Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kiếm Sống - Maxim Gorky

K iếm sống[1] là phần hai trong tác phẩm bộ ba tự thuật[2] của M. Gorky, miêu tả thời niên thiếu của cậu bé Alyosha Peskov, tức Gorky, từ năm 1878 đến năm 1884. Trong phần đầu, M. Gorky đã kết thúc Thời thơ ấu của mình bằng những dòng chua chát: “Sau khi chôn cất mẹ tôi được vài ngày, ông ngoại bảo tôi: - Này Leksei, mày không phải là cái mề đay, mày không thể lủng lẳng mãi trên cổ tao, mày hãy đi ra đời mà kiếm sống… Và thế là tôi bước vào đời.” Mới mười tuổi đầu, cậu bé mồ côi Alyosha đã bắt đầu ở với người đời, tìm hiểu cuộc sống và đấu tranh để tìm ra lối thoát cho mình. Giai đoạn này đã hình thành mối quan hệ mới của Alyosha với con người và thế giới xung quanh. Bước vào đời để kiếm sống, Alyosha luôn va chạm với sự hèn hạ, tồi tệ của bọn “tiểu thị dân”, những kẻ luôn tự cho mình là “ưu việt nhất thành phố”, họ tưởng rằng họ “biết những phép cư xử đúng đắn nhất và dựa trên những phép tắc mù mờ đối với tôi đó mà kết tội mọi người một cách tàn nhẫn, không thương tiếc”. Những kẻ này thường có thái độ ganh tị, ghen ghét với điều tốt đẹp ở những người mà họ không sao hiểu nổi. Để biện bạch cho cuộc sống nhỏ nhen và nghèo nàn, khiến nó tăng thêm cái vẻ quan trọng bề ngoài, họ, giống như ông lão Kashmirin keo kiệt, hung dữ hay bà già Matryona độc ác, ích kỉ, luôn luôn lôi kéo Chúa vào những việc tẹp nhẹp buồn tẻ của mình, biến Chúa thành một sức mạnh trừng phạt mù quáng để bảo vệ cho tội lỗi và lợi ích cá nhân… Alyosha càng ngày càng thấy rõ mặt trái của cuộc sống, thấy những sự nhục mạ nhân cách, những lao động vô nghĩa, khổ sai. Lúc ấy, theo như lời Gorky kể, cuộc sống của Alyosha như vĩnh viễn bị quy định một cách chặt chẽ trong các hình thức và các mối quan hệ mà Alyosha trông thấy ngày này qua ngày khác, mỗi ngày một buồn tẻ, gay gắt hơn, khiến khó mà nghĩ tới khả năng thay đổi, làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn. Nhưng khi ấy, sách vở – kho tàng tư tưởng sáng tạo của con người – đã tới giúp Alyosha. Những tác phẩm của các nhà văn Nga ưu tú, của các tác giả nước ngoài như Walter Scott, Dickens… đã giúp cậu hiểu được rất nhiều điều mà trước đó cậu vẫn băn khoăn. Sách vở đã giúp Alyosha khắc phục tâm trạng bối rối, mất niềm tin vào con người. Mỗi cuốn sách hay như mở ra trước mắt Alyosha một cánh cửa sổ hướng về thế giới mới mẻ mà cậu bé chưa từng biết, chưa từng thấy. Càng đọc nhiều sách, Alyosha càng thấy gần gũi với thế giới hơn, cuộc sống đối với cậu càng sáng sủa, có ý nghĩa hơn. Sau này, Gorky nhớ lại: “Sách vở đã chỉ cho tôi chỗ đứng của mình trong cuộc sống, nói cho tôi biết rằng con người thật vĩ đại và đẹp đẽ, luôn hướng về cái tốt đẹp hơn, rằng con người đã gây ra nhiều chuyện trên trái đất và vì thế mà họ phải chịu biết bao đau khổ.”[3] Một nhân vật trong Kiếm sống là Jikharev đã nói với Alyosha với vẻ đồng tình: “Cháu không có thái độ dửng dưng mà luôn tập trung vào công việc. Cháu cứ nên như thế mãi, điều đó rất tốt!” Alyosha đã dũng cảm lao vào cuộc sống, dũng cảm “bước vào đời” mặc dù nhiều khi va chạm phải mặt trái xấu xa ghê tởm của nó. Gorky viết: “Trong tôi có hai con người: Một người sau khi đã biết quá nhiều điều ghê tởm và bẩn thỉu, trở nên sợ hãi cuộc sống, nản lòng bởi hiểu quá rõ các chuyện khủng khiếp xảy ra hằng ngày. Người ấy bắt đầu nhìn cuộc sống, nhìn mọi người với thái độ thiếu tin tưởng và hoài nghi, thương hại một cách bất lực cả bản thân và những người xung quanh. Con người ấy mơ ước một cuộc sống cô độc, yên tĩnh, chỉ có sách vở, không dính líu đến ai, mơ về một tu viện, một chòi canh trong rừng, một vọng gác đường sắt, mơ được đến Ba Tư, được đảm nhiệm cương vị một người gác đêm ở ngoại ô thành phố. Càng ít người càng tốt, càng tránh xa con người càng tốt… Còn người kia được nuôi dưỡng bằng ý chí thiêng liêng của các cuốn sách hay và sâu sắc, mỗi khi cảm thấy sức mạnh của những điều khủng khiếp xảy ra hằng ngày kia có thể dễ dàng đè bẹp mình, làm nhơ bẩn trái tim mình, nên cố sức tự vệ, cắn chặt răng, siết chặt nắm đấm, luôn sẵn sàng xông vào bất kì cuộc tranh cãi và trận chiến đấu nào. Con người này giàu tình yêu thương, và giống như những nhân vật dũng cảm trong các cuốn tiểu thuyết Pháp, chỉ cần đến câu thứ ba là đã rút ngay gươm ra khỏi bao và sẵn sàng chiến đấu.” Trên bước đường kiếm sống, Alyosha đã gặp và sống với những người lao động bình thường: thợ mộc, thợ nề, thợ làm tượng thánh, phu khuân vác… và cả các nghệ sĩ, nhà thơ, nhà triết học… Mỗi người đều cần thiết và quan trọng đối với Alyosha, giúp tâm hồn cậu thêm phong phú, khiến cậu trở nên mạnh mẽ, khôn ngoan, có đủ nghị lực đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống. Trong quá trình tiếp xúc với những người này, tính cách của Alyosha dần dần hình thành. Bác đầu bếp Smouri, một trong những “người thầy” của Alyosha, một người vốn nghiêm nghị và thích cô độc, có tâm hồn hiền hậu và tấm lòng công bằng, cao thượng. Khi Alyosha đọc cho bác nghe chuyện Taras Bulba của Gogol, tới cảnh cái chết của vị thủ lĩnh Cossack thì Smouri, người mà tất cả mọi người trên tàu đều sợ, đã khóc nức nở. Chính nhờ cuộc gặp gỡ với Smouri mà Alyosha bắt đầu say mê đọc sách. Càng tiếp xúc với những người Nga bình thường, càng tìm hiểu họ sâu hơn, Alyosha càng thấy “những người chủ” là tầm thường, tẻ nhạt, thế giới của họ hóa ra không bền vững và chắc chắn như cậu tưởng. Alyosha đã trải qua cả một “trường học đường đời” khi làm việc ở xưởng làm tượng thánh. Những người thợ trong xưởng mà Alyosha tiếp xúc là những người có tinh thần ham hiểu biết, có tâm hồn phong phú và có tài năng. Ở mỗi người, Alyosha đều cảm thấy họ thực sự hiểu biết cuộc sống và nghệ thuật. Những người đó tuy sống tù túng trong xưởng nhưng vẫn đầy lòng cao thượng, sức mạnh và vẻ đẹp. Không phải vô cớ khi kể về Sitanov, Gorky nhắc rằng trong anh hình như có một cái gì giống với “nhà quý tộc Tây Ban Nha”, nhân vật mà Sitanov yêu thích hơn cả. Đặc biệt, Jikharev đã khiến Alyosha rất đỗi ngạc nhiên; đó là một nghệ sĩ nhân dân, một người bị giày vò vì khát vọng hiểu biết và sáng tác tự do. “Chúng ta biết được những gì? Chúng ta sống thật quá tầm thường… Còn đâu là tâm hồn? Tâm hồn ở đâu rồi? Nguyên bản thì có đấy; nhưng trái tim thì không…” Alyosha lo lắng và vui mừng nghe những lời lạ tai ấy của Jikharev. Những người này càng ngày càng nhận thức rõ sự bất công, vô nghĩa của thứ lao động cưỡng bách. Họ bị dồn vào cảnh lao động kiệt sức và đơn điệu, mất hết niềm vui và phúc lợi ở đời. Họ thèm muốn ánh sáng, tri thức, cái đẹp. Những cuốn sách mà Alyosha đọc đã khiến họ say mê, rung động. Khi Alyosha đọc tập thơ Con quỷ của Lermontov, những người này khiến cậu hết sức ngạc nhiên bởi khả năng thụ cảm nghệ thuật rất tinh vi và sâu sắc của họ. Qua những năm sống phiêu bạt ấy, trong Alyosha nảy sinh tình yêu mạnh mẽ với con người, thứ tình yêu mà cậu sẽ mang suốt đời. “Chú được cái tốt là đối với ai chú cũng coi như họ hàng thân thích cả, cái đó rất tốt!” Kapendiukhin đã nói với Alyosha như vậy. Alyosha luôn có mặt trên con đường đi tìm chân lí, mục đích cuộc sống, đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi vẫn giày vò cậu: “Làm thế nào để giúp đỡ mọi người?” Đối với Alyosha, việc tìm hiểu ông lão thợ mộc Osip là một điều “hết sức cần thiết”. Tính tình phức tạp của Osip giúp cho Alyosha hiểu được bản chất mâu thuẫn của nông dân (Về Osip, năm 1897 Gorky đã viết trong truyện ngắn Vanka Mazin và năm 1912 trong truyện ngắn Băng chuyển). Alyosha biết tìm ở mọi người những điều cần thiết với cậu, mặc dù những người ấy khác xa cậu. Trong tâm thức, Alyosha đã phân biệt được ước mơ và thực tế. Giờ đây, cậu không chỉ hướng về sách vở, thơ ca, truyện thần thoại để tìm kiếm sự dũng cảm và chân lí mà biết hướng vào hiện thực: “Điều đó càng khiến tôi ngạc nhiên hơn, tôi cảm thấy rất rõ những mâu thuẫn giữa thực tế và sách vở. Trước mặt tôi là con người sinh động mà trong sách vở không thấy được: bác Smouri, anh thợ đốt lò Yaakov, ông khách lưu lạc Aleksasha Vassiliep, bác Jikharev, chị thợ giặt Natalya…” Hình ảnh của những con người sinh động này chiếm một vị trí quan trọng trong tâm trí cậu bé Alyosha. Chương cuối của Kiếm sống xuất hiện một hình tượng đầy ý nghĩa – cảnh “trái đất nửa thức nửa ngủ”. Alyosha muốn đá tung tất cả trái đất và ngay cả chính mình nữa để cho tất cả mọi vật “xoay như một cơn lốc mừng vui trong điệu múa tưng bừng của những người yêu nhau say đắm, những người yêu cuộc sống này – cuộc sống mở đầu cho một cuộc sống khác tươi đẹp, phấn khởi và ngay thật”… Nhưng trong giai đoạn này, hiểu biết của Alyosha còn hạn chế, cậu chưa trả lời được câu hỏi: Cụ thể phải làm gì để giúp mọi người, phải thực hiện lí tưởng xây dựng một thế giới hợp lí và công bằng như thế nào? Tác phẩm Kiếm sống kết thúc bằng những suy nghĩ già dặn của cậu thiếu niên Alyosha mười sáu tuổi, sau những năm lăn lộn với sóng gió của cuộc đời để kiếm sống. “Tôi nghĩ bụng: ‘Ta phải làm được một việc gì chứ, nếu không thì ta sẽ sống vô ích…’ Vào những ngày thu ảm đạm, khi không những không nhìn thấy, không cảm thấy, mà còn quên mất cả mặt trời, tôi thường bị lạc trong rừng. Tôi đi chệch đường, chẳng tìm được lối hẻm nào; cuối cùng, sau khi sục sạo đến mệt bã người, tôi cắn răng đi xuyên qua rừng rậm, giẫm trên những cành cây mục nát, những mô đất tròng trành của vũng lầy. Cuối cùng, tôi luôn tìm được đường đi. Tôi quyết định cũng sẽ sống một cuộc đời như vậy.” Nhưng mãi đến sau này, phải qua nhiều năm được tôi luyện trong “những trường đại học” thực tế của cuộc đời, chàng thanh niên Alyosha Peskov mới tìm được hướng đi cho mình. Truyện tự thuật không phải là một thể loại mới trong văn học. Trước kia ở Nga, Saltykov Shchedrin, Lev Tolstoy, Aksakov… cũng đã từng viết truyện tự thuật. Gorky phát triển một cách sáng tạo truyền thống ưu tú của quá khứ và nâng cao tính tư tưởng của thể truyện này. Tác phẩm tự thuật của Gorky đóng một vai trò quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Nó là chiếc chìa khóa giúp ta hiểu thấu nguồn gốc thiên tài của Gorky, nắm chắc mối quan hệ vô cùng sâu sắc giữa Gorky với nhân dân, đất nước và cuộc sống. Con đường Gorky đã trải qua là con đường tiêu biểu của nhiều người Nga mòn mỏi trong cảnh bần cùng hóa bi thảm, trong lao động cực nhọc, sự vươn lên của tuổi trẻ với khát khao sáng tạo thường chịu áp chế, bóp nghẹt, nhưng những người trẻ tuổi vẫn tràn trề lòng tin, vượt mọi trở ngại trên con đường đi tìm lẽ sống. Gorky không coi tiểu sử của Alyosha Peskov là một hiện tượng siêu việt, ông từng tuyên bố: “Lịch sử của Gorky không phải là một trường hợp duy nhất và không phải là một trường hợp ngoại lệ đặc biệt.”[4] Các nét tính cách nổi bật của Alyosha là: Lòng biết ơn nồng nhiệt với những người có lòng tốt với mình; tình cảm thương yêu những bạn cùng trang lứa đau khổ hơn mình; khát vọng chính nghĩa tới mức say sưa; mối căm thù sâu sắc đối với bọn áp bức tàn bạo; tinh thần bất khuất, khắc phục khó khăn; lòng yêu lao động… Nổi bật nhất là tinh thần hiếu học, chí cầu tiến, óc quan sát tinh vi, thói quen nhìn thẳng vào sự việc để phân biệt rõ ràng cái tốt, cái xấu. Alyosha không sống thụ động, tính cách cậu dần được hình thành vững vàng trong cuộc đấu tranh chống lại nguồn gốc của cái xấu xa trong đời sóng, trong khao khát hướng tới những điều tốt đẹp, công bằng và nhân đạo. Gặp Gorky lần đầu tiên năm 1905, Lenin nói: “Phải học ở Gorky cách nhìn và cách nghe.” Tác phẩm tự thuật của Gorky là một kho vốn sống phong phú, miêu tả lại bước đường gian truân đã dẫn dắt Gorky tới tuổi trưởng thành, nêu lên những ấn tượng sâu sắc nhất đã gợi hình, gợi ý, chuẩn bị cho đời sống văn học của Gorky. Tác phẩm không chỉ là tiểu sử riêng của một cá nhân mà còn là bức chân dung của cả một thế hệ, bức họa rộng lớn về phong cảnh, đất nước và xã hội Nga cuối thế kỉ XIX với những nét khắc họa điêu luyện, sâu sắc về cả diện mạo và tâm lí sinh động của con người. Tính điển hình của các hiện tượng được miêu tả trong tác phẩm bộ ba Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi khái quát cao độ, làm rung động và chiếm được cảm tình lớn của độc giả. Nhà văn Alexander Shirvanzade[5] đã nói về tác phẩm bộ ba tự thuật của Gorky như sau: ‘Theo quan điểm của tôi, toàn bộ cuốn sách tượng trưng cho cuộc sống của nhân dân Nga; cuốn sách kể về tâm hồn nặng trĩu không chỉ của dân tộc Nga mà của các dân tộc nói chung. Anh xem, tôi có phải là người Nga đâu, tôi là người Armenia, sinh trưởng và sống khác xa cuộc sống Nga, vậy mà những gì anh miêu tả rất giống cuộc sống của dân tộc tôi. Anh hãy tin rằng nhà văn Pháp, nhà văn Anh, hay nhà văn ở bất kì nước nào, xuất thân từ nhân dân hoặc hiểu biết cuộc sống của dân tộc mình, cũng sẽ nói với anh những điều như vậy.”[6] Nhà cách mạng Đức Rosa Luxemburg[7] trong bài luận văn Tinh thần văn học Nga có bàn tới tác phẩm tự thuật của M. Gorky như sau: “Chú bé kêu gào như một con sói con bị truy bức, nhe nanh vuốt sắc nhọn trước số mệnh. Cái tuổi thơ ấu đầy khốn quẫn, đau khổ, nhục nhã, hoài nghi, lưu lạc, gần gũi với những cặn bã của xã hội ấy bao hàm tất cả những đặc trưng có tính chất điển hình trong cuộc sống của giai cấp vô sản nước Nga đương thời. Phải đọc hồi kí của Gorky mới có thể lường được quá trình phát triển kinh khủng của ông – từ dưới đáy của xã hội vươn đến đỉnh cao của thế giới quan khoa học, của nghệ thuật thiên tài và của sự tu dưỡng văn hóa. Vận mệnh cá nhân của Gorky tượng trưng cho giai cấp vô sản Nga – giai cấp nhìn bề ngoài thì thiếu văn hóa, thô bạo, dưới thời Nga hoàng đã trải qua những thử thách của cuộc đấu tranh tàn khốc và trong một thời gian ngắn ngủi đến kinh người, trong vòng hai mươi năm, trở thành lực lượng tích cực của lịch sử.”[8] Đối với Gorky, cuộc sống và số phận ông cũng là cuộc sống và số phận của nhân dân ông; những điều khủng khiếp xảy ra xung quanh ông có ghê gớm đến thế nào đi chăng nữa cũng không thể làm ông mất lòng tin vào cuộc sống. Ông vẫn nhìn thấy trong cuộc sống những mầm non tốt đẹp của tương lai và vạch ra con đường của quá trình phát triển lịch sử sau này. Đó là một trong những điểm khác biệt giữa tác phẩm tự thuật của Gorky và các tác phẩm tự thuật cổ điển khác. Trên cơ sở tài liệu tự thuật, Gorky đề ra một trong những vấn đề quan trọng nhất của hiện thực xã hội chủ nghĩa – vấn đề hình thành tính cách con người tiêu biểu cho những mói quan hệ mới – mà sau này nhiều nhà văn khác kế thừa. Có thể nói tác phẩm tự thuật của Gorky là một tác phẩm hiện thực xã hội chủ nghĩa cổ điển đặc sắc, bởi vì Gorky đã cương quyết vạch trần chủ nghĩa tư bản theo lập trường quan điểm của Đảng, đồng thời cũng khẳng định tương lai vĩ đại của dân tộc Nga. Các nhà nghiên cứu và phê bình văn học nhiều lần nhận định rằng, chỉ xét riêng các chi tiết miêu tả một cách tế nhị, tinh vi tâm hồn, đặc điểm tâm lí, nghệ thuật thể hiện nội tâm, tác phẩm bộ ba tự thuật của Gorky có thể sánh ngang với các tác phẩm ưu tú của nền văn học thế giới. Tuy nhiên, điểm nổi bật trong sáng tác của Gorky là quá trình hình thành tư tưởng cách mạng, quá trình con người nhận thức xã hội. Đó chính là cái sáng tạo mà Gorky đã đóng góp vào truyền thống văn học vẻ vang của quá khứ, và chính điều đó đã xác định giá trị tác phẩm bộ ba tự thuật của Gorky với sự phát triển của nền văn học Xô viết và thế giới. Trần Khuyến Mời các bạn đón đọc Kiếm Sống của tác giả Maxim Gorky.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phố - Chu Lai
Phố là một tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai nói về cuộc sống của những người Hà Nội giai đoạn đầu Đổi mới (đầu những năm 1990). Tác giả đã dựa trên truyện ngắn Phố nhà binh viết năm 1991 để viết tiểu thuyết Phố một năm sau đó. Phố được coi là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của Chu Lai viết về cuộc sống của những người bộ đội thời hậu chiến. Bối cảnh của Phố là cuộc sống của những người lính hoặc cựu chiến binh sống trên phố Lý Nam Đế, con phố tập trung các cơ quan và khu tập thể của quân đội ở Hà Nội, giai đoạn đầu những năm Đổi mới. Đó là giai đoạn mà hoàn cảnh kinh tế khó khăn buộc những người bộ đội mới bước ra khỏi cuộc chiến hoặc chỉ làm việc và sống trong môi trường quân ngũ phải làm quen với việc kiếm tiền để đảm bảo cuộc sống. *** Đại tá, nhà văn Chu Lai có tên khai sinh là Chu Văn Lai, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1946, tại xã Hưng Đạo, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên, hiện ở Hà Nội. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ năm 1980). Ông là con trai của nhà viết kịch Học Phi. Trong chiến tranh Việt Nam ông công tác trong đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị rồi trở thành chiến sĩ đặc công hoạt động trong vùng Sài Gòn. Sau 1973, ông về làm trợ lý tuyên huấn Quân khu 7. Đến cuối năm 1974 ông tham dự trại sáng tác văn học Tổng cục Chính trị và sau đó học tại Trường Viết văn Nguyễn Du khóa 1. Sau khi tốt nghiệp, ông biên tập và sáng tác cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhà văn Chu Lai còn viết một số kịch bản sân khấu, kịch bản phim và tham gia đóng phim. *** “…Tất nhiên căn phố dài chừng một ngàn hai trăm thước này có tên gọi đàng hoàng nhưng lâu nay thiên hạ chỉ quen gọi là phố nhà binh để khỏi lẫn với… có một thời dường như tất cả những căn hộ đều bảo nhau khinh khỉnh xây lưng ra mặt đường khiến cho dãy phố tối tăm lại càng hun hút nỗi đe dọa dập dờn… Thế rồi hôm nay, bỗng lại như tuân theo nhất loạt một khẩu lệnh của đấng toàn năng, các căn hộ quay mặt lại với cuộc đời… sự phá hoại kiến trúc của một dãy phố hôm nay là phản ảnh cái trở dạ đau đớn của lề thói suy nghĩ cũ, đồng thời sẽ dẫn đến phá vỡ sự ổn định trong từng gia đình, từng số phận, có thể tốt lên nhưng cũng có thể sẽ xấu đi… Nhưng không thể không phá vỡ… Sau gần một năm đi xa, tối nay, vào một tối lập đông se lạnh, người đạo diễn điện ảnh với chiếc ba lô bạc màu trên vai, vừa bước đi chầm chậm trên hè phố vừa tủm tỉm cười, có lúc cái môi dưới lại nhệch ra như sắp mếu và trong đầu cứ rộn lên cái mạch chuyện của bộ phim mà kỳ này trở về, anh nhất quyết sẽ thực hiện nốt những gì còn dang dở. Ánh sáng chan hòa và những âm thanh rộn ràng nuốt chửng lấy cái thân xác gầy guộc của anh, đảo bước chân anh theo cái nhịp của một người đang vào cơn say nhẹ. Hai ngọn đèn pha cực mạnh bật sáng chói chang nơi giữa phố, đưa cả con đường vào một đêm hội hoa đăng của công cuộc trải nhựa lại mặt bằng. Mùi hắc ín, tiếng máy nổ, dáng dấp những người công nhân lục lộ khẩn trương đan qua đan lại kia đã báo hiệu rằng, chỉ sớm mai thôi, khi căn phố tỉnh dậy, sẽ có một dải lụa màu đen mát mịn chạy giữa những ngôi nhà. Anh chợt thấy sống mũi mình cay xè. Chao ôi, Hà Nội… Hà Nội của tôi… Hà Nội khổ đau và lam lũ… Hà Nội kiên trung và nồng nàn… Hà Nội… Thế là ra ngươi cũng đang biết tự đập vỡ mình để trở nên dáng nét của một thủ đô theo đúng nghĩa đấy ư. Cám ơn… xin cám ơn. ... Mời các bạn đón đọc Phố của tác giả Chu Lai.
Những Thành Phố Giấy - John Green
Quentin Jacobsen thầm phải lòng cô bạn Margo Roth Spiegelman xinh đẹp thích phiêu lưu. Thế nên khi Margo cậy cửa sổ lách vào đời cậu – ăn vận như ninja và triệu tập cậu vào một chiến dịch trả thù đầy táo bạo – cậu lập tức đi theo. Qua một đêm rong ruổi, ngày mới đến, Q tới trường và phát hiện ra rằng Margo, vốn luôn là một ẩn số quyến rũ, đã thực sự biến mất đầy bí ẩn. Nhưng Q cũng sớm biết được rằng có những manh mối – và những manh mối ấy được để lại cho cậu. Gấp gáp lần theo cung đường đứt khúc, càng đến gần, Q càng khó nhận ra được cô gái mà cậu tưởng chừng đã quá quen thuộc… *** Nếu như từng thưởng thức bộ phim chuyển thể của đạo diễn Jake Schreier thì bạn cũng đừng bỏ qua cuốn sách best-seller này của tác giả Johh Green. Paper Towns (Những thành phố giấy) là cuốn sách vô cùng thú vị, nếu không nói là độc đáo, một tác phẩm khác của John Green vốn nổi tiếng với The Fault in Our Stars (Khi lỗi thuộc về những vì sao) hay An Abundance of Katherines. Sách đã được chuyển thể thành phim cùng tên, vai chính đảm nhiệm bởi hai diễn viên trẻ Cara Delevingne và Nat Wolff. Quentin và Margo đều là những cô bé, cậu bé tuổi teen, hai hình mẫu nhân vật gần gũi với độc giả. Họ đang trong quá trình trưởng thành, không biết đích đến cuối cùng của cuộc đời nhưng vẫn tràn đầy năng lượng và ham muốn khám phá. Hai nhân vật được John khắc họa khá chi tiết, là nam châm gắn người đọc với tác phẩm bởi những tiếng cười họ đem đến qua những đoạn hội thoại hài hước và tinh nghịch. *** John Green là tác giả của sách bán chạy nhất theo nhận định của New York Times, từng đoạt nhiều giải thưởng, bao gồm huy chương Printz Medal, giải thưởng Printz Honor và giải Edgar Award. Anh đã hai lần lọt vào chung kết giải thưởng sách của LA Times. Cùng với em trai mình - Hank - John là đồng tác giả của trang nhật ký điện tử Vlogbrothers (youtube.com/vlogbrothers), một trong những trang video trực tuyến phổ biến nhất thế giới. Bạn có thể tham gia vào hàng ngũ 1,1 triệu người đang theo dõi John trên Twitter (@realjohngreen), hoặc ghé thăm trang web của anh tại johngreenbooks.com. Hiện John sống với vợ và con trai tại Indianapolis, bang Indiana. *** Tôi biết về những thành phố giấy vì đã đi qua một nơi như vậy trên một hành trình bám đường bộ hồi là sinh viên đại học. Bạn đồng hành và tôi cứ lái xe qua lại một khoảng trống trên đường cao tốc ở Nam Dakota, tìm một thành phố mà bản đồ xác nhận là có tồn tại–theo như tôi nhớ, thành phố ấy là Holen. Cuối cùng, chúng tôi dừng xe trước một nhà dân, gõ cửa hỏi thăm. Người phụ nữ dễ mến trong nhà cho hay đã từng trả lời câu hỏi này nhiều rồi. Cô ấy giải thích rằng thành phố chúng tôi đang tìm chỉ có trên bản đồ mà thôi. Câu chuyện về Agloe, New York–như được phác lên trong cuốn sách này–gần như là thật. Ban đầu Agloe là một thành phố giấy, được chế ra để bảo vệ nhà làm bản đồ khỏi bị vi phạm bản quyền. Nhưng rồi những người dùng các bản đồ cũ của công ti Esso vẫn tiếp tục đi tìm thành phố ấy, và ai đó đã dựng một cửa hàng, khiến Agloe trở thành có thật. Công tác làm bản đồ đã thay đổi nhiều từ khi Otto G. Lindberg và Ernest Alpers phát minh ra Agloe. Nhưng nhiều nhà làm bản đồ vẫn thêm các thành phố giấy vào bản đồ của mình, tạo ra những cái bẫy bản quyền, như trải nghiệm rối ren của tôi ở Nam Dakota đã kiểm chứng. Cửa hàng từng là Agloe giờ không còn nữa. Nhưng tôi tin rằng nếu chúng ta đưa nó trở lại bản đồ, cuối cùng cũng sẽ có người xây dựng lại thôi. Mời các bạn đón đọc Những Thành Phố Giấy - John Green.
Chỉ Một Lần Yêu - Johanna Lindsey
Đây là tác phẩm đầu tiên trong series tiểu thuyết nổi tiếng của Johanna Lindsey kể về những chuyện tình lãng mạn của các thành viên trong gia tộc Malory. Truyện kể về câu chuyện của cô cháu gái Reggie Malory và tử tước Nicholas Eden. 1. Love Only Once - Chỉ Một Lần Yêu (1985) (Regina Ashton / Nicholas Eden) 2. Tender Rebel - Kẻ Nổi Loạn Dịu Dàng (1988) (Anthony / Roslynn Chadwick) 3. Gentle Rogue - Kẻ Lừa Đảo Lịch Thiệp (1990) (James / Georgina Anderson) 4. The Magic of You - Sự Kì Diệu Của Tình Yêu (1993) (Amy / Warren Anderson) 5. Say You Love Me - Nói Lời Yêu Em (1996) (Derek / Kelsey Langton) 6. The Present (1998) (Christopher / Anastasia Stephanoff) 7. A Loving Scoundrel - Tên Phóng Đãng Đáng Yêu (2004) (Jeremy / Danny) 8. Captive of My Desires (2006) (Drew Anderson / Gabrielle Brooks) 9. No Choice But Seduction (2008) (Boyd Anderson / Katey Tyler) 10. That Perfect Someone (2010) (Richard Allen / Julia Miller) *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã và sẽ được Bách Việt xuất bản: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. *** Sau khi chào tạm biệt những người khách cuối cùng, Nicholas và Regina đứng hôn nhau ở cửa chính. "Cuối cùng thì hòa bình cũng trở lại." Anh nói với một cái thở dài khoan khoái. "Ừhm, không hẳn lắm." Reggie ngập ngừng trả lời, xoắn một ngón tay vào ve áo chồng mình. "Em... đêm qua em đã gửi một lá thư mời gia đình em tới đây. Đừng giận nhé Nicholas. George bảo em là anh ấy nhìn thấy Cậu Tony tuần trước và Tony trông khá buồn rầu. Em biết là tại chúng mình." "Em chỉ cần viết một lá thư cho họ là được mà, không phải sao?" Anh nhăn nhó hỏi. "Cứ viết và bảo họ rằng em vẫn ổn ấy?" "Thư từ không giống như việc họ tận mắt chứng kiến thấy em hạnh phúc ra sao. Họ lo lắng cho em mà Nicholas, và em muốn họ biết rằng giờ thì mọi việc đã ổn cả." "Thế thì anh đoán là anh đành phải chịu đựng thêm một ngày nữa vậy." Anh thở dài lần nữa. "Anh không giận em ư?" "Anh nào dám giận em bao giờ hở em yêu." Anh nói nghiêm túc đến mức khiến cô cau mày không hiểu. "Thể nào em cũng giận ngược lại anh mà!" "Đồ quỷ sứ ạ!" Cô mắng yêu. Nicholas toét miệng cười với cô. Và rồi vỗ nhẹ vào lưng cô, anh đẩy cô về phía cầu thang. "Giờ thì đi đâu đó một lúc đi. Em vừa nhắc anh là anh có vài công chuyện gia đình của mình phải giải quyết đấy. ... Mời các bạn đón đọc Chỉ Một Lần Yêu của tác giả Johanna Lindsey.
Người Tù Bé Nhỏ - Jane Elliott
“Phút trước tôi vừa mới ngập mình trong một cảm xúc phấn khích tột độ, phút sau tôi đã rơi vào nỗi hoảng sợ, hoảng sợ về những gì sẽ xảy ra nếu như tôi phơi bày toàn bộ sự thật”. “Người tù bé nhỏ” đã được mở đầu như một lời cảnh báo cho từng độc giả trước khi đặt mình cuốn trong tự truyện về cuộc đời của cô bé Janey – nhân vật chính và cũng là hình tượng của tác giả Jane Elliott.   Nếu như với nhiều đứa trẻ, gia đình là điểm tựa đích thực cho tuổi thơ thì với Janey, hai chữ gia đình trở thành “nhà tù” đúng với nghĩa của từ này. Bằng lời kể chân thật, giản dị, câu văn không cầu kì, chau chuốt, Jane Elliott chinh phục độc giả bằng chính sự thực trần trụi về một phần cuộc đời của mình từ lúc lên 4 tuổi.   17 năm trong cuộc đời sống với gia đình, Janey (tên nhân vật được nhà văn đổi lại) trở thành một kẻ nô lệ tình dục thực sự, một đứa “con hoang Pakistan” cả về thể xác và tinh thần. Tập trung vào việc tố cáo sự lạm dụng tình dục tinh vi và có hệ thống, mục đích rõ ràng của người cha dượng hơn cô bé 14 tuổi, “Người tù bé nhỏ” một lần nữa đặt độc giả vào cái suy nghĩ “khác máu tanh lòng” đang ngấm vào đời sống của xã hội Phương Tây.   Nhưng nếu như ở nhiều nước, sự thù ghét đó chỉ dừng lại ở việc hành hạ, nhục mạ khi ép phải làm việc như một con ở không công thì sự căm thù “con nô lệ bẩn thỉu” của kẻ mang danh “bố” còn nặng nề và đáng ghê tởm hơn với những “trò chơi” tình dục điên loạn – một sự “trả ơn” theo suy nghĩ của hắn.   Ngay cả tình yêu, hạnh phúc gia đình của Janey cũng nằm trong kế hoạch tính toán của người cha dượng, để hắn có thể chiếm đoạt, cưỡng bức cô một cách an toàn nhất, khéo léo nhất. Bực tức với sự nhu nhược bao nhiêu của người mẹ thì sự phẫn uất đến tội nghiệp cho bản thân nhân vật chính của người đọc càng tăng lên bấy nhiêu. Bên trong vỏ bọc của một ngôi nhà được trang hoàng gọn gàng, sạch sẽ là một khối những điều trái khoáy, dị hợm mà người cha dượng chính là người kiểm soát, tổ chức và thực hiện.   Nghẹn ngào, thương cảm, ghê sợ và phẫn nộ là cảm xúc mà bất cứ người đọc nào cũng có thể cảm nhận được khi lật giở từng trang trong “Người tù bé nhỏ”. Nó chất chứa trong đó toàn bộ những lời mà ngay từ đầu nhà văn Jane Elliott đã cảnh tỉnh: phút trước phấn khích tột độ để rồi ngay sau đó hoảng sợ về những gì mà cô bé Janey phải đối mặt.   Nhưng dù thế nào, trong những trang viết chân thực đến trần trụi ấy, độc giả vẫn thấy le lói ý nghĩa nhân văn, trong sáng, vô tư qua ước mong của một cô bé, một thiếu nữ và sau đó là một bà mẹ trẻ bất đắc dĩ cho những người thân, cho tình yêu và cho những đứa con của mình.   Đề cập sát thực về nạn bạo hành gia đình và lạm dụng tình dục trẻ em, “Người tù bé nhỏ” của Jane Elliott tuy chỉ là một trong nhiều cuốn tự truyện kể về tuổi thơ bị lạm dụng nhưng đã gây được tiếng vang lớn trên thế giới. Quá trình viết lại câu chuyện này cũng là một khó khăn đối với chính tác giả “vì nó đã khuấy động lại những ký ức và những tình cảm mà tôi dã cố gắng để quên đi. Nhưng giờ đây, tôi đã có thể hét to trước toàn thế giới tất cả những gì mà người ta bảo tôi phải giữ bí mật. Điều đó khiến tôi có cảm giác như một gánh nặng nghìn cân đã được cất khỏi đôi vai bé nhỏ của mình”.   Và bản thân nhà văn khi xuất bản cuốn sách này cũng đã hiểu rõ đối tượng độc giả: “Tôi cho rằng, độc giả của những cuốn sách như “Người tù bé nhỏ” sẽ chia làm hai nhóm. Nhóm thứ nhất là những người được sinh ra và lớn lên trong những gia đình ổn định,hạnh phúc và họ muốn được hiểu hơn về một thế giới mà họ khó có thể tưởng tượng ra nổi. Nhóm thứ hai là những người đã phải chịu đựng những gì tương tự và họ có thể tìm thấy ở những cuốn sách đó một niềm an ủi rằng họ không cô đơn trên thế giới này. Họ cũng có thể khám phá ra rằng không những việc tạo ra một cuộc sống bình thường và hạnh phúc là hoàn toàn có thể, mà họ còn có thể biến tất cả những điều tưởng chừng như bất hạnh, đau khổ thành một điều gì đó tích cực hơn.”   Nếu như chúng ta không hiểu được điều gì đang diễn ra trong những gia đình giống như gia đình của Janey thì có lẽ chúng ta không bao giờ có thể hy vọng làm cho mọi thứ trở nên tốt đẹp hơn trước. Liệu đó có phải là Một sự thật chat chúa về gia đình mà “Người tù bé nhỏ” muốn chuyển tải đến người đọc?!  Thanh Giang *** Khi Richard đã bị tống giam sau song sắt tôi mới bắt đầu cảm thất tự tin khi quay trở lại gia đình đã từng sống và thăm lại bạn cũ. Khi ra ngoài cùng với ai đó tôi thường phải dặn dò rằng đừng ai nói với gia đình tôi về sự có mặt của tôi ở đây. Tôi cũng đã bắt đầu cảm thấy an toàn hơn. Tuy nhiên, tôi vẫn luôn luôn nhắc nhở mình không được quá chủ quan. Mặc dù trong cuộc họp mặt các bạn học cũ mọi việc đều diễn ra tốt đẹp, nhưng khi được mời tham dự một buổi gặp mặt khác, tôi vẫn rất miễn cưỡng. Dường như tôi vẫn chưa thực sự có thể quay trở lại với những hoạt động tập thể như thế. Tuy nhiên, một vài người bạn đã thấy tên tôi trong danh sách Bạn gặp lại và gửi hàng đống email tới nói rằng tôi phải tới cuộc họp mặt lần tới. Những người bạn gái thì bảo tôi rằng tất cả mọi người đều sẽ tới đó và ai cũng rất muốn gặp tôi. Những người bạn trai thì nói rằng tôi không việc gì phải e ngại cả bởi vì họ sẽ không để chuyện gì xảy đến với tôi đâu. Cảm giác thật tuyệt vời khi biết rằng tất cả bọn họ đều muốn gặp lại mình và vì Steve cũng chuẩn bị đi công tác vài ngày nên tôi quyết định sẽ tham dự đó. Tôi đặt vé tàu và bắt taxi đến nhà Tanya. Kế hoạch là chúng tôi sẽ gặp nhau ở quán bar rồi sau đó sẽ tới câu lạc bộ. Hôm đó là một buổi tối mùa hè và mặc dù tôi cảm thấy rất căng thẳng khi quay trở lại thị trấn cũ ngày xưa tôi từng sống, tôi vẫn rất háo hức chờ mong buổi tối được ra ngoài. Khi chúng tôi vừa bước ra khỏi xe hơi bên ngoài quán bar, tôi nhìn thấy một nhóm bạn đã ngồi quanh một chiếc bàn và cũng đúng lúc đó tôi nhìn thấy vài người họ hàng của tôi vừa bước ra khỏi quán, tay vẫn còn cầm chai rượu. Một trong số đó là Tracy, người mà “Git ngu ngốc" đã bắt tôi phải đánh nhau nhiều năm trước. - Janey! - Từ phía chiếc bàn đằng xa, các bạn học cũ của tôi đang hét gọi - Janey, đằng này này. Ngay khi nhìn thấy thái độ trên gương mặt những người họ hàng của mình, tôi biết rằng tôi đang gặp nguy hiểm. Tôi nhớ lại cú điện thoại mà tất cả bọn họ đều xông vào chửi rủa, sỉ nhục, kết tội tôi, rằng tôi đã khiến cho cả gia đình liên kết chống lại tôi như thế nào và tôi nhận ra rằng mình đã mắc một sai lầm nghiêm trọng khi quyết định tới đây. Tôi tiến nhanh tới bàn của các bạn tôi và nói với Al, người cao lớn nhất đang làm việc cho một tiệm rượu. - Al, cậu phải đưa mình ra khỏi đây ngay bây giờ. Gọi cảnh sát tới đây mau. - Cái gì. - Trông Al có vẻ hết sức bối rối. Ngay bên cạnh quán rượu này có một đồn cảnh sát. Chỉ cần mất vài giây thôi là sẽ có người tới đây ngay. - Bình tĩnh lại nào Janey. Ở đây, cậu sẽ hoàn toàn an toàn - Cậu ấy nói. Tôi có thể nhận thấy rằng mình không thể nào làm cho Al hiểu được rằng tôi đang gặp phải rắc rối lớn đến nhường nào và tôi không nghĩ rằng mình còn nhiều thời gian. Tôi chạy vào trong quán, tim đã bắt đầu nghẹt thở vì lo lắng. Nếu tôi có thể vào trong bếp, may ra tôi sẽ tìm được một lối cửa sau thoát ra ngoài. - Tôi xin lỗi, cô không thể vào đây được. Đây là lối vào nhà bếp. - Một cô gái chặn ngang đường tôi. - Cô phải giúp tôi! - Tôi hét lên. - Cô phải đưa tôi ra khỏi đây và gọi cảnh sát đi. Họ sẽ giết tôi đấy. Rõ ràng cô ta đang nghĩ tôi là một kẻ điên và tôi chẳng có cách nào có thể thuyết phục cô ta cho tôi bước qua cánh cửa đó. Lúc này, Tanya và Al đã đến. bên tôi và cũng đã bắt đầu nhận ra được mức độ nghiêm trọng của tình hình. Nhưng họ vẫn cố gắng làm tôi bình tĩnh lại. Cô gái đó đưa chúng tôi vào một phòng và bảo rằng cô ấy sẽ đi xin ý kiến người quản lý. - Khóa cửa ngoài lại và gọi cảnh sát đi! - Tôi hét lên nhưng tôi càng trở nên kích động thì tôi càng khó có thể khiến cho cô ta hiểu được rằng tôi đang hoàn toàn nghiêm túc. Tôi phải tự mình quay số gọi cảnh sát thôi. Nhưng tay tôi quá run đến nỗi tôi không cầm nổi chiếc điện thoại. Vài phút sau, cô gái đã quay trở lại. Cô ta nói: - Quản lý của chúng tôi nói rằng cô cần phải ra khỏi đây. Cô có thể ra bằng lối cửa sau, rẽ vào một con hẻm và đi vòng ra đằng trước. - Tôi không thể đi vòng ra đằng trước được. Bọn chúng đang đợi tôi ở đó! - Tôi hét lên nhưng cô ta đã vội vã đẩy chúng tôi ra cửa sau, giữa những thùng rác. Từ chỗ đó, tôi có thể nhìn thấy đồn cảnh sát và sân trong nhà thờ ngay bên cạnh, một cặp tình nhân đang tổ chức đám cưới. Tất cả trông có vẻ hết sức bình thường nhưng đối với tôi mọi chuyện hoàn toàn không phải như vậy. - Để tôi chờ ở đây vài giây đã - Tôi năn nỉ. - Tôi e rằng quản lý của tôi đã ra lệnh phải đóng cửa lại. Cô gái đó nói và tôi đứng đó nhìn cánh cửa khép lại một cách chậm chạp. - Không! - Tôi thét lên khi nghe thấy tiếng khoá cửa vặn đánh tách và tiếng những chiếc bánh xe bắt đầu nghiến trên đường phố. ... Mời các bạn đón đọc Người Tù Bé Nhỏ của tác giả Jane Elliott.