Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Khuyết Tật - Barabbas

Barabbas (1950) là một tiểu thuyết của văn hào Pär Lagerkvist, người đoạt Giải Nobel Văn chương năm 1951. Tác phẩm thuật lại câu chuyện về cuộc đời của Barabbas, người mà Thánh Kinh cho biết đã được tha thay vì Chúa Giê-xu. Barabbas đã dùng suốt cuộc đời còn lại của mình để tìm hiểu lý do vì sao mình được chọn để sống. Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên đồi Golgotha. Bên lề đám đông, Barabbas đứng đó. Vốn là một người bạo lực, sống ngoài vòng luật pháp và nổi loạn, Barabbas không thể nào có chút kính trọng với một người không biết phản kháng, dầu người đó đã chết thay chỗ của mình. Barabbas cũng hoài nghi về thần tánh của Chúa Giê-xu. Dầu vậy, ông cũng bị lôi cuốn về sự hy sinh của Chúa. Ông tìm gặp nhiều môn đệ khác nhau của Chúa để tìm hiểu. Tuy nhiên, những quan điểm tôn cao Chúa của họ không phù hợp với sự quan sát cụ thể của ông về Chúa. Quan trọng hơn nữa, vì Barabbas chưa bao giờ kinh nghiệm được tình yêu - vốn là nền tảng của niềm tin Cơ-đốc - nên Barabbas thấy rằng ông không thể nào hiểu được tình yêu, và do đó không thể nào hiểu được đức tin Cơ-đốc. Barabbas nói rằng ông "muốn tin," nhưng đối với Barabbas, hiểu biết là điều kiện tiên quyết để tin, do đó ông không thể tin. Sau nhiều thử thách gian truân, cuối cùng Barabbas đến Rome, nơi ông hiểu lầm cuộc hỏa hoạn tại Rome là khởi đầu của Thiên Đàng mới, do đó ông hăng hái giúp đám cháy lan rộng. Kết quả, ông bị bắt và bị đóng đinh cùng với những Cơ-đốc nhân khác như là những người tử đạo về một đức tin mà ông vẫn chưa hiểu. *** Pär Lagerkvist được trao giải vì những tác phẩm mang sức mạnh nghệ thuật và sự tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi muôn đời vẫn đặt ra trước loài người. Tiểu thuyết Barabbas là tuyệt tác của P. Lagerkvist về nỗ lực của con người tìm kiếm đức tin, đề cập đến những vấn đề cấp thiết nhất của tồn tại con người một cách hết sức xác thực và dũng cảm.   PÄR LAGERKVIST (23/5/1891 - 11/7/1974) Giải Nobel Văn chương 1951 * Nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch Thụy Điển * Nơi sinh: Vaxjo (Thụy Điển) * Nơi mất: Stockholm (Thụy Điển) Pär Lagerkvist là con một công nhân đường sắt. Ông học ngữ văn và lịch sử nghệ thuật, yêu thích văn chương và có định hướng trở thành nhà văn ngay từ thời niên thiếu. Năm 1912 P. Lagerkvist bắt đầu in thơ và truyện dài Những con người, viết báo và phê bình sân khấu. Năm 1913 ông đến Paris và chịu ảnh hưởng rất nhiều của trường phái ấn tượng, đặc biệt trong hội họa. Do ảnh hưởng của Thế chiến I nên các sáng tác thời kì đầu của P. Lagerkvist phản ánh tâm trạng lo âu, hoang mang, cô đơn và bất lực của con người trong thời kì đế quốc chủ nghĩa (Nỗi buồn, 1916). Những năm sau đó ông viết thơ, kịch, truyện, phê bình sân khấu. Năm 1925, ông cho ra đời cuốn tự truyện Vị khách của thực tại mang quan điểm nhân đạo, có tính chiến đấu, được viết bằng ngôn ngữ giản dị nhưng mang tính nghệ thuật rất cao. Cho tới năm 1930 P. Lagerkvist định cư chủ yếu tại Pháp và Ý, và sau khi trở về Thụy Điển, ông vẫn thường xuyên trở lại vùng Địa Trung Hải này. Năm 1940 ông được bầu vào Viện Hàn lâm Thụy Điển. Tiểu thuyết Barabbas (1950) là đỉnh cao sáng tác của P. Lagerkvist, kể lại cốt truyện của kinh Phúc Âm một cách chân thực và đầy sức thuyết phục, ngay lập tức được dịch sang 9 thứ tiếng và dựng thành phim. Năm sau, nhà văn nhận giải Nobel. Cho đến cuối đời ông tiếp tục viết thơ, sáng tác 5 cuốn tiểu thuyết. P. Lagerkvist có hai đời vợ. Ông mất năm 1974, thọ 83 tuổi. * Tác phẩm: - Những con người (Manniskor, 1912), truyện dài. - Nghệ thuật ngôn từ và nghệ thuật họa hình (Ordkonst och bildkonst, 1913), tùy bút [Verbal art and pictorial art]. - Sắt và người (Jam och manniskor, 1915), tập truyện. - Nỗi buồn (Angest, 1916), thơ [Anguish]. - Người cuối cùng (Den sista manniskan, 1917), kịch. - Sân khấu (Teater, 1918), tiểu luận. - Hỗn loạn (Kaos, 1919), tập thơ. - Thời khắc khó khăn I, II, III (Den svara stunden, 1918), kịch [The difficult hour I,II,III]. - Bí mật thiên đường (Himlens hemlighet, 1919), kịch [The secret of heaven]. - Những motiv (Motivs, 1919), thơ và văn xuôi. - Nụ cười vĩnh cửu (Det eviga bendet, 1920), truyện dài. - Con đường của người hạnh phúc (Den lyckliges vag, 1921), thơ. - Người vô hình (Den osynlige, 1923), kịch. - Những truyền thuyết anh hùng đáng sợ (Onda sagor, 1924), tập truyện ngắn. - Vị khách của thực tại (Gaest hos verkligheten, 1925), tự truyện [Guest of reality]. - Bài ca trái tim (Hjartats sanger, 1926), thơ [Songs from the heart]. - Cuộc sống bị chinh phục (Det besegrade livet, 1927), tự truyện [The conquered life]. - Người đã sống hết cuộc đời (Han som fick leva om sitt liv, 1928), kịch [He who lived his life over again]. - Huyền thoại loài người (Myten on manniskorna, khoảng 1930, chơa in). - Bên đống lửa (Vid legeraldem, 1932), tập thơ. - Vua (Konungen, 1932), kịch. - Tên đao phủ (Bödeln, 1933), kịch [The hangman]. - Người không có tâm hồn (Mannen utan sjal, 1936), kịch [The man without a soul]. - Chiến thắng trong bóng tối (Seger i mörker, 1939), kịch [The victory in the darkness]. - Thơ và cuộc chiến (Song och strid, 1940), tập thơ. - Thằng lùn (Dvọrgen, 1944), tiểu thuyết. - Hãy để mọi người được sống (Lat manniskam leva, 1949), kịch. - Barabbas (1950), tiểu thuyết. - Đất hoàng hôn (Aftonland, 1953), tập thơ. - Sibyllan (1956), tiểu thuyết. - Cái chết của Ahasverus (Ahasverus dod, 1960), tiểu thuyết. - Người hành hương trên biển (Pilgrim pa havet, 1962), tiểu thuyết. - Mariamne (1967), tiểu thuyết.   * Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt : - Người khuyết tật, gồm 2 tiểu thuyết Người khuyết tật (Dvọrgen), Nguyễn Thái Hà dịch và Barabbas, Dương Cầm dịch, NXB Hội Nhà Văn, 2002. - Bố và tôi, Chiếc thang máy xuống địa ngục, Nhật Chiêu dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1997. - Cha và tôi, Hàn Thủy Giang dịch, in trong Tập truyện ngắn nước ngoài chọn lọc, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1998. - Chiếc thang máy xuống địa ngục, Ngô Bích Thu dịch, in trong Đôi mắt lụa, NXB Văn Học, 1998; Truyện ngắn tình yêu hiện đại thế giới, NXB Văn hóa - Thông tin, 2003. - Cuộc phiêu lưu, Cốt thiêng, Tình yêu và cái chết, Chợ đồ cũ, Hà Việt Anh dịch, in trong tập Tọa độ tình yêu, NXB Hội Nhà Văn, 2004. ©  Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mình Về Nhà Thôi! - Catherine Ryan Hyde
Cô bé Angie mười bốn tuổi và mẹ lại phải chuyển chỗ ở lần nữa, vì Sophie, em gái nhỏ của Angie, mắc chứng bệnh giống như tự kỉ, và lúc nào cũng chực rít lên. Dù họ chuyển đến sống ở đâu, thì tổ ấm luôn là thứ tạm bợ. Một ngày nọ, ba mẹ con chuyển tới sống cùng Dì Vi và gặp cô chó Rigby to lớn của nhà hàng xóm. Cô chó đã làm thay đổi tất cả. Sophie đã yêu mến và bắt đầu bắt chước nội tâm của nó ngay từ khi mới gặp. Thật may mắn là Rigby rất trầm tĩnh nên Sophie ngừng la hét, và mọi người lại có thể thở phào. Cho tới khi Paul, ông chủ luôn gắt gỏng và ghét tiếp xúc với mọi người của cô chó, chuyển tới sống trên núi, Sophie lại bắt đầu rền rĩ. Angie phải học cách xoay xở trước quá nhiều rối rắm: gia đình, tình bạn, những cảm xúc kì lạ của tuổi mới lớn, và những ước mơ của chính mình. Nhưng điều quan trọng nhất là, cô bé luôn giữ một trái tim đầy tình yêu thương và tin vào chính mình, cho dù niềm tin đó bị mọi người phản đối hay cho là kì quặc. Được chắp bút bởi tác giả của những cuốn sách bán chạy nhất: Pay it forward, Don’t let me go, When I found you, When you were older,… Mình về nhà thôi! (Where we belong) là câu chuyện xúc động, chân thành, và tràn đầy hy vọng về hành trình tìm kiếm mái ấm của mỗi người, không chỉ là một ngôi nhà, mà còn là tổ ấm tinh thần thực sự trong trái tim mỗi chúng ta. *** Hyde đặc biệt sâu sắc trong vai trò người kể chuyện. Bằng lối viết gãy gọn, cô tạo nên những nhân vật hoàn hảo và những cuộc đối thoại đầy tinh tế.” - Library Journal “Cách tiếp cận xúc cảm trái tim của Hyde vô cùng tinh tế.” - Publishers Weekly *** Tới năm bảy tuổi, tôi đã sở hữu tận hai mươi hai bộ bài. Những hai mươi hai bộ cơ đấy. Tôi thậm chí còn chẳng bao giờ chơi bài ấy chứ. Mấy trò bài bạc chán òm. Tôi dùng mấy lá bài đó để xếp nhà. Mọi chuyện bắt đầu từ ngôi nhà thẻ bài đầu tiên ba dạy tôi xếp, ngay trước khi ba cho tay vào túi áo lục tìm thuốc lá. Nhưng trong túi áo ba chẳng còn lại điếu nào, thế nên ba đành tới cửa hàng tạp hóa góc phố mua thuốc, rồi bị bọn cướp giết chết ngay tại đó. Khi ấy tôi mới sáu tuổi. Bọn chúng giết ba để lấy chiếc đồng hồ đeo tay, ví tiền và nhẫn cưới của ông. Dù chiếc đồng hồ Timex ba đeo chỉ là loại rẻ tiền, chiếc nhẫn bạc mỏng tang cũng chẳng có giá trị gì cả. Thậm chí ba còn chẳng mang theo nhiều tiền, bởi trước giờ ông làm gì có nhiều tiền đâu. Sau khi đã xếp nhà thuần thục, tôi tiếp tục xếp những công trình khác bằng thẻ bài: khu chung cư, khu phức hợp, nông trại, cung điện,... Tôi tốn rất nhiều công sức cho những công trình đó, dù đến cuối cùng chúng đều sụp đổ hết. Nhưng mọi thứ trên đời này đều như vậy mà. Phải không? Giống như ba tôi ấy. Lúc đó ba đang dạy tôi rằng khoảnh khắc tuyệt vời nhất chính là khi tòa nhà dần cao lên. Đó là khi bạn đã xây được khoảng ba hay bốn tầng nhà, và mỗi lần xếp thêm bài đều khiến bạn nín thở. Bạn phải hết sức kiên nhẫn. Bạn nghĩ, công trình của mình chắc chắn sẽ sụp đổ mất thôi, nhưng hóa ra không phải. Cảm giác nín thở chờ đợi ấy thật kì lạ, giống như thời gian ngưng lại vậy. Và khoảnh khắc ấy chính là lí do khiến tôi xếp tiếp những lá bài chết tiệt đó. “Ba thú thực với con điều này nhé, Angie,” ba tôi nói. “Khoảnh khắc chờ đợi ấy khiến con bạc trong ba bừng tỉnh.” ... Mời các bạn đón đọc Mình Về Nhà Thôi! của tác giả Catherine Ryan Hyde.
Ngây Thơ Và Phóng Đãng - Christina Hollis
Niềm say mê phi lý của Meg đối với Gianni là một minh chứng rõ rệt cho câu nói: Đàn ông không hư, đàn bà không yêu... Ngẫu nhiên gặp gã bá tước phóng đãng ấy trong hội chợ hoa, cô lập tức đem lòng tơ tưởng, chẳng hiểu bởi nụ cười đã được rèn luyện, bởi tài ve vãn thành thạo, hay bởi sức thu hút tự nhiên của anh ta. Số phận kì lạ đã đẩy Meg bay qua một nữa châu lục đến làm việc tại Địa Trung Hải. Tình cờ thay, ông chủ của cô lại chính là Gianni. Mối tương tư cũ được dịp khơi ngọn, Meg không đủ sức cưỡng lại khi Gianni bắt đầu trổ tài quyến rũ. Lúc sung sướng nhất đời cũng là lúc Meg phải nếm trải mặt trái tàn nhẫn trong tính cách của bá tước. Giữa cơn đắm đuối ái ân, anh ta vẫn đủ tỉnh táo nhắc cho Meg nhớ vị trí của cô chỉ là tình nhân, hoàn toàn tạm thời và có thể bị thay thế bất cứ lúc nào. Nhưng có gì mù quáng hơn trái tim, có gì bướng bỉnh hơn tuổi trẻ? Meg chấp nhận tất cả để nguồn vui trọn vẹn, cho đến một ngày, phát hiện ra Gianni không chỉ không yêu, mà còn xem thường cô lẫn sự nghiệp mà cô coi trọng... *** Meg không muốn tỏ ra nhỏ mọn hay tiểu nhân khi chọn những nhánh hoa mà Gianni đặt. Cô chọn những nhánh mà cô thích nhất ở quầy trưng bày. Đó là những bông hoa đẹp nhất, những cánh hoa trắng muốt được phủ một lớp hồng tươi, làm tôn lên vẻ đẹp dịu dàng, mong manh của những cánh hoa màu vàng. Cô gói lại một cách cẩn thận. Giấy kính bóng này sẽ bảo vệ những cánh hoa trong tiết trời se lạnh của tháng, trong khi cả thước dây ruy băng màu hồng cô uốn xoăn để trang trí làm cho những nhánh hoa trở thành một món quà mà cô rất muốn bản thân mình được tặng. Địa chỉ của căn hộ Mayfair mà Gianni ở đã khắc sâu vào trái tim cô ngay lần gặp đầu tiên. Nên cô không cần phải quan sát mới nhận ra nó. Một anh gác cổng trong bộ đồng phục mời cô vào. Tiếp tân gọi điện để xem cô có được phép lên phòng anh không. Meg nhanh chóng được thang máy nhấc lên một dãy phòng sang trọng và yên tĩnh ở trên cùng. Bước ra khỏi thang máy, bước vào một thế giới toàn thảm nhung dày cộm và tiếng máy lạnh kêu rì rì, Meg đứng trước cánh cửa trơn tru không có đường nét gì đặc biệt. Không có tay nắm, cũng chẳng có vòng gõ cửa hay một dấu hiệu gì để cô biết ai đang ở trong ấy. Meg giơ tay lên nhưng chẳng kịp gõ. Một người hầu phòng trong bộ đồng phục lịch sự phủ tạp dề mở cửa ra. Cô ta đón lấy bó hoa lan từ tay Meg, nhưng bị cắt ngang bởi một chuyển động bên trong căn hộ. ... Mời các bạn đón đọc Ngây Thơ Và Phóng Đãng của tác giả Christina Hollis.
Nơi Trái Tim Trở Về - Dorothy Garlock
Victoria McKenna, cô gái xinh đẹp, giàu nghị lực, nhân hậu, có đôi mắt to tròn màu hổ phách, chiếc mũi hếch bướng bỉnh, đôi môi mọng gợi cảm cùng mái tóc vàng dày óng ả. Mason T. Mahaffey, người đàn ông từng trải, mạnh mẽ, tự tin và quyết đoán lại sở hữu mái tóc đen nam tính, đôi mắt xanh thẳm như đại dương, ánh mắt hút hồn, và trái tim tràn đầy yêu thương. Hai con người ấy buộc phải đối đầu trong cuộc chiến một mất một còn để giành quyền kiểm soát trang trại MM. Ngay từ ánh mắt đầu tiên, Mason đã không thể cưỡng lại những cảm xúc mãnh liệt trước Victoria, bởi anh không ngờ đối thủ của mình lại xinh đẹp, cuốn hút đến vậy... ... Chúa ơi, cô thật xinh đẹp! Cô nhắc anh nhớ tới một đồng tiền được đúc bằng vàng, chỉ có điều không hề có nét cứng và lạnh nào trong sự duyên dáng, thanh nhã của cô. Duy chỉ có nỗi đau đớn và thất vọng in dấu trên khuôn mặt nghiêm trang ấy. Anh chưa gặp người phụ nữ nào đẹp như vậy - nữ tính và mềm mại, gợi cảm và quyến rũ. Anh đã thấy nhiều phụ nữ đẹp, nhưng cô gái này - anh quay đầu ngắm cô lần nữa và thấy đôi mắt hổ phách lại đang chiếu vào anh - là một phụ nữ đẹp tự nhiên, trong trắng và toàn vẹn... Còn Victoria, cô những tưởng mình chỉ phải đối phó với gã công tử bột ẻo lả, thế nhưng .. ... Tim cô thít lại trong lồng ngực, nghẹt thở. Cô có thể làm gì đây? Cô đâu biết người đàn ông tin mình là chủ nhân mới của trang trại không phải là kẻ yếu ớt người miền Đông. Cô đâu ngờ Mason T. Mahaffey là kẻ ghê gớm như thế... Tại sao Mason Mahaffey phải có mọi đặc tính cô không mong đợi chứ? Và viễn cảnh mái nhà dấu yêu rơi vào tay kẻ xa lạ làm tim cô tan nát... ... Nước mắt ấm nóng đong đầy trong mắt Victoria. Cô không thể nén chúng lại nữa dù đã cố hết sức. Cô cảm thấy như thể mình đang đứng trên rìa vách đá và nếu di chuyển thì cô sẽ rơi xuống vực thẳm. Mason thấu hiểu nỗi đau đớn của Victoria. Khao khát không để bất cứ điều gì làm cô tổn thương cùng mong muốn bảo vệ cô dâng tràn trong anh. Nhưng trách nhiệm với gia đình và quyết tâm xây dựng mái nhà cho các em cũng mạnh mẽ không kém. Mason bị giằng xé giữa các cảm xúc trái ngược, và anh có cảm tưởng như mình bị chia làm hai nửa... Mọi chuyện tưởng như rơi vào bế tắc thì những bí ẩn dần dần lộ diện. Victoria cuối cùng cũng phải để Mason và các em của anh sống tại trang trại MM trong khi chờ đợi phán quyết của tòa án và cô không thể ngờ rằng người mà cô ngỡ là kẻ thù không đội trời chung ấy lại bảo vệ, cứu cô thoát khỏi mưu đồ giết hại hòng chiếm đoạt trang trại một lần nữa của chính anh trai cô. Khởi đầu là hận thù cùng căm ghét, trải qua bao nhiêu khúc mắc, hiểu lầm, rồi cuối cùng sát cánh bên Mason, được anh chở che trong giây phút cận kề với cái chết, liệu Victoria có tiếp tục cuộc chiến giành quyền sở hữu trang trại, hay cô sẽ lắng nghe tiếng con tim mách bảo rằng Mason chính là người đàn ông của đời mình? Liệu hai người có tìm được một cõi bình yên sau bao biến cố, khổ đau, một nơi để trái tim trở về đích thực sau những tháng ngày chông chênh ấy? *** Dorothy Garlock là một trong những tác giả bestseller của NEW YORK TIMES, USA TODAY, WASHINGTON POST... Với trên 50 tác phẩm chủ yếu viết về mảnh đất miền Tây hoang đã được dịch sang 18 thứ tiếng, xuất bản ở 36 quốc gia cùng 20 triệu bản in trên toàn thế giới, Dorothy Garlock được mệnh danh là “Tiếng nói của đất mẹ Mỹ - The voice of America’s heart”. Bà đã đạt được hơn 21 giải thưởng danh giá trong sự nghiệp văn chương đồ sộ của mình. Mời các bạn đón đọc Nơi Trái Tim Trở Về của tác giả Dorothy Garlock.
Mùa Hè - Edith Wharton
Xuất thân từ một cộng đồng biệt lập bị người đời khinh ghét, Charity Royall luôn mang trong mình nỗi mặc cảm với mọi người xung quanh. Nàng không mở lòng với ai và luôn cảm thấy cuộc sống của mình thật vô vị, tẻ nhạt, cho đến mùa hè năm ấy, khi cuộc chạm trán tình cờ với chàng trai thành thị Lucius Harney đem đến cho nàng một mối tình lãng mạn, say đắm. Lần đầu tiên, Charity lần lượt nếm trải những dư vị ngọt ngào cũng như cay đắng của tình yêu, và cuộc đời nàng từ đó hoàn toàn thay đổi... *** Tình yêu cứ tồn tại, nhưng không có sex, nhưng những xúc cảm nồng nàn vẫn cứ hiển hiện và cuốn hút người đọc vào một không gian rực rỡ, tràn ngập ánh nắng mùa hè. Tiểu thuyết “Mùa hè” mang đến sự tiếp xúc gần gũi như chạm tới tận cùng những tình cảm thật nhất của con người. Với tài năng nghệ thuật đặc biệt, nhà văn Mỹ tài năng Edith Wharton đã khiến “Mùa hè” trở thành một bản tình ca ngọt ngào, lãng mạn mà không cần quá nhiều những miêu tả cảm xúc yêu đương, trở thành những bài học thực tế nhất của cuộc sống mà không cần thiết phải diễn tả quá trần trụi. “Mùa hè” nói về miền quê North Dormer (Mỹ), một chiều tháng 6, trong những năm đầu tiên của thế kỷ XX đã chứng kiến cuộc tình của cô bé thôn quê mười chín tuổi Charity Royall và chàng thanh niên đến từ thành phố là Lucius Harney. Vùng quê vốn tẻ nhạt ấy đã bắt đầu thay đổi... Xuất thân từ một cộng đồng biệt lập bị người đời khinh ghét trên Núi Lớn, cô bé Charity được ông Royall nhận nuôi từ nhỏ sau khi bố cô bị tống vào tù. Cô được đem ra khỏi cộng đồng đó và sống trong vùng quê tươi đẹp, hẻo lánh tên North Dormer. Việc số mệnh an bài cô tại North Dormer đã là một đặc ân, so với nơi xuất thân của cô. Tuy vậy, lớn lên, cô bé Charity thơ ngây cảm thấy cuộc sống của mình thật tẻ nhạt, vô vị. Những ấm ức vì không có cơ hội được thực hiện “niềm khao khát được biết những thông tin mà công việc thủ thư tại thư viện làng của nàng không khơi dậy nổi” đã khiến cô luôn cảm thấy chán ghét mọi thứ ở North Dormer bé nhỏ. Cho đến khi cô gặp Harney. Tình bạn của họ nhanh chóng chuyển thành tình yêu. Ở Harney tồn tại một nguồn sinh lực mạnh mẽ làm thoả mãn những ao ước được trải nghiệm của cô. “Cũng bởi anh là người đầu tiên tán dương nàng vì xuất thân của nàng”. Một cách hết sức tự nhiên, Harney đã mang đến cho Charity một tình yêu giản dị nhưng vô cùng mới mẻ, thuần khiết nhưng đắm say, đam mê nhưng hết lòng tôn trọng. Tuy nhiên, tình yêu ấy không hề thuận lợi. Sự khác biệt về học vấn và tương lai đã vạch ra giữa họ một khoảng cách mà họ không cách nào vượt qua dù có cố gắng đến đâu. Trong khi người bảo trợ của cô, ông luật sư Royall, người đàn ông góa vợ, cao ngạo, hay say sưa, giờ lại muốn lấy cô làm vợ. Khi Charity biết mình có thai cũng là lúc cô phát hiện Harney giấu cô việc từ lâu anh đã có hôn ước với một cô gái khác và chưa tìm ra lý do gì để hủy hôn. Đó là lý do anh cũng chưa chắc chắn với dự tính tương lai của hai người. Từ bỏ lời ước hẹn của Harney khi rời khỏi North Dormer rằng sẽ thu xếp công chuyện để có thể sớm kết hôn với cô, Charity quyết định sẽ trở về nguồn cội để sinh đứa bé và nuôi con một mình. Nhưng khi tìm lên Núi Lớn, chứng kiến cái chết khổ sở của người mẹ đẻ, của cuộc sống khốn khổ ở đó, “Charity quyết tâm đi khỏi nơi này bao xa cũng được, và cuộc đời có trút lên nàng bao nhiêu gánh nặng cũng xong, miễn là bảo vệ được con mình tránh khỏi số phận này”. Cô quay về đúng lúc ông Royall muốn đưa cô đến nhà thờ để làm hôn lễ. Và cuối cùng, hôn lễ của Charity đã diễn ra. Đó là luật sư Royall luôn ở bên bao bọc và chờ đợi cô quay trở lại sau những khám phá riêng tư hay là Harney, người đàn ông cô yêu say đắm đã tìm về? Chỉ biết rằng đó là người mà nàng thấy rằng mình được an toàn, vững tâm khi bên cạnh... *** Nhà văn Edith Wharton (1862 - 1937), một nữ văn sĩ Mỹ tài năng, đầu thế kỉ XX mà tên tuổi và sự nổi tiếng của bà chưa bao giờ khép kín trong biên giới một quốc gia. Những cuốn tiểu thuyết của Wharton như The House of Mirth (Ngôi nhà của niềm vui - 1905), The Custom of the Country (Tập tục địa phương - 1913), Summer (Mùa hè - 1917), The Age of Innocence (Thời thơ ngây - 1920), và cuốn tiểu thuyết ngắn được trau chuốt tuyệt vời Ethan Frome (1911)... đã từng chinh phục độc giả đến từ rất nhiều nước và nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Với “Thời thơ ngây” viết năm 1920, Edith Wharton đã đoạt giải Pulitzer năm 1921 và được NXB Penguin bình chọn là một trong số 100 tác phẩm xuất sắc nhất mọi thời đại (nhân dịp kỷ niệm 60 năm thành lập Tủ sách kinh điển), sánh cùng các kiệt tác khác như “Đồi gió hú”, “Chiến tranh và hòa bình”, “Lolita”, “Anh em nhà Karamazov”... Mời các bạn đón đọc Mùa Hè của tác giả Edith Wharton.