Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người hành khách bí ẩn - Georges Simenon

Tên ebook: Người hành khách bí ẩn Tác giả: Georges Simenon Thể loại: Tiểu thuyết, Trinh thám, Văn học phương Tây   Người dịch:  Đặng Phú - Lê Việt Dũng   Nhà xuất bản: Công An Nhân Dân   Kích thước: 13 x 19 cm   Số trang: 385   Năm xuất bản: 2004   Tạo prc: Hoa quân tử   Ebook:  Đào Tiểu Vũ's eBook -  http://www.dtv-ebook.com Đ ây là một căn bệnh tấn công những tàu thuyền trong tất cả các vùng biển trên thế giới mà nguyên nhân thuộc một lĩnh vực chưa ai biết, được gọi là ngẫu nhiên. Nếu những triệu chứng bước đầu của căn bệnh ấy rõ ràng thì chúng sẽ không thể thoát khỏi cặp mắt của những thuỷ thủ. Tuy nhiên, nó thường bắt đầu bằng những điều hết sức vô cớ, chẳng hạn như: một dây néo đứt văng ra như dây vĩ cầm làm bứt đi cánh tay một thuỷ thủ. Hoặc giả một chàng thủy thủ trẻ xoè ngón tay cái trong lúc gọt vỏ khoai tây và ngày hôm sau “tai hoạ bất ngờ” làm anh ta thét lên. Nếu không do vận hành sai thì làm sao một chiếc canot lại dại dột lao vào sống mũi tàu? Nhưng đó vẫn chưa phải là “cái nhìn xúi quẩy”. Cái nhìn xúi quẩy đòi hỏi hàng loạt những tai nạn. Khi cái loạt xúi quẩy ấy đeo đuổi, người ta dễ dàng nhận thấy những tổn hại mới vào ban đêm hoặc ngày hôm sau. Từ khi nó xuất hiện, mọi việc sẽ ngày càng xấu đi và những người đàn ông, chỉ còn biết nghiến răng mà đếm những trận đòn. Đó là lúc mà cỗ máy đã vận hành ba mươi năm không một lần hỏng hóc, bỗng dở chứng kẹt máy như chiếc cối xay cà phê cũ kỹ. Bất kể những dự báo được xác định là tốt nhất trên những bảng khí tượng và theo kinh nghiệm, nếu đúng, thì trong hai mươi ngày tới vào mùa này, gió không bao giờ xảy ra. Và con sóng đầu tiên ập đến sẽ không cuốn một người vào biển cả! Sẽ có bệnh lỵ nếu không phải dịch hạch! Còn may mắn nếu người ta sẽ không giạt vào mắc cạn ở một bãi cát hoặc khi đi vào cảng, người ta không va phải đê chắn sóng. ○○○ Con tàu Polarlys, neo đậu ở cảng số mười bảy trong một vũng tàu xa xôi nhất và bẩn thỉu nhất ở Hambourg phải nhổ neo dời bến vào ba giờ chiều theo thông báo ở tấm biển móc vào thùng thư tại cầu tàu. Chưa đến hai giờ, thuyền trưởng Petersen đã mơ hồ cảm thấy “cái nhìn xúi quẩy” rình rập. Tuy nhiên đây là một người đàn ông cương nghị, béo lùn, mập mạp. Từ chín giờ sáng, ông bước từng bước dài trên boong giám sát việc bốc hàng lên tàu. Sương mù đặc biệt vàng và xám, chứa đầy bồ hóng, phả ra độ ẩm lạnh giá, đè nặng lên bến cảng và thành phố, người ta chỉ nhìn thấy những chiếc đèn của xe điện, những cửa sổ sáng đèn như giữa đêm. Lúc này là cuối tháng hai. Do lạnh và vì vật lộn trong những đám mây ấy, đã để lại trên mặt và những bàn tay một loại váng băng. Mọi hồi còi đồng loạt rít lên thành một tiếp âm chói tai lấn át tiếng kèn kẹt của những cần trục. Boong tàu Polarlys hầu như vắng vẻ: bốn người đàn ông ở trên khoang trước đang tháo dỡ những chiếc hòm và thùng. Con tàu không có gì nổi tiếng cả. Đây là con tàu chạy hơi nước trọng tải một nghìn tấn, có vẻ tàu đánh bắt cá thu, boong tàu luôn đầy ắp hàng hoá, tàu làm dịch vụ từ Hambourg đến Kirkenes bằng cách đi dọc bờ biển Na Uy để phục vụ giao thông cho những cảng nhỏ. Đây là con tàu hỗn hợp có chỗ cho năm mươi hành khách ghế hạng nhất và cũng ngần ấy hành khách hạng ba. Từ Na Uy, người ta đưa đến nơi nhận những máy móc, hoa quả và thịt muối. Người ta đưa về từ cực Bắc những thùng cá thu cũng như da gấu và dầu hải cẩu. Cho đến Lofoten, khí hậu bình thường. Rồi đột nhiên, người ta rơi vào những miền băng giá và trong đêm dài tới ba tháng. Những sĩ quan là người Na Uy. Những chàng trai tốt biết trước sẽ lấy bao nhiêu thùng ở Công ty Olsen tại Tromsoe và chuyên chở cho ai ở Hambourg những máy công cụ. Ngay buổi sáng ấy, Petersen dứt bỏ chiếc lon cuối cùng của mình chỉ được giữ bằng một sợi chỉ. Công ty bỗng cử ông đi với hàng tràng những lời dặn dò như với sĩ quan thứ ba, một chàng trai Hà Lan mười chín tuổi gầy mảnh như mới mười sáu tuổi! Phải chăng sự xuất hiện của Vriens lúc mười giờ làm cho Petersen đánh hơi thấy cái nhìn xúi quẩy? Anh ta tốt nghiệp trường hàng hải Delfzijl ngay tuần ấy. Hôm qua, anh ta trình diện vẻ xanh xao, xúc động, trong bộ đồng phục đứng đắn, ngơ ngác, đứng nghiêm. — Tuân lệnh, thưa thuyền trưởng! — Này, anh Vriens - Petersen nói với anh ta - tôi không có lệnh cho anh trong lúc này. Anh có thể nghỉ ngơi cho tới ngày mai. Với tư cách là sĩ quan thứ ba, anh lo việc đưa hành khách lên tàu. Vriens đi, buổi tối không trở lại. Vào mười giờ sáng, thuyền trưởng trông thấy anh ta xuống xe taxi, lảo đảo, với nước da xanh xao, mi mắt sưng phồng, cái nhìn sợ sệt. Khi anh ta qua cầu tàu, đúng là anh ta loạng choạng. Petersen xoay lưng lại với anh ta, nghe thấy anh ta chạm gót chào trước khi đi về phía buồng mình. — Anh ta ốm yếu như một con chó! - Một lúc sau người phục vụ nói. - Anh ta yêu cầu tôi cà phê rất đặc. Anh ta nằm duỗi dài, thẳng đơ trên giường hầu như không sao nói được. Người ta để que diêm cháy trước hơi thở của anh ta... Tất nhiên đó không phải là thảm hại! Nhưng khi ta có thói quen sống chung với những sĩ quan của mình, ta không thích nảy sinh một gã trai thuộc loại này, nhất là có một lá thư của quan chức hành chính đến trước, gửi gắm tạo điều kiện dễ dàng cho những bước đầu của anh ta. Ở tuổi mười chín, Petersen chưa tốt nghiệp nhưng ông đã ba lần đi vòng quanh thế giới! ○○○ Ông có thể dự báo trước việc đó. Một loạt “tai họa” sẽ bắt đầu. Trong lúc đi vòng trên con tàu của mình, hai tay đút túi, chiếc tẩu thuốc ở miệng, ông nhìn thấy một gã cao lớn tóc hung đứng tựa lưng vào thành tàu, cuốn một điếu thuốc lá. Người đàn ông đành mập mờ cúi đầu chào ông, tìm diêm trong túi. Rõ ràng là một con chuột ở cảng! Một trong số tên lang thang này ở miền Bắc không giống một tên lang thang nào trên trái đất. Một gã trai dưới bốn mươi tuổi cao lớn, khoẻ mạnh, vẻ đứng đắn mặc dầu bộ râu tám ngày không cạo và đôi má hơi lõm. Gã ở đây như ở nhà gã. Gã rít thuốc từng hơi ngắn, ưỡn ngực dưới chiếc áo hiệu Landwehr cũ mà gã đã thay cúc. — Anh làm gì ở đây? Gã hất cằm chỉ cơ trưởng rõ ràng đang qua cầu. Và người sau giải thích cho thuyền trưởng. — Thủy thủ tiếp than vừa bị sốt rét. Tôi phải để lại hắn trên bờ. Thế là tôi nghĩ đến gã này trên bến cảng, và tôi tuyển dụng gã làm thủy thủ tiếp than vào lò. Gã khỏe mạnh... — Anh ta có giấy tờ không? — Đúng thể thức! Gã ra tù ở Cologne... - Và cơ trưởng cười trong lúc rời đi. “Vậy là hai!" - Petersen làu bàu. Có một kẻ tiếp than vào lò, dù là kẻ mới ra tù đối với ông thế nào cũng mặc vì ông đang cần. Nhưng ông cảm thấy chán ghét gã từ đầu đến chân. Trong lúc đi bách bộ, ông tiếp tục lén quan sát gã. Phần lớn những kẻ lang thang người Đức đều có cái vẻ tự tin này, việc không biết xấu hổ và ngay cả sự hèn mọn này. Thêm nữa, gã này còn có vẻ gì mỉa mai trong cái nhìn. Gã cảm thấy mình bị dò xét. Gã tiếp tục hút thuốc, thỉnh thoảng đá lưỡi thấm ướt giấy thuốc, rồi nhìn khói thuốc phả ra từ miệng gã hoà trộn với sương mù. — Anh tên là gì? — Peter Krull. — Anh đã làm gì để phải vào tù? — Lần cuối cùng tôi không làm gì hết! Đó là sự sai lầm của tư pháp... - Gã nói từ tốn, giọng kéo dài và chính thuyền trưởng bỏ cuộc nói chuyện. Vả lại một dây cáp đứt đúng lúc đó làm cho một chiếc thùng cực lớn bọc kín chiếc máy kéo nông nghiệp lao vụt xuống từ độ cao sáu mét vào đáy khoang. Hành khách đầu tiên lên tàu, Petersen chỉ trông thấy chiếc hòm xanh và chiếc áo khoác màu xám. — Vriens đâu? - Thuyền trưởng hỏi người phục vụ - Tôi mong rằng tôi sẽ không phải lo tới cả việc lên tàu! — Anh ta ở phòng khách trước những cuốn sổ. Đúng thế. Chắc chắn anh ta đau quặn bụng, đầu óc đau đớn nhưng anh ta đang ở vị trí của mình. Anh ta tiếp khách, ghi lại những điều chỉ dẫn trong hộ chiếu của người ấy và chỉ cho người đó một phòng. Hai giờ cuối cùng luôn lộn xộn. Những chiếc xe tải đưa hàng hoá đến chậm. Những chiếc cần trục không thể vận hành nhanh hơn. “Mặc kệ! Ta sẽ bỏ lại ai không lên tàu đúng giờ!" Một sự đe dọa theo truyền thống không làm ai sợ cả. Một nữ hành khách lên tàu, theo sau là một người khuân vác. Cảnh sát thảo luận với Vriens, anh này quên điền một phần vào những bản khai in sẵn. Khi tiếng chuông cảnh báo đầu tiên vang lên, con đường trước mặt con tàu Polarlys thông thoáng. Nhưng khi người ta thả dây chão năm phút sau thì chiếc tàu lớn chở dầu của Anh đang chắn ngang và nó phải thực hiện những thao tác phức tạp. Một chiếc xà lan chạy máy dần dần vững bước tiến lên sát mặt nước chỉ với một thủy thủ tựa vào cần lái và hút tẩu thuốc. Tàu va vào sườn nó. Nửa boong của nó ngập trong nước và thật kỳ diệu là nó có thể tiếp tục chạy giữa những chiếc vỏ đen của các tàu chở hàng dựng lên quanh nó như những bức tường. Trên con sông Elbe là một đám rước. Ba hàng tàu thuỷ đi nối đuôi nhau thành chuỗi trong sương mù ngăn việc phân biệt cái bẫy của tàu trước và những hồi còi dữ dội thi nhau vang lên. Những con tàu chạy nhanh hơn mài miệt vượt lên những chiếc khác. Những thuyền buồm chen lấn nhau và đột nhiên người ta trông thấy cánh buồm mũi của chúng mọc lên cách sống mũi thuyền ít nhất là một sải cáp, khoảng hai trăm mét. — Từ từ... Dừng lại... Lùi lại... Dừng... Từ từ...Một nửa... Dừng... Máy điện báo kêu lách cách và con tàu tiến sang phải sang trái từng đợt trong sương giá. ○○○ Vào bảy giờ, con tàu vẫn ở trên sông và người ta chưa thấy ngọn đèn hiệu ở Cuxhaven báo cho biết đã đến biển. Thuyền trưởng bước xuống từ cầu tàu, để lại thuyền phó cùng với người hoa tiêu ở đó và chuẩn bị cho một việc khổ sai khác: chuẩn bị bữa ăn cho hành khách. Người phục vụ đem theo chiếc cồng đi trong những hành lang, với vẻ năn nỉ, theo kinh nghiệm biết rằng ngày đầu, những hành khách không bao giờ vội vã cả. — Năm suất hả? - Petersen nhận xét. — Một bà và ba ông... Bà đây... Cô ta tiến lên vẻ dễ dãi. Chiếc bót thuốc lá bằng ngọc ở trên môi. Cô ta trang điểm như để ăn tối trên con tàu sang trọng vượt Đại Tây Dương và hầu như khoả thân dưới chiếc áo dài lụa đen. Một con người nhỏ bé lạ lùng, mảnh mai, dễ bị kích động với những cử chỉ lả lơi, bằng những sự khéo léo của thời thượng, tự cho mình là con người nổi bật. Cô ta có mái tóc hoe vàng và cũng óng mượt như tóc một đứa trẻ. Mái tóc được tách ra bằng một đường ngôi giữa, rủ xuống đôi má chỉ với một làn sóng làm nổi bật khuôn mặt bầu dục. Hai đồng tử mắt sẫm màu và để tạo ra sự tương phản mạnh mẽ hơn, lông mi được tô thuốc đen. Miệng mỏng; đôi bầu vú nhô rất cao, rất nhỏ. — Thuyền trưởng? - Cô ta lẩm bẩm với giọng dò hỏi. - Thuyền trưởng Petersen... Ông hầu như không rửa mặt. Mái tóc dày rậm cần phải chải. — Mời bà vui lòng ngồi xuống! Cô ta ngồi với vẻ thong dong, chọn chỗ dễ chịu bên phải thuyền trưởng. Một hành khách khác bước vào, bắt tay Petersen, máy móc thốt lên: — Thời tiết thật tồi tệ!. Đây là Bell Evjen, giám đốc mỏ Kirkenes, hằng năm có chuyến đi Luân Đôn và Berlin và con tàu Polarlys đưa ông đi sớm hơn một tháng. Ông ta thích thú quan sát người phụ nữ trẻ. Một lát sau, một hành khách khác nghiêng mình trước mỗi người, không nói một lời; đây là một gã trai cao lớn đầu cạo trọc, không có lông mi cũng không có lông mày, đeo kính có mắt kính dây đến nỗi đôi mắt anh ta to quá mức. — Hãy dọn ăn đi, anh phục vụ! Sau đó anh gõ cửa hành khách thứ năm... Bởi vì còn một suất ăn chưa có người. Bữa ăn bắt đầu theo mốt Bắc Âu: canh súp nóng mở đầu, tiếp theo là những món nguội, thịt lợn ướp, thức ăn muối, cá hộp, mứt quả và pho mát. — Người ở phòng số mười tám không trả lời. — Hãy nói với sĩ quan thứ ba lo việc đó. Hai lần Petersen trèo lên boong, lo lắng thấy máy đột ngột chạy chậm, vẫn trong tình cảnh sương mù, những tàu chở hàng chạy theo hàng một, những hồi còi inh ỏi, kèn và còi hú. Tại bàn ăn, mọi người yên lặng. Giữa hai món ăn, người phụ nữ trẻ châm một điếu thuốc lá với chiếc bật lửa là một tác phẩm kim hoàn. Petersen cho rằng cô ta là người Đức, cũng như người hành khách đầu cạo trọc. — Chúng tôi sẽ phục vụ các vị cà phê tại phòng hút thuốc! - Cuối cùng ông nói trong lúc đứng lên, theo một công thức mà ông thường nhắc lại từ mười hai năm nay trong mỗi chuyến đi. Ông đang nhồi tẩu thuốc trong hành lang trước buồng mình thì người nữ hành khách qua gần ông và đi vào trong cầu thang thẳng đứng dẫn tới phòng hút thuốc. Trong suốt thời gian cô ta trèo lên, ông nhìn đôi chân cô ta dưới làn lụa đen tạo cảm giác rất thú vị với đôi đầu gối nhỏ nhắn và cả chút ánh da thịt. — Này, ông Vriens hử? Chàng trai liền máy móc đứng theo tư thế của mình. Đôi môi anh ta run lên. Anh đờ người như thể đột nhiên anh rơi vào giữa một thảm kịch. — Không thấy người hành khách ấy. Tuy nhiên hành lý của ông ta còn ở trong buồng ông ta. — Ông ta là ai? — Ernst Ericksen ở Copenhagen. Tôi còn trông thấy ông ta lúc một giờ trước lúc tàu khởi hành! — Người đàn ông mặc áo khoác màu xám với chiếc hòm màu xanh phải không? — Đúng thế! Tôi đã tìm khắp nơi. — Có lẽ ông ta quay lên bờ để mua báo nên lỡ tàu... Vriens và chàng trai đeo kính đã vào buồng họ. Còn lại một mình nữ hành khách ở phòng hút thuốc. Chiếc áo lụa đen xuất hiện trên đầu cầu thang. — Thuyền trưởng... Cô ta tỏ vẻ xúc động, nhưng gắng mỉm cười, hai bàn tay nén giữ nhịp đập của lồng ngực. — Có chuyện gì xảy ra thế? — Tôi không biết... có lẽ tôi sợ. Tôi vừa vào phòng hút thuốc. Tôi thấy bình cà phê ở trên bàn cũng như những chiếc tách và tôi bắt đầu rót cho mình. Đúng lúc ấy, hình như tôi nghe thấy tiếng động đằng sau tôi. Tôi quay lại, trông thấy một người đàn ông mà tôi chưa nhận ra là ai... Tôi tin chắc người đó khiếp sợ bởi vì người đó đứng lên và chạy trốn. — Qua đâu? — Qua cửa này, cửa trông ra boong đi dạo, phải không? — Ông ta mặc áo khoác màu xám phải không? — Xám, vâng. Tôi kêu lên... Tại sao ông ta chạy trốn như vậy? Trong khi cô ta nói, Petersen có cảm giác cô ta nói với Vriens hơn là nói với ông. — Hãy đi xem! - Ông ta ra lệnh cho viên sĩ quan. Người này ngập ngừng rõ rệt, nhất là vào lúc bước qua trước bà khách mà anh ta phải lướt qua để đi ra. — Xin bà hãy bình tâm, thưa bà. Tất cả chuyện này chắc chắn sẽ được lý giải. Cô ta hé cười, bĩu môi làm điệu và nói: — Tôi sẽ ở lại một mình ở phòng hút thuốc ư? — Các bạn bà sẽ sớm lên đây. — Ông không uống cà phê ư, thưa thuyền trưởng? Ông cảm thấy mùi nước hoa của cô ta rất nồng và ông còn cam đoan thấy cả mùi hương của da thịt cô ta toả ra. Một lúc sau trong khi cô ta rót cà phê, ông xoi mói những đường nét của cô ta và khi cô ta quay lại, cô ta thấy mặt ông đỏ lựng, giả vờ bận tâm lôi kéo chiếc cravate của mình. Evjen bước vào. ○○○ Khi Petersen rời phòng hút thuốc rộng lớn chứa được khoảng năm mươi người, thoải mái nhưng tạo cảm giác hơi lạnh vì những đồ gỗ bằng gỗ sồi có màu rất sáng, thì Evjen ngồi ở một góc đang ghi chép những tài liệu buôn bán lấy từ cặp ra. Trong góc đối diện, gã trai đeo kính đọc cuốn Berliner Tagdblau. Ở giữa hai người ấy, người nữ hành khách đã trải lên mặt bàn những quân bài nhỏ và bắt đầu chơi trò phá trận. — Ông vui lòng cho tôi xin tí lửa, được chứ, thưa thuyền trưởng? Ông phải bước lại. Cô ta đưa về phía ông chiếc bót thuốc lá dài, trong lúc cúi xuống không biết làm thế nào mà mắt Petersen nhìn sâu vào chiếc áo ngắn tới chỗ bắt đầu bầu vú. — Cảm ơn... chúng ta tới biển chưa? — Chúng ta đang đến gần Cuxhaven, vâng! Tôi phải lên cầu tàu đây. Nhìn gần, ông nhận thấy như Vriens, cô ta có đôi mi sụp xuống, những nét mệt mỏi của người qua một hay nhiều đêm mất ngủ. Cũng như Vriens, đôi môi cô ta đôi khi bất chợt run lên. Trên cầu tàu, ông gặp viên sĩ quan thứ ba đang tìm ông, nét mặt tiều tuỵ hầu như anh ta đã khóc. — Anh đã tìm thấy ông ta chưa? — Không. Chắc chắn ông ta đang náu mình. Tuy nhiên tôi đã lấy ba người cùng tôi. Nhưng không phải thế... Petersen nhìn anh ta với vẻ hơi tò mò: — Thì sao? — Tôi muốn nói với ông, thưa thuyền trưởng... rằng... rằng tôi hết sức tiếc về... Giọng nói anh ta vỡ ra. Nước mắt dâng lên trong đôi mắt anh ta. — Tôi cam đoan với ông rằng đây là sự ngẫu nhiên.. Tôi chưa bao giờ uống... Đêm nay... tôi không thể giải thích cho ông... Nhưng điều đó làm tôi không thể chịu nổi khi nghĩ rằng ông... — Hết chưa? Mặt anh ta tái nhợt đến nỗi người nói chuyện với anh ta tỏ chút thương hại. — Anh đi ngủ đi! Ngày mai sẽ sao! - Ông nói thêm kém nhẹ nhàng. — Ông nghĩ tôi còn say ư? Tôi xin thề với ông... — Đi đi! Và Petersen, khoác chiếc áo da dê cái, lại gần viên hoa tiêu, trong khi chiếc tàu chở hàng bật đèn xanh lướt theo chiều ngược lại cách có vài mét. — Chưa đến ư? Người đàn ông chỉ bàn tay trái vào màn đêm. — Cuxhaven! - Ông ta làu bàu. Đây là người hoa tiêu ở Elbe, mà dưới đèn tín hiệu của bến này, ông ta phải xuống một chiếc tàu máy nhỏ đang đợi ông ta. Thuyền trưởng mời ông ta rượu trắng truyền thống trong buồng gác trong lúc trao đổi vài câu chuyện bình thường. Ông rót đầy cốc thứ hai thì máy chạy chậm lại, rồi hoàn toàn ngừng hẳn. Người ta sớm nhận ra ánh đèn đom đóm trong sương mù sát mặt nước. Nó hầu như ở xa nhưng chỉ một giây sau, nó chuyển thành chiếc đèn acetylene phân biệt được mọi chi tiết. Lập tức người ta nghe thấy tiếng va chạm vào vỏ tàu, dưới chiếc thang ở cửa tàu. Một cái bắt tay. “Chúc ngủ ngon!" Người phục vụ đã thu dọn gọn gàng phòng ăn. Tại phòng hút thuốc, ba người ngồi cách nhau không quá tám mét, vẫn chưa quen biết nhau mặc dầu Evjen luôn nhìn người đàn bà trẻ. Người hoa tiêu vừa đặt chân xuống tàu đã gọi: — Này! Thuyền trưởng. Có chuyện gì đó cho ông... Ngả người lên tay vịn, Petersen nhìn rõ trong chiếc canot bóng dáng một người đàn ông bất ngờ: một người đàn ông mặc áo choàng, tay cầm một chiếc vali rất to. — Ông muốn nói gì? — Tôi sẽ giải thích cho ông. Người ta phải giúp người đàn ông trèo lên thang. Sau khi lên boong, người này lo lắng nhìn quanh mình. — Cố vấn cảnh sát Von Sternberg! - Ông ta nói - Tôi không thể đi tàu thuỷ tới Hambourg nên tôi phải đi ôtô. Đây là một người đàn ông trạc năm mươi tuổi có bộ râu nhọn và đôi lông mày rậm càng có vẻ lạ lùng với chiếc áo choàng màu mù mờ làm biến dạng bóng dáng ông ta. — Tôi sẽ ăn trong buồng tôi! - Ông ta nói thêm vì con tàu Polarlys lại bắt đầu chạy - Nếu những hành khách hỏi ông... — Tôi có ba hành khách tất cả! — Nếu những hành khách hỏi ông, ông hãy trả lời rằng tôi bị ốm phải nằm tại giường. Ông hãy nói với họ một cái tên khác... Wolt chẳng hạn, Herbert Wolf, thương gia về áo da lông. Tôi sẽ trả tiền chuyến đi. — Ông có công vụ ư? - Petersen hỏi với tâm trạng bực bội tăng lên. - Có người nào trên tàu cần...? — Tôi nói mình là cố vấn cảnh sát khi không phải là thanh tra. — Tuy nhiên... Thuyền trưởng hoàn toàn không phải không biết chức cố vấn cảnh sát ở Đức là một danh vị nổi tiếng mà chức năng không phải là truy đuổi những kẻ bất lương. Nhưng có vấn đề với cảnh sát đủ làm cho ông tỏ vẻ cà khịa. Ông là thuyền trưởng nên ông khẳng định mình là chủ con tàu của mình. — Dẫu sao, ông sẽ làm theo ý ông! - Ông làu bàu - Nếu đó là Ernst Ericksen làm ông quan tâm thì tôi phải nói ngay với ông rằng không bắt được hắn đâu. Mất tích rồi! Hắn ẩn náu có trời mới biết ở đâu, mặc dầu hắn đã mua vé cho chuyến đi và hành lý của hắn còn ở trong buồng hắn. Ông gọi: — Phục vụ viên đâu! Anh hãy đưa ông đây tới một buồng còn trống. Anh sẽ phục vụ ông ấy tại chỗ. Ông Wolf. Rồi quay về phía người đàn ông mặc áo choàng: — Đúng thế, phải không? Ông trực ban vào sáu giờ sáng và lẽ ra ông phải ngủ từ lâu. Ông trở về buồng mình, nằm vào giường, nhưng ông còn chú ý đến những người đi đi lại lại ở hành lang một cách vô ý thức. Vì vậy ông nghe thấy tiếng Evjen và người hành khách trọc đầu vào phòng họ. Qua nửa đêm mà cửa buồng người đàn bà trẻ chưa mở ra. Ông bấm chuông gọi người phục vụ. — Mọi người đã ngủ rồi ư? — Không phải tất cả. Còn người đàn bà... — Cô ta vẫn chơi trò phá trận à? — Xin lỗi! Cô ta dạo chơi trên boong với... — Với ai? — Với ông Vriens. — Anh ta dám cả gan bám riết cô ta ở phòng hút thuốc ư? — Không! Anh ta ở trong buồng mình. Chính cô ta yêu cầu tôi gọi anh ta... Thuyền trưởng nặng nề trở mình trên giường và càu nhàu điều gì đó khó hiểu đối với người phục vụ làm anh này đợi một lúc mới rút lui.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cánh Cửa Thứ 4 - Paul Halter
Một ngày nọ, người ta tìm thấy một phụ nữ hiền lành nằm chết giữa vũng máu trong căn phòng khóa kín, da thịt đầy những vết dao. Từ đó, ma mị lần quất kêu gào, vô vàn hiện tượng lạ lùng bắt đầu phát sinh trong tư dinh u ám. Để chấm dứt những bí ẩn ấy, một người tự nguyện bước vào phòng, thử nghiệm gọi hồn với hy vọng xoa dịu hồn ma đang giận dữ và khám phá sự thật ẩn giấu sau cái chết của bà ta. Căn phòng được đóng lại từ bên ngoài, và niêm phong bằng dấu ấn một đồng xu hiếm. Dấu niêm vẫn nguyên vẹn khi cửa mở ra lần nữa, nhưng xác của một người khác đã im lìm nằm đó… Kỳ quái. Phi lý. Không thể giải thích theo logic tự nhiên. Và vượt ra ngoài những trải nghiệm bình thường của con người. Đây là tác phẩm kinh dị của một hồn ma báo oán? Hay đơn giản là trò bịp của những kẻ thủ ác cao tay? *** Đ êm ấy tôi về phòng sớm, dự định tận hưởng buổi tối dễ chịu cùng một cuốn sách. Nhưng chưa kịp ấm chỗ thì nghe cửa phòng vang lên ba tiếng gõ dè dặt. Người chọn đúng thời điểm này để tìm đến, không ai khác hơn là Elizabeth em gái tôi. Ở tuổi mười tám, em đã trở thành một thiếu nữ đẹp mê hồn, song đôi lúc tôi tự hỏi liệu em có nhận ra điều đó hay không. Em thay đổi rất nhiều chỉ trong mấy tháng qua, sắc đẹp của em khiến John Darnley không thể làm ngơ, để rồi theo đuổi với một quyết tâm thầm lặng. Trong khi hãnh diện rõ rệt vì sự chú ý của cậu ta, em lại để mắt tới Henry White nhà hàng xóm đồng thời cũng là người bạn thân nhất của tôi. Còn Henry, dù có phong thái tự tin đầy học thức, nhưng lại nhút nhát không ngờ trước con gái, đặc biệt là trước Elizabeth, người mà cậu cũng rất si mê. “Em có làm phiền anh không, James?” em hỏi, tay do dự đặt nơi nắm cửa. “Đương nhiên là không rồi,” tôi nói với một tiếng thở dài và hi vọng là đầy ý tứ, mũi vẫn chúi vào cuốn sách. Elizabeth ngồi xuống giường, cạnh tôi, đầu cúi gầm, hai bàn tay bồn chồn vặn vẹo. Cuối cùng nghiêm trang ngước cặp mắt to màu nâu nhìn tôi. “James, em phải nói chuyện với anh.” “Gì thế?” “Đó là về Henry.” Tôi biết tiếp theo là gì rồi. Tôi sẽ phải làm ông tơ cho hai người: một quá kiêu hãnh, còn một quá nhút nhát không dám thể hiện cảm xúc của mình. Elizabeth giật lấy quyển sách từ tay tôi và gay gắt hỏi, “Anh có định nghe em nói không, James?” Bất ngờ khi thấy em cao giọng, tôi bèn hạ cố nhìn em, châm một điếu thuốc và tập trung nhả vài vòng khói tròn hoàn hảo. Hồi nhỏ, tôi không thích gì hơn là chọc tức em bằng cách giữ thái độ lạnh lùng bình thản mỗi khi em khó chịu. Tôi luôn tính toán làm sao để đẩy em vào cơn giận cực độ, và phải xấu hổ thừa nhận rằng tôi đã duy trì rất tốt sở trường đó. Mặc dù vậy, không muốn đi quá giới hạn chịu đựng của em, tôi lại mềm lòng. ... Mời các bạn đón đọc Cánh Cửa Thứ 4 của tác giả Paul Halter.
Án Mạng Đường Nhà Xác - Edgar Allan Poe
Nói tới truyện trinh thám, quái đản, và rùng rợn, ai cũng phải nhắc đến nhà văn đại tài Edgar Allan Poe (1809—1849). Ông là người đầu tiên viết những truyện bí mật và ly kỳ, dùng suy luận tỷ mỉ và khoa học để dẫn tới kết thúc - đó là những truyện khơi mào cho loại tiểu thuyết trinh thám ngày nay. Ai đọc truyện của Edgar Poe cũng đều bị lôi cuốn một cách say sưa từ trang đầu tới trang cuối. Ngày nay Poe không những được coi là một trong các nhà văn tài ba nhất Mỹ Quốc mà còn được cả thế giới thán phục. Nhưng nếu ta biết được cuộc đời đầy đau khổ của văn sĩ, ta mới càng thương xót cho con người lỗi lạc mệnh yểu đó, để tưởng nhớ những giai đoạn gây cảm hứng cho ông viết nên những truyện bất hủ và sáng tác những vần thơ tuyệt diệu mà ngày nay cả nhân loại được thưởng thức. Song thân của Poe là kịch sĩ lưu động nay đây mai đó. Cậu bé sinh tại tỉnh Boston ngày 19 tháng Giêng, 1809. Khi mới lên 3 đã mồ côi cha mẹ, và được một thương gia tên là John Allan đón về nuôi, vì thế sau này ông mới xen chữ Allan vào giữa tên mình. Khi 17 tuổi, Poe vào học tại Đại Học Đường Virginia, nhưng chàng thanh niên phóng túng đó đã cờ bạc và rượu chè, vì vậy người cha nuôi bực bội đã triệu chàng về nhà. Chỉ vài tháng sau, Poe lại bỏ nhà ra đi. Ngay lúc tuổi còn non như vậy, Poe đã tỏ ra có thiên tài về văn chương, nhưng tiền nhuận bút nào có ăn thua gì, sao đủ nuôi sống chàng, nên chàng buộc lòng phải ghi tên nhập ngũ, rồi thăng lên tới chức thượng sĩ. Sau chàng được chấp nhận vào trường võ bị West Point, nhưng chẳng bao lâu, vì không chịu nổi kỷ luật nghiêm khắc ở đó, nên chàng vi phạm thường xuyên các điều luật và bị trục xuất sau 8 tháng học tập tại đó. Từ đấy trở đi, Poe nhất quyết kiếm cách sinh sống bằng cây bút. Tới năm 1835, chàng cưới cô em họ là Virginia. Thơ, truyện ngắn và các bài bình bút của Poe bắt đầu được nhiều người chú ý. Chàng quá mải miết viết văn, và vợ chàng, vì yêu quí chàng, nên mỗi khi chàng thức khuya viết lách dưới ngọn đèn lù mù, nàng cũng ngồi chầu chực bên chồng - có lẽ để gây thêm cảm hứng cho chồng. Ngờ đâu chẳng bao lâu, chính nàng thụ bệnh lao phổi, và qua đời vào ngày 30 tháng Giêng 1847. Cái chết của người vợ yêu quí đã làm Poe vô cùng đau đớn trong một thời gian, rồi chàng đâm ra bê tha quá độ để giải sầu, cố sao tìm khoái lạc để quên đau thương. Tới 1849, chàng lại đính hôn với người yêu thuở thiếu thời, lúc đó là một quả phụ giàu có, thì đột nhiên văn sĩ bị nhóm gian manh bắt cóc và đầu độc. Khi tìm ra ông, người ta thấy ông hoàn toàn bất tỉnh nhân sự và bốn ngày sau, ông đã từ trần vào ngày 7 tháng Mười 1849, hưởng thọ vừa chẵn tứ tuần. Sáu truyện ngắn trong cuốn sách này được coi là hay nhất của Edgar Poe. Độc giả sẽ thấy nó thuộc sáu loại khác hẳn nhau, có truyện rùng rợn, có truyện quái đản và ly kỳ, có truyện đượm vẻ triết lý và phân tâm lý. Nó đã cho ta thấy các biến chuyển trong tâm hồn một nhà văn có tài nhưng đã chịu nhiều đau khổ Loại truyện ngắn này, nếu được độc giả hoan nghênh, chúng tôi sẽ dịch xuất bản thêm để giới thiệu một số văn sĩ đại tài quốc tế khác. L. B. K *** Edgar Poe (tên đầy đủ là Edgar Allan Poe) sinh ngày 19/1/1809 tại thành phố Boston, tiểu bang Massachusetts trong một gia đình nghệ sĩ. Người cha, David Poe, mất khi cậu con trai Edgar chưa chào đời, còn người mẹ Eliza cũng từ trần lúc Edgar Poe mới tròn ba tuổi. Một câu chuyện đáng sợ không phải nằm ở những hành vi giết người mà nằm trong chính sự rối loạn tâm thần của nhân vật mà Poe đã tạo ra bằng một hệ thống ngôn ngữ rất lãnh đạm, với sự tỉnh lược những miêu tả diễn biến nội tâm nhưng lại dựng nên được một bầu không khí u uẩn, chết chóc, và cô độc, quái dị của tâm hồn con người. Poe thường đặt bối cảnh truyện vào ban đêm, trong bóng tối; tập trung miêu tả những hình ảnh tưởng tượng ghê rợn đến kỳ lạ vốn không có trong hiện thực như trong Mặt nạ tử thần đỏ, Sự sụp đổ của ngôi nhà Usher, Cuộc trò chuyện với một xác ướp, Linh hồn, Con quỷ trên gác chuông, Con mèo đen… Bản thân những hình ảnh ấy đã gợi trí tò mò và sự kinh hãi nơi người đọc. Những sáng tác của Poe không đơn thuần là sản phẩm của trí tưởng tượng. Chúng còn được viết dựa trên các kiến thức tuyệt vời của ông trong các lĩnh vực khoa học khác nhau như tâm lý học, tội phạm học, nghệ thuật học, y học, sinh - hóa học... Do đó, các câu chuyện cho dù nhuốm màu sắc hoang đường, kỳ ảo nhưng lại rất logic. Nhịp điệu trầm buồn, kết thúc đầy bất ngờ, những yếu tố tâm linh thể hiện một xúc cảm u buồn mãnh liệt, sự khổ đau và cả nỗi ám ảnh của chứng loạn thần kinh về cái chết, bạo lực và toàn bộ cái nhìn về nhân sinh quan của ông cho thấy một sự thiết tha với cái đẹp bí ẩn đầy bi kịch của cuộc sống. "Edgar Poe để lại nhiều cái bóng khác nhau. Chúng ta thừa hưởng biết bao nhiêu kho báu từ con người kỳ lạ ấy", Jorges Louis Borges nói. Cũng theo Borgers, nếu đầu thế kỷ 19, nước Mỹ không có Edgar Poe, văn học thế giới hiện nay không giống như chúng ta đang thấy. *** Án Mạng Đường Nhà Xác gồm có: CHÔN SỐNG (The Cask of Amontillado) NGÔI NHÀ DÒNG HỌ USHER (The Fall of the House of Usher) ÁN MẠNG TẠI ĐƯỜNG NHÀ XÁC (The Murders in the Rue Morgue) WILLIAM WILSON (The Story of William Wilson) CON BỌ HUNG VÀNG (The Gold Bug) MẶT NẠ TỬ THẦN ĐỎ (The Mask of the Red Death) Mời các bạn đón đọc Án Mạng Đường Nhà Xác của tác giả Edgar Allan Poe.
Rạp Xiếc Đêm - Erin Morgenstern
Dưới câu chữ đầy mê hoặc của dòng văn học fantasy, "Rạp xiếc đêm cho ta biết tương lai không phải là bất định. Sau mọi phép thuật, thứ mạnh nhất vẫn là tình thương trong mỗi người. Thời gian gần đây, kẻ mộng mơ đang là cụm từ được nhiều người nhắc đến. Giữa tỉnh thức và say mê, giữa lằn ranh của những toan tính lợi thiệt, người ta bắt đầu cần các câu chuyện nhẹ nhàng và sâu lắng hơn. Rạp xiếc đêm của Erin Morgenstern chính là gã phù thủy tài năng kéo bạn vào cơn lốc của sự tưởng tượng trác tuyệt. Từ khi hai series đình đám Harry Potter và Chạng vạng kết thúc, cơn mộng mơ trong thể loại fantasy bắt đầu nhạt nhòa. Thay vào đó, các tác phẩm phóng tác lịch sử và phiêu lưu với vô vàn các yếu tố tình dục, bạo lực như Trò chơi vương quyền, Húng nhại lên ngôi. Vì vậy, Rạp xiếc đêm ra đời, với sự cấu thành từ sự hoành tráng trong bối cảnh, chuyện tình yêu nồng nàn không giới hạn, tư tưởng sâu sắc, nhiều tầng nghĩa đã chinh phục rất nhiều độc giả ở các lứa tuổi khác nhau. Đến với Rạp xiếc đêm, khuôn cảnh rạp xiếc hiện lên như một vùng đất đầy sinh động. Đây là điều đã làm nên thành công của tác phẩm fantasy này. Erin Morgenstern đưa ta vào luồng cảm xúc mạnh mẽ bằng câu chữ bỏ bùa. Rạp xiếc đêm còn lưu lại trong trí óc người đọc những cảm nhận tùy theo vốn sống và trải nghiệm. Một câu hỏi được đặt ra: Phép thuật có nên tồn tại giữa thế giới vật chất đầy lý tính, và khi người ta biết được những mánh khóe đằng sau các trò vui, liệu họ còn hứng thú? Cuốn sách cũng đưa đến cho người đọc chân lý thảm khốc mà J.K. Rowling cũng ngầm gửi gắm sau mạch truyện thiếu nhi: Đôi khi vì sự hiếu thắng, con người có thể bất chấp mọi thứ, thậm chí biến kẻ khác trở thành quân cờ tầm thường trong trận chiến. Một khía cạnh khác, đến với Rạp xiếc đêm, Erin Morgenstern đưa độc giả trở về cái thời bồi hồi khi chứng kiến mối tình đẹp đẽ đầy trăn trở như thời cặp đôi Chạng vạng đã làm được. Tình yêu của Celia và Marco rực cháy, nồng nàn, họ là hai mảnh ghép không thể chia lìa. Dưới mọi lá bài, mọi con mắt ma thuật biết trước tương lai, Celia và Marco buộc lòng phải hy sinh một người. Định mệnh đặt sẵn họ không thể bên nhau. Và chính bởi tình yêu, họ đã bất chấp tất cả, để vừa giữ lại rạp xiếc đã dựng xây, vừa níu lại người mình yêu thương nhất. Rạp xiếc đêm dưới câu chữ đầy mê hoặc của dòng văn học fantasy, đã cho ta biết tương lai không phải là bất định. Sau mọi phép thuật, thứ mạnh nhất vẫn là tình thương trong mỗi con người. Có thể cảm xúc đó là sai, niềm kỳ vọng đó là ngây thơ, Erin Morgenstern vẫn hy vọng các độc giả của cô mãi là những kẻ mộng mơ về tình yêu bất diệt. *** LONDON, 1 THÁNG MƯỜI MỘT, 1901 Celia ước gì mình có thể đóng băng được thời gian mỗi khi cô lắng nghe nhịp tim Marco đập bình ổn cùng tiếng tích tắc của đồng hồ. Để mãi mãi ở trong khoảng khắc này, cuộn tròn trong vòng tay anh, và bàn tay anh nhẹ vuốt lưng cô. Để không phải ra đi. Cô chỉ có thể khiến nhịp tim của Marco chậm lại vừa đủ để anh chìm vào giấc ngủ sâu. Cô đã có thể đánh thức anh, nhưng bầu trời ngoài kia đang dần sáng, và cô sợ hãi khi nghĩ phải nói lời tạm biệt. Thay vào đó, cô hôn thật nhẹ lên đôi môi anh và lặng lẽ mặc đồ khi anh vẫn đang ngủ. Cô tháo chiếc nhẫn ra khỏi ngón tay và đặt nó trên mặt lò sưởi, giữa hai trái tim sắc nét trên quân bài. Cô chựng lại khi mặc áo khoác, ánh mắt hướng vào những cuốn sách rải rác trên mặt bàn. Có lẽ nếu hiểu được rõ hơn các hệ thống của anh thì cô đã có thể sử dụng chúng để giúp rạp xiếc độc lập hơn. Để trút bỏ khỏi bản thân phần nào gánh nặng. Để họ có thể ở bên nhau thêm vài giờ đồng hồ vụng trộm, mà chẳng cần phá bỏ luật chơi. Đó là món quà tốt nhất cô nghĩ mình có thể tặng anh, nếu như họ không buộc được thầy của một trong hai bên đưa ra phán quyết cuối cùng. Cô nhặt tập sách kín đặc những cái tên. Có vẻ sẽ là khởi đầu tốt khi cô hiểu được nền tảng của những gì phải hoàn thành. Cô cầm theo nó khi rời đi. Celia đóng cửa căn hộ của Marco khẽ khàng hết mức có thể sau khi lách mình vào bóng tối ngoài sảnh với cuốn sách bìa da kẹp dưới cánh tay. Khóa trượt vào ổ phía sau cô phát ra những tiếng lạch cạch nghèn nghẹt. Cô không nhận ra dáng hình ẩn trong bóng tối gần đó cho đến khi ông lên tiếng. “Con điếm phản trắc,” ông thốt lên. Celia nhắm mắt, cố gắng tập trung, nhưng chẳng dễ gì gạt ông đi một khi ông tóm được cô, mà cô thì chẳng thể nào kiểm soát nổi chuyện này. “Ngạc nhiên thật, bố đợi ở sảnh chỉ để gọi con như thế,” cô nói. “Nơi này được phong ấn cẩn mật đến phát bực,” Hector nói, vẫy tay về phía cánh cửa. “Chẳng gì có thể chui vào nếu thằng nhãi kia không thực sự muốn thế.” “Thế thì tốt,” Celia nói. “Bố có thể tránh xa anh ấy, và bố có thể tránh xa con.” “Con định làm gì với cái của ấy?” ông hỏi, hướng về phía cuốn sách dưới cánh tay cô. “Không can dự tới bố,” Celia nói. “Con không được can thiệp vào công việc của cậu ta,” Hector nói. “Con biết, hình như can thiệp là một trong số rất ít những điều bị qui là phạm luật. Con không có ý định can thiệp, con muốn biết về hệ thống của anh ấy để mình không cần phải liên tục chi phối rạp xiếc quá nhiều.” “Hệ thống của cậu ta. Hệ thống của Alexander là thứ con không nên dính vào. Con không biết là mình đang làm cái gì đâu. Ta đã đánh giá quá cao năng lực đương đầu với thách thức lần này của con rồi.” “Chẳng phải đây là một trận đấu sao?” Celia hỏi. “Đó là việc làm thế nào giải quyết được những hậu họa của pháp thuật khi bị đặt tại một chốn công khai, trong một thế giới không hề tin những điều như thế. Đó là bài kiểm tra sức chịu đựng và khả năng kiểm soát chứ đâu phải kĩ năng.” “Nó là bài kiểm tra sức mạnh,” Hector nói. “Và con là kẻ yếu. Yếu hơn ta đã nghĩ.” “Vậy hãy để con thua đi,” cô nói. “Con kiệt sức rồi bố ạ. Con không thể làm việc này nữa. Không giống như bố có thể hể hả nốc cạn một chai whiskey một khi kẻ thắng cuộc được vinh danh.” “Kẻ thắng cuộc mà được vinh danh cái gì,” bố cô nói. “Trận đấu sẽ tiếp tục cho đến khi kết thúc chứ không có dừng lại giữa chừng đâu. Lẽ ra đến giờ con phải hiểu được điều đó mới phải. Con đã từng khá là thông minh cơ mà.” ... Mời các bạn đón đọc Rạp Xiếc Đêm của tác giả Erin Morgenstern.
Giấc Mơ Bị Đánh Cắp - Alexandra Marinina
“Chánh thanh tra đặc nhiệm của cơ quan điều tra hình sự Sở Công an Moskva, thiếu tá Naxtia, ba mươi ba tuổi, tốt nghiệp đại học Luật, là một người rất và rất tư duy sáng suốt. Ấy thế nhưng chị lại nghỉ phép vào đúng tháng mười một! Tất nhiên kỳ nghỉ phép này vốn được tính toán hoàn toàn theo kiểu khác. Lần đầu tiên trong đời, Naxtia đi điều dưỡng, thêm nữa là đến một viện rất đắt đỏ và có sự phục vụ và chữa bệnh tuyệt vời. Nhưng sau hai tuần chị đã bỏ đi khỏi đấy, bởi vì tại viện điều dưỡng này xảy ra một vụ giết người và vì nó chị đã buộc phải tham dự vào những quan hệ phức tạp và rắc rối, thoạt đầu với cơ quan điều tra hình sự địa phương, sau đó là với mafia địa phương. Còn khi vụ án mạng, thoáng qua thì chẳng có gì đặc biệt, được khám phá, thì đằng sau nó kéo theo một chuỗi những tội ác khủng khiếp, nên Naxtia đã vội rời viện điều dưỡng hiếu khách, không chờ nổi đến lúc những đối tượng mà chị đã quen biết bị bắt. Và kết quả - tháng mười một, nghỉ phép, tâm trạng xấu, sức khỏe tồi tệ, tóm lại, tất cả ba mươi ba cái sự khoan khoái chả thấy đâu”… Đó là sự khởi đầu của một vụ án mà Naxtia sẽ trực tiếp tham gia điều tra với những tình huống khá gay gắt và bất ngờ… *** Tám năm về trước... Arxen gọi điện thoại và thông báo bằng một giọng thoả mãn: — Cô Dakhno này, tôi đã tìm được cho cô một thằng đểu nhỏ đầy quyến rũ. Mười ba tuổi, thông minh, tuyệt đối khoẻmạnh về thể lực và tâm hồn, chẳng hề có những điều vớ vẩn và kiểu cách trí thức dỏm nào trong cái đầu trẻ thơ của nó. Hãy đi ngay, giám đốc đang chờ cô đấy. Dakhno lập tức hiểu và phóng nhanh đến trại trẻ mồ côi nằm ở tỉnh bên. Giám đốc đã nhận trước tiền thưởng hào phóng vì đã cho các bác sĩ và các nhà tâm lí học từ Moskva đến gặp thằng bé, với hai tay dang rộng đón Dakhno và sẵn sàng đưa cho mụ xem tất cả giấy tờ về Meserinov. — Nó từ một gia đình rất tốt, - giám đốc trại mồ côi xun xoe, bởi người ta đã ám chỉ khá rõ với bà rằng, nếu Dakhno chịu nhận Meserinov làm con nuôi, điều đó sẽ không bị bỏ quên thiếu sự chú ý và phần thưởng. - Cha mẹ là những cán bộ khoa học, là những tiến sĩ, đã mất cách đây hai năm trong cuộc thám hiểm vùng núi cao ở Pamtr. Trong gia đình không có ai bị bệnh mãn tính, không uống rượu. Cậu bé được giáo dục tốt. Ở cậu hình thành một tính cách tuyệt vời, trầm tĩnh, hoà hiếu. Nói chung, ở đây Meserinov là cậu bé nhã nhặn, có giáo dục nhất. Chị cô muốn tôi gọi cháu đến không? ... Mời các bạn đón đọc Giấc Mơ Bị Đánh Cắp của tác giả Alexandra Marinina.