Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đỉnh Tuyết - Cuộc Phiêu Lưu Của Alex Rider

Đỉnh Tuyết là cuốn sách thứ hai trong series Alex Rider, được viết bởi tác giả người Anh Anthony Horowitz. Cuốn sách được phát hành tại Vương quốc Anh vào ngày 3 tháng 9 năm 2001 và ở Bắc Mỹ vào ngày 15 tháng 4 năm 2002, với tựa đề thay thế là Point Blank. Truyện viết về cuộc phiêu lưu mới của Alex Rider, trong một điệp vụ mới của tình báo nước Anh. Với trí tưởng tượng phong phú, cách hành văn hiện đại và rất lôi cuốn qua hàng loạt tình tiết gay cấn, tác giả đưa người đọc đến một ngôi trường kỳ lạ, bí ẩn từ giáo viên đến học sinh và tại đây Alex Rider đã đối đầu với một tên sát nhân thiên tài và điên khùng nhất nhì thế giới. Truyện phù hợp với mọi đối tượng bạn đọc đặc biệt là những bạn trẻ yêu thích các chuyến phiêu lưu mạo hiểm và những ai đã đọc qua phần 1 “Công tắc bão” càng không thể bỏ qua. *** Alex Rider là bộ tiểu thuyết tình báo cho thanh thiếu niên về một điệp viên nhỏ tuổi có tên là Alex Rider, đã được xuất bản thành sách và phát hành bắt đầu từ năm 2000 cho đến nay, gồm 13 cuốn. Ngoài 13 cuốn là nội dung chủ yếu, bộ truyện còn kèm theo sáu truyện tranh, bảy truyện ngắn và một cuốn bổ sung. Tại Vương quốc Anh, cuốn tiểu thuyết đầu tiên (tập 1) phát hành vào năm 2000, cuốn cuối cùng (tập 13) phát hành năm 2020. Bộ tiểu thuyết được Walker Books ở Anh xuất bản. Ở Việt Nam, một số cuốn trong bộ tiểu thuyết này đã được dịch ra tiếng Việt. Tác giả của bộ truyện này là Anthony Horowitz - một nhà văn người Anh chuyên viết tiểu thuyết và kịch bản đã nổi tiếng về các tác phẩm The Diamond Brothers (anh em kim cương), The Power of Five (Người gác cổng), Sherlock Holmes, v.v. Bộ tiểu thuyết này nổi tiếng vì là một tác phẩm văn học thuộc thể loại tiểu thuyết ly kỳ pha với hoạt động tình báo (spy fiction), kết hợp phiêu lưu, đã hấp dẫn nhiều lứa tuổi, hiện rất phổ biến ở nhiều nước châu Âu, châu Mỹ. Sách được bán rất chạy, hiện đã bán được trên 9 triệu bản hoặc có thể hơn nữa. Một số tập của bộ tiểu thuyết đã được chuyển thể thành phim chiếu rạp (từ 2006), thành phim truyền hình (từ 2020) với tựa đề cùng tên. Ngoài ra một số nội dung trong cốt truyện còn được chuyển thể thành trò chơi điện tử "Alex Rider Game". Ở Việt Nam, phần I của bộ phim truyền hình cùng tên là Alex Rider đã công chiếu trên kênh AXN châu Á từ tháng 3 năm 2021. *** Chiếc xe hơi vẫn chở ông đi làm vào bảy giờ mười lăm phút sáng là một chiếc Mercedes được chế tạo theo đơn đặt hàng, có bọc thép và các ô cửa đều được lắp kính chống đạn. Tài xế của ông là một nhân viên FBI đã về hưu, lúc nào cũng thủ trong người một khẩu súng lục Beretta tự động và rất thành thạo cách sử dụng nó. Từ chỗ chiếc xe hơi dừng đến lối vào tòa nhà Roscoe, nằm trên Đại lộ số Năm ở New York, chỉ cách nhau có năm bước chân, thế nhưng những chiếc camera được gắn vào hệ thống truyền hình cáp vẫn theo sát ông ta trong từng cử động. Các cánh cửa tự động nhẹ nhàng khép lại sau lưng ông; một tay bảo vệ mặc đồng phục - có trang bị vũ khí - dõi theo khi ông băng qua phòng lớn, bước vào thang máy riêng. Chiếc thang máy riêng của ông có những bức vách lát đá cẩm thạch trắng muốt, một tấm thảm màu xanh dương, một tay vịn màu bạc, và không có nút bấm nào cả. Ông Roscoe đặt bàn tay của mình lên một ô kính nhỏ. Bộ phận cảm biến đọc vân tay của ông, kiểm tra lại chúng và kích hoạt thang máy. Cửa thang máy nhẹ nhàng đóng lại, thang máy lên thẳng một mạch tới tầng thứ sáu mươi. Không một ai có thể sử dụng nó. Mà nó cũng không bao giờ dừng lại ở bất cứ tầng nào trong tòa nhà. Trong lúc thang máy đi lên, các nhân viên tiếp tân ở tiền sảnh bắt đầu nhấc điện thoại, thông báo cho tất cả nhân viên trong tòa nhà biết rằng ông Roscoe đang đến. Mọi người làm việc trong văn phòng riêng của ông Roscoe đều đã được lựa chọn một cách cẩn thận và xem xét chặt chẽ, kỹ lưỡng cả về lý lịch lẫn chuyên môn. Không bao giờ có thể gặp ông mà không hẹn trước. Hẹn trước rồi thì phải ba tháng sau mới được gặp. Khi người ta giàu, người ta phải cẩn thận. Cuộc sống có nhiều người kỳ quặc lắm, những kẻ bắt cóc, những tên khủng bố - liều lĩnh và cướp bóc. Ông Michael J. Roscoe là chủ tịch Tập đoàn điện tử Roscoe và là người thứ chín, hay thứ mười, giàu nhất trên thế giới, thế nên ông rất cẩn thận. Từ lúc chân dung ông Roscoe xuất hiện trên trang bìa tạp chí Thời đại (Vua điện tử), ông biết rằng mình đã trở thành mục tiêu của nhiều người. Khi ở chốn công cộng, ông bước đi rất nhanh, đầu cúi xuống. Mắt kính râm ông chọn phải che được nhiều nhất gương mặt tròn trịa và bảnh trai của ông. Bộ complê ông Roscoe mặc rất đắt tiền nhưng vô danh. Nếu đến nhà hát hay đi ăn tối, thì vào đến phút chót, ông mới đến, ông không hề thích phải đi quanh quẩn đâu đó. Cuộc sống của ông có hàng tá hệ thống bảo vệ khác nhau, mặc dù chúng làm ông khó chịu, nhưng ông đã biến chúng trở thành thói quen. Hãy hỏi bất kỳ một điệp viên hay nhân viên an ninh nào đi. Thói quen là thứ có thể giết chết người ta. Nó báo cho kẻ đối địch biết rằng ta sẽ đi đâu và khi nào thì ta tới đó. Thói quen sẽ giết chết ông Michael J. Roscoe, và hôm nay là ngày thần chết đã chọn để gọi ông. Lẽ tất nhiên, ông Roscoe không hề có ý niệm gì về chuyện này khi ông bước ra khỏi thang máy mở thẳng vào văn phòng riêng của mình, một căn phòng rất to chiếm lĩnh một góc tòa nhà với những cửa sổ kéo dài từ sàn tới trần nhà, trông ra hai hướng: Đại lộ số Năm ở hướng đông và một phần của Công viên Trung tâm ở hướng Bắc. Hai bức tường còn lại có một cửa ra vào, một kệ sách thấp và một bức tranh sơn dầu đơn độc - một bức tranh vẽ bình hoa của họa sĩ Vincent van Gogh. Các vật dụng trên mặt kính đen ở bàn làm việc của ông được sắp xếp gọn ghẽ: một máy vi tính, một sổ tay bọc da, một máy điện thoại và một tấm ảnh của cậu bé mười bốn tuổi nằm trong khung hình. Khi cởip chiếc áo vét-tông ra và ngồi xuống, ông nhận ra mình đang nhìn vào bức ảnh của cậu bé. Tóc vàng, mắt xanh, và có tàn nhang. Paul Roscoe giống bố mình như đúc hồi ba mươi năm trước, ông Michael Roscoe năm nay đã bước vào tuổi năm mươi hai và bắt đầu nhận ra tuổi tác của mình, mặc dù nước da ông vẫn rám nắng quanh năm. Con trai ông cao gần bằng bố. Tấm hình này chụp vào mùa hè năm ngoái, trên đảo Long Insland. Họ đã trải qua những ngày lênh đênh trên biển. Sau đó là bữa ăn đồ nướng trên bãi biển. Đấy là một trong những ngày hạnh phúc mà họ đã có cùng nhau. Cửa mở, người thư ký bước vào. Helen Bosworth là người Anh. Cô rời nhà, dĩ nhiên, cả chồng nữa, để đến và làm việc ở New York; cô yêu mỗi phút giây ở đây. Cô đã làm việc trong văn phòng này được mười một năm rồi, và trong suốt quãng thời gian đó, cô chưa hề quên một chi tiết hay phạm một lỗi lầm nào. - Xin chào ông Roscoe - Cô lên tiếng. - Chào cô, Helen. Cô đặt xấp tài liệu lên bàn ông. - Số liệu mới nhất từ Singapore. Dự toán về tổ chức R-15. Ông có bữa trưa với Thượng nghị sĩ Andrews lúc mười hai giờ rưỡi. Tôi đã đặt chỗ ở Ivy. - Cô đã gọi đi London chưa ? - ông Roscoe hỏi. Helen Bosworth chớp chớp mắt. Cô chưa bao giờ quên điều gì, vậy tại sao ông ta lại hỏi thế ? Cô đáp: - Chiều hôm qua, tôi đã gọi tới văn phòng ông Alan Blunt rồi. Buổi chiều ở New York là buổi tối ở London. Cô Helen nói tiếp: - Ông Blunt không rảnh, nhưng tôi đã sắp xếp cho ông một cuộc điện thoại gọi qua tổng đài vào chiều nay. Chúng tôi có thể nối số vào xe hơi của ông. - Cảm ơn cô, Helen. - Tôi đem cà phê cho ông nhé ? - Không cần đâu, cảm ơn Helen. Hôm nay tôi không uống cà phê. Helen Bosworth rời khỏi phòng, cô thực sự hoảng hốt. Không uống cà phê ? Chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo nữa đây ? Theo như những gì cô biết thì ông Roscoe luôn bắt đầu một ngày làm việc của mình với hai tách cà phê kia mà. Liệu có phải ông bị ốm không nhỉ ? Gần đây ông hoàn toàn không còn là ông nữa - không phải là từ lúc Paul trở về nhà từ ngôi trường ở miền Nam nước Pháp. Lại còn cuộc điện thoại cho ông Alan Blunt ở London nữa chứ ! Chưa có ai kể với cô về con người này cả, nhưng cô đã từng nhìn thấy cái tên này trên một tệp tài liệu, ông Roscoe có việc gì đó với Cục tình báo quân đội. MI6. Ông Roscoe đang làm gì vậy, nói chuyện với một điệp viên ư ? Cô Helen Bosworth quay trở lại văn phòng làm việc của mình, cố gắng làm dịu nỗi kích động, không uống cà phê - cô không thể chịu nổi điều này - mà uống một tách trà làm tỉnh người trong bữa trà điểm tâm của Anh. Một điều gì đó rất lạ đang diễn ra, và cô không hề thích thú điều đó.. Cô không thích điều đó chút nào. Trong lúc ấy, dưới đó sáu mươi tầng, một người đàn ông bước vào tiền sảnh, hắn mặc quần yếm xám với một huy hiệu nhận diện đính trên ngực. Huy hiệu cho biết hắn là Sam Green, một kỹ sư bảo dưỡng của Công ty liên hợp Thang máy X-Press, một tay hắn xách một chiếc cặp, tay kia xách một cái hộp dụng cụ lớn, màu bạc. Hắn đặt cả hai xuống phía trước quầy tiếp tân. Same Green không phải là tên thật của hắn. Tóc hắn - đen và hơi nhờn - là tóc giả; cũng là giả cả cặp kính mát, hàng ria mép và hàm răng không bằng phẳng. Trông hắn khoảng năm mươi tuổi, nhưng sự thật thì hắn chỉ mới gần ba mươi. Không ai biết tên thật của người đàn ông này, nhưng với công việc hắn đang làm, cuối cùng, hắn cũng đã để lại tiếng tăm. Hắn được biết đến với cái tên vỏn vẹn: "Quý ông'', là một trong những tên giết mướn thành đạt nhất và được trả lương cao nhất trên thế giới. Hắn được tặng biệt danh này bởi vì hắn luôn luôn gửi hoa đến gia đình nạn nhân của hắn. Người bảo vệ ở tiền sảnh nhìn hắn chằm chằm. - Tôi đến để xem thang máy - Hắn lên tiếng. Hắn nói gọng khu Bronx (nằm ở phía Đông Bắc thành phố New York) mặc dù cả đời hắn chưa bao giờ ở đó quá một tuần. - Để làm gì ? - Người bảo vệ hỏi - Người của ông đã đến đây tuần trước rồi mà. - Vâng. Đúng rồi. Chúng tôi đã phát hiện thấy một dây cáp bị hư ở thang máy số mười hai. Nó cần được thay thế, nhưng lúc ấy, chúng tôi lại không có thiết bị. Thế nên họ mới cử tôi quay trở lại. Quý ông lục tìm trong túi, lấy ra một tờ giấy nhàu nát. - Anh có cần gọi đến văn phòng chính không ? Thật sự là tôi được chỉ định đến đây mà. Nếu người bảo vệ mà gọi cho Công ty Liên hiệp Thang máy X-Press, thì anh ta sẽ khám phá ra được rằng quả thực Công ty có nhận một người tên là Sam Green vào làm - nhưng đã hai ngày qua, chẳng thấy mặt mũi ông ta đâu. Bỏi vì Sam Green thật hiện đang nằm ở dưới đáy sông Hudson với một con dao trên lưng và một khối bê-tông nặng chín kilôgram buộc ở chân. Nhưng người bảo vệ đã không gọi điện cho Công ty. Quý ông cũng đã đoán trước được rằng anh ta sẽ không gây cản trở cho mình. Xét cho cùng thì thang máy vẫn luôn bị hỏng như thế. Lúc nào mà chả thấy thợ sửa chữa đi ra đi vào. Có gì khác biệt nếu có thêm một người nữa vào làm ? Người bảo vệ đưa ngón tay cái ra hiệu. Anh ta nói: - Lên đi. Quý ông cất tờ giấy vào túi, xách đồ đạc lên, đi lại phía thang máy. Có mười hai tòa nhà chọc trời đang được bảo dưỡng, thêm tòa nhà của ông Michael J. Roscoe nữa là thứ mười ba. Thang máy số mười hai nằm ở phía cuối. Khi hắn bước vào, một chú bé giao hàng cầm trên tay một bưu kiện cũng cố gắng vào theo. - Xin lỗi nhé - Quý ông nói - Phải đóng cửa để sửa chữa. Cửa thang máy nhẹ nhàng đóng lại. Quý ông bắt đầu làm công việc của mình. Hắn nhấn nút lên tầng sáu mươi mốt. Quý ông chỉ mới được giao nhiệm vụ này vào tuần trước. Hắn đã phải tiến hành thật nhanh, giết một kỹ sư bảo dưỡng thật, bắt chước hình dáng của ông ta, tìm hiểu cách bố trí trong tòa nhà Roscoe, và cố gắng sử dụng thành thạo một số dụng cụ mà hắn biết trước là hắn sẽ phải cần đến. Những người thuê hắn muốn nhà triệu phú này phải bị loại trừ càng sớm càng tốt. Quan trọng hơn, trông nó phải giống với một vụ tai nạn. Vì vậy, người ta đã nhờ đến Quý ông - và hắn được trả một trăm ngàn đôla. Tiền được gửi vào một tài khoản ở ngân hàng Thụy Sĩ; họ trả trước một nửa và sẽ trả tiếp nửa kia sau khi xong việc. Cửa thang máy lại mở ra. Tầng sáu mươi mốt được sử dụng chủ yếu cho hoạt động bảo vệ. Đây là nơi người ta đặt bể nước, cũng như những máy vi tính điều khiển nhiệt độ, máy điều hòa không khí, camera theo dõi và những thang máy trong tòa nhà. Quý ông tắt thang máy bằng cách sử dụng chiếc chìa khóa đã từng thuộc về Sam Green, sau đó, hắn đi lại phía những chiếc máy vi tính. Hắn biết chính xác những chiếc máy vi tính này nằm ở đâu. Thực tế, hắn có thể nhận ra chúng đang được che lại. Hắn mở chiếc cặp của mình ra. Trong cặp có hai ngăn. Ngăn thấp chứa một chiếc máy vi tính xách tay. Ngăn cao hơn đặt những mũi khoan và các dụng cụ khác, mỗi món đồ đều được buộc ràng lại, nằm cố định một chỗ. Hắn mất mười lăm phút để xâm nhập vào máy vi tính trung ương và kết nối nó vào máy vi tính xách tay của hắn. Việc truyền dữ liệu qua hệ thống bảo vệ tòa nhàRoscoè lại mất thêm một khoảng thời gian nữa nhưng cuối cùng nó cũng trót lọt. Hắn gõ một lệnh vào bàn phím, ở tầng dưới, thang máy riêng của ông Michael J. Roscoe vừa làm một việc mà trước đây nó chưa hề làm bao giờ. Nó lên thêm một tầng nữa - tầng thứ sau mươi mốt. Tuy nhiên, cửa thang máy vẫn đóng. Quý ông cũng chẳng cần bước vào. Thay vào đó, hắn nhấc chiếc cặp cùng với cái hộp dụng cụ màu bạc lên, mang trở lại vào thang máy mà hắn đã lên đây từ tiền sảnh. Hắn mở khóa và nhấn nút xuống tầng năm mươi chín. Một lần nữa, hắn lại khóa thang máy. Rồi hắn với tay lên, đẩy. Nóc thang máy là một cửa lật. Hắn đặt chiếc cặp và chiếc hộp dụng cụ màu bạc lên trên đó rồi nhảy lên trên nóc thang máy. Lúc này, Quý ông đang đứng trong khoang thang máy chính của tòa nhà Roscoe. Bốn phía xung quanh hắn toàn những cột và các ống đen xì những dầu mỡ cùng bụi bẩn. Những sợi dây cáp làm bằng thép dày buông thõng xuống, một số kêu o o khi chúng đang tải vật nặng. Nhìn xuống phía dưới, hắn có thể trông thấy một đường hầm trông như kéo dài vô tận, với những khe sáng do cửa thang máy trượt ra rồi đóng lại khi những chiếc thang máy đi lên các tầng khác nhau. Chúng tạo ra một làn gió nhẹ thổi tung bụi vào mắt hắn. Bên cạnh hắn là cửa thang máy, mà nếu mở ra, chúng sẽ dẫn hắn vào thẳng văn phòng ông Roscoe. Bên trên những cánh cửa này, phía trên đầu của hắn, thêm vài mét nữa về bên phải là mặt dưới thang máy riêng của ông Roscoe. Cái hộp đựng dụng cụ đang ở bên cạnh hắn. Một cách thận trọng, hắn mở chiếc hộp ra. Xung quanh chiếc hộp được lót một miếng bọt biển dày. Trong lòng miếng lót ấy là một vật dụng trông như một máy chiếu phim phức tạp, màu bạc, hình lòng chảo, có một thấu kính thủy tinh dày. Hắn lấy chiếc máy ra, sau đó, nhìn vào đồng hồ. Tám giờ ba mươi lăm phút sáng. Quý ông còn những một tiếng đồng hồ nữa để lắp thiết bị này vào bên dưới thang máy của ông Roscoe, và thêm chút xíu thời gian nữa để kiểm tra lại cho chắc chắn rằng nó đang hoạt động. Hắn còn cả khối thối gian nữa. Mỉm cười với chính mình, Quý ông lấy ra một cái tuavít vạn năng và bắt đầu làm việc. Mười hai giờ trưa, cô Helen Bosworth nói vào điện thoại: - Thưa ông Roscoe, xe hơi của ông đến rồi. - Cảm ơn cô, Helen. Buổi sáng hôm ấy, ông Roscoe không làm việc nhiều, ông tự nhận ra rằng mình chỉ để có một nửa đầu óc vào công việc. Một lần nữa, ông lại nhìn vào bức ảnh trên bàn. Paul. Làm thế nào mà cha và con lại trở nên hục hặc với nhau như thế chứ ? Và điều gì đã xảy ra vào mấy tháng cuối cùng đó khiến cho tình cảm cha con của họ trở nên tồi tệ đến như vậy ? Ông đứng dậy, mặc áo vét-tông vào, rời khỏi phòng làm việc, lên đường đi ăn trưa với Thượng nghị sĩ Andrews. Ông hay ăn trưa với những chính khách. Những người này hoặc muốn tiền, muốn ý kiến của ông - hoặc chỉ là muốn quan hệ xã giao với ông. Bất cứ ai giàu sụ như Roscoe cũng đều muốn kết bạn với người có quyền lực, và các chính khách thì lại cần có những người bạn như thế. Ông nhấn nút thang máy, cánh cửa nhẹ nhàng mở ra, ông bước một bước về phía trước. Điều cuối cùng ông Michael J. Roscoe còn nhìn thấy trong cuộc đời mình chính là mặt trong chiếc thang máy của ông, với những vách cẩn đá cẩm thạch trắng, tấm thảm xanh dương, và tay vịn màu bạc. Chân phải của ông, mang chiếc giày da màu đen do một cửa hàng nhỏ ở thủ đô Rôma làm bằng tay để dành riêng cho ông, đặt lên tấm thảm và đã xuyên qua nó, kéo theo cả thân hình của ông đổ nghiêng vào trong thang máy và rồi cũng xuyên qua tấm thảm, ông lọt xuống, rơi khỏi sáu mươi tầng lầu cho đến chết. Ông Roscbe hoàn toàn không thể hiểu được điều gì đã xảy ra, ông đã ngạc nhiên đến độ không thể kêu lên được một tiếng nào. Ông rơi vào bóng tối đen ngòm của khoang thang máy, rơi dọc theo những bức vách, và đâm sầm vào nền bê-tông rắn chắc ở bên dưới, cách đó bốn trăm năm mươi bảy mét. Chiếc thang máy vẫn ở nguyên chỗ cũ. Trông nó vẫn vững chắc, nhưng thật ra, nó không còn ở đó nữa. Cái mà ông Rosoe bước vào chỉ là một hình ảnh ba chiều, một hình ảnh được chiếu vào khoảng không trống rỗng của khoang thang máy, nơi có để chiếc thang máy thật. Quý ông đã lập trình cho cửa mở ra khi ông Roscoe bấm nút, và ung dung nhìn thấy ông đi vào quên lãng. Nếu nhà triệu phú ngước nhìn lên một chút, ông sẽ nhận ra một máy chiếu không gian ba chiều màu bạc, đang chiếu ra một hình ảnh, cái máy ấy chỉ ở bên trên đầu ông có vài mét. Nhưng người đàn ông bước vào thang máy để xuống ăn trưa không hề ngước mắt lên. Quý ông đã biết trước điều đó. Và hắn chưa bao giờ tính toán sai. Mười hai giờ ba mươi lăm phút, người lái xe gọi lên, nói rằng ông Roscoe không vào xe hơi. Mười phút sau, cô Helen Bosworth báo động khẩn cấp, cô bắt đầu rảo quanh phòng lớn của tòa nhà. Lúc một giờ, người ta gọi tới nhà hàng. Ngài Thượng nghị sĩ vẫn đang chờ ở đó. Nhưng ông Roscoe thì không thấy tăm hơi. Thật ra, mãi đến ngày hôm sau, người ta vẫn chưa tìm ra được thi thể của ông Roscoe; nhưng vào tại thời điểm đó, sự mất tích của nhà triệu phú đã trở thành tin tức nổi cộm của các báo. Một tai nạn kỳ quặc - có vẻ như vậy. Không ai có thể lý giải được điều đã xảy ra. Bởi vì lúc đó, lẽ dĩ nhiên, Quý ông đã lập trình lại máy vi tính, gỡ máy chiếu ra và xóa bỏ mọi dấu vết, trước khi bình thản rời khỏi tòa nhà. Hai ngày sau, một người đàn ông trông giống một kỹ sư bảo dưỡng bước vào sân bay quốc tế John F. Kennedy. Ông ta đáp chuyến máy bay đến Thụy Sĩ. Nhưng trước tiên, ông ta đến một cửa hàng hoa, đặt mười hai bông hoa uất kim hương đen, yêu cầu gửi đến một địa chỉ nào đó. Người đàn ông ấy gửi tiền mặt, ông ta đã không để lại tên. Mời các bạn đón đọc Đỉnh Tuyết - Cuộc Phiêu Lưu Của Alex Rider của tác giả Anthony Horowitz.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lão Goriot - Honoré De Balzac
  Tiểu thuyết Lão Goriot ra đời sau cách mạng tư sản Pháp năm 1789, khi mà sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản đã khiến đồng tiền ngự trị và biến đổi sâu sắc mọi mặt của xã hội. Trong hoàn cảnh đó, tiểu thuyết hiện thực phê phán góp một ý nghĩa quan trọng đối với xã hội Pháp lúc bấy giờ. Đây là một tác phẩm thuộc phần Những cảnh đời riêng(Scènes de la vie privée) của bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời(La Comédie humaine). Câu chuyện bắt đầu ở một nhà trọ bình dân, với bà chủ Vauquer và 7 người khách trọ. Trong đó, gây tò mò nhất là lão Goriot vì ban đầu người ta tưởng lão có nhiều tiền và nhìn lão cũng sang trọng. Nhưng sau đó lão sa sút dần, cùng lúc đó xuất hiện  bên cạnh lão những quý cô xinh đẹp, danh giá. Và người ta tưởng rằng đó là tình nhân của lão. Nhưng anh chàng sinh viên Luật Rastignac ở gần phòng lão mới là người phát hiện ra đó là hai cô con gái của lão Goriot tên là Anastasie và Delphine. Để bước chân vào xã hội thượng lưu, Rastignas đã nhờ cô em họ dẫn đường để tiếp cận với Delphine. Rastignas đem chuyện kể cho lão Goriot, lão rất cảm động và muốn giúp đỡ cho 2 người hạnh phúc. Mặt khác, ở nhà trọ bình dân, còn xuất hiện thêm tên tù vượt ngục đó là Vautrin. Lão ta rất xảo quyệt, lão đã chỉ đường cho Rastignac giàu sang bằng nhưng âm mưu độc ác. Lão Goriot rất chiều chuộng hai cô con gái, từ một người làm mì, lão đã tranh thủ cơ hội giàu có lên, và gả 2 cô con gái đến chỗ giàu sang danh giá, đưa hết tiền cho chúng sau đó bản thân mình thì đến nhà trọ bình dân. Hai cô con gái liên tục bòn rút, kể lể, than vãn với lão, trong một lần lão xúc động và sinh ốm nặng. Trong lúc đó chỉ có Rastignac và Bianchon chăm sóc cho lão. Ngay đến cuối đời, hai cô con gái của lão cũng không hề đến thăm, lão đã chết trong sự tủi hờn. Lễ tang của lão được tổ chức một cách sơ sài nhờ vào số tiền ít ỏi của Rastignac. Hôm đưa tang, người ta thấy có hai chiếc xe mang gia huy của hai dòng họ Restaud và Nucingen nhưng trên xe trống rỗng. Tác phẩm khép lại bằng cảnh Rastignac nhìn xuống phố phường Paris và thốt lên một câu đầy thách thức: "Bây giờ chỉ còn ta với mi" với dự định đến ăn tối ở nhà Nucingen Lão Goriot là một trong những tiểu thuyết thành công nhất của Honore’ de Balzac. Với ngòi bút hiện thực sắc sảo, Balzac đã trở thành một trong những đại diện xuất sắc nhất của tiêu thuyết hiện thực phê phán. Ông đã sử dụng thành công những thủ pháp ngệ thuật của tiểu thuyết hiện thực phê phán thể hiện tư tưởng của mình phơi bày hiện thực xã hội từ đó thức tỉnh con người, hướng họ tới những giá trị tốt đẹp hơn. *** Honoré de Balzac (1799-1850) là nhà văn hiện thực Pháp lớn nhất nửa đầu thế kỷ 19, bậc thầy của tiểu thuyết văn học hiện thực.  Ông là con trai của Bernard-François Balssa và Anne-Charlotte-Laure Sallambier, họ Balzac được lấy của một gia đình quý tộc cổ Balzac d'Entraigues. Cuộc đời ông là sự thất bại toàn diện trong sáng tác và kinh doanh - đó là tổng kết chung về thời thanh niên của Balzac từ khi vào đời cho đến năm (1828). Ông chỉ thật sự được văn đàn Pháp công nhận sau khi đã mất. Người ủng hộ ông nhiều nhất khi còn sống là Victor Hugo. Ông có một sức sáng tạo phi thường, khả năng làm việc cao, thường chỉ ngủ một ngày khoảng 2 đến 3 tiếng, thời gian còn lại làm việc trên một gác xép. Balzac sớm có ý thức về sự tái hiện cuộc đời một cách hoàn chỉnh ở đủ mọi góc cạnh của nó và được đặt trong hệ thống mà ông ví như một "công trình kiến trúc của vũ trụ" với tính chất vừa hệ thống vừa hoành tráng từ các tác phẩm của ông. Vũ trụ ấy là cuộc đời nhìn qua nhãn quang của ông tạo nên một "thế giới kiểu Balzac" in rõ dấu ấn của "cảm hứng vĩ mô". Vì vậy, vũ trụ trong tiểu thuyết Balzac là một "vũ trụ được sáng tạo hơn là được mô phỏng". Honoré de Balzac từng nói một câu nổi tiếng " Ai cũng có thể làm thầy ta !" ; chính sự sâu sắc này của ông đã ảnh hưởng rất lớn về cách sống cũng như trong nghệ thuật của ông. Một số tác phẩm tiêu biểu : Miếng da lừa, Lão Goriot, Bước thăng trầm của kĩ nữ, và đặc biệt là bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời. Mời các bạn đón đọc Lão Goriot của tác giả Honoré De Balzac.
Di Sản Của Eszter - Márai Sándor
Được xuất bản năm 1939,  Di Sản Của Eszter  tập hợp trong một câu chuyện ngắn gọn tất cả những gì tạo nên nghệ thuật của Márai Sándor. Sống ẩn dật trong ngôi nhà sắp sụp đổ, đờ đẫn trong chính sự cô đơn đang che chở cho mình, người phụ nữ đứng tuổi bỗng nhiên đón nhận sự trở về của người đàn ông duy nhất mà bà yêu thương, người đã lấy đi của bà tất cả, hoặc gần như tất cả, trước khi biến mất hai mươi năm trước. Sự đối mặt giữa hai con người phức tạp – Eszter đúng mực, không biết chính những mất mát của mình, và lajos, khó hiểu, quyến rũ và lọc lừa, là cơ hội thể hiện những xung đột của con người mà Márai Sándor là bậc thầy khắc hoạ. Sự căng thẳng bi kịch tột độ, bầu không khí như trong mộng, lối viết giản dị và rõ ràng, đã biến cuốn tiểu thuyết ngắn gọn này thành một kiệt tác thực sự. *** - “Một tinh thần định mệnh mang đậm chất Đông Âu, sự căng thẳng đầy hiệu ứng bi kịch, những nhân vật tinh tế, văn phong trong sáng… và phép màu hiện ra” – Lire - “Một người phụ nữ chẳng mong gì nữa, chẳng mong đợi ai nữa bỗng thấy tình yêu đầu tiên và cũng là tình yêu cuối cùng của mình trở về - để trả lại tất cả hay lấy đi nốt chút gì còn lại của bà? Bà không biết rằng trong con người đó, thiên thần và ác quỷ cùng mang những đôi cánh rực rỡ như nhau” – Amazon.fr - “Một cuộc gặp gỡ diễn ra khi quá khứ gần như sống lại nguyên vẹn từ những tro tàn của nó đã đến lúc màn cuối cuả tấn bi kịch nổ ra bởi “quy luật của thế giới này là những gì đã khởi đầu sẽ giành quyền kết thúc” – NXB Albin Michel - “Tác giả Hungary này thích miêu tả những cuộc trở về - sự đối mặt giữa hai con người mà cuộc sống đã chia rẽ họ và những tình cảm vẫn còn dang dở. Di sản thực sự của Eszter: “Bà đã biết bí ẩn lớn nhất của cuộc sống: biết sống cô độc” – Lire. *** Márai Sándor họ Grosschmid, sinh ngày 11.4.1900, tại Kassa, Hungary, nay là Kocise thuộc nước Cộng hòa Slovakia. Năm 1923, Márai sang Paris, lưu lại năm năm. Năm 1926 ông bắt đầu hành trình dài ngày tìm hiểu vùng Cận Đông và viết cuốn Theo dấu chân các bậc thánh (Istenek nyomában), xuất bản năm 1927. Thời kỳ sáng tác sung sức nhất của Márai là khoảng từ năm 1928 đến năm 1948, khi ông trở về sinh sống tại Hungary cùng vợ. Ông làm thơ, viết tiểu thuyết, dịch thuật, viết kịch bản và để lại gần một trăm đầu sách, trong đó có những tiểu thuyết nổi tiếng như Casanova ở Bolzano, Di sản của Eszte, Những ngọn nến cháy tàn, Nhật ký, Lời bộc bạch của một công dân… Márai cũng là bậc thầy của thể đoản văn, những suy niệm của ông bao giờ cũng mang âm hưởng triết lý, cô đọng. Márai được bầu là Viện sĩ Thông tấn năm 1942 và Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Hungary năm 1945. Từ 1948, ông sống lưu vong tại Ý và Mỹ. Tác phẩm của Márai đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và ông được xếp trong số những nhà văn lớn nhất của châu Âu thế kỷ XX. “Và đến giây phút cuối cùng, cho tới khi còn được cầm bút viết nên con chữ, tôi muốn làm chứng rằng: đã có một thời và vài thế hệ mà ở đó trí tuệ đã ca khúc khải hoàn trước bản năng, và tin vào khả năng phản kháng của tinh thần… tôi đã thấy và đã nghe châu Âu, đã nghiệm sinh một nền văn hóa… liệu tôi có thể nhận được gì hơn từ cuộc đời?” - Márai Sándor Mời các bạn đón đọc Di Sản Của Eszter của tác giả Márai Sándor.
Cậu Chó - Trần Đức Lai
Trong kinh Địa Tạng phầm đệ tử nói về Diêm Phủ chúng sanh nghiệp cảm Đức Phật có bảo với Ngài Địa Tạng Bồ Tát rằng: "Nhất thiết chúng sanh, vị giải thoát giả, tánh thức vô định, ác tập kết nghiệp thiện tập kết quả" nghĩa là "Những chúng sanh mà chưa giải thoát tánh thức của nó không định, hễ quen làm dữ thời kết thành nghiệp báo dữ còn quen làm lành kết thành quả báo lành". Trong kiếp nhân sanh, một gia đình tưởng mình phú quý tột bậc đó là do phúc đức cha mẹ, ông bà để lại mà quên việc làm lành cố làm theo dữ để được sung sướng trong kiếp tạm thời ở thế gian nên có nhiều khi Trời Phật quả báo nhỡn tiền, cho trông thấy cái nghiệp chướng ác đức hiện ra ngay trong kiếp người hầu mong những người làm ác nghĩ lại mà hối quá. Ngày xưa cũng như ngày nay có nhiều gia đình, tự nhiên sanh con bán thân bất toại hoặc sinh nhiều chứng tật nguyền kỳ lạ khác hẳn thiên hạ. Đó là nghiệp chướng báo oán. Họ lấy khoa học hoặc dựa vào Duy vật Biện Chứng pháp của Cộng sản để chứng minh hầu chối chạy tội lỗi họ đã gây ra. Chúng tôi sẽ lần lượt thuật lại hầu bạn đọc những câu chuyện nghiệp chướng kỳ lạ, kinh dị mà khoa học cũng đành bó tay không làm sao giải thích nổi. *** Trần Đức Lai, tên thật là Bùi-Bá-Nhân, quê ở làng Do-Xuyên, tổng Vân-Trai, Phủ Tỉnh Gia, Tỉnh Thanh-Hóa. Vào nghề viết báo từ năm 1938, làm Thông-Tín-Viên cho Nhựt Báo Đông Pháp ở Thanh-Hóa. Năm 1940, làm Thông Tín Viên cho Nhựt Báo Tin Mới của Bác-Sĩ Nguyễn-văn-Luyện do Nhà Văn kiêm Nhà Báo Tam Lang làm Chủ Bút. Bắt đầu viết văn từ năm 1942. Truyện ngắn đầu tiên mang bút hiệu Thiềm Cung đăng trong số Xuân Tin Mới, nhan đề : « MỘT THỜI XUÂN ». Thỉnh thoảng viết trên báo ĐÀN BÀ, TIỂU THUYẾT THỨ BẢY với bút hiệu MÃ GIANG TỬ. Năm 1951 hồi cư viết cho tờ Quốc Dân, Thăng Long, Bạn Dân. Năm 1952, làm công chức và viết báo DÂN CHÚNG, DÂN NGUYỆN với bút hiệu TÔ VĂN. Năm 1955, di cư vô Nam làm Biên Tập Viên cho Nhựt Báo NGÔN LUẬN, DÂN CHÚNG. Tổng thơ Ký Tòa Soạn Nhựt Báo CÁCH MẠNG QUỐC GIA, SAIGON MAI cộng tác với CÁT HỮU viết chung nhiều mục lấy bút hiệu là CÁT VĂN. Năm 1962, Biên Tập Viên Nhựt Báo ĐỒNG NAI, chủ bút Nhựt Báo BẾN NGHÉ, chủ bút Nhựt Báo CÔNG CHÚNG, biên tập viên Nhựt Báo SỐNG, DÂN, THỜI SỰ MIỀN NAM, ĐIỆN TÍN, các Tuần Báo DẠ ĐÀM, PHỤ NỮ MỚI, Giám Đốc Chánh Trị Nhựt Báo TRẮNG ĐEN. Với bút hiệu TRẦN ĐỨC LAI, ký giả TÔ VĂN thường viết truyện Ma Quái, Kinh Dị trên các Nhựt Báo DÂN CHÚNG, ĐỒNG NAI, SAIGON MAI, TRẮNG ĐEN được đọc giả cũng như các Văn hữu tặng danh hiệu MA SƯ. Ngoài bút hiệu TRẦN ĐỨC LAI, ký giả TÔ VĂN còn có bút hiệu MINH ĐẠO khi viết chuyện Tình Cảm Xã Hội, bút hiệu ĐIỆP-VIÊN khi viết tiểu thuyết phóng sự và P. Y. 65 khi viết truyện Trinh Thám, GIÁN ĐIỆP. Nhà Văn TRẦN ĐỨC LAI là một trong những nhà Văn có nhiều độc giả nhứt và cũng là một trong những cây bút đắt giá nhứt. Mời các bạn đón đọc Cậu Chó của tác giả Trần Đức Lai.
Em Là Nhà - Lan Rùa
“Em chẳng sợ cuộc đời nhiều biến cố, chỉ sợ không có anh siết chặt tay em.” Dành cho những ai trải qua bao nhiêu vụn vỡ, vẫn muốn một lần nữa tin vào  tình yêu. Cuốn tiểu thuyết đạt tới 20 triệu lượt đọc trên Internet của tác giả Lan Rùa và ngoại truyện chưa từng được công bố của Em là nhà. Đằng sau một cuộc tình tan vỡ là điều gì? Lời xin lỗi liệu có là đủ để làm nguôi ngoai nỗi đau của người bị bỏ lại? Tình yêu thời nay, chỉ yêu thôi chưa bao giờ là đủ? Nếu bạn còn chưa thể chắc chắn khi đưa ra câu trả lời của mình, vậy thì hãy cùng đi tìm đáp án cho những câu hỏi trên trong Em Là Nhà – Cuốn tiểu thuyết viết về những mối ​ tình đan xen, là món quà, là lời nhắn nhủ của một người trẻ, gửi đến nhiều người trẻ. Xoay quanh những đổ vỡ tình cảm, những thách thức, những sự lừa dối mà cô gái trẻ Như Nguyệt phải chịu đựng, chuyện tình yêu trong Em là nhà sẽ đưa bạn qua những ​ cung bậc cảm xúc từ ngọt ngào đến cao trào uất hận, từ bình yên êm ấm đến những nỗi đau chỉ có thể âm thầm chịu đựng. Tình yêu là điều duy nhất trên đời này không thể lên kế hoạch, không thể lường trước. Thời gian của một cuộc tình dường như chẳng thể đảm bảo về một cái kết hạnh phúc, giống như mối tình kéo dài suốt 7 năm của Như Nguyệt và Việt An. Hai con người đã dành cả thanh xuân ở bên nhau, sau cùng đã trở thành những người xa lạ. Chàng trai quay lưng, kết hôn với người bạn thân nhất của người con gái mình từng yêu. Đó là Hà Vi​ – cô gái xinh đẹp và phía sau là cả một gia đình bề thế. Sóng gió từ đó cứ đổ ập vào đời Như Nguyệt. Bình yên hết lần này đến lần khác rời bỏ cô mà đi. Em là nhà​ là câu chuyện tình với nhiều nước mắt, nhiều thù hận, nhưng cũng không thiếu những điều ngọt ngào và những hạnh phúc bình dị. Mỗi trang sách bạn lật mở, mỗi nỗi đau bạn cảm nhận cùng những nhân vật chính là mỗi lần bạn xóa đi lớp sương mù đang giăng trong mình về tình yêu. Và những câu hỏi ở trên sẽ trở nên dễ dàng trả lời hơn bao giờ hết. Chẳng phải tự nhiên mà Việt An bỏ Như Nguyệt để đến với Hà Vi. Chẳng phải tự nhiên mà Mai và Như Nguyệt trở thành đối thủ và nhìn nhau bằng ánh mắt hình viên đạn, dù trước đó họ từng rất thân. Cũng chẳng phải tự nhiên mà Như Nguyệt có thể dễ dàng bước qua những đổ vỡ của đời mình. Vậy đó, chuyện tình yêu trong Em là nhà​ không chỉ đơn thuần là những lần yêu – chia tay, cũng không hẳn là những thù hằn hay những mưu kế trả thù. Đó là cuộc sống của những người trẻ chông chênh, mỏng manh và đơn độc giữa những tháng ngày bão tố. Tuổi trẻ của họ được yêu, được nông nổi, được khờ dại, được nếm trải những nỗi đau để rồi nhận ra rằng: Tình yêu thôi là không đủ để làm nên một cuộc đời hạnh phúc. Em là nhà​ nhẹ nhàng như vị tình yêu đầu đời, đắng chát như mùi thù hận và bất ngờ với những bí mật thẳm sâu. Hãy đọc, cảm nhận để tự tìm đáp án cho những câu hỏi vẫn còn đang bỏ ngỏ trong trái tim bạn. *** Tác giả tự giới thiệu: Mình cung Kim Ngưu, rất vui được làm quen với các nàng. Về nick name Lan Rùa, thực ra biệt danh của mình là Nhím, chứ không phải là Rùa, mọi người yêu quý đều gọi mình là Nhím. Rùa là biệt danh người bạn thân nhất, khi viết truyện lập nick chơi chơi, sau ngại đổi. *** Cuộc sống mà, luôn có những lúc gập ghềnh. Nhớ mãi năm đó giáo sư bị tai nạn. Một người cẩn thận như anh sao có thể gặp tai nạn? Lúc nghe người ta báo mình còn tưởng nhầm với ai. Mất một lúc đơ mới vội vàng chạy vào viện. Được cái người đưa vào người ta kể đường chỗ đó bé, ông xã tránh hai thằng say rượu đi nghênh ngang rốt cuộc lao xuống mương. Mịa nó chỉ muốn đập cho hai thằng khốn ấy một trận. Tình hình xấu quá bác sĩ bảo chuyển lên tuyến trên, thế là đêm hôm ấy vợ với hai con theo chồng đi. Nói thật muốn gửi chúng về quê lắm nhưng có cô y tá khuyên anh không được tốt, chị cứ cho hai bé đi nhỡ có gì còn được gặp mặt ba lần cuối. Nghe xong mà nước mắt mình chảy không ngừng, vội vã nhờ người về nhà đón Mun Sa. Ba mẹ con nhếch nha nhếch nhác, con khóc mẹ khóc, đau như xé từng khúc ruột. May mắn hôm đấy thoát, nhưng chuyển biến của anh cứ như trêu đùa người ta vậy, rõ là ban sáng khám qua các kiểu thấy rất tốt, tỉnh tỉnh rồi, vợ nói gì cũng hiểu, còn cầm tay mình và hai con. Thế nào mà chiều lại đột nhiên yếu đi, nhịp tim thất thường doạ mình sợ gần chết. Ai có người nhà đi viện chắc mới thấm được, lúc nào cũng như ngồi trên đống lửa vậy. Qua một tuần bác sĩ chịu trách nhiệm chính vào khám tổng thể, nói sắp tới tiến hành phẫu thuật lần nữa. Mọi người ba mẹ họ hàng chị em đều ở bên động viên không sao đâu, nhưng cái thời khắc đọc thoả thuận rồi đặt bút kí giấy đúng là như bị đày xuống địa ngục vậy, căng thẳng kinh khủng. Lúc chồng ở trong đó, vợ ở ngoài chẳng biết làm gì khác ngoài cầu nguyện cả. Nửa tiếng trôi qua thì dì Hạnh đưa Mun và Sa tới, Sa nắm tay mẹ an ủi. -"Chiều qua lúc mẹ đi tắm ba tỉnh nhé, ba khoẻ mạnh lắm, ba còn viết gì cho mẹ ý..." Nghe con nói mà giật nảy người luôn. Mình quay sang hỏi hai đứa dồn dập mà con Mun nhất định không khai, nó bảo hứa với ba rồi, con Sa thì bị chị lườm nên câm nín. Không biết thì thôi chứ thế này ai mà chịu được? ... Mời các bạn đón đọc Em Là Nhà của tác giả Lan Rùa.