DOLEGA MOSTOWICS (1898 - 1939) là nhà văn tài hoa của nền văn học cận đại Ba Lan. Hoạt động văn học trong cuộc đời ngắn ngủi nhưng đầy hấp dẫn và thành công của ông diễn ra trong thời kỳ 20 năm tồn tại và phát triển của đất nước Ba Lan tư sản, giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919-1939), trong bối cảnh đất nước vừa giành lại được độc lập sau hàng thế kỷ bị các thế lực đế quốc chia cắt, bị xóa hẳn tên trên bản đồ thế giới. Thời kỳ phức tạp nhiều chao đảo với mỗi thăng trầm ở trong nước và trên thế giới ấy đã được TADEUSZ DOLEGA MOSTOWICS lấy làm bối cảnh cho các tác phẩm nổi tiếng nhất của ông: Thầy lang, Giáo sư Vin-tru-rơ, Đường công danh của Ni-cô-đem Đyz-ma. Khác hẳn với tác phẩm Đường công danh của Ni-cô-đem Đy-zma được viết bằng ngòi bút hiện thực phê phán kiệt xuất, Thầy Lang là tiểu thuyết tâm lý xã hội được sáng tác theo khuynh hướng của chủ nghĩa tình cảm. Nhân vật chính của tác phẩm là giáo sư tiến sỹ y khoa Vin-tru-rơ, một nhà phẫu thuật tài năng của Ba Lan thời bấy giờ. Đang ở trên đỉnh cao của danh vọng và quyền lợi thì một tai họa đột ngột xảy đến: vợ ông đã bỏ nhà ra đi với người yêu sau tám năm chung sống cùng ông, mang theo đứa con gái nhỏ duy nhất mà ông vô cùng yêu thương, để lại một bức thư vĩnh biệt, trong đó nàng thú thật rằng chưa bao giờ yêu ông. Quá đau khổ, giáo sư Vin-tru-rơ lang thang, ông bị bọn vô lại cho uống rượu say, cướp sạch quần áo, tiền bạc, đánh vào đầu, khiến ông bị mất trí nhớ, không nhớ mình là ai. Từ đó bắt đầu cuộc đời lang thang, phiêu bạt, chìm nổi của một con người bần cùng, vô gia cư, không chốn dung thân, không người thân thuộc, thậm chí không biết mình là ai, tên là gì, không biết mình sống để làm gì, sống cho ai. Nhưng những kỹ năng nghề nghiệp vẫn tồn tại trong con người mất trí nhớ của ông, nhất là khi cần cứu chữa cho người bệnh. Được nhận vào làm công cho người chủ cối xay bột Prô-cốp, giáo sư Vin-tru-rơ (dưới cái tên An-tô-ni Kô-si-ba) đã chữa cho con ông chủ khỏi tật, rồi ông chữa cho nhiều người khác, dần dần nổi tiếng là một thầy lang giỏi ở một vùng nông thôn. Và cuộc đời ông có lẽ sẽ trôi qua như thế nếu ông không gặp cô gái Ma-rư-sia đáng thương mồ côi cả cha lẫn mẹ. Tình thương yêu giữa hai tâm hồn cô đơn ấy đã rọi một ánh sáng mới vào cuộc đời ông, khiến ông lại biết mình sống vì ai, vì cái gì. Nhưng rồi Ma-rư-sia và người yêu của cô là chàng trai Lê-sếch bị tai nạn. Để cứu cô gái, ông đã phải đánh cắp va-li đựng dụng cụ mổ của bác sỹ Pa-vơ-li-xki, kẻ vốn sẵn hiềm khích với ông. Ra tòa ông bị kết án ba năm tù. Nhưng nhờ sự vận động của Lê-sếch và luật sư Ko-rơ-trưn-xki, đến phiên tòa phúc thẩm, ông được xử trắng án. Cũng chính tại phiên tòa này, giáo sư Đô-bra-nhe-xki một học trò và cộng sự của ông ngày trước đã nhận ra rằng người thầy lang quê mùa có tài năng khó hiểu nọ chính là giáo sư Vin-tru-rơ bị mất tích mười ba năm về trước. Sau phiên tòa, trước nấm mồ của bà mẹ cô gái Ma-rư-sia, ông hiểu rằng cô chính là đứa con vô vàn yêu quý của mình. Nỗi xúc động đã giúp ông lấy lại trí nhớ. Cốt truyện cảm động ấy đã được ngòi bút tài hoa của TADEUSZ DOLEGA MOSTOWICS xây dựng thành một tác phẩm giàu tính nhân đạo và trữ tình. Tác phẩm góp một tiếng nói nghệ thuật nêu cao những chân lý nhân văn, khẳng định địa vị thiêng liêng của tình yêu của người với người. Tình yêu ấy, quý giá hơn tất cả, nhưng nó không bao giờ đến từ một phía, nó không thể được xây dựng nên bởi tiền tài hay địa vị. Hạnh phúc chỉ có thể có được khi con người đã phải trả giá bằng những dau khổ và đấu tranh, bằng những dằn vặt, những vật lộn với cuộc đời và chính bản thân mình. Song tác phẩm vẫn không thể thiếu những giá trị hiện thực phê phán, những giá trị này dường như lại được tôn thêm trong cái không khí trữ tình kia, mặc dù chúng nằm ở bình diện thứ hai, kín đáo hơn. Số phận con người trong xã hội cũ mới long đong, mới mong manh làm sao. Chỉ riêng cái nghịch cảnh trớ trêu của bản án sơ thẩm: kẻ cứu hai mạng người thì bị xử án ba năm tù còn kẻ gây tai họa cho họ thì chỉ chịu hai năm(?) đã giàu sức tố cáo với hệ thống pháp luật tư sản. Và "chứng quên" của giáo sư Vin-tru-rơ kia phải chăng là một hình ảnh đầy tượng trưng? Tác phẩm bằng đôi nét chấm phá nhưng cũng vẽ nên được đời sống khốn khổ, lạc hậu, thấp kém của những người nông dân nghèo Ba Lan thời ấy. Cái nhìn của tác giả đầy đồng cảm, xót xa và trân trọng với những con người ấy. Tuy nhiên, ra đời trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, tác phẩm không tránh khỏi những hạn chế dễ thấy. Điều đáng nói nhất là những biểu hiện của một thứ triết học định mệnh trong việc mô tả và cắt nghĩa những hiện tượng xã hội. Mỗi con người trong Thầy Lang như sống trong sự vây bủa của một màng lưới vô hình nhưng vững chắc của số phận, trong đó mọi sự nỗ lực của về đại thể cũng chỉ là những vật vã vô nghĩa. Những yếu tố ngẫu nhiên cá lẻ được xâu lại bằng sợi chỉ số mệnh. Và cái "định mệnh xã hội" này đã thay "ông Tạo" dẫn dắt những bước đường của mỗi con người. Thấp thoáng đây đó, tác phẩm cũng biểu lộ những cái nhìn của chủ nghĩa tự nhiên. Những hạn chế đó không làm bạn đọc kém yêu mến Thầy Lang. Từ khi ra đời đến nay, tác phẩm đã được tái bản nhiều lần, được dịch ra nhiều thứ tiếng và được đưa lên màn ảnh, đã chinh phục khán giả thế giới, trong đó có khán giả nước ta. NGUYỄN HỮU DŨNG ***  Quyển ''Thầy Lang'' còn có phần 2 ''Giáo Sư Wilczur' được dịch với tên ''Đánh mất tình em''. Trong phần này, giáo sư Vintrurơ khôi phục trí nhớ và trở về làm giám đốc bệnh viện. Thành công của ông đã làm nhiều kẻ ghen ghét. Điều đáng buồn là trong số đó có cả giáo sư Đôbranhexki, người trợ lý cũ đã từng giúp ông tìm lại trí nhớ. Với lòng tự trọng ông đã rời bỏ bệnh viện về làng quê nơi ông đã sống khi mất trí nhớ. Với sự yêu mến và giúp đỡ của dân làng, ông đã mở một bệnh viện nhỏ tiếp tục hành nghề phẫu thuật chữa bệnh. Trong phần này không còn xuất hiện cô con gái Marưsia của giáo sư. Hai cha con mới đoàn tụ sau một thời gian xa cách đáng lẽ phải thường xuyên gắn bó bên nhau. Thế mà Marưsia lấy chồng rồi định cư nước ngoài, không mấy khi về thăm giáo sư Vintrurơ. Niềm an ủi hiếm hoi là một cô bác sĩ trẻ đẹp, rất ngưỡng mộ giáo sư nên tình nguyện về làng quê sát cánh bên ông. Trong quá trình làm việc, giáo sư cũng có thiện cảm với cô. Nhưng với bản tính vị tha ông không nhẫn tâm để cô hi sinh tuổi trẻ bên mình nên đã tác hợp cho cô với một anh bác sỹ trẻ tuổi (cũng đẹp trai, trung thực nhưng mình hổng ưa anh này lắm). Xét tổng thể đọc được nhưng mình không thích phần này vì hơi vẽ rắn thêm chân, thậm chí còn làm mình mất thiện cảm với một số nhân vật ở phần trước như Marưsia, Đôbranhexki. Có bản dịch này ''Thầy Lang'', Nguyễn Hữu Dũng dịch. NXB Văn học, 2004. - 798 trang ( gộp in chung 2 truyện Thầy lang và Đánh mất tình em) *** Tađêus Đôuenga Môxtôvich (Tadeusz Dolega Mostowicz, 1898 - 1939) là nhà văn xuất sắc của nền văn học Ba Lan thời cận đại. Ông là tác giả của những tiểu thuyết tâm lý xã hội theo khuynh hướng tình cảm rất được ưa chuộng (Thầy lang, Giáo sư Vintrurơ), nhưng nổi tiếng nhất với các tác phẩm hiện thực phê phán đặc sắc: Đường công danh của Nikôđem Đyzma. Hoạt động văn học trong cuộc đời ngắn ngủi nhưng đầy hấp dẫn của T.Đôuenga Môxtôvich diễn ra trùng với thời kỳ hai mươi năm tồn tại và phát triển của nước Ba Lan tư sản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919 - 1939), trong bối cảnh đất nước vừa giành lại được độc lập sau hàng thế kỷ bị các thế lực đế quốc chia cắt, xâu xé, hoàn toàn bị xóa tên trên bản đồ thế giới, để rồi chẳng mấy chốc lại rơi vào nanh vuốt của bè lũ phát xít Đức. Chính thời kỳ giai cấp tư sản dân tộc non yếu được nắm tay lái con thuyền quốc gia vừa bị lọt vào cái “mắt bão” - vùng tạm thời yên tĩnh giữa những cơn bão táp hung bạo trên toàn thế giới, song không thiếu những rối ren phức tạp trong nước - là thời kỳ thuận lợi cho chủ nghĩa cơ hội phát triển, thời kỳ những nghịch cảnh, những đảo lộn xã hội diễn ra liên tiếp, tập trung và sôi động hơn bao giờ hết. Đó cũng chính là thời kỳ được T.Đôuenga Môxtôvich lấy làm bối cảnh cho quyển tiểu thuyết xuất sắc nhất của ông.   *** Tác phẩm:  Đường Công Danh Của Nikodem Dyzma Thầy Lang Giáo Sư Wilczur Mời các bạn đón đọc Thầy Lang của tác giả Tadeusz Dolega-Mostowicz.
Đường Công Danh Của Nikodem Dyzma - Tadeusz Dolega-Mostowicz
Tađêus Đôuenga Môxtôvich (Tadeusz Dolega Mostowicz, 1898 - 1939) là nhà văn xuất sắc của nền văn học Ba Lan thời cận đại. Ông là tác giả của những tiểu thuyết tâm lý xã hội theo khuynh hướng tình cảm rất được ưa chuộng (Thầy lang, Giáo sư Vintrurơ), nhưng nổi tiếng nhất với các tác phẩm hiện thực phê phán đặc sắc: Đường công danh của Nikôđem Đyzma. Hoạt động văn học trong cuộc đời ngắn ngủi nhưng đầy hấp dẫn của T.Đôuenga Môxtôvich diễn ra trùng với thời kỳ hai mươi năm tồn tại và phát triển của nước Ba Lan tư sản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919 - 1939), trong bối cảnh đất nước vừa giành lại được độc lập sau hàng thế kỷ bị các thế lực đế quốc chia cắt, xâu xé, hoàn toàn bị xóa tên trên bản đồ thế giới, để rồi chẳng mấy chốc lại rơi vào nanh vuốt của bè lũ phát xít Đức. Chính thời kỳ giai cấp tư sản dân tộc non yếu được nắm tay lái con thuyền quốc gia vừa bị lọt vào cái “mắt bão” - vùng tạm thời yên tĩnh giữa những cơn bão táp hung bạo trên toàn thế giới, song không thiếu những rối ren phức tạp trong nước - là thời kỳ thuận lợi cho chủ nghĩa cơ hội phát triển, thời kỳ những nghịch cảnh, những đảo lộn xã hội diễn ra liên tiếp, tập trung và sôi động hơn bao giờ hết. Đó cũng chính là thời kỳ được T.Đôuenga Môxtôvich lấy làm bối cảnh cho quyển tiểu thuyết xuất sắc nhất của ông. Đường công danh của Nikôđem Đyzma quả là hiển hách, đáng ngạc nhiên, bởi đó gần như là cuộc hội tụ của biết bao “ngẫu nhiên may mắn, bao “số đỏ”, đến mức khiến người đời phải chóng mặt, ngỡ ngàng. Ở chương đầu sách, y chỉ là một anh công chức cấp thấp ở tỉnh lẻ bị mất việc, đang lang thang tìm việc làm, túi rỗng không và chiếc dạ dày lép kẹp. Ấy thế mà tới những trang cuối sách y đã là một triệu phú cỡ lớn, chủ một cơ ngơi nông - công - nghiệp khổng lồ, chính khách số một của đất nước, người được chính tổng thống mời ra đảm nhiệm sứ mạng thành lập nội các mới, nhằm chèo lái con thuyền quốc gia qua cơn bão chao đảo! Cái gì đã khiến Nikôđem Đyzma leo nhanh và cao đến thế trên những bậc thang danh vọng của cuộc đời? Cái gì là nguyên nhân thật sự mở ra con đường công danh đầy huyền thoại của kẻ vô học “bất tài chi tướng” kia? Tại sao giữa lòng cái xã hội quý tộc - tư sản, với những thể chế ngỡ như chặt chẽ, với quy luật cạnh tranh khốc liệt kia lại nảy nòi một cái nỗi oái oăm nhường ấy? Nhà văn đã không đứng ra thuyết minh, trả lời và kết luận thay người đọc, nhưng qua bức tranh liên hoàn hiện thực mà ông đã dựng lên, người đọc nhận thức được rằng: nguyên nhân chính tạo nên bước đường công danh lừng lẫy của nhân vật kia chính là bởi cái xã hội đang sống chỉ có tôn ti, trật tự, luật lệ, kỷ cương về phương diện hình thức mà thôi. Còn bên trong, guồng máy của nó lại hoạt động bằng một loại “nhiên liệu” vạn năng duy nhất là đồng tiền. Trong cái xã hội ấy, ngài luật sư có uy tín nhất, đồng thời cũng là người bảo trợ cho Hội Bảo vệ gia đình (mặc dù là chuyên viên sừng sỏ nhất trong lĩnh vực ly hôn!) đã trắng trợn vòi tiền “công” vì lấy được lời chứng của những người đã chết. Trong xã hội ấy, người ta có thể thuê giết một mạng người với một trăm đồng bạc, có thể đổi trắng thay đen dễ như trở bàn tay, có thể dựng ra cả một tiểu sử huy hoàng để tô son trát phấn cho một anh dốt nát nhà quê đóng tuồng làm “người hùng”, làm “chính khách”, làm nhà “kinh tế thiên tài”... Cái xã hội mà ngay ở những cấp cao nhất của chính quyền, cũng chỉ là một lũ người dốt nát, bất lực, mâu thuẫn nhau, chỉ giỏi ăn chơi cãi vã. Cái xã hội mà “phương sách” hữu hiệu nhất là tiền cộng với lừa đảo, dối trá. Những nghịch cảnh của xã hội được lột trần đến lõa lồ trước mắt người đọc, bởi mấy ai ngờ rằng một “hội đồng” dâm của các vị phu nhân lá ngọc cành vàng, vợ con các “ông lớn”, lại có khả năng điều hành thật sự bộ máy quốc gia, đến mức tống cổ ngài thứ trưởng kiêm đổng lý văn phòng hội đồng bộ trưởng đi... Tàu, chỉ vì ngài sắp lật mặt nạ “người tình chung” của các bà! Xuyên suốt tác phẩm là hai quá trình có hướng ngược nhau, diễn ra đồng thời, ở một con người - đó là nhân vật chính: Nikôđem Đyzma. Y leo nhanh đến mức đáng kinh ngạc trên những bậc thang danh vọng, nhưng lại tụt dài về phương diện nhân cách, từ cái trong sạch của một con người bình thường xuống vũng bùn nhơ nhớp của những tội lỗi ghê gớm nhất. Ban đầu, dù thất nghiệp, đói rách, Đyzma vẫn còn lương tâm trong sạch, thấy cái phong bì của cậu bé bưu điện đánh rơi y còn thương tình gọi với theo để trả, nhặt được giấy mời đi dự tiệc (gửi một người khác), y mang đến tận nhà (bụng thầm mong được trả công vài đồng bạc), y biết đỏ mặt ngượng khi bịa ra một câu chuyện phạm tội vô hại kể cho một cô gái làm tiền. Thế rồi, chỉ qua một bữa tiệc mà y lấy hết gân cốt đến dự nhằm thỏa mãn cái đói, y đã nhảy một bước lọt vào xã hội thượng lưu, để ngấm dần vào người “độc dược” hiệu nghiệm lấy làm kim chỉ nam cho mọi hành vi đối nhân xử thế: lừa đảo. Không những y không hề ngần ngại khi lừa cơ cướp cả cơ nghiệp lẫn cô vợ xinh đẹp của ông chủ đã hết lòng đối xử tử tế với y, mà y còn không run tay khi thuê bọn lưu manh, giết một người ân nhân cũ để bịt đầu mối, không hề áy náy khi ra lệnh cho bọn cảnh sát đánh đập dã man một cô gái vô tội đã nặng lòng yêu y. Sở dĩ y tha hóa nhanh như thế về phương diện đạo đức chỉ bởi y đã tiếp xúc với những “tinh hoa” của giới cầm quyền. Xét về phương diện ấy, Đyzma cũng là một nạn nhân của xã hội tư bản - một nạn nhân “tự nguyện”. Sự trèo nhanh leo cao của y không phải là thành quả đạt được bởi những thủ thuật không mấy tinh khôn mà y đã học được ở các “tinh hoa” thượng lưu xã hội kia (như kiệm lời để giấu dốt, nhắc lại ý của người khác nhận rằng là của mình…). Mà có nguyên nhân sâu xa hơn: đó là sự mâu thuẫn giữa các giới cầm quyền, các cá nhân có thế lực trong guồng máy xã hội, đó là sự dốt nát trong đánh giá của các giới đó đối với Đyzma. Các vị đại diện cao cấp nhất của xã hội đã không có khả năng phân biệt thật giả, đã ngộ nhận về khả năng - thậm chí tài năng - của Đyzma, đã đưa y lên những địa vị cao sang, đã để y đánh lừa một cách “hào hiệp” nhất. Đúng như lời chàng công tử bá tước Pônimirxki gào lên kết thúc quyển sách: “Không phải hắn dắt mũi các người đâu! Chính các người đã bê cái đồ súc vật ấy đặt lên thành tượng đài! Chính các người! Hỡi lũ người đánh mất hết những tiêu chuẩn lý trí!”. Mỉa mai hơn, Đyzma được leo lên cao đến thế còn chính vì y đã làm thỏa mãn được dục vọng thấp hèn của các vị “phái đẹp” quý tộc trong những cuộc “hành lễ bí mật” mà thực chất là những cuộc hành lạc tập thể, những cuộc loạn hôn không tiền khoáng hậu. Trong các “tài năng” đã đưa Đyzma lên những địa vị cao sang, có “tài” đĩ đực! Trong số những nạn nhân khác của cái xã hội nhầy nhụa đó, người đọc còn nhận thấy một điều: Người càng có địa vị xã hội thấp hèn, thậm chí càng ở “dưới đáy” thì phẩm chất đạo đức lại càng trong sạch. Cô gái Manka dù phải bán thân nuôi miệng, nhưng vẫn ý thức được sự ghê tởm của cái “nghề” mà mình bắt buộc phải làm, vẫn giữ một tình yêu chân thật đối với Đyzma, và vẫn biết căm phẫn tột độ khi tình yêu ấy bị bội bạc. Dù bị đánh đập dã man, nhưng dẫu sao Manka cuối cùng cũng nhận ra bộ mặt thật của Đyzma. Đáng thương cho một phụ nữ xinh đẹp, yếu đuối mà lại muốn hưởng lạc như bá tước tiểu thư Nina, cho đến cuối cùng vẫn không hiểu rằng mình bị đánh lừa, vẫn không hiểu được bản chất người chồng “lý tưởng” và “lỗi lạc” của mình! Ý nghĩa tố cáo và phê phán của tác phẩm còn tập trung cao ở hình tượng chàng bá tước “điên” Pônimirxki. Chàng là nạn nhân của một trò lừa đảo đã khiến cha chàng khuynh gia bại sản, rồi lại trở thành nạn nhân của một vụ lừa đảo mới, còn trắng trợn hơn, đê mạt hơn. Không phải ngẫu nhiên tiếng nói gần với sự thật nhất, tiếng cười châm biếm sâu cay nhất đối với những nghịch cảnh xã hội lại được tác giả đặt vào miệng một người “điên”, một người “tâm thần”, vốn có một địa vị cao sang, một gia sản giàu có, một học thức uyên bác, nhưng rốt cuộc vẫn bị vứt ra một xó vườn, hay cùng lắm - làm đầy tớ dạy tiếng Anh cho chủ. Các yếu tố ngẫu nhiên, bất ngờ được sử dụng để xây dựng con đường công danh cho Đyzma đều hợp lôgích, không gây ấn tượng giả tạo, khiên cưỡng. Chất bi và hài được kết hợp hài hòa, trong đó cái hài được tập trung cao, tạo nên một tiếng cười mỉa mai, sâu cay đối với cả bộ máy nhà nước tư sản, từ cấp thấp lên cấp cao nhất. Nhà văn đã thể hiện một bộ mặt xã hội với những biểu hiện sinh động lạ thường qua một bút pháp tưởng như dửng dưng, khách quan mà sắc sảo, tinh tế. Người đọc Ba Lan còn hâm mộ tác phẩm của T.Đôuenga Môxtôvich vì nhà văn đã dựng lại hết sức sống động, hết sức thực từ ngôn ngữ, thói quen, phong tục, tập quán đến cảnh sinh hoạt và bầu không khí của xã hội thượng lưu quý tộc những năm 20 - 30. Do vô tình hay hữu ý, nhiều tác phẩm hiện thực phê phán thường sa vào chủ nghĩa tự nhiên trong phản ánh hiện thực xã hội. Trong Đường công danh của Nikôđem Đyzma T.Đôuenga Môxtôvich đã tránh được hạn chế này. Tác giả đã không khai thác những yếu tố thấp hèn hoặc kích thích ở những cảnh “gay cấn”, để một mặt duy trì mức độ chân xác của tính cách nhân vật, mặt khác tạo được hứng thú thẩm mỹ lành mạnh. Tác phẩm sử dụng nhiều yếu tố hư cấu nhưng rất thực, và tả được cái thực của xã hội, bởi lẽ nhà văn đã chọn những không gian thích hợp để những yếu tố hư cấu kia hiện ra trong những dáng vẻ thực của đời. Cũng như nhiều tác phẩm hiện thực phê phán khác, Đường công danh của Nikôđem Đyzma không tránh khỏi những nhược điểm khách quan do thời đại cũng như những nhược điểm chủ quan do nhận thức của tác giả. Mâu thuẫn xã hội mới được miêu tả ở tầng lớp trên, mâu thuẫn giai cấp mới chỉ lướt qua. Tác giả tập trung mô tả và phê phán cái xấu xa, cái phản động, nhưng chưa nêu được những phẩm chất tốt đẹp cũng tồn tại song song trong xã hội ấy. Xã hội trong tiểu thuyết đang chao đảo, nhưng rồi sẽ đi đến đâu, theo con đường nào… Thực ra, công bằng mà nói, đó cũng là những nhược điểm khó tránh nếu đặt tác phẩm và người viết trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mình. Bằng những giá trị nghệ thuật lớn lao, tiểu thuyết hoạt kê của T.Đôuenga Môxtôvich đã phản ứng khá mạnh mẽ chống lại một xã hội lố lăng, qua đó gián tiếp bênh vực quyền tồn tại và phát triển của những con người lương thiện, trung thực. Chính vì vậy, ngay sau khi ra đời, Đường công danh của Nikôđem Đyzma liền được xem là một hiện tượng văn học đặc sắc ở Ba Lan. Tác phẩm được in lại nhiều lần và cũng được đưa lên màn ảnh ở Ba Lan, được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài. Đọc Đường công danh của Nikôđem Đyzma và tìm hiểu thân thế sự nghiệp của T.Đôuenga Môxtôvich, người đọc Việt Nam không khỏi bất giác nghĩ tới Số đỏ của Vũ Trọng Phụng (1912 - 1939) và chợt thú vị về những nét tương đồng giữa hai tác giả cũng như hai tác phẩm. Hai tác giả sống gần như đồng thời với nhau, ở hai phương trời xa cách nhau hàng chục nghìn cây số, song đều tài hoa sắc sảo, đều từ giã cuộc đời giữa tuổi sáng tạo rực rỡ, để lại cho đời những tác phẩm sống mãi. Chúng tôi hy vọng rằng, với bản dịch ra tiếng Việt trực tiếp từ tiếng Ba Lan này Đường công danh của Nikôđem Đyzma sẽ giúp bạn đọc nước ta làm quen với một nhà văn tài hoa của dân tộc Ba Lan, đồng thời xuyên qua cái nhìn đầy phê phán với những hiện tượng bệnh hoạn của xã hội tư sản, thêm trân trọng gìn giữ và phát triển những giá trị thật sự tốt đẹp đang quyết liệt đấu tranh chống các hiện tượng xã hội tiêu cực xuất hiện trong hoàn cảnh xã hội phức tạp của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, góp thêm một tiếng nói nghệ thuật chống lại các biến tướng của chủ nghĩa cơ hội. Hà Nội, 01 - 1987 Hồng Diệu *** Tác phẩm:  Đường Công Danh Của Nikodem Dyzma Thầy Lang Giáo Sư Wilczur Mời các bạn đón đọc Đường Công Danh Của Nikodem Dyzma của tác giả Tadeusz Dolega-Mostowicz.