Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tội Ác Của Sylvestre Bonnard

Sylvestre Bonnard, một học giả già lỗi lạc đang gặp các vấn đề bất ngờ khi ông bắt tay vào tìm kiếm một vài tài liệu văn học cổ xưa của Giáo Hội để mang từ Paris đến Sicily và ghi dấu vào lịch sử cuộc đời của chính mình. Vì lợi ích của công lý và tình yêu, ông cố gắng hoàn thành công việc sao cho tốt nhất nhất là tính hợp pháp nghi ngờ. Với "Tội phạm của Sylvestre Bonnard", Anatole France (1844-1924) đã viết một cuốn tiểu thuyết vừa thông minh và khôn ngoan và theo cách thức của các bậc thầy vĩ đại của phong cách văn học - một cuốn sách đầy đủ lẫn hồi hộp từ đầu đến cuối. *** Một câu chuyện cảm động và kết thúc đẹp như mong ước, một cái kết gần giống như kết của 'Những người khốn khổ' (Les Miserables), với một đôi trẻ hạnh phúc, nhưng không kém phần hồi hộp khiến ta phải lo âu theo dõi. Sylvestre Bonnard, người kể chuyện, một ông lão tuổi ngoài 60 sống tại Paris, nước Pháp nửa sau thế kỷ XIX, sống cuộc sống độc thân giản nhị nhưng không quá túng thiếu với Thérèse người quản gia cũng già đã phục vụ ông qua mấy chục năm. Một con người khá cô độc nhưng không ghét loài người, sống bình lặng với người quản gia, con mèo, cùng công việc yêu thích là nghiên cứu các văn bản cổ, và dịu dàng, nhân ái với mọi người. Phần 1 - 'Khúc củi' với diễn biến về sau khá bất ngờ, khi ông theo đuổi một bản thảo cổ từ Ý trở lại Paris, trong quá trình đó gặp một người phụ nữ bí ẩn, và cuối cùng bản thảo bị người phụ nữ bí ẩn trả giá cao trong cuộc bán đấu giá. Người phụ nữ, hóa ra từng là vợ của một người nghèo khổ sống cùng tòa nhà với ông, nay đã là mệnh phụ, sẵn lòng mua bản thảo với giá cao để đáp lại ân tình của Bonnard khi trước. Một kết thúc theo kiểu gieo nhân nào gặp quả nấy. Phần 2 - 'Tiểu thư Jeanne Alexandre' là sự quyến luyến của ông lão Bonnard đối với Jeanne, cô bé là cháu gái của Clementine, người con gái mà ngày còn trẻ ông mến mộ. Do phá sản, bố mẹ cô khi mất đã để Jeanne bơ vơ giữa đời phải sống trong một trường nội trú với những điều kiện khắc nghiệt và người giám hộ không được tử tế. Nhờ danh vị thành viên Học viện mà Bonnard được cô Préfère nể trọng đón tiếp tử tế và cuộc sống của Jeanne đỡ khổ ải hơn. Nhưng khúc quanh của câu chuyện khá bất ngờ khi cô cấm ông Bonnard không được đến thăm Jeanne tại trường và cô bé lại tiếp tục chịu cuộc sống hà khắc dưới quyền cô. Người đọc hồi hộp theo dõi liệu ông lão Bonnard có thể phạm tội ác gì (theo hướng chống lại cô Préfère) nhằm giành giật lại cô bé mà ông yêu quý và muốn bù đắp cho. Kết cục, như ta đã biết là tốt đẹp, và cô bé Jeanne cũng đã có hạnh phúc lứa đôi với chàng công chức cùng nghề với Bonnard, khi còn là sinh viên đã tìm đến ông để trao đổi về học thuật. Trong Phần 2 này những trao đổi giữa ông lão Bonnard và chàng sinh viên Gélis về lịch sử (trang 224 - 225 - 226, Bản dịch của Nguyễn Xuân Phương, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, tháng 4.2001) là khá thú vị, hay trao đổi giữa Bonnard và cô Thèrése về giáo dục (trang 156) đến bây giờ vẫn hoàn toàn đúng đắn. Cũng ở Phần 2 này theo lời kể của Bonnard ta cũng thấy nước Pháp những năm 1800 vẫn còn chia rẽ khá sâu sắc giữa những người ủng hộ Napoleon (những kẻ cướp vùng Loire) và những người bảo hoàng Bourbons. - Con người (mặc giáp sắt thời Trung cổ) được bọc sắt như con bọ hung. Sự yếu đuối của họ là ở bên trong. (trang 18) - hãy đối xử rộng lượng với đồng loại để họ rộng lượng với chúng ta (trang21) - Người nghèo không tham vọng là có món tài sản vĩ đại nhất, hắn tự kiềm chế được mình, còn người giàu mà thèm muốn thì chỉ là một tên nô lệ khốn khổ (trang 22). - cái thú chuyện trò với một trí tuệ ưu việt và ôn hòa, cái thú ăn tối với một anh bạn thân (trang 22) - những thèm muốn thuở hoa niên là ghê gớm biết bao nhiêu (trang 22) - chúng cháu (tuy là người lớn) mãi mãi là trẻ con, chúng cháu không ngừng đuổi theo những đồ chơi mới lạ (trang 28) - người thiếu phụ ấy không trở nên xấu cũng không trở nên tốt. Hãy đợi chị ta kết thúc cuộc đời mới nên phán xét (trang 29) - điệu bộ bạo dạn ở những kẻ nhát gan (trang 37) - với ba xu, tôi có thể ăn, uống và rửa mặt tất tần tật với một lát dưa hấu bày trên chiếc bàn con (trang 38) - Phải thương xót họ: của cải vây quanh lấy họ mà không thấm thấu vào họ; họ đáng thương, nội tâm cùng quẫn. Sự khốn khổ của người giàu thật thê thảm. (trang 43) - Những người yêu tha thiết không viết về hạnh phúc của mình (trang 45) - người ta có học được đôi điều qua sách vở, nhưng người ta càng học tập được nhiều hơn khi đi đây đi đó. (trang 47) - những nỗi buồn, đó là một cách tiêu khiển quan trọng. (trang 51) - người mà ta yêu thương mãi mãi chỉ là một hình bóng, nhưng kỷ niệm về nàng mãi mãi là niềm mê say của đời ta. (trang 76) - con người chỉ làm chủ thời gian khi chia no ra thành giờ, thành phút, thành giây, nghĩa là thành những khoảng cách cân đối với đời người ngắn ngủi, bởi vì thời gian chính là cuộc đời. (trang 81) - đối với phái yếu, mọi việc đều đượcphép, mọi hành động của họ là đặc ân, là sủng ái. (trang 90) - Có trí thức chẳng là gì hết, tưởng tượng sáng tạo mới quan trọng. Chỉ cái gì người ta suy nghĩ sáng tạo ra mới tồn tại. (trang 91) - Nhân loại hầu như toàn là người chết. So với số người đã chết thì người còn sống chẳng là bao nhiêu. Cuộc đời này là gì, ngắn ngủi hơn trí nhớ, ngắn ngủi hơn con người. (trang 100) - cuộc đừi là vĩnh hằng, ta phải yêu quý nó trong những hình thái không ngừng đổi mới (trang 100-101) -điếc như bao than, chậm chạp như tổ chức tư pháp. (trang 108) - Hãy trù liệu cho những việc lớn, nên biết rằng ý định là thực tế duy nhất trên đời. (trang 109) - Hãy coi trọng vỏ bánh mì khô trong chiếc đãy hai túi của anh hơn những chim sẻ vườn được quay trong bếp của lãnh chúa. (trang 110) - Tất cả chúng ta đều có trong người một Don Quixote và một Sancho mà chúng ta nghe theo, và cả đang khi Sancho thuyết phục chúng ta thì chính là Don Quixote mà chúng ta phải khâm phục. (trang 110) - Thời gian chỉ êm dịu đối với những ai khoan thai thận trọng đón nhận nó. (trang 112) - thực tế vũ trụ là phản ảnh của tâm hồn chúng ta. (trang 113) - Goethe ví đại có sức sống lạ thường, thực sự tin rằng người ta chỉ chết khi người ta muốn, nghĩa là khi tất cả sức mạnh chống lại sự phân hủy cuối cùng, khi toàn bộ khí lực làm nên sự sống bị hủy diệt đến tận cùng. Nói cách khác, ông nghĩ rằng người ta chỉ chết khi khôn muốn sống nữa. (trang 141-142) - tôi vẫn thích sự đam mê điên rồ hơn sự đứng đắn dửng dưng. (trang 144) - một thằng ngu, không phải bằng ba chữ mà đúng là bằng mười hai tập. (trang 147) - Những kẻ không có nhược điểm thì thật ghê gớm; không ai tác động đến họ được. (trang 150) - điều thực sự xấu xa trong thời đại chúng ta là khôn ai bằng lòng địa vị của mình, trong xã hội, trong mọi tầng lớp, từ trên xuống dưới, bao trùm sự túng thiếu, nỗi khắc khoải lo âu, sự khát khao hạnh phúc. (trang 153) - Không có thời đại nào con người lại thèm muốn sự túng thiếu. Họ luôn luôn tìm cách cải thiện địa vị xã hội của mình. Sự cố gắng kiên trì này đã sản sinh ra những cuộc cách mạng trường kỳ. Nó tiếp tục, thế thôi. (trang 153) - nghệ thuật giảng dạy chỉ là nghệ thuật kích thích tính tò mò ham biết của những tâm hồn non trẻ, tiếp đó là thỏa mãn tính tò mò ham biết đó, và tính tò mò ham biết chỉ mãnh liệt và lành mạnh trong những đầu óc sung sướng. Dùn quyền lực nhồi nhét kiến thức vào những đầu óc thông minh là bịt chúng lại, bóp nghẹ chúng. Trí thức phải được nuốt vào một cách ngon lành thì mới tiêu hóa được. (trang 155-156) *** Anatole France (tên thật là François-Anatole Thibault, 16 tháng 4 năm 1844 – 13 tháng 10 năm 1924) sinh ở Paris, là con của một chủ cửa hàng sách, từ nhỏ đã ham mê văn học, nghệ thuật. Học ở trường Collège Stanislas. Trong thập niên 1860, France tiếp xúc với nhóm Parnasse và xuất bản tập thơ đầu tiên (1873). Sau đó ông chuyển sang viết văn xuôi và thật sự có tiếng tăm khi cuốn tiểu thuyết Le crime de Sylvestre Bonnard (Tội ác của Sylvestre Bonnard, 1881) ra đời và được nhận giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp. Trong thập niên 1890, ông viết nhiều bài phê bình văn học cho Le Temps (Thời báo) và in thành 4 tập sách với tên La vie littéraire (Đời sống văn học).   Những năm cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, tư tưởng và sáng tác của Anatole France đã có những thay đổi. Ông từ bỏ lập trường người quan sát để trở thành chiến sĩ đấu tranh cho nền dân chủ. Cụ thể là trước kia ông thường miêu tả cuộc sống và con người thời kỳ Trung cổ hoặc thời kỳ suy vong của chế độ phong kiến, thì nay ông viết về các sự kiện lịch sử và xã hội đương đại, đồng thời tiếp tục truyền thống nhân văn chủ nghĩa của Rabelais và Voltaire, phê phán nền cộng hòa thứ ba của Pháp, chế giễu không thương xót những kẻ gây chiến tranh xâm lược tàn khốc. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì “những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực”…   A. France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, trải qua một con đường khó khăn và phức tạp từ chủ nghĩa nhân đạo ảo tưởng đến chủ nghĩa hiện thực cách mạng. Ông mất ở Tours, Indre-et-Loire.     Tác phẩm chính:   - Những câu thơ vàng (Poèmes dorés, 1873), thơ.   - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, 1881), tiểu thuyết.   - Sách của bạn tôi (Le Livre de mon ami, 1885), hồi ký.   - Bông huệ đỏ (Le lys rouge, 1894), tiểu thuyết.   - Vườn Epicure (Le jardin d'Epicure, 1894), tập cách ngôn.   - Lịch sử hiện đại (L'histoire contemporaine), gồm 4 tiểu thuyết:    + Cây du trên đường dạo chơi (L'orme du mail, 1897)   + Hình người bằng cây liễu (Le mannquin d'osier, 1897)   + Chiếc nhẫn tử thạch anh (L'anneau d'amethyste, 1899)   + Ông Bergeret ở Paris (Monsieur Bergeret à Paris, 1901)   - Hung thần lên cơn khát (Les dieux ont soif, 1912), tiểu thuyết   - Thiên thần nổi loạn (La révolte des anges, 1914), tiểu thuyết.     Những tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:     - Quyển truyện của bạn tôi (La livre de mon ami, hồi kí), Vũ Thị Hay và Lê Ngọc Trụ dịch, Trung tâm Học liệu xuất bản, 1962, tái bản 1972   - Sách của bạn tôi (La livre de mon ami, hồi kí), Hướng Minh dịch và giới thiệu, NXB Văn Học, 1988, tái bản 2009.   - Đảo Panhgoanh (L'Île des Pingouins tiểu thuyết), Nguyễn Văn Thường dịch, NXB Văn Học, 1982.   - Thiên thần nổi loạn (La révolte des anges, tiểu thuyết), Đoàn Phú Tứ dịch, NXB Văn Học, 1987.   - Bông huệ đỏ (Le lys rouge, tiểu thuyết), Nguyễn Trọng Định dịch, NXB Phụ Nữ, 1989.   - Các hung thần lên cơn khát (Les dieux ont soif, tiểu thuyết), Trần Mai Châu dịch, NXB Văn Nghệ TP.HCM, 1990.   - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, tiểu thuyết), Nguyễn Xuân Phương dịch, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1996.   - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, tiểu thuyết), Nguyễn Xuân Phương dịch, NXB Văn Nghệ TP. HCM, 2001.   - Thais-Vũ nữ thoát tục, (Thaïs, tiểu thuyết), Hoàng Minh Thức dịch, NXB Tổng hợp Tiền Giang, 1989.   - Mối tình người thợ gốm, (tập truyện ngắn), Nxb Văn học, Hà Nội 1987. ***  Tôi xỏ chân vào giày vải, khoác lại áo mặc trong nhà rồi lau giọt nước mắt do cơn gió bấc thổi ngoài bến tàu làm cho tôi tối tăm mặt mũi. Lửa rực sáng trong lò sưởi phòng làm việc của tôi. Những tinh thể băng tuyết hình lá dương xỉ phủ đầy bên ngoài mặt kính các cửa sổ, che lấp con sông Seine, các cây cầu và cung điện Louvre des Valois.   Tôi đẩy ghế bành và bàn di động đến gần lò sưởi chiếm lấy chỗ của chú mèo Hamilcar. Nó nằm khoanh tròn trên chiếc ghế lông, bốn chân ôm lấy mũi, ở đầu các thanh gác củi. Một làn gió đều đều phe phẩy bộ lông dày và nhẹ của nó. Thấy tôi đến gần, nó hé hai hàng mi, đưa cặp mắt mã não ra nhìn dịu dàng rồi nhắm lại ngay, nghĩ rằng: “Không hề gì, đó là bạn ta.” “Hamilcar!”. Tôi vừa kéo chân vừa gọi nó – “Hamilcar, ông hoàng ngủ gà của khu nhà sách, người canh gác ban đêm ơi! Mày chống lũ gặm nhấm hèn hạ, bảo vệ những bản thảo và ấn phẩm mà nhà bác học già nua đã mua với số tiền dành dụm ít ỏi là lòng nhiệt thành không mệt mỏi. Hamilcar, trong chốn thư viện im lặng này được các đức tính nhà binh của mày bảo vệ, mày hãy ngủ ung dung đài các như một bà hoàng! Bời vì ở mày hội tụ được dáng vóc tuyệt vời của một quân nhân Hung Nô với vẻ yêu kiều của một phụ nữ phương Đông. Hỡi chú Hamilcar anh hùng và thích khoái lạc, hãy vừa ngủ vừa chờ cơ hội lũ chuột nhảy múa dưới ánh trăng, trước giáo đường của nhà thông thái giáo phái Bông-lăng”.   Lời mở đầu bài diễn văn này làm vui lòng con Hamilcar, nó phụ theo bằng một tiếng khò khò trong họng như tiếng reo trong ấm nước sôi. Nhưng khi tôi cất cao lời nói, con Hamilcar cụp tai xuống, nhăn cái trán vằn, có ý cảnh cáo tôi nói năng cầu kỳ hoa mỹ như vậy là nghe chướng và nó nghĩ:   “Con người sách vở này nói năng chẳng đâu vào đâu, còn bà quản gia thì bao giờ cũng chỉ tuôn ra những lời lẽ đầy ý nghĩa, chứa đựng sự việc, hoặc báo tin một bữa ăn hoặc một trận đòn. Người ta biết chắc điều gì bà nói. Còn ông già này ghép lại những âm chẳng có ý nghĩa gì hết”.   Con Hamilcar nghĩ như vậy đó. Để mặc cho nó suy tư, tôi mở một cuốn sách và chăm chú đọc. Đó là cuốn danh mục các bản thảo. Tôi thấy không có gì dễ dàng hơn, thú vị hơn, êm đềm hơn bằng đọc một cuốn danh mục. Cuốn danh mục tôi đọc, do ông Thompson, cán bộ thư viện của ngài Thomas Raleigh, soạn thảo vào năm 1824 là cuốn sách hỏng, đúng thế, vì sự vắn tắt quá đáng và không thể hiện chút nào thứ chính xác mà các nhà lưu trữ thế hệ tôi đầu tiên đưa vào các tác phẩm về ngoại giao và về khoa chữ cổ. Nó chưa hoàn hảo, phái đoán mò. Có lẽ vì thế mà khi đọc nó, theo một bản tính tưởng tượng phong phú hơn bản tính của mình, tôi có cái cảm giác đáng được gọi là sự mơ mộng. Tôi lâng lâng thả mình trong dòng suy tư lơ mơ thì chị quản gia bằng một giọng cáu kỉnh bảo tôi biết có ông Coccoz yêu cầu nói chuyện với tôi.   Quả nhiên, một người nào đó lặng lẽ theo chị đi vào thư viện. Đó là một con người bé nhỏ, một con người bé nhỏ thảm hại, vẻ mặt ốm yếu, mặc chiếc áo mỏng dài đến đầu gối. Anh tiến về phía tôi, cúi chào mỉm cười nhiều lần, một cách tự tin. Anh rất đỗi xanh xao, tuy còn trẻ và nhanh nhẹn, nhưng hình như đang ốm. Nhìn anh, tôi nghĩ tới một con sóc bị thương. Anh cầm trong tay một mảnh vải bọc hàng màu xanh, đặt lên ghế, rồi mở bốn đầu mối của mảnh vải, để lộ một lô sách màu vàng.   - Thưa ông – lúc ấy anh cất tiếng – tôi không có hân hạnh được ông quen biết. Thưa ông, tôi là người môi giới cho hiệu sách. Tôi làm việc này cho các nhà buôn chính ở thủ đô, và với hy vọng rằng ông vui lòng cho tôi được hết sức tự hào về sự tin cậy của ông, tôi xin tự tiện mời ông một vài cuốn sách mới.   Trời đất ơi! Sách mới gì mà con người Coccoz nhỏ bé này mời tôi mua thế. Tập thứ nhất anh ta đặt vào tay tôi là cuốn Lịch sử tháp chiến Nesle với những chuyện dan díu giữa Margurite de Bourgogne và đại tá Buridan.   - Đó là cuốn sách lịch sử. – Anh vừa cười vừa bảo tôi. – Một cuốn sách đích thực.   - Trong trường hợp này – tôi đáp – thì chán lắm, bởi vì những cuốn sách lịch sử mà không nói láo thì đều buồn thiu buồn thỉu. Chính tôi đã viết những sách xác thực kia và nếu chẳng may cho anh, anh đi từ nhà này sang nhà khác giới thiệu cuốn nào, anh sẽ có nguy cơ suốt đời giữ nó lại trong cái bọc vải xanh của anh, không bao giờ tìm ra một chị cấp dưỡng nào khá kém chín chắn mua cho anh.   - Thưa ông, tất nhiên – Con người nhỏ bé đáp lại hoàn toàn chiều theo ý tôi.   Và vừa cười, anh ta đưa cho tôi cuốn Những chuyện dan díu của Héloise và Abeilard, nhưng tôi làm cho anh hiểu ngay rằng ở tuổi tôi, tôi chẳng làm gì với một chuyện tình.   Vẫn nụ cười trên môi, anh đề nghị tôi mua cuốn Luật về trò chơi đông người bài pikê, bài béji, bài các tê, bài uýt, bài súc sắc, bài con đam, cờ tướng.   - Chao ơi! – Tôi bảo anh ta – nếu anh muốn tôi nhớ lại luật chơi bài béji, anh hãy trả lại ông bạn già Bignan của tôi đã cùng tôi chơi bài mỗi buổi chiều, trước lúc ông ấy được năm viện hàn lâm long trọng đưa đến nghĩa địa, hoặc anh hãy làm xẹp sự thông minh trang trọng của con Hamilcar mà anh thấy nằm ngủ trên chiếc gối này, đối với chuyện phù phiếm về các trò chơi của con người, vì ngày nay, nó là người bạn duy nhất trong các buổi tối của tôi.   Nụ cười của con người nhỏ bé trở nên mơ hồ và hốt hoảng.   - Đây – anh bảo tôi – một tập mới xuất bản về các trò giải trí đông người, những câu pha trò, những trò chơi chữ, với những cách đổi một hoa hồng đỏ thành hoa hồng trắng.   Tôi bảo anh rằng từ lâu tôi đã rối lên với những hoa hồng, còn đối với những câu pha trò thì tôi chỉ cần những câu nào tôi được phép dùng một cách tự nhiên trong quá trình tiến hành các công việc khoa học.   Con người bé nhỏ lại đưa cho tôi cuốn sách cuối cùng với nụ cười lần chót. Anh nói:   - Đây là Sách giải mộng, giải thích tất cả mọi giấc mộng của người đời: mộng được vàng, mộng thấy mình là kẻ trộm, mộng thấy mình chết, mộng thấy từ trên cao trơi xuống… Đủ cả!   Tôi cầm cái gắp than, vung mạnh và trả lời ông khách luôn:   - Đúng, anh bạn ạ, nhưng những giấc mơ đó và muôn nghìn giấc mơ khác, vui có, buồn có, tóm lại chỉ là một mà thôi, đó là giấc mộng cuộc đời, và cuốn sách bìa vàng nhỏ của anh có cho tôi cái chìa khóa để giải giấc mộng đó không? Mời các bạn đón đọc Tội Ác Của Sylvestre Bonnard của tác giả Anatole France.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Từ Chiến Trường Khốc Liệt - Peter Arnett
Tác giả là người Mỹ gốc New Zealand Peter Arnett, phóng viên nổi tiếng của Hãng AP, CNN, người đã có mặt ở miền Nam Việt Nam từ những năm 1962 cho tới 1975, chứng kiến rất nhiều sự kiện lịch sử trong chiến tranh Việt Nam và giờ khắc sụp đổ của chính quyền ngụy Sài Gòn. Cuốn sách được xuất bản lần đầu tại Mỹ năm 1995, sau đó được tái bản nhiều lần, gây tiếng vang lớn và hấp dẫn độc giả. Dư luận trong và ngoài nước Mỹ đánh giá "Đây là một cuốn tự truyện hay nhất", "Một cuốn hồi ký mẫu mực", "Một tài liệu có sức mạnh hay nhất", v.v,.. Từ chiến trường khốc liệt - cuốn tự truyện - hồi ký mang tính báo chí được ghi chép cẩn thận, công phu, là tập tài liệu lịch sử vô cùng quý giá của một phóng viên chiến trường, gần như dành cả phần lớn thời gian cuộc đời mình viết về đề tài chiến tranh. Ông viết về tất cả những điều cảm nhận, trải qua, chứng kiến ở những nơi chiến sự mà Ông đặt chân tới: VIệt Nam, Lào, Iran, Iraq, Afganistan... Trong cuốn sách, tác giả ghi lại khá kỹ về những sự kiện Chiến tranh Việt Nam, diễn biến những hoạt động tác chiến ở chiến trường, đặc biệt là những sự kiện dấu mốc như: cuộc đấu tranh, biểu tình của các tăng ni, phật tử ở Huế, vụ tự thiêu của nhà sư Thích Quảng Đức, cuộc đảo chính lật đổ anh em Ngô Đình Diệm, các trận đánh, các chiến dịch lớn giữa quân Mỹ - Ngụy và quân giải phóng miền Nam Việt Nam, cuộc nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, các chiến dịch dẫn tới giải phóng Sài Gòn và cuối cùng là giờ khắc sụp đổ của chế độ ngụy quyền Sài Gòn,.. cùng tâm trạng hoang mang, bi quan, thất vọng của các tổng thống, tướng tá Mỹ, ngụy tham gia điều hành bộ máy chiến tranh trước các sự kiện. Tất cả được tác giả ghi chép và kể lại một cách chân thực, khách quan với tư cách là một phóng viên chiến trường chuyên nghiệp. Chính những tin, bài, phóng sự của tác giả được đăng tải trên báo chí khi đó đã gây tranh cãi và có tác động ảnh hưởng sâu sắc tới dư luận Mỹ và nhiều nước trên thế giới, làm cho nhân dân Mỹ và nhân dân nhiều nước trên thế giới hiểu đúng hơn về cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhờ đó mà Perter Arnett đã giành được giải thưởng báo chí Pulitzer danh giá vào năm 1966 và rất nhiều giải thưởng khác. Trong cuộc Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 và tháng 3-2003, Peter Arnett đã gây chấn động thế giới bởi những phóng sự nóng hổi được truyền hình trực tiếp trên CNN từ chiến trường Baghdad. Những sự kiện về Chiến tranh Iraq cũng được phản ánh chân thực trong cuốn sách. Peter Arnett là phóng viên phương Tây đầu tiên và duy nhất phỏng vấn trùm khủng bố Osama Bin Laden. *** Công việc làm tin chiến trường về Chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng lớn tới 35 năm trong nghề phóng viên quốc tế sau này của tôi. Khi đến với Việt Nam như một chàng trai trẻ đầy lý tưởng tôi nhận thấy không sự thỏa mãn cá nhân nào quá lớn cho một phóng viên chiến trường bằng việc nói ra sự thật về lòng dũng cảm và những bi thương đồng hành cùng người lính. Tôi viết về chiến tranh ở Việt Nam từ năm 1962 đến 1975, và tôi đã học được rằng trong chiến tranh hiện đại người dân thường thiệt thòi nhiều hơn những người tham chiến và vai trò của phóng viên chiến trường là phải nói lên câu chuyện của họ. Đó cũng là niềm tin đồng hành cùng tôi nhiều năm sau này tới Baghdad trong Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất năm 1991 đã kiểm nghiệm sự ảnh hưởng của lệnh cấm vận đối với 25 triệu người dân Iraq như sự trừng phạt lên người đứng đầu của họ, Saddam Hussein. Cũng như trong cuộc Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất, tôi làm tin truyền hình trực tiếp về các trận đánh bom Baghdad trong suốt chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai vào thảng-2003. Giống như khi ở Việt Nam trước đó 40 năm, để chứng kiến sự thật ác liệt về chiến tranh của người Mỹ, tôi đã ở lại Iraq hơn 4 năm nữa để ghi lại những hỗn loạn và bi thương dẫn đến án treo cổ dành cho Saddam Hussein năm 2006. Tôi có nhiều dấu mốc quan trọng trong suốt 50 năm làm tin chiến trường của mình, đó là vào tháng 3-1997, cùng với đội quay phim của CNN tôi đã phỏng vấn trùm khủng bố Osama Bin Laden ở nơi ẩn nấp trên núi của ông ta ở Afghanistan. Vào thời điểm đó, Bin Laden ít được công chúng biết đến, nhưng ông ta đã bị các cơ quan tình báo quốc tế theo dõi như một người cuồng tín Hồi giáo nguy hiểm với nguồn tài chính cá nhân đáng kể. Trong bài phỏng vấn cá nhân của mình, Bin Laden tuyên bố một cuộc thánh chiến với Mỹ và hứa sẽ gây ra nhiều xung đột và thiệt hại cho quân đội nhằm xóa bỏ sự ảnh hưởng của phương Tây trong giới Hồi giáo. Vào thời gian phỏng vấn ông ta, những mối đe dọa của Bin Laden từ những ngọn núi phía xa chỉ là lối nói hoa mỹ rỗng tuyếch. Nhưng khi cuộc tấn công không tặc mà ông ta tổ chức tấn cống vào Tòa nhà Thương mại thế giới ngày 11-9-2001 giết chết 3.000 người dân đã làm thay đổi trật tự. thế giới Nhiều năm làm phóng viên quốc tế, tôi hiểu rõ vai trò quan trọng của truyền thông trong thời sự thế giới và đây cũng là thông điệp tôi truyền tải trong bài giảng ở các Trường Đại học Báo chí và các Tổ chức truyền thông trong nhiều năm. Tôi đã dẫn một nhóm sinh viên của Trường Đại học Shantou (Sán Đầu) ở phía nam Trung Quốc tới thăm Việt Nam trong chuyến đi thực tế viết tin ba tuần đáng nhớ vào mùa hè năm 2007. Với kinh nghiệm trước đây của tôi ở Việt Nam vào những năm 1960 và 1970 và rất nhiều chuyến thăm sau này, tôi đã giảng bài về chủ đề đó ở Trường Đại học Shantou. Tôi muốn các sinh viên có cảm nhận về cuộc chiến tranh đó và những người Việt nam đã được sinh ra khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975. Rất nhiều người quan sát đã viết rằng cuộc chiến tranh không còn ảnh hưởng trong đời sống của người Việt Nam, đất nước đã hòa bình và khôi phục kinh tế là mục tiêu hàng đầu của mọi người. Dọc hành trình từ Bắc tới Nam, chúng tôi thấy sự tốt bụng và niềm vui trên những gương mặt người Việt Nam với những người khách nước ngoài. Tôi nhận ra rằng Chính phủ nhấn mạnh tầm quan trọng trong hợp tác kinh tế và chính trị với những kẻ thù trước đây ở phương Tây. Hầu hết những người Việt Nam chúng tôi gặp ở miền Bắc đều hiểu được những đau thương mất mát trong chiến tranh họ phải gánh chịu và chúng tôi được biết có khoảng 3 triệu người chết. Chúng tôi tìm thấy rất nhiều tàn tích của chiến tranh ở miền Nam nhưng cũng hiểu rằng đó là miền Bắc đã cung cấp sức người sức của cho miền Nam với khẩu hiệu "sinh ra ở miền Bắc và chết ở miền Nam". Đó là lời thương xót của những gia đình Việt Nam mất con trong chiến tranh. Cảm nhận về nỗi đau đã lan tỏa trong Văn học Việt Nam vài thập kỷ qua. Các sinh viên Trường Đại học Shantou nhanh chóng nhận ra rằng Chính phủ Việt Nam ghi nhận lòng yêu nước và sự hy sinh từ việc dựng lên nghĩa trang Trường Sơn ở khu vực Bến Tắt, Quảng Trị với hơn 10.000 ngôi mộ tôn kínhcho đến nhà tù của Pháp cũ có tên "Hỏa lò" ở trung tâm thủ đô, nơi bộ quần áo phi công còn vấy máu của Jonh McCain ở một trong những phòng nơi những người tù Mỹ bị giam giữ trong nhiều năm. Bi thương hơn nữa, nhà tù còn phác họa những hình ảnh và mô hình về các hình thức tra tấn dã man mà thực dân Pháp đã sử dụng đối với tù chính trị trong suốt 100 năm thống trị gồm máy chém cao bằng gỗ với lưỡi dao sắc và chiếc rổ đựng đầu vấy máu nằm gần đó. Có một khung cảnh đặc biệt thu hút sự chú ý của các sinh viên và tôi hy vọng nó sẽ đọng lại lâu trong ký ức của họ. Đó là một căn phòng lớn trong Bảo tàng Chiến tranh ở thành phố Hồ Chí Minh với những trưng bày cho các phóng viên nước ngoài, những người đã làm tin về các cuộc chiến tranh chống Mỹ và chống Pháp. Những khuôn mặt và hình ảnh đều quen thuộc với các sinh viên Shantou bởi vì họ là những đồng nghiệp trước đây của tôi và tôi thường nói về họ trong các bài giảng của mình, các phóng viên ảnh hy sinh trong chiến tranh như Larry Borrow của tạp chí Life, Henri Huet và Huỳnh Công la của AP và Koichi Sawada của UPI cùng nhiều người khác nữa. Sự đau thương mất mát của chiến tranh đã không làm mờ đi sự ghi nhận của Chính phủ Việt nam về lòng dũng cảm và sự hy sinh của các phóng viên chiến trường ở các quốc gia đã đấu tranh để nói lên sự thật về cuộc chiến và sự hy sinh của họ. Đó là điểm nhấn trong chủ đề bài giảng của tôi ở Trường Đại học Shantou rằng báo chí có một vài trò to lớn và đáng giá trong thế giới ngày nay. Những chuyến thăm trở lại Việt nam, đặc biệt là hành trình cùng với các sinh viên là những chuyến thăm hài lòng trong cuộc đời tôi. Đó là những chuyến thăm khép lại vòng tròn từ khi lần đầu tiên tôi đến với tư cách là một phóng viên trong một đất nước bị chiến tranh tàn phá vào năm 1962 đến khi từ những tàn tích của một cuộc chiến tranh dài, một đất nước hòa bình, độc lập xuất hiện tự hào trên chính trừong quốc tế. Peter Arnett, tháng 3-2009 Mởi các bạn đón đọc Từ Chiến Trường Khốc Liệt của tác giả Peter Arnett.
Tôi Là Ê-Ri - Thanadda Sawangduean
Tôi là Ê-ri là cuốn tự truyện kể lại chuỗi ngày đầy sóng gió nơi xứ người của một cô gái điếm người Thái Lan. Tác phẩm là tiếng nói tố cáo những tệ nạn xã hội đẩy nhiều phụ nữ vào cảnh sống như địa ngục. Đồng thời nó cũng thắp lên hy vọng cho những người trót lầm lỡ qua thông điệp: Sẽ không bao giờ là quá muộn để bắt đầu lại. Tuy khai thác mảng đề tài cũ và được viết bởi một người không chuyên, không sử dụng những thủ pháp nghệ thuật đặc biệt nhưng Tôi là Ê-ri đã tạo được điểm khác biệt khi triển khai cốt truyện từ điểm nhìn của người trong cuộc, vì thế nó đã được Hội đồng giám khảo đồng thuận trao giải nhất cuộc thi sáng tác văn học dành cho nữ giới Chommanard lần thứ hai, 2009. Lời nhà xuất bản Dự án giải thưởng Chommanard lần thứ hai dành cho sách văn học được hình thành từ ý tưởng của nhà xuất bản Praphansarn với mong muốn hỗ trợ và đầu tư cho các tác phẩm văn học phi hư cấu (Non-Fiction) của các nữ nhà văn Thái Lan. Các tác phẩm này được viết dựa trên những câu chuyện có thật, nhờ vậy nó phản ánh chân thực hình ảnh người phụ nữ Thái Lan dưới nhiều góc độ khác nhau, trong tương quan so sánh với nam giới. Qua đó giúp độc giả có cái nhìn mới mẻ và sâu sắc hơn về phụ nữ Thái Lan thời hiện đại. Dự án đã nhận được sự quan tâm của nhiều cây viết nữ khiến tác phẩm gửi về khá phong phú. Ban giám khảo sau khi bình xét, phân tích cuối cùng cũng chọn ra được tác phẩm hay nhất và xứng đáng với giải nhất Chommanard Book Prize lần thứ hai, thể loại Non-Fiction, đó chính là tác phẩm Tôi là Ê-ri. Tôi là Ê-ri là câu chuyện cuộc đời một cô gái điếm Thái Lan, vì muốn thay đổi cuộc sống khó khăn của gia đình đã quyết định ra nước ngoài bán thân kiếm tiền. Tuy nhiên, quyết định ấy đã đẩy cô vào một cuộc đấu tranh khốc liệt để tồn tại. Sức hút của tác phẩm không chỉ ở tình huống truyện hấp dẫn mà còn trong những góc nhìn mới về đời sống như hôn nhân gia đình, suy đồi đạo đức, phân hóa giàu nghèo… hay sự phản ánh chân thực cuộc sống trong tù, cuộc sống ở xóm đèn đỏ… Bằng cái nhìn của người trong cuộc, tác giả đã đưa độc giả vào những ngóc ngách đen tối của xã hội, để người đọc đau đớn, cũng để người đọc thán phục và cảm động trước những con người dưới đáy xã hội đang vươn lên tìm ánh sáng. Nhà xuất bản Woman Publisher trân trọng gửi đến độc giả tác phẩm này với hy vọng cách nhìn nhận, đánh giá cuộc sống dưới góc nhìn của phụ nữ sẽ được xã hội thừa nhận. và quan trọng hơn, nó sẽ trở thành động lực thúc đẩy xã hôi Thái Lan, thúc đẩy văn hóa đọc trong nước, giúp Thái Lan trở thành xã hội phát triển một cách toàn diện nhất trong mắt bạn bè thế giới. Women Publisher *** Lời giới thiệu của tác giả Tôi là Ê-ri là câu chuyện về cuộc đời tôi trong suốt bốn mươi năm qua với nhiều biến cố đến mức đã có lúc tôi cảm thấy câu chuyện của mình giống như trong tiểu thuyết. Nhưng thực sự, tôi không hề thêm bớt hay hư cấu bất kỳ một chi tiết nào. Đôi khi tôi còn cảm thấy xấu hổ vì đã đem chuyện riêng tư của mình kể cho người khác. Điều này chẳng khác gì tự bêu xấu. Nhưng cuối cùng tôi nhận ra, qua câu chuyện về đời mình tôi muốn nói cho cả thế giới biết rằng: “Trên đời này còn có nhiều điều mà bạn cần phải biết và còn có những điều khiến bạn phải thốt lên: Chuyện này cũng có thể xảy ra được sao? Nó có thật sao?” Tôi không mong ước sẽ giành được giải thưởng cao nhất, chỉ là hiện tại tôi đang thất nghiệp và muốn trở thành người lương thiện như bao người khác, muốn bỏ lại quá khứ đen tối sau lưng. Nhưng tôi cũng không chắc sẽ dừng lại như thế này được bao lâu và sẽ còn phải lên đường nữa hay không? Thanadda Sawangduean Lời người dịch Tôi đã từng đọc nhiều tác phẩm văn học của Thái Lan, nhưng có lẽ Tôi là Ê-ri là một trong những tác phẩm để lại cho tôi nhiều ấn tượng sâu sắc về cuộc sống chân thực của một góc xã hội Thái Lan thông qua những biến cố cuộc đời của một cô gái điếm. Mại dâm không phải là một đề tài mới mẻ trong văn học, đã có nhiều tác giả viết về đề tài này, nhưng Tôi là Ê-ri là tác phẩm đầu tiên do chính người trong cuộc viết. Có nhiều sự thật được tác giả can đảm hé mở mà đôi khi chúng ta thường chỉ nhìn nhận chúng một cách phiến diện chứ không thật hiểu rõ về cảm xúc của người trong cuộc. Chính vì thế, tác phẩm ngoài phản ánh cuộc sống chân thực của những cô gái điếm đằng sau những ánh đèn mờ lấp lánh mà còn thể hiện được tâm tư, tình cảm và cách suy nghĩ của họ. Ê-ri sinh ra và lớn lên trong một gia đình không hạnh phúc, thiếu đi sự quan tâm chăm sóc của bố mẹ. Vì hoàn cảnh khó khăn, vì cám dỗ của cuộc sống và thiếu đi sự định hướng của gia đình đã biến Ê-ri từ một cô bé ngây thơ trở thành một gái bán dâm chuyên nghiệp, khiến cuộc sống của cô phải trải qua muôn vàn những khó khăn, thử thách và đôi khi còn phải đánh đổi bằng máu và nước mắt. Nhưng tận sâu trong trái tim cô vẫn luôn thắp sáng thứ tình cảm trong sáng của một trái tim nhân hậu, tràn đầy yêu thương và luôn khát khao một cuộc sống mới tươi đẹp. Nhắc đến Thái Lan người ta thường nghĩ đến một đất nước nổi tiếng về du lịch và các dịch vụ về tình dục. Mại dâm cũng không phải là nghề mới mẻ đáng ngạc nhiên ở xứ sở này. Bạn có thể dễ dàng bắt gặp những quán bar, những nhà hàng đèn mờ với đầy rẫy những cô gái ăn mặc mát mẻ đứng mời chào dưới những ngọn đèn xanh đỏ. Lối sống hiện đại, phóng khoáng của phương Tây đang dần dần ngấm sâu vào xã hội Thái Lan để thay thế dần những giá trị văn hóa truyền thống. Người Thái cũng đang dần có cái nhìn dễ dãi hơn về tình dục, mại dâm cũng được coi là một trong những nghề kiếm sống giống như nhiều nghề nghiệp khác. Sự hấp dẫn của những ánh đèn mờ, sự dễ dãi trong nhận thức về xã hội của giới trẻ đã khiến nhiều cô gái trẻ sa chân vào vòng xoáy của tội lỗi. Vì thế, không chỉ có riêng mình Ê-ri mà còn có rất nhiều cô gái Thái khác vẫn đang ngày đêm đánh đổi thân xác, tuổi trẻ và cuộc sống của mình để có được những đồng tiền tội lỗi. Tôi hy vọng thông qua câu chuyện này, người đọc sẽ có cái nhìn thông cảm hơn cho những số phận trót lỡ dấn thân vào vũng bùn nhơ nhớp cũng như sẽ là một bài học cảnh tỉnh cho những cô gái trẻ sống buông thả. Chúng ta không thể lựa chọn nơi mình sinh ra nhưng có thể lựa chọn cách mình sống. *** Vì tác giả không phải một cây bút chuyên nghiệp, không được đào tạo bài bản về kỹ năng viết nên giọng văn trong cuốn sách này khá đơn giản, nhiều khi còn ngô nghê, lặp ý, lặp câu chữ khá nhiều, nhưng tôi hy vọng bạn đọc có thể thấy được điều quan trọng hơn tất cả ở đây là sự chân thật và lòng can đảm của tác giả khi đã dám viết rất thật những suy nghĩ, cảm xúc của mình cũng như sự thật về cuộc sống của các cô gái bán dâm. Cuốn sách có hai phần, ở Thái Lan được xuất bản riêng thành hai tập, ở đây được gộp chung lại cho bạn đọc tiện theo dõi. Phần hai nói cụ thể hơn về cuộc sống trong những nhà tù tác giả từng bị bắt giam mà ở phần một chưa được nói rõ, tuy phần này không nằm trong phần truyện chính được trao giải thưởng Chommanard nhưng cũng rất đáng đọc và để lại nhiều suy ngẫm cho chúng ta. Dịch giả: Thanh Xuân *** Lời đề tặng Xin gửi tặng những người bạn có cùng số mệnh. Đặc biệt là những phạm nhân nữ đang phải ngồi tù một cách không công bằng. Mong các bạn đừng vội bỏ cuộc. Nỉnh hy vọng rằng cuốn sách này, không ít thì nhiều, sẽ có thể thay lời giãi bày mà các bạn vẫn hằng ấp ủ. *** Những năm tháng qua, cho dù tôi có bị ngồi tù bao nhiêu nơi, bao nhiêu lâu thì thời gian cũng sẽ xóa dần đi những cảm xúc, cả niềm vui và nỗi buồn. Nhưng chưa bao giờ tôi quên được sự đau đớn hay ngừng hối hận vì đã từng đi phá thai, dù là không thành. Tôi không bao giờ quên những lần vác bụng bầu chạy trốn những người thân vì họ tìm bắt tôi phá thai. Và cũng không thể quên được sự đau đớn tột độ khi sinh đứa bé ra. Cho đến tận hôm nay bên tai tôi vẫn còn văng vẳng tiếng dao khứa vào thịt, mở đường cho đứa bé chui ra. Rồi cả cái ngày mà tôi phải quấn con vào tã để bỏ chạy khỏi chính người bố của nó. Rồi ngày tôi ngồi khóc vì không có tiền mua sữa cho con, sữa tôi có nhưng không được cho con bú vì có vi khuẩn giang mai. Tôi chỉ biết khóc khi nhìn con uống sữa đặc và nước cơm thay sữa, cho đến khi một người công nhân xây dựng tốt bụng mua sữa bột cho con tôi. Nó khiến tôi không thể chịu đựng thêm được nữa, vậy nên tôi quyết định đi bán thân lấy tiền nuôi con. Một người không quen thân còn trích những đồng lương ít ỏi cho con tôi hộp sữa, tôi làm mẹ làm sao có thể cứ đứng nhìn được. Chó mèo còn biết yêu thương con, tôi là con người, tôi lẽ nào không bán thân để lấy tiền nuôi con, nuôi bố, nuôi mẹ. Dẫu sao làm gái điếm cũng còn hơn trộm cắp hoặc buôn bán ma túy. Vì vậy tôi cầu xin các bạn, những người đang đọc câu chuyện này của tôi đừng chửi mắng tôi xấu xa vì không mấy khi tôi nhắc đến con mình, bởi nếu tôi là một người mẹ ích kỷ, độc ác thì tôi đã phá thai bằng được rồi và quan trọng là tôi sẽ không phải đi bán thân để lo cho con. Hoặc tôi cũng đã có thể đồng ý làm vợ người công nhân xây dựng đó để anh ấy trở thành bố mới của con tôi. Nhưng sau này sẽ ra sao? Ai dám chắc anh ấy sẽ yêu thương con tôi. Ai biết anh ấy có thể mang lại cho con tôi một tương lai tốt đẹp đến nhường nào? Tôi không chăm sóc con cho đến khi nó lớn vì tôi đã gửi gắm con cho một người tốt hơn là bà nội của nó. Giờ đây, tôi cũng không đủ dũng cảm để quay lại nói với con: “Con ạ! Mẹ là gái bán dâm. Mẹ đã từng phải ngồi tù rất nhiều lần ở rất nhiều nơi”. Tôi thà để con tôi quên đi một người mẹ như tôi còn hơn. Tôi không muốn làm hại tương lai của thằng bé. Tôi muốn con được ở trong một môi trường tốt, được mở mày mở mặt, không phải xấu hổ vì có một người mẹ như tôi. Tôi nói về con lúc này không phải để lấp liếm hay thanh minh gì cho mình cả, tôi chỉ muốn nói cho mọi người biết rằng tôi chưa bao giờ quên tình nghĩa mẹ con. Có lẽ các bạn sẽ thắc mắc tôi đã làm được gì cho con tôi, hay tại sao tôi lại xuất hiện trong khi con tôi đang sống trong bình yên. Tôi thật lòng muốn nó quên tôi. Bây giờ, ngày nào tôi cũng luôn tụng kinh cầu phúc cho con có một tương lai tốt đẹp. ... Mời các bạn đón đọc Tôi Là Ê-Ri - Thanadda Sawangduean.
Trái Tim Này Của Em
Đã 12 năm kể từ cái ngày chúng ta thấy Molly Somerville trong It had to be you. Giờ đây cô sống trong một điều kiện khắc khổ, và viết truyện Cô thỏ Daphne dành cho thiếu nhi, với một vài cột trong tờ Chik, một tạp chí dành cho teen. Ít người biết rằng cô đã cho đi khoản tiền thừa kế 15 triệu đô từ cha mình, chủ sở hữu đội bóng bầu dục Ngôi sao Chicago. Chẳng hạn, Kevin Tucker, tiền vệ thủ quân ngôi sao của đội Stars, luôn cho rằng cô cũng chỉ là một cô nàng thừa kế đỏng đảnh khác mà thôi. Tệ hơn, anh ta còn chẳng nhớ được tên cô, và tội nghiệp Molly, vốn say mê Kevin trong nhiều năm trời, không thể tin được rằng một người tốt nghiệp loại xuất sắc như cô lại thích một tên dở hơi rỗng ruột như Kevin. Nhưng sự thật thì vẫn là sự thật. Thỉnh thoảng, Molly cảm thấy bồn chồn, và khi đó cô lại có những hành động hoàn toàn không thể lường trước được, với triệu chứng đầu tiên là làm cái gì đó thật kỳ cục với bộ tóc của mình. Lần này, cô quyết định sẽ không làm điều gì ngu ngốc nữa, bằng cách ẩn mình ở nhà nghỉ dưỡng của gia đình cô ở Wisconsin. Nhưng cô không biết là Kevin cũng bị Dan, chồng Phoebe, tống vào đó vaì ngày cho tới khi thấm thía án phạt mười nghìn đô la vì tội cư xử không phải lối. Lần này, hành động không lường trước được của Molly đã gây cho cô nhiều rắc rối hơn tất cả những gì cô có thể tưởng tượng ra. Và từ đó, cuộc đời của cô và Kevin đã rẽ ngoặt sang một hướng khác. *** Bộ sách Chicago Stars gồm có: It Had to Be You (Vì đó là em) [Chicago Stars #1] - Susan Elizabeth Phillips Heaven, Texas [Chicago Stars #2] - Susan Elizabeth Phillips Nobody's baby but mine [Chicago Stars #3] - Susan Elizabeth Phillips Dream a Little Dream [Chicago Stars #4] - Susan Elizabeth Phillips This Heart of Mine Trái Tim Này Của Em [Chicago Stars #5] - Susan Elizabeth Phillips Mai mối cho tôi nếu em có thể [Chicago Stars #6] - Susan Elizabeth Phillips *** Susan Elizabeth Phillips sinh tại Ohio (Hoa Kỳ), tốt nghiệp ngành Nghệ thuật Sân khấu tại Đại học Ohio, rồi dạy kịch nghệ và tiếng Anh tại một trường phổ thông cho đến khi sinh con đầu lòng và trở thành bà nội trợ. Từng cùng bạn thân Claire Lafkowitz hợp tác viết một tiểu thuyết lãng mạn lịch sử, nhưng sau đó Phillips độc lập sáng tác và thu được thành công rực rỡ. Các tiểu thuyết của bà đều nằm trong danh sách bestseller của tờ USA Today và New York Times. Bà là tác giả duy nhất năm lần đoạt giải Sách của năm và chủ nhân giải Thành tựu trọn đời do Hội các nhà văn lãng mạn Mỹ trao. Hiện bà sống tại ngoại ô Chicago với chồng và hai con trai lớn. *** Daphne đang trong tâm trạng không được tốt. Nó theo cô trong khi cô làm món bánh quy yến mạch dâu tây nướng yêu thích của cô, và nó đang bị mắc kẹt bên cạnh cô khi cô đang nói chuyện với chuột Murphy, người đã chuyển vào khu rừng một vài tuần trước. Ngay cả một đống tiền xu mới sáng bóng kêu leng keng trong ba lô màu hồng của cô cũng đã không làm cho cô cảm thấy tốt hơn. Cô muốn chạy đến nhà của Melissa để được chơi đùa, nhưng Melissa đang lên kế hoạch đi du lịch đến Paris với người bạn mới của cô, ễnh ương Leo. Hầu hết tất cả các lí do Daphne ở trong một tâm trạng tồi tệ là bởi vì cô ấy đang nhớ Benny. Cậu ta nhiều lần đã làm cô giận dữ, nhưng cậu vẫn là người bạn thân nhất của cô. Ngoại trừ cô không phải là bạn thân nhất của cậu nữa. Daphne yêu Benny, nhưng Benny không yêu cô. Cô sụt sùi và lau đôi mắt của cô với dây đeo guitar điện của mình. Lớp học mới bắt đầu vào ngày hôm nay, và cậu sẽ có được rất nhiều niềm vui đến nỗi cậu sẽ không nghĩ về cô. Thay vào đó cậu sẽ nghĩ về những cú ăn điểm trực tiếp (touchdown), và tất cả các cô thỏ mặc những cái áo ống muốn được treo lên hàng rào và cố gắng để lôi kéo cậu với các câu nói nước ngoài với môi sưng húp và ngực nẩy lên. Những cô thỏ đó không hiểu cậu bằng cô, những người chỉ ấn tượng với danh tiếng và tiền bạc của cậu cùng với đôi mắt màu xanh lá cây kia, và không biết rằng cậu yêu mèo và không ghét chó xù nhiều như là như cậu thường nghĩ, và rằng cậu thích được ngủ với vòng tay ôm quanh cô – Molly xé tờ giấy từ cuốn sổ vàng của cô. Đây là một lời gợi ý cho Tâm trạng tồi tệ của Daphne, chứ không phải cho Daphne đi Dallas. Cô nhìn ra ngoài đến chỗ con chim sẻ vườn trên bãi cỏ và tự hỏi làm thế nào một số phần trong cuộc sống của cô có thể rất hạnh phúc còn một số khác lại rất buồn. Cái áo cô giăng trên bãi cỏ đã nhăn nhúm lại dưới đôi chân trần của cô. Nó là của Kevin. Khi cô đứng thẳng lên, cô đã cố gắng tập trung vào những phần hạnh phúc của cuộc đời cô. ... Mời các bạn đón đọc Trái Tim Này Của Em của tác giả Susan Elizabeth Phillips.
Nơi Ấy Có Anh - Granty (Born)
Nơi ấy có anh - Với một tuổi thơ bất hạnh, phải sống trong một gia đình mà chỉ toàn nuớc mắt, mãi đến khi tình yêu đầu đời chớm nở, cô mới cảm nhận đuợc vị hạnh phúc, nhưng rồi mọi thứ đâu như người ta vẫn uớc mong... *** Bút danh : Granty ( Mọi người vẫn luôn gọi là Born) Ngày sinh: 29/07 ( cung Sư tử ) Sở thích: đọc truyện tranh, viết tiểu thuyết, … Facebook: https://www.facebook.com/granttylove.tran Được độc giả gán cho cái danh “Ác hơn mẹ Cám” sau khi viết tác phẩm đầu tay của mình là “Sẽ để em yêu anh lần nữa” Đề tài sáng tác chủ yếu là tình yêu giữa nam và nữ, xen vào đó là tình bạn, tình cảm gia đình. Luôn là những đề tài lấy từ cuộc sống bên ngoài khi vô tình bắt gặp, mang giá trị hiện thực nhiều hơn hư ảo, thích tô đậm hoàn cảnh nhân vật một cách khắc nghiệt. Khiến các nhân vật của mình trở nên đáng thương, để có thể bán xô chậu, khăn giấy cho đọc giả hứng nước mắt. Đặc biệt thích đặt mình vào vị trí từng nhân vật và diễn tả cảm xúc của họ một cách chân thật, chứ không giấu diếm. *** Buổi chiều mát mẻ, mặt trời tuy chưa xuống núi nhưng ánh nắng không hề gay gắt, dưới một mảnh vườn nhỏ có hai bóng hình một lớn, một nhỏ đang ngồi .....nhổ cỏ. - Ba, con mỏi chân quá hà, mình nghỉ chút nha ba - Giọng một cậu nhóc nhỏ mếu máo nhìn người đàn ông còn khá trẻ bên cạnh mình. Người ba ngó dáo dát về hướng ngôi nhà có màu xanh êm dịu kia rồi gật đầu nói nhỏ: - Ừ, con lại ghế ngồi một chút đi. Ba trông chừng mẹ cho . Thằng bé vui mừng nhảy cẩng lên vỗ tay: - Hoan hô, được nghỉ rồi. Con cám ơn ba. - Đừng la lớn, mẹ con nghe được, lại phạt cha con mình nữa thì khổ - Người cha đưa tay ra dấu cho đứa con nhỏ giọng, rồi đưa mắt nhìn vào nhà, thấy cánh cửa nhà vẫn khép chặt thì thở phào, vội vàng nhanh tay nhanh chân nhổ đám cỏ đang lấn lướt mấy luống rau xanh của nhà họ. - Ba ơi, con đói bụng - Đứa bé lại lần nữa mếu máo kêu lên. - Uống nước đỡ đi con, lát nữa mẹ hết giận rồi vào ăn cơm - Người ba dỗ dành con trai. - Con uống cả ba ly nước luôn rồi nhưng vẫn thấy đói - Thằng bé xụ mặt buồn xo đáp. - Hay là con cứ giả vờ bị đau bụng đi, ba bế con vào, con cứ khóc ầm lên, mẹ thế nào cũng xót con mà tha thứ cho hai cha con mình - Người cha bất đắc dĩ phải dạy con mình nói dối để được tha thứ. Đứa con ngoan ngoãn gật đầu ( cái thằng này, bình thường không chịu ngoan, xúi dại thì lại ngoan ngoãn làm theo) Người cha lập tức phủi tay bế con trai vào nhà kêu vợ: - Bà xã, em mau xem xem, con mình bị đau bụng rồi nè. Nó cứ ôm bụng suốt. Ngân Hằng khẽ đặt con dao sắc thịt xuống bàn, chậm rãi rửa tay sạch sẽ sau đó sờ trán con trai, rồi hỏi: - Con đau ở đâu? - Đau nhiều nơi lắm - Thằng bé cố giả đau nói: - Chỗ này có đau không? - Ngân Hằng sờ nắn phần bụng của thằng bé hỏi. - Dạ đau lắm. - Chỗ này thì sao.... - Dạ đau.... - Còn chỗ này.... - Cũng đau ạ. - Không được rồi. Mẹ nghĩ con bệnh rất nặng, cần đến bác sĩ lấy cây kim to chích thuốc thôi - Ngân Hằng lắc đầu bảo. Thằng bé nghe xong thì tái mặt, nó nhìn ba nó từ nãy giờ không không dám lên tiếng. Mếu máo kêu nhỏ một tiếng: - Ba, con không muốn đi bệnh viện đâu ba. - Lâm Thiên Phong, con đứng lên cho mẹ - Ngân Hằng bỗng đập mạnh lên bàn quát lớn. Lâm Phong và con trai lập tức đứng lên, cả hai cha con không dám hé răng một lời. - Anh đứng tránh ra, để em nói chuyện với con. Tội dạy con nói dối, em sẽ xử lý sau. - Bà xã, anh biết lỗi rồi, tại anh thấy con trai bị mệt quá nên mới.... - Lâm Phong ảo não nói. - Thiên Phong. Nói cho mẹ biết , mẹ phạt con là đúng hay sai. - Dạ đúng. - Nói xem, con phạm phải tội gì đáng bị phạt hả? - Con đem sâu đến lớp hù các bạn nữ. - Tại sao con làm vậy? Thiên Phong quay đầu nhìn ba mình, Ngân hằng cũng trừng mắt nhìn Lâm Phong. Lâm Phong vội vã thanh minh ngay. - Không phải anh xúi con làm bậy đâu. - Ba bảo không được bán đứng bạn bè - Thiên Phong cúi đầu đáp. Lâm Phong vội vàng đến bên con trai bảo: - Con trai à, đều mà bạn con dạy là điều xấu, con không nên học theo, mau nói ra đi nếu không mẹ con sẽ giận đó. - Là chú Sơn Hải và chú Bảo Duy ạ - Thiên Phong liền đáp. Lâm Phong liền ho sù sụ, thầm than trời, biết thế không xúi Thiên Phong nói ra làm gì. Đúng như Lâm Phong dự đoán, Ngân Hằng lập tức gọi điện thoại cho hai cô bạn thân của mình. Lát sau, Lâm Phong nhận được điện thoại trách mắng của hai người bạn: - Tại sao ông không quản lí vợ mình cho chặt hả, có biết tụi này đều bị vợ phạt rồi hay không hả. - Chấp nhận đi - Lâm Phong cũng gào đáp trả - Mình cũng đang chịu phạt đây nè. Đúng là con dại cái mang mà. - Đúng là mũi dại lái chịu đòn - Bảo Duy cũng than thở. Cúp máy, Lâm Phong cùng Thiên Phong lò mò đến gần vợ, mỗi người một bên. Người lay kẻ lắc tay Ngân hằng gọi khẽ: - Bà xã.... - Mẹ.... ... Mời các bạn đón đọc Nơi Ấy Có Anh của tác giả Granty (Born).