Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hạnh Phúc Không Đắt Như Bạn Nghĩ

Suốt quá trình viết quyển sách này, tác giả kể nhiều chuyện đời mình và chuyện đời của những người mà cô ấy phỏng vấn, đưa ra “những hành động nhỏ” để hiện thực hóa ý tưởng. Ngoài ra, tác giả còn chia sẻ một số bài học gợi cảm hứng mà bản thân đã thẩm thấu được, gồm có: Hạnh phúc bắt nguồn từ việc kết nối với cộng đồng và xây dựng các mối quan hệ bền vững. Tiền có thể mua được hạnh phúc nhưng còn tùy vào cách chi tiêu. Dư dả của cải không khiến bạn hạnh phúc về lâu dài. Học cách “có ít hơn mà vui hơn” là một phương pháp tìm kiếm hạnh phúc, giành lại thời gian và sống theo chuẩn mực của riêng bạn. Bất cứ hình thức thay đổi cuộc sống nào cũng đòi hỏi nỗ lực, lòng kiên nhẫn và thái độ sẵn sàng tiếp nhận quan điểm mới. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu cụ thể những bài học trong quyển sách này. Về cơ bản, quyển sách này là lời mời gọi bạn suy ngẫm về các mối quan hệ với tiền bạc, thời gian và của cải vật chất, đồng thời cân nhắc lại những thứ mang đến hạnh phúc cho bạn. Quyển sách đưa ra một quan điểm khác biệt, một góc nhìn khích lệ bạn xem xét những ý tưởng và những lựa chọn mới mẻ so với lẽ thông thường. Ý tưởng sống giản dị đi kèm với nhiều tên gọi và xu hướng; ví dụ như xu hướng sống đơn giản, xu hướng ngôi nhà nhỏ, sống đơn giản tự nguyện, chủ nghĩa thu nhỏ, và tối giản. Ý tưởng cốt lõi đằng sau đó chính là chủ ý lựa chọn của bạn. Ví dụ như nếu bạn ủng hộ xu hướng ngôi nhà nhỏ, bạn không bị buộc phải sống trong một ngôi nhà nhỏ theo một kích cỡ quy định. Chuyển đến sống trong một ngôi nhà nhỏ có thể là mục tiêu dài hạn của bạn, song bạn vẫn có thể ủng hộ xu hướng trên mà không cần phải làm vậy. Sống giản dị là một triết lý sống, chứ không phải những gì bạn sở hữu. *** LỜI GIỚI THIỆU Ngẫm Lại Những Điều Vốn Dĩ Bình Thường Chúng ta vẫn còn mê muội trước phiên bản con người mà lẽ ra ta nên trở thành. WILLIAM JAMES Bạn đã từng trải qua một bước ngoặt nào đó trong đời chưa? Khi giông bão vừa qua đi, và bạn bắt đầu nghĩ tới một hướng đi hoàn toàn mới? Vào ngày 31 tháng 12 năm 2007, tôi đã trải qua một bước ngoặt - một ý tưởng nảy ra khiến tôi bừng tỉnh, thoát khỏi màn sương mù dày đặc. Tất cả bắt nguồn từ một đoạn video ngắn trên YouTube về Dee Williams. Trong đoạn video, Dee trình bày một ý tưởng sống đơn giản, hay cái mà cô gọi là “sống-đơn-giản-thông-minh”, và lý do cô quyết định xây một chỗ trú ngụ bé nhỏ, ấm cúng lưu động. Xem xong đoạn video, tôi liền ấp ủ ý tưởng đơn giản hóa cuộc sống của mình, và ngay sau đó, tôi tìm đọc nhiều bài viết khác về Dee và ngôi nhà nhỏ bé ấy. Trong một bài báo, cô mô tả chuyến đi đến Guatemala giúp xây dựng trường học. Trở về nhà, cô chợt nhận ra rằng có quá nhiều thứ cô hoàn toàn chẳng cần đến trong cuộc sống. Trong một tập san nhỏ có tên The Little House (Căn Nhà Nhỏ), Dee mô tả chuyến đi của mình qua lời kể, “Tôi gặp những con người thật đáng kinh ngạc. Họ rộng rãi, tốt bụng, và rất, rất nghèo. Trong nhà họ, không có ống nước, không có điện. Họ nấu ăn ngoài sân và sử dụng chung nhà tắm với hàng xóm xung quanh. Nhưng mà họ có vẻ sống hạnh phúc.” Khi Dee trở về Portland, Oregon, cô bán đi “ngôi nhà khang trang rộng rãi”, và thu nhỏ kích thước chỗ ở một cách đáng kể bằng cách xây một ngôi nhà nhỏ xíu lưu động, chưa đầy 26 mét vuông, bằng cỡ những ngôi nhà mà cô đã thấy ở Guatemala, để làm chỗ trú ngụ. Câu chuyện của Dee tác động đến tôi ở một chừng mực nào đó. Cô thuộc dạng người mà tôi muốn trở thành; cô biết ưu tiên cho điều quan trọng nhất trong cuộc sống, như thiết lập các mối quan hệ bền vững, cống hiến cho cộng đồng và làm công việc yêu thích để kiếm sống. Cô không dành tâm sức tích cóp của cải, mà sống thật với những lý tưởng của mình. Trên hết, dường như cô lấy làm hạnh phúc vì điều ấy. Câu chuyện của Dee gợi cảm hứng để tôi đi từ những việc nhỏ bé và bắt đầu nghĩ lớn. Sau khi đọc qua mấy trang blog và nhiều quyển sách viết về cuộc sống giản đơn, hai vợ chồng tôi quyết định thu hẹp không gian sống của mình. Chúng tôi cho đi hầu hết đồ đạc trong nhà. Thú vị ở chỗ là, càng cho đi, chúng tôi càng cảm thấy vui vẻ hơn. Các nhà nghiên cứu về niềm vui gọi đây là “trạng thái phấn khích của người giúp đỡ”, theo đó, việc giúp đỡ người khác bằng cách xung phong tình nguyện hoặc cho đi sẽ làm giảm căng thẳng và giải phóng chất endorphin. (Endorphin còn được gọi là "hormone hạnh phúc" vì nó giúp cải thiện tâm trọng, mang đến cám giác vui vẻ, yêu đời.) Trước bước ngoặt này, tôi từng sống một “cuộc đời bình thường” và chẳng lấy gì làm vui vẻ. Logan và tôi nợ 30 ngàn đô-la, “có đồng nào xào đồng nấy” và cảm thấy mình đang sống mòn. Phải thay đổi điều gì đó, nhất là khi chúng tôi muốn biến ước mơ thành hiện thực. Lúc đang nghiên cứu thông tin để viết quyển sách này, tôi đã tự hỏi ở cái xứ này thì một “cuộc đời bình thường” là như thế nào. Rồi tôi phát hiện ra vài xu hướng bất ổn. Lấy ví dụ, tháng 9 năm 2011, tỷ lệ nghèo đói trong nước tăng 15,1%, mức cao nhất trong vòng 17 năm qua. Theo Cục Thống kê Dân số Mỹ, mức thu nhập hộ gia đình sụt giảm giữa năm 2009 và 2011, và số người không có bảo hiểm y tế gia tăng. Vào tháng 9 năm 2011, Đài Phát thanh Mỹ báo cáo, “Thu nhập của tất cả mọi người đều sụt giảm, thật sửng sốt, giảm còn nhanh hơn so với năm 2008, khi mà tình trạng suy thoái ở đỉnh điểm.” Thêm nữa, bản báo cáo còn chỉ ra bình quân mỗi người Mỹ nợ thẻ tín dụng 8.000 đô-la và có 6,5 thẻ. Giống như nhiều người Mỹ khác, Logan và tôi có nhiều ý định tốt đẹp - muốn trả bớt nợ nần, cải thiện sức khỏe, và đóng góp cho cộng đồng. Chúng tôi chẳng thực hiện được điều nào trong số này mãi cho đến khi thay đổi hẳn lối sống. Sống đơn giản giúp chúng tôi hiện thực hóa ước mơ của mình. Thay đổi lối sống giúp chúng tôi cải thiện đời sống hôn nhân và các mối quan hệ với bạn bè người thân. Chẳng hạn, bằng cách bán đi hai chiếc xe hơi, chúng tôi đã giảm được cân - bây giờ chúng tôi di chuyển bằng xe đạp - và chẳng còn lo lắng đến chuyện phải kiếm đủ tiền để trả phí xe hơi hàng tháng. Thay vì vậy, chúng tôi dùng khoản phí xe hơi đó để trả nợ. Chúng Ta Đang Đi Đâu Trong cuốn The Art of Non-conformity (Nghệ Thuật Lập Dị), Chris Guillebeau viết, “Tôi theo triết lý tự do. Tôi không khẳng định mình có tất cả các câu trả lời.” Tôi đồng ý với Chris. Tôi không phải là chuyên gia hạnh phúc hay là chuyên gia giản đơn, và tôi không biết hết mọi thứ. Như một độc giả đói chữ, tôi học được nhiều từ những câu chuyện. Suốt quá trình viết quyển sách này, tôi kể nhiều chuyện đời tôi và chuyện đời của những người mà tôi phỏng vấn. Tôi đưa ra “những hành động nhỏ” để hiện thực hóa ý tưởng. Ngoài ra, tôi còn chia sẻ một số bài học gợi cảm hứng mà tôi đã tiếp thu được, gồm có: - Hạnh phúc bắt nguồn từ việc kết nối với cộng đồng và xây dựng các mối quan hệ bền vững. - Tiền có thể mua được hạnh phúc nhưng còn tùy vào cách chi tiêu. - Dư dả của cải không khiến bạn hạnh phúc về lâu dài. - Học cách “cổ ít hơn mà vui hơn” là một phương pháp tìm kiếm hạnh phúc, giành lại thời gian và sống theo chuẩn mực của riêng bạn. - Bất cứ hình thức thay đổi cuộc sống nào cũng đòi hỏi nỗ lực, lòng kiên nhẫn và thái độ sẵn sàng tiếp nhận quan điểm mới. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu cụ thể những bài học trong quyển sách này. Về cơ bản, quyển sách này là lời mời gọi bạn suy ngẫm về các mối quan hệ với tiền bạc, thời gian và của cải vật chất, đồng thời cân nhắc lại những thứ mang đến hạnh phúc cho bạn. Quyển sách đưa ra một quan điểm khác biệt, một góc nhìn khích lệ bạn xem xét những ý tưởng và những lựa chọn mới mẻ so với lẽ thông thường. Ý tưởng sống giản dị đi kèm với nhiều tên gọi và xu hướng; ví dụ như xu hướng sống đơn giản, xu hướng ngôi nhà nhỏ, sống đơn giản tự nguyện, chủ nghĩa thu nhỏ, và tối giản. Ý tưởng cốt lõi đằng sau đó chính là chủ ý lựa chọn của bạn. Ví dụ như nếu bạn ủng hộ xu hướng ngôi nhà nhỏ, bạn không bị buộc phải sống trong một ngôi nhà nhỏ theo một kích cỡ quy định. Chuyển đến sống trong một ngôi nhà nhỏ có thể là mục tiêu dài hạn của bạn, song bạn vẫn có thể ủng hộ xu hướng trên mà không cần phải làm vậy. Sống giản dị là một triết lý sống, chứ không phải những gì bạn sở hữu. Cuộc Sống Ngắn Ngủi Dịp Giáng sinh năm 2010, tôi tình cờ bắt gặp vài lá thư cũ của bà dì Mamie. Thường thì tôi không phải kiểu ủy mị về mấy thứ này. Nhưng lần đó tôi rất vui khi nhìn thấy xấp thư giấu trong tủ quần áo hồi bé. Vừa bắt đầu đọc thư, mắt tôi đã đẫm lệ, bởi tôi nhớ bà quá đỗi. Vừa đọc, tôi vừa nhớ lại cái cách bà luôn đi ngược lại những quan niệm xã hội lúc bấy giờ. Bà sống bình dị và chẳng khi nào chi nhiều tiền sắm sửa những món đồ không cần thiết. Thêm nữa, bà không lập gia đình, sinh con, hay có một chiếc xe hơi nào. Bà thích đi du lịch, bắt xe buýt và đi bộ khắp nơi. Kết quả là bà đã thực hiện một chuyến đi dài xuyên đất nước, và bà luôn biên thư cho gia đình bạn bè để kể cặn kẽ về những chuyến phiêu lưu của mình. Đối với một phụ nữ sống trong thời Đại Suy Thoái thì sự chọn lựa này quả là bất thường. Tập tục văn hóa khi ấy định rằng phụ nữ là phải lấy chồng, sinh con, chứ không phải đi thăm thú hết mọi miền đất nước hoặc chuyển từ một tỉnh hẻo lánh nhỏ bé ở Washington để đến sống ở một thành phố lớn thuộc San Francisco. Qua những lá thư, bà dạy tôi về hạnh phúc, tình yêu, và về một cuộc sống tươi đẹp. Trong một lá thư, bà miêu tả những công việc đời thường có vẻ bình dị, như tưới hoa, đi bộ ra cửa hàng tạp hóa, và trò chuyện cùng hàng xóm láng giềng. Gần cuối thư, bà viết đôi ba dòng khiến tôi bất ngờ. Bà bảo, “Hãy nhớ lấy, Tammy, cuộc sống ngắn ngủi lắm. Hãy làm những gì con thích và giúp đỡ người khác nữa. Nếu con cho rằng mình sẽ hạnh phúc khi tuân theo những chuẩn mực thông thường thì cũng dễ hiểu, nhưng bà nghĩ điều đó không đúng. Hãy là chính mình. Bà chỉ nhắc con nhớ một câu: Đừng để lạc những ước mơ.” Tôi nhận được lá thư này hồi còn học phổ thông, và những câu chữ của bà là những gì tôi cần nghe. Lúc đó tôi không hạnh phúc và cảm thấy suy sụp, bởi tôi không có bạn trai và chẳng có gì nổi bật. Tôi tìm đến sự thừa nhận ở bên ngoài để chứng tỏ mình cũng “bình thường như ai”. Việc tìm kiếm kiểu thừa nhận đó không khiến tôi thấy vui hơn, bởi chẳng có ai “bình thường” cả. Thế mà, các thông điệp từ các nhà quảng cáo lại khác hẳn. Khi tôi xem ti-vi hoặc quảng cáo trên Internet, những thông điệp ấy cứ xúi giục tôi cần phải mua một sản phẩm nào đó để được hạnh phúc, mãn nguyện và hòa nhập với cộng đồng. Trực giác cho tôi biết điều này là không đúng, bởi ta không thể nào mua được hạnh phúc ở các khu mua sắm. Tuy nhiên, các mẩu quảng cáo này rất thuyết phục. Norman MacEwan, tác giả đồng thời là học giả, từng nói, “Hạnh phúc không phải sở hữu, mà là sẻ chia. Chúng ta kiếm sống bằng những thứ ta có, nhưng chúng ta sống bằng những thứ ta cho.” Câu nói của MacEwan phản ánh những việc bà dì Mamie của tôi đã cố gắng làm qua những bức thư bà kể lại. Quyển sách này, cũng tựa như những lá thư của bà dì tôi, đưa ra những góc nhìn khác nhau và những câu chuyện. Tôi không muốn các bạn mộng du trong cuộc sống như tôi đã từng. Chúng ta hãy cùng bắt đầu nào! *** Ai cũng nói chúng ta đang đi tìm ý nghĩa cuộc sống. Tôi nghĩ không hẳn là như vậy. Tôi nghĩ cái chúng ta đang tìm kiếm là trải nghiệm của việc sống. JOSEPH CAMPBELL Những cái móc kim loại va leng keng khi tôi lướt qua thanh treo đồ. Tôi đang đi cùng cô bạn Lisa, và chúng tôi lại đi mua sắm trong giờ ăn trưa. Tôi chẳng có nhiều bộ quần áo chỉn chu, còn Lisa luôn ăn mặc có phong cách, thế nên tôi nhờ cô ấy giúp tôi làm mới tủ đồ. Ngoài ra, mua sắm vào giờ ăn trưa là cơ hội hoàn hảo để chúng tôi chuồn khỏi “trường”. Trường là tên gọi mà các trụ sở doanh nghiệp đặt cho văn phòng của chúng tôi. Có bốn tòa nhà khổng lồ, mỗi tòa chứa khoảng bốn trăm con người. Khối phức hợp không hề có nét riêng, khiến tôi liên tưởng đến một bãi sa mạc, bởi những cấu trúc ấy quá đơn điệu và tẻ nhạt. Nhìn bên ngoài, nó giống như một ngôi trường nhộn nhịp với những con người hạnh phúc. Nhưng bên trong thì không. Để thoát khỏi môi trường ấy, Lisa và tôi lái xe đến khu thương mại này mua sắm vào giờ nghỉ trưa hàng tuần. Khu mua sắm cũng chẳng khá khẩm hơn ngôi trường kia là mấy. Được ở chỗ, dọc theo các lối đi trong khu thương mại có trồng dăm bụi cây và mấy khóm hoa rực rỡ sắc màu. Những bông hoa tươi thắm là thế, nhưng dòng người lại có vẻ toát ra nguồn năng lượng tiêu cực. Ai nấy đều cuống cuồng, vội vã. Đặc biệt vào mùa giảm giá, nơi đây nhốn nháo như bầy voi đang tháo chạy tán loạn. Tôi cũng ở trong bầy đàn ấy, bởi tôi chỉ có rất ít thời gian để lựa đồ. Tôi phải trở về khu rừng được ngăn thành từng ô nhỏ trước 1 giờ đúng, không được muộn hơn. Thông thường, tôi sẽ mua một cái áo kiểu dễ thương để mặc chung với bộ com-lê, và sau đó tôi luôn thấy vui hơn - ít ra là tạm thời. Cảm giác hưng phấn mà tôi có được từ những chuyến mua sắm chẳng kéo dài lâu. Tôi rơi vào trạng thái mà Sonja Lyubomirsky trong quyển The How of Happiness (Cách Thức Hạnh Phúc) gọi là “máy chạy bộ vui thú”. Đây không phải là loại máy chạy bộ giúp bạn có vóc dáng cân đối. Nếu cứ chạy mải miết trên đó, bạn sẽ thấy kiệt sức, trĩu gánh nợ nần và đầy nỗi lo âu. Lấy ví dụ, toàn bộ số quần áo mua được ở khu thương mại mang đến cho tôi cảm giác thích thú trong thoáng chốc, nhưng rốt cuộc, nhìn riết rồi quen nên tôi đâm chán, về bản chất thì tôi chẳng thu được lợi ích tốt đẹp gì từ việc đầu tư này. Tôi luôn cho rằng mua sắm đồ đạc sẽ làm cho tôi hạnh phúc dài lâu. Nhưng thật sai lầm. Những nghiên cứu về chủ đề này cho ra những kết quả khác. Trong quyển The High Price of Materialism (Cái Giá Đắt Đỏ của Sự Đề Cao Chủ Nghĩa vật Chất), Giáo sư Tim Kasser của Đại học Knox viết rằng, năm 1957, khoảng 35% người Mỹ tự nhận mình “vô cùng hạnh phúc”. Kể từ lúc ấy đến nay, chúng ta vẫn chưa đạt đến ngưỡng hạnh phúc đó, và đó là điều bất ngờ, nhất là khi chúng ta đang kiếm nhiều tiền hơn bao giờ hết và đồ đạc thì chất đầy nhà. Thậm chí ngay cả những người Mỹ có nhiều của cải vẫn không hạnh phúc như bạn tưởng. Theo Chỉ số Hành tinh Hạnh Phúc (HPI) do Quỹ Kinh tế Mới quản lý, Mỹ xếp thứ 114 trong số 143 quốc gia được khảo sát. Cuộc khảo sát HPI là “một thước đo tiên tiến thể hiện mối tương quan giữa môi trường sống với hạnh phúc của con người trên khắp thế giới. Đó là chỉ số đầu tiên đo đạc mức độ tác động của môi trường sống lên cảm giác hạnh phúc, trên từng quốc gia, nhằm biết được môi trường sống nào giúp người dân sống thọ sống vui.” Những quốc gia như Costa Rica, Malta, và Malaysia, cũng như hầu hết các quốc gia ở châu Âu và tất cả các nước châu Mỹ La-tinh, đều xếp trên Mỹ. Một lý do giải thích hợp lý cho kết quả kém này của Mỹ là quan niệm lầm lạc xem của cải vật chất như là chỉ số hạnh phúc. Một cuộc nghiên cứu mở rộng đã tìm ra mối liên hệ giữa nỗi buồn chán và cảm xúc tiêu cực với những nếp nghĩ thiên về của cải vật chất. Ví dụ, vào năm 1976, các nhà nghiên cứu đã khảo sát 12 ngàn tân sinh viên ở lứa tuổi 18 và sau đó đánh giá mức độ hài lòng của họ đối với cuộc sống một lần nữa vào năm họ 38 tuổi. Những sinh viên nào bày tỏ ham muốn của cải vật chất năm 18 tuổi thì 20 năm sau, họ cảm thấy ít hài lòng với cuộc sống hơn. Tim Kasser lập luận rằng “sự coi trọng giá trị vật chất có liên quan đến tình trạng suy yếu cảm giác hạnh phúc của con người ở khắp mọi nơi, từ không hài lòng với cuộc sống và kém hạnh phúc, đến chán chường và lo âu, đến những vấn đề về thể chất như đau đầu, đến việc rối loạn tính cách, ái kỷ và hành vi chống đối xã hội.” Kasser chỉ ra rằng những kết quả tiêu cực này dẫn đến lối sống tiêu thụ ngày càng nhiều - chẳng hạn như trường hợp của tôi. Thêm nữa, những người đề cao của cải vật chất đặt nhiều kỳ vọng vào tính năng và công dụng của món đồ đối với họ. Tóm lại, đề cao của cải vật chất khiến chúng ta quên đi hai khía cạnh quan trọng tạo ra hạnh phúc trong cuộc sống - các mối quan hệ bền vững và làm công việc mình yêu thích. Tin vui là ngày càng có nhiều người không còn đặt nặng của cải vật chất và lựa chọn cuộc sống giản đơn hơn. Mời các bạn đón đọc Hạnh Phúc Không Đắt Như Bạn Nghĩ của tác giả Tammy Strobel.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sức Mạnh Của Việc Đặt Câu Hỏi Đúng
Bạn là một doanh nhân, giám đốc, trưởng phòng và đang gặp khó khăn trong việc giao tiếp với nhân viên của mình? Các cuộc họp tại công ty luôn diễn ra tình trạng chỉ một mình bạn nói còn cấp dưới im lặng. Bạn luôn tự hỏi: "Tại sao nhân viên của mình thường không đưa ra bất cứ ý kiến gì trong các cuộc họp? Chẳng lẽ họ sính nguyên tắc "Im lặng là vàng" hay năng lực lãnh đạo của mình có vấn đề?. Tuy nhiên vấn đề không phải vậy mà cũng chẳng phải do bạn giao tiếp kém. Bạn có thể đang dùng sai phương pháp, thay vì chỉ mình bạn độc thoại trong cuộc họp, tai sao bạn không đặt những câu hỏi cho cấp dưới để họ suy nghĩ và đưa ra các ý kiến, quan điểm riêng, khiến họ cảm nhận được rằng: "Mình là trung tâm của cuộc họp." Thông qua cuốn sách Sức mạnh của việc đặt câu hỏi đúng, bạn đang cầm trên tay, chúng ta sẽ biết được rằng việc đặt ra các câu hỏi đúng cho nhân viên của mình rất quan trọng. Làm cách nào để đưa ra câu hỏi đúng đắn? Cuốn sách này sẽ là lời giải đáp thỏa đáng cho câu hỏi của bạn. Nó cung cấp cho bạn phương pháp đặt câu hỏi đúng và hiệu quả nhất, nó sẽ thay đổi chính bản thân bạn và đội ngũ nhân viên của mình. Cuốn sách này thực sự là một món quà vô cùng quý giá. Hãy nghiền ngẫm và khám phá thế giới ma thuật: Đặt câu hỏi. *** HỌC hỏi qua VẤN đáp Bạn là một doanh nhân, giám đốc, trưởng phòng và đang gặp khó khăn trong việc giao tiếp với nhân viên của mình? Các cuộc họp tại công ty luôn diễn ra trong tình trạng chỉ một mình bạn nói còn cấp dưới im lặng. Bạn luôn tự hỏi: “Tại sao nhân viên của mình thường không đưa ra bất cứ ý kiến gì trong các cuộc họp? Chẳng lẽ họ sính nguyên tắc ‘Im lặng là vàng’ hay năng lực lãnh đạo của mình có vấn đề?”. Tuy nhiên, vấn đề không phải vậy mà cũng chẳng phải do bạn giao tiếp kém. Bạn có thể đang dùng sai phương pháp, thay vì chỉ mình bạn “độc thoại” trong cuộc họp, tại sao bạn không đặt ra những câu hỏi cho cấp dưới để họ suy nghĩ và đưa ra các ý kiến, quan điểm riêng, khiến họ cảm nhận được rằng: “Mình là trung tâm của cuộc họp”? Thông qua cuốn sách Sức mạnh của việc đặt câu hỏi đúng bạn đang cầm trên tay, chúng ta sẽ biết được rằng việc đặt ra các câu hỏi đúng cho nhân viên của mình rất quan trọng. Tại sao bạn không thử để nhân viên trở thành “trung tâm của cuộc họp/trao đổi” bằng cách đặt ra các câu hỏi để họ trả lời thay vì áp đặt ý kiến cá nhân của bạn và yêu cầu mọi người thực hiện theo. Việc làm này giúp họ có cảm giác như mình là một phần của công việc và có trách nhiệm với công việc đó không kém gì cấp trên. Vậy làm cách nào để đưa ra một câu hỏi đúng đắn? Cuốn sách này sẽ là lời giải đáp thỏa đáng cho câu hỏi của bạn. Nó cung cấp cho bạn phương pháp đặt câu hỏi đúng và hiệu quả nhất kết hợp với việc sử dụng bảng Mandala Ma thuật đặt câu hỏi nhằm hỗ trợ bạn trong quá trình lãnh đạo và ủy quyền. Cuốn sách mang đến cho bạn những phương pháp thay đổi chính bản thân và đội ngũ công-nhân viên. Chỉ khi nhận ra mình muốn gì, bạn mới có thể đưa ra những câu hỏi đúng, từ đó thúc đẩy tinh thần làm việc của nhân viên. Bạn không nên nghĩ rằng chỉ có các nhà lãnh đạo tại các doanh nghiệp hoặc tổ chức mới cần những thông tin bổ ích này. Dù chỉ là một giáo viên, trưởng phòng hay thậm chí chủ tiệm tạp hóa, nếu bạn không biết cách giao tiếp với nhân viên của mình thì công việc kinh doanh của bạn chắc chắn sẽ rơi vào bế tắc. Thân Nhân Trung, một vị Tiến sĩ triều Lê, từng nói “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Một đất nước muốn hùng mạnh phải có những người tài giỏi, một công ty muốn phát triển và duy trì vị thế dẫn đầu trên thị trường phải có nhân tài. Nhưng làm thế nào để tài năng của họ không bị ngủ quên? Bí quyết nằm ở khả năng đặt câu hỏi cho nhân viên, giúp họ bộc lộ năng lực của bản thân. Với lối hành văn dễ hiểu, hướng đến trọng tâm là vấn đề đặt câu hỏi đúng đắn, cuốn sách sẽ hỗ trợ đắc lực cho độc giả, đặc biệt là những người đang bế tắc trong việc giao tiếp với cấp dưới, khao khát tìm ra phương pháp thay đổi bản thân và nhân viên. Cuốn sách này thực sự là một món quà vô cùng quý giá. Hãy nghiền ngẫm và khám phá thế giới ma thuật: Đặt câu hỏi. Trân trọng gửi tới độc giả cuốn sách này! Tháng 11 năm 2014 Công ty Cổ phần Sách Alpha MIHIRO MATSUDA SỨC MẠNH CỦA VIỆC ĐẶT CÂU HỎI ĐÚNG Bản tiếng Việt này được xuất bản theo thỏa thuận với Nikkei Business Publications, Inc. thông qua Tuttle-Mori Agency, Inc. Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Của Việc Đặt Câu Hỏi Đúng của tác giả Mihiro Matsuda.
Mười Điều Tạo Nên Số Phận
Tôi chưa bao giờ có ý định viết cuốn sách này. Nó xuất phát từ bài diễn văn mà tôi chưa bao giờ muốn đọc. Tôi tạo ra cả hai vì mặc cảm tội lỗi, đến giờ mà tôi vẫn còn run vì đã làm thế. Để tôi giải thích cho các bạn hiểu. Cách đây hai năm, trường Holy Cross ở Worcester bang Massachusetts mời tôi phát biểu trong lễ phát bằng. Tôi ghét đọc diễn văn, ghét vì sợ. Dù có đọc bao nhiêu bài diễn văn đi nữa thì việc ấy cũng không dễ dàng hơn. Viết gì đây? Tôi thấy căng thẳng trước mấy tháng trời. Sao lại có người muốn nghe những điều tôi nói nhỉ? Phải nói gì bây giờ? Tôi hình dung ra đủ thứ tai họa có thể xảy ra. Lỡ có một con ma xuất hiện khiến tôi dựng tóc gáy lên , rồi thổi bay bài phát biểu của tôi đi thì sao? Chưa hết: lỡ tôi nói nghe như một con đại ngốc thì sao? Nếu tôi từ chối thì sao nhỉ? ( Tôi biết, tôi biết). Nếu sợ tới mức đó, làm sao tôi có gan đứng trước máy quay truyền hình mà ba hoa trước hàng triệu người? Ấy là vì tôi không thể thấy bất kỳ ai trong số họ). Những suy nghĩ và sợ hãi này ám ảnh tôi hàng mấy tuần trước khi phải phát biểu. Thần kinh tôi căng ra. Tôi hốt hoảng, bồn chồn, cáu kỉnh, sợ hãi. Mọi người đều hỏi, “Nếu ghét đến thế, sao từ đầu còn nhận lời phát biểu làm gì?”. À, trong trường hợp này, cũng như thường lệ, tôi đã từ chối ngay. Khi Holy Cross gọi điện, tôi đã muốn cám ơn họ nhiều và nói “Không” một cách lịch sự. Nhưng có một vấn đề nhỏ. Các bạn biết đấy, một trong số bốn ông anh tôi đã học ở Holy Cross. Vợ anh ấy cũng học ở Holy Cross. Cả cha và mẹ tôi đều nhận học vị danh dự của Holy Cross. Và nếu thấy thế vẫn còn chưa đủ, thì cả chú tôi cũng vậy khi ông còn làm Tổng thống Hoa Kỳ. Vị hiệu trưởng nhà trường nêu tất cả những điểm trên trong lá thư viết cho tôi. Ông liệt kê chúng theo cách mà một linh mục Thiên chúa giáo đầy kinh nghiệm thường dùng để đạt được điều mình muốn, chơi đùa với mặc cảm tội lỗi của tôi cứ như đang thổi một ống sáo kim vậy. Bức thư của ông ta là phương án A. Còn có phương án B nữa- yêu cầu các thành viên trong gia đình phải làm sao cho tôi hiểu, việc đọc bài diễn văn này đối với tôi quan trọng ghê gớm tới mức nào. Anh tôi gọi điện dọa tôi. Ui cha! Rồi mẹ tôi tham gia ý kiến. Tôi ấp úng, ậm ừ. Cũng giống mọi kẻ nhát gan thành thạo khác, tôi tránh né suốt mấy tháng trời. Thế là, Holy Cross thực hiện phương án C. Họ viết cho tôi một bức thư ngắn nói rằng, thực ra, vì không thấy tôi trả lời, họ phải tiếp tục công việc. Ban giám hiệu rất thất vọng, toàn bộ giảng viên rất thất vọng, và dĩ nhiên, các sinh viên chắc phải thất vọng khủng khiếp. Nhưng rõ ràng là tôi không thể hứa, nên họ phải tìm xem có ai khác coi đó là một niềm vinh dự lớn không. Tôi gọi cho mẹ. tôi gọi cho ông anh. Mọi người đều nói, nếu tôi sợ phát biểu đến mức ấy thì thôi, không sao- nhưng ôi trời ơi, họ cũng thất vọng lắm. Thế là hiệu nghiệm. Tất cả các phương án đều hiệu nghiệm. Đúng như các phương án ấy không thể hiện ra ngoài, mặc cảm tội lỗi lớn dần trong tôi, áp lực tăng dần – cho tới khi quyết tâm của tôi vỡ tung. Các vị ĐÚNG, tất cả các vị!. Tôi thật là một người đáng ghét, vô dụng, nhút nhát khi từ chối phát biểu! Và thế là trước khi kịp nhận ra, tôi đã khẩn cầu Holy Cross làm ơn cho tôi được phát biểu trong lễ phát bằng. Ngay khi h ọ đồng ý, tôi phát đau bao tử và quay trở lại tình trạng cực kỳ căng thẳng trước khi phát biểu. Có lẽ tôi vẫn có thể chuồn. tôi có thể đề nghị hãng NBC cử tôi đi chiến trường Nam Tư vào đúng hôm đó. Tôi có thể nói một đứa con của tôi bị ốm. Hoặc: “ Rất lấy làm tiếc. Tôi phải đi phỏng vấn Đức giáo hoàng”. Chắc chắn một trường Thiên chúa giáo sẽ cho tôi phép miễn trừ vì lý do đó. Tiếc thay, không kịch bản nào do tôi hình dung ra có thể xóa đi mặc cảm tội lỗi mà tôi biết mình sẽ cảm thấy, nếu không chịu xuất đầu lộ diện. Thú thật, tôi đã sái cả cổ vì cứ đi tới đi lui suy nghĩ. Rốt cuộc, tôi thôi không kháng cự nữa mà bắt tay vào hành động. Qua nhiều năm dài đối diện với nỗi sợ hãi, tôi đã học được cách duy nhất để đối phó là mở đường đi thẳng qua nó. Tôi bứt đầu suy nghĩ. Tôi có thể nói gì với những đứa trẻ sắp rời ghế nhà trường để bước vào đời này nhỉ? Nhớ khi tốt nghiệp ở tuổi hai mươi mốt – hình như tôi đã có quá nhiều quyền chọn lựa mà lại biết quá ít về những điều thực sự sẽ xảy đến với mình. Tôi bắt đầu tự hỏi không biết đời tôi có khác đi không nếu chỉ cần tôi biết được điều NÀY, hoặc điều KIA khi ra trường. Ngay sau đó, tôi đã có trong tay một danh sách những điều NÀY, điều KIA, và một đề tài cho bài diễn văn. Nào, thử xem! Có lẽ tôi đã có thứ đủ làm cho bọn trẻ này quan tâm để ngưng chuyền bia và champagne mà chú ý lắng nghe. Trong ghi chép của tôi toàn những thứ mà tôi ước giá mình được học trước khi bước vào cuộc đời thực. Tôi viết, viết và viết, thật thú vị. Và tôi đã biết đó là bài diễn văn hay khi tôi đọc nó ở một mỹ viện, nghe xong, mọi người đã khóc và xin bản photo. Tôi hãnh diện vì được phát biểu tại lễ phát bằng ở Holly Cross. Tôi hãnh diện vì họ mời tôi và tôi đã nhận lời, tự hào là mình đã thực sự nghĩ ra một bài diễn văn khiến mọi người xúc động. Trên hết, tôi hãnh diện là mình đã không bỏ cuộc. Thật tình, khi tôi nói xong, người ta đứng cả dậy hoan hô. Đứng dậy vỗ tay là chuyện phổ biến trong lễ phát bằng, dĩ nhiên. Vì người ta thường thấy được giải thoát khi diễn giả kết thúc, họ tự động đứng dậy vỗ tay. Nhưng những gì diễn ra sau đó thực sự làm tôi kinh ngạc. không chỉ các sinh viên đến gặp tôi xin bản photo. Các vị phụ huynh gặp tôi mắt ngấn lệ nói, họ từng ao ước biết bao nhiêu giá được biết những điều tương tự khi ra trường. Sau khi bài diễn văn được phát trên chương trình nhịp cầu C và vài bản tin khác, tôi nhận được tràn ngập các yêu cầu về nó. Mọi nơi tôi qua, nam giới và phụ nữ đều chặn tôi lại giữa đường để nói về nó, trích dẫn một hai dòng gây ấn tượng cho họ. không xạo đâu nhé. ( Tôi thấy sửng sốt. Người ta thường ngăn tôi lại giữa đường hỏi về bắp tay của chồng tôi, hoặc nhái giọng” Tôi sẽ quay lại “ pha giọng Áo). Thế là để đáp ứng tất cả những yêu cầu nhận được về bài diễn văn tôi chưa bao giờ muốn đọc, đây là cuốn sách mà tôi chưa bao giờ định viết. Tất cả các vấn đề đều giống như vậy. Tôi chỉ phát triển thêm ra. Bỏ cái gì vào đó giữa hai tờ bìa không phải chuyện đơn giản. Khi người ta đề nghị trả tiền để phát triển bài diễn văn thành sách – tôi chạy ngay về nhà ói một trận.  Vậy hãy ngồi lại cùng tôi trong một ngày đẹp trời ở Massachusets. Bài diễn văn ở lễ tốt nghiệp bắt đầu thế này: Thưa toàn thể các thầy cô, các bậc cha mẹ, gia đình, bạn bè và các sinh viên tốt nghiệp. Có thể thành thật nói rằng, tôi chưa bao giờ xúc động đến mức này từ sau cái lần học được cách phát âm từ Schwarzenergger. [ Câu này gây ra một trận cười lớn]. Hai tháng trước, Cha Reedy gọi điện cho tôi hỏi:” Maria, con có tin vào tự do ngôn luận không?”. Tôi nói: “ À, có, thưa Cha, con tin”. “Được rồi, tuyệt lắm”, Cha nói, “Vì con sẽ được phát biểu tại Holy Cross vào tháng Năm tới”. Tài tình thật, tôi nghĩ bụng. Tôi gọi điện cho anh tôi và những người bạn lỗi lạc của anh ấy từng tốt nghiệp tại Holy Cross “ Cho tôi biết thông tin về Đức cha này đi”. Họ nói: “ Ối chao, Cha là người cao quý. Cha là người sáng tạo, khôi hài, nhanh trí. Cha là nhà gây quỹ giỏi kỳ lạ”. Rốt cuộc, khi gặp cha hôm nay, tôi không biết nên bắt tay Cha hay hôn nhẫn nữa. Thưa Cha Reedy, con muốn cảm ơn Cha vì đã mời con đến đây. Con vô cùng vinh dự. Trước khi tiếp tục, tôi muốn dành một phút tỏ lòng biết ơn tất cả các bậc cha mẹ có mặt ở đây hôm nay. Tôi biết các vị đang ngập lòng tự hào, và tôi chắc các vị cũng thấy vô cùng nhẹ nhõm, vì sẽ không phải trông thấy những hóa đơn học phí kinh hoàng nữa. với tư cách bản thân cũng là mẹ của những đứa trẻ, ý kiến của tôi về việc các vị đưa con cái đến học ở đây là – yêu thương nhiều, chịu đựng nhiều, hiểu biết nhiều và tốn cực kỳ nhiều công sức. Vì vậy, tôi rất thán phục tất cả các bậc cha mẹ ở đây. Chúc mừng các vị. V ề phần cá nhân, tôi muốn tỏ lòng biết ơn cha mẹ mình vì ông bà đã bay thẳng từ cuộc họp ủy ban Olympic đặc biệt ở Châu Âu đến đây và lúc nửa đêm. Thưa Cha, thưa Mẹ, không có gì làm con tự hào hơn là được đứng đây, trước mặt cha mẹ, nhận học vị danh dự của một trường Thiên chúa giáo và đọc diễn văn khai mạc. Con yêu cha mẹ lắm.  Tôi rất vinh dự được có mặt ở đây hôm nay, nhân dịp lễ kỷ niệm lần thứ hai mươi lăm năm ngày ra một quyết định sáng suốt nhất vê chính sách mà trường Holy Cross từng làm. Ý tôi muốn nói về hành động chói sáng từ một phần tư thế kỷ trước, đã nâng cao phẩm chất và tầm cỡ của nhà trường, đó là chấp nhận cho phụ nữ vào học. [ Câu này tạo ra cả một tràng pháo tay]. Phụ nữ có ảnh hưởng to lớn ở bất cứ chỗ nào họ có mặt. Tin tôi đi, tôi biết mình đang nói gì mà. Tôi là đứa con gái duy nhất trong gia đình có bốn con trai, và tôi biết tôi đã nâng cao và cải thiện chất lượng cuộc sống của họ đến mức nào – kệ họ muốn nói gì thì nói. Tôi cũng từng được cho ăn học ở trường dòng Tên trước kia chỉ dành cho nam giới, Đại học Georgetown. V ấn đề thật sự là, thưa các quý ông, để tôi tra tấn các vị một chút nhé. Hãy nhắm mắt lại và thử hình dung Holy Cross mà thiếu phụ nữ. Kinh khủng lắm, đúng không? Chaaán lắm! Cũng như thế, hãy thử hình dung cuộc sống của các vị thiếu phụ nữ, một thời gian thôi. Cá là các vị không thể! Không có phụ nữ xung quanh, các vị sẽ không biết phải làm gì với chính mình nữa. Và tệ nhất là, các vị thậm chí còn không biết là mình không biết  – vì không có ai đứng đây nói cho các vị biết!. Vì vậy, hãy thừa nhận chúng tôi. Phụ nữ chúng tôi đôi khi có thể than vãn và làm ra vẻ hoàn toàn thiếu tự tin, luôn sợ hãi và lo lắng. Nhưng thực ra, chúng tôi biết rõ mình dọn ra bàn món gì: cả sự Dí dỏm lẫn trí Thông minh, cả Tài năng lẫn sức Sáng tạo và Trực giác siêu phàm. Chưa kể đến Sắc đẹp, sự Tinh nhạy, Thị hiếu – và, hãy tha thứ cho tôi, cha mẹ ơi – Sáng tạo tình dục đến mức đáng kinh sợ. [ Câu này làm tất cả sinh viên đứng dậy vỗ tay.]. Tóm lại, Holy Cross, các vị đã làm một việc tốt khi để cho phụ nữ vào học. Nhưng tôi không đến đây để nói về phụ nữ. Mục đích của tôi hôm nay là mang đến cho mỗi người các bạn một điều gì đó mà các bạn có thể mang theo mình. Một câu hỏi sáng suốt. Một ý kiến có thể giúp các bạn trong cuộc sống sau khi rời Holy Cross. Tôi phải vật lộn mãi mới tìm ra cách thể hiện thông điệp đó. Có vài sinh viên viết thư đề nghị tôi nói về mục đích và nỗi lo lắng của họ về cuộc sống sẽ ra sao ở thế kỷ tới. Cha Reedy đề nghị tôi nói về những mánh lới trên con đường công danh, trong bổn phận làm mẹ và trong hôn nhân. Chỉ mới nghĩ đến một trong những đề tài ấy thôi là tôi đã hoảng rồi. Cha mẹ tôi đề nghị nói về công tác phục vụ cộng đồng. Anh trai tôi, Mark, từng tốt nghiệp Holy Cross, đề nghị nói toàn về anh ấy thôi là đủ. Sau bao nhiêu khổ sở, tôi quyết định chia sẻ với các bạn danh sách mười điều đứng đầu mà tôi ước có người nói cho tôi biết khi ở vị trí của các bạn, ngồi dự lễ tốt nghiệp, tự hỏi khi nào thì bài diễn văn kết thúc quách đi cho rồi. Vậy chúng ta bắt đầu: mười điều mà tôi ước có người nói cho tôi biết trong lễ tốt nghiệp- trước khi tôi bước vào đời. Đó là bài diễn văn. Còn đây là cuốn sách. *** Tôi đã đọc bài diễn văn trên và viết cuốn sách này để các bạn có thể chia sẻ. Không phải để rút ra những bài học mà tôi đã học. Không ai có thể chia sẻ với các bạn việc ấy, vì học là thử nghiệm, và bạn phải tự làm lấy. Giống một người nhiều kinh nghiệm có lần bảo tôi, cũng là cái người mà tôi mới nói ở trên ấy: “Nếu tôi có thể chia sẻ những đau khổ mà cô đang chịu đựng, tôi cũng không làm, vì tôi không muốn cướp đi của cô sức mạnh và hiểu biết mà cô sẽ có được nhờ vượt qua nó.”. Vậy những gì mà tôi mong chia sẻ với các bạn là sự cô đơn và hổ thẹn của tôi. Tôi từng nghĩ mình là người duy nhất bắt đầu tự lập. Tôi từng nghĩ mình là người duy nhất sợ hãi. Tôi từng nghĩ mình là người duy nhất trải qua thất bại. Tôi từng nghĩ mình là người duy nhất không thể trở thành Nữ Siêu Nhân. Giờ thì tôi hy vọng các bạn biết đó là chuyện thường tình. Rất bình thường. Khi bạn nếm mùi thất bại hoặc bị loại ra, hoặc thất vọng, bạn có thể tự nói với mình:” Mình không đâm vào một bức tường. Mình chỉ đụng phải ụ giảm tốc trên đường thôi.”. Bạn có thể vượt qua và đi tiếp. Tôi cũng thế, và đây là thông điệp tôi hy vọng chuyển lại cho các bạn: Nếu tôi có thể, thì các bạn cũng có thể. Những bi kịch của mỗi người là của riêng họ. Nếu sáng suốt mở to tai mắt, bạn sẽ nghe được nhiều chuyện của những người vượt qua được những điều không thể tưởng tượng được, họ đã kiên trì chịu đựng, dù mất đi những người yêu thương, dù bệnh tật, ly hôn, phá sản, nghiện ngập. bất kỳ chuyện gì. “Nếu họ có thể, tôi cũng có thể”. Các bạn biết không, sau khi đọc bài diễn văn, tôi đã nêu ra cả một danh sách những điều khác mà tôi ước được biết: 1- Tôi ước được biết rằng, thời buổi này, đám cưới lớn, đắt tiền là một lãng phí ngớ ngẩn cả thời gian lẫn tiền bạc và cảm giác có lỗi.  2- Tôi ước được biết rằng rất dễ mất liên lạc với bạn học. Trước khi ta kịp nhận ra thì hai mươi năm đã trôi qua mất rồi, và ta để vuột mất bạn bè. Cố đừng để chuyện ấy xảy ra với bạn nhé.  3- Tôi ước được biết rằng, máy tính sẽ trở thành thước đo thế giới. Hẳn tôi đã cố sử dụng thành thạo nó sớm hơn.  4- Tôi ước được biết rằng, tình dục phải là sự sáng tạo, kiên trì và có tính quyết định. Dĩ nhiên là tôi không hề biết tôi sẽ nhiệt tình nói nhiều về nó đến thế.  5- Tôi ước được biết rằng, sự nghiệp tiếp quản đời con người ta nhanh đến thế. Tôi mải mê lao vào đó ngay sau khi tốt nghiệp. Tôi ước mình bỏ ra một năm để đi chơi khắp nơi, một năm không trách nhiệm, không hạn chót, không mục đích. Một khi đã lao vào công việc, ta không thể vô tư như trước được nữa.  6- Tôi ước được biết rằng, sức khỏe quan trọng tới mức nào. Tôi hẳn sẽ chăm lo cho mình sớm hơn. Giờ khi ta biết, vẫn có thể học hành lẫn trưởng thành và thay đổi ở tuổi bốn năm mươi và hơn nữa, thì để cho cơ thể tàn tạ đi vì bị bỏ bê hoặc bạc đãi đúng là một tội ác.  7- Tôi ước được biết sớm hơn về “ hành xử đơn giản” , những người cực kỳ sáng suốt thường đơn giản hóa cuộc sống của họ bằng cách tìm những nơi yên tĩnh, ngồi tính xem đâu là điều thực sự quan trọng, rồi vứt bỏ những thứ không cần thiết. ( Có lẽ tôi chưa thể thực sự làm điều đó, cho tới khi tôi bày bừa bãi khắp cả cuộc sống của mình, nhiều đến nỗi phải lo dọn dẹp lại).  8- Tôi ước được biết sớm hơn cách nói KHÔNG. Điều tôi nhận ra là những người thực sự sáng suốt không tự đè nặng mình bằng mặc cảm tội lỗi. Họ rất thoải mái nói: “ Không, tôi không thể làm thêm việc nào nữa”. Họ sử dụng thời gian của mình rất giỏi. Họ không làm mọi việc, nhưng một khi đã làm, họ sẽ làm tốt. Đó chính là mục tiêu của tôi hiện nay.  9- Tôi ước được biết tình yêu thương của cha mẹ dành cho con cái thay đổi thế nào. Hẳn tôi sẽ là một đứa con khác đối với cha mẹ mình, ân cần hơn, cởi mở hơn, chia sẻ với cha mẹ nhiều hơn. Vì chỉ biết lo cho mình, tôi đã ngoảnh mặt quay lưng với cha mẹ quá nhanh, quá dễ dàng. Giờ thì tôi đã biết rằng, con cái có thể làm cha mẹ hết sức đau lòng. ( Mới đây, con gái tôi nói: Mẹ ơi, mẹ nên hẹn đi chơi với ai đó đi, vì bọn con chơi với mẹ nhiều quá rồi. Chúng con muốn chơi với các bạn nhiều hơn cơ !”. Tôi đau nói tận tâm can.).  10- Tôi công ước được biết rằng, đối với cha mẹ tôi, phải nhìn cảnh con mình lấy chồng và bỏ đi sống cách xa ba ngàn dặm khó khăn tới mức nào. Tôi đã sẵn sàng chuẩn bị cho mình lòng khoan dung, rộng lượng và tình yêu thương khi một trong bốn đứa con tôi làm điều gì giống như thế.  11- Tôi c được biết về cha mẹ thời trẻ. Tôi gặp hai người lúc họ đã đi được nửa đường đời. Tôi ước được thử là cha mẹ trước khi bị đám con cái chúng tôi đè nặng trách nhiệm lên vai.  12- Tôi c được biết rằng, bốn anh trai tôi rồi sẽ không còn làm bạn tốt nhất của tôi được nữa. Tôi sẽ ít châm chọc họ hơn khi chúng tôi còn nhỏ, ít xô họ ra khỏi phòng tôi hơn, ít đuổi họ đi và ít coi thường họ hơn. Bây giờ họ là một phần chủ yếu của đời tôi, luôn có mặt ở đó. Tôi không coi tình yêu thương của họ là điều hiển nhiên. Chúng tôi đã tạo ra những mối quan hệ riêng ngoài cha mẹ, chuyện ấy trở nên cốt yếu hơn khi chúng tôi về già. Quả thật, chúng tôi coi chuyện mỗi năm gặp nhau đôi lần là cần thiết, chỉ có năm chúng tôi trong một căn phòng, tìm hiểu vị trí hiện tại của mỗi người và cách mỗi người đang sống, cởi bỏ mọi oán giận, hiểu lầm, chỉ cần có mặt ở đó cho nhau. Quan hệ gia đình nuôi dưỡng tuổi trưởng thành của tôi, là cột trụ của đời tôi, là khung xương để những phần còn lại bám vào.  13- Tôi c được biết sớm hơn về sự quan trọng của việc nói ra những lời yêu thương. Bạn hẳn phải ngạc nhiên khi biết, có bao nhiêu người thực sự không biết rằng họ được yêu thương. Tôi đã học cách nói ra điều ấy, với con cái, với chồng, với cha mẹ, với các anh trai, bất cứ khi nào tôi thấy tình cảm ấy trong tim mình. Tôi còn nói với bạn bè rằng tôi yêu quý họ, rằng họ quan trọng đối với tôi, và tôi rất dễ chịu khi đánh bạn với họ. Các bạn biết không, tôi biết được một sự thật kinh khủng khi đi dự nhiều đám tang: Sau khi qua đời, con người ta được quá nhiều lời tán dương, ca tụng. Đáng lẽ chúng ta phải nói với họ sớm hơn. Tôi là một tín đồ cuồng nhiệt chuyên chúc mừng mọi người trong các dịp lễ sinh nhật, lễ kỷ niệm, họp gia đình, chúc mừng đức tính tốt, tình bạn, sự thông thái, sự khác thường của họ. Còn gì tốt hơn là được nghe thành tiếng một cách chân thật, trước mặt mọi người, rằng ta được yêu thương, được kính trọng, được cần đến, được hiểu rõ giá trị, và được quý mến.  14- Tôi c được biết rằng, Chúa sẽ ban cho tôi mọi sức mạnh và lòng tin mà tôi cần để vượt qua những giai đoạn khắc nghiệt, chồng bị mổ tim, bà con thân thuộc chết, con cái đau ốm, thì có lẽ tôi sẽ không phải hoảng sợ đến thế.  15- Tôi được biết, tôi thay đổi thường xuyên thế nào. Đang tập trung mọi năng lực và tinh thần để trở thành nữ phóng viên giỏi hết mức có thể, thì bùm! Đến tuổi bốn mươi ba, những mối quan tâm của tôi thay đổi đột ngột. Một hôm thức dậy, tôi ngồi vào viết một cuốn sách thiếu nhi. Bỗng nhiên tôi thành tác giả, một con người mới đối với tôi, và tôi lại bắt đầu từ đầu. Nó làm cho tôi hăng hái, sôi nổi, nhiệt tình trở lại. Còn bây giờ, tôi ngồi đây, viết thêm một cuốn khác. Tôi thực sự ước được biết rằng, không chỉ có một câu trả lời cho câu hỏi : “Lớn lên con muốn làm gì?”. Bởi vì hóa ra, tôi đã lớn lên thành một phụ nữ đam mê sự nghiệp ở tuổi hai mươi, thành vợ và mẹ ở tuổi ba mươi, và cộng thêm thành tác giả ở tuổi bốn mươi nữa chứ. Tôi rất vui là đã chạm được đến cái phần trong con người có thể học hỏi được, có thể đổi mới được, mạnh khỏe và trưởng thành. Chúng ta có thể thay đổi mình, tìm ra cả một thế giới bên ngoài, hoặc cả một thế giới mới bên trong chúng ta. Hết lần này đến lần khác.  16- Tôi c được biết cách thuận hòa với chính mình sớm hơn. Tôi chưa bao giờ thực sự tự hào về mình cho đến một ngày tháng Tư năm 1999, khi tôi được biết cùng lúc cả hai tin: được trao tặng giải Peabody dành cho phóng viên truyền hình và cuốn sách viết cho thiếu nhi của tôi được đưa vào danh sách bán chạy nhất của tờ New York Times. Tôi ngồi trong phòng khách sạn và khóc. Sau bốn mươi ba năm tồn tại trên hành tinh này, tôi mới cảm thấy mình đã đạt được điều gì đó. Tôi được công nhận không phải vì gia đình tôi, vì chồng tôi, hay vì nhan sắc, mà vì bản thân và sự nỗ lực làm việc của tôi. Nó cho tôi biết, tôi có quyền tự hào về chính mình. Rốt cuộc là thế. Thế đấy. Tôi bắt đầu phát bệnh lên vì cứ nói về mình mãi rồi. Hãy nắm lấy những điều tôi đã học được và sử dụng nó. Sau một thập kỷ nữa tôi sẽ quay lại đưa cho các bạn phần cập nhật. Chúc các bạn may mắn!.   Mời các bạn đón đọc Mười Điều Tạo Nên Số Phận của tác giả Maria Shriver.
Tôi Thích Bản Thân Nỗ Lực Hơn
“Một là không có bối cảnh, hai là không có tiền, ba là không có mối quan hệ, chỉ có thể trông cậy vào chính mình”. Nếu bạn đã từng có ý nghĩ như vậy, thì một cuốn sách như “Tôi thích bản thân nỗ lực hơn” chính là tiếng lòng dành cho bạn. Bạn có từng bị ngăn cấm, bị coi là gàn dở khi từ bỏ một công việc “ ổn định, nhàn hạ” để theo đuổi thứ gọi là “đam mê” mà bạn chấp nhận đánh đổi bằng bất cứ giá nào? Thất bại ư? Nhưng nếu bạn thực sự thành công như tác giả của cuốn sách này Liệu mẹ bạn sẽ nói “Trước đây mẹ cũng thấy con ngốc, không ngờ người ngốc cũng có phúc của người ngốc, số mạng cũng không tệ…” “Mẹ à, chớ tin vào số mạng, phải tin vào chính mình! Tôi vẫn luôn tin rằng con người mới là Đấng Cứu Thế của mình. Khi gặp khó khăn hay bế tắc, cầu xin thế lực bên ngoài giúp đỡ, dù là số mạng hay thần linh cũng thế, cũng chỉ vô ích và nực cười mà thôi. Người có thể tạo ra sự thay đổi không phải ai khác mà là chính bạn. Bạn chỉ cần cúi xuống nói với sự yếu đuối của chính mình: “Đứng dậy đi!” Khi bạn đứng dậy rồi sẽ thấy được đường đi.” Trong xã hội này, chúng ta dễ dàng nghe được những câu nói về sự buông thả, lười biếng, vô kỷ luật được tô vẽ thật đẹp để an ủi chính mình. Chúng ta sẽ nói, buông thả bản thân chính là đối xử tốt với chính mình. Chúng ta sẽ nói, làm gì cũng phải cẩn thận từng li từng tí thật sự quá bức bối, quá thất bại… Thật ra không hề.  Đừng tin vào những thứ hễ đưa tay ra là có được, nhanh chóng, xuất phát từ bản năng, tùy hứng, không rõ ràng. Hãy tin vào sự từ tốn, bình thản, sức mạnh tích tiểu thành đại, thiết thực, bình tĩnh. Đầu thai, chúng ta không có sự lựa chọn. Đây là số phận không thể khống chế. Nhưng có một cuộc sống như thế nào, chúng ta có thể tạo ra. Đây là vận mệnh có thể khống chế. Cha mẹ không thể cho bạn tất cả, nhưng bạn có thể cho mình mọi thứ mình muốn. Giống như một cơn gió, ảnh hưởng đến một cơn gió khác; Một đợt sóng, ảnh hưởng đến một đợt sóng khác; Một người chán ghét chính mình, tất nhiên sẽ chứa đầy bất mãn với thế giới nhưng nếu bạn chọn sống một cuộc đời “thú vị” thì hãy nỗ lực hơn bạn của ngày hôm qua! Cuốn sách là lời nhắn gửi của một tác giả Chu Xung đến các bạn trẻ đang loay hoay trên đường đời rằng: Đằng nào cũng “mất công sống một lần”, hãy sống sao cho xứng đáng với tuổi trẻ của chính mình! *** Phụ nữ càng tự biết kiểm soát, mức sống sẽ càng cao. ------ Dương Lệ Bình từng được phỏng vấn trong phòng tập của cô, có một người hỏi cô rằng: 'Chị gầy như thế, mỗi ngày phải ăn bao nhiêu?' Cô mở hộp cơm của mình ra: một lát nhỏ thịt bò, nửa trái táo, một quả trứng gà. Đây chính là bữa trưa của cô ấy. Hơn nữa, đây còn là bữa ăn dùng trong giai đoạn tập múa liên tục ở cường độ cao. Khi nhìn thấy bữa ăn của cô ấy, tôi tin rằng ai cũng sẽ cảm thấy mình không khác gì một con trâu. Một ngày từ sáng đến tối, chỉ cần ngồi yên một chỗ thôi chúng ta cũng đã nuốt vào hàng đống thực phẩm dầu mỡ giàu calo, không thể kiểm soát, hệt như một kẻ háu ăn, dẫn đến béo phì, mệt mỏi, rồi cứ trượt dốc không phanh, ngày càng xa rời trạng thái nhanh nhẹn nhẹ nhàng. Phóng viên hỏi tiếp: 'Cô có đói không?' Cô đáp: 'Thế này đã đủ năng lượng rồi. Anh thấy đấy, chẳng phải tôi vẫn nhảy múa đàng hoàng, chưa từng gục ngã trên sân khấu đó sao.' Xem đến đây, có một từ đột nhiên nảy lên trong đầu tôi: tự kiểm soát. Nhờ vào cách phân tích của lí trí, cô ấy đã đem ý thức tự kiểm soát của mình hoà trong mạch máu, trở thành một chiếc điều khiển từ xa, như một loại trình tự tâm lý, hễ đến giờ ăn sẽ tự động làm theo. Bất kì ai có thể tự kiểm soát như thế sẽ không có mức sống quá thấp. Thế nên Dương Lệ Bình tuy đã 58 tuổi nhưng vẫn xinh đẹp và có khí chất như một tâm hồn tươi trẻ thoát tục, có không ít người nếu đem ra so sánh với cô ấy thì đã phủ lên mình một lớp tục khí khá dày. Hơn 40 năm trước, giáo sư tâm lí học Walter Mischel đã làm một thí nghiệm kẹo bông rất nổi tiếng. Ông tìm hàng trăm đứa trẻ 4 tuổi, để chúng đợi ông trong một căn phòng có một viên kẹo bông hoặc bánh quy trên bàn. Ông nói với chúng: ông sẽ ra ngoài một lúc, bánh kẹo trên bàn có thể ăn, nhưng nếu đợi được đến khi ông quay lại mới ăn thì sẽ thưởng gấp đôi. Sau khi giáo sư ra ngoài, một vài đứa bé đợi chưa đến một phút đã ăn mất bánh kẹo, một số khác lại có thể đợi được hai mươi phút và nhận phần thưởng gấp đôi. Điểm thú vị của thí nghiệm này chính là ở biểu hiện của đứa trẻ sau khi chúng trưởng thành. Năm 1981, 653 bé từng tham gia thí nghiệm kẹo bông đều đã lên cấp ba, Walter Mischel đưa phiếu khảo sát cho cha mẹ và thầy cô của chúng. Kết quả cho thấy, dù ở trường học hay ở nhà, thì những bé không chờ đợi được phần lớn đều có nhiều vấn đề về hành vi. Thành tích thi SAT (kiểm tra đánh giá năng lực) của chúng khá kém, không giỏi ứng phó môi trường áp lực, thiếu tập trung, khó kết giao bạn bè. So với những bé chỉ đợi được ba mươi giây thì những bé đợi được hai mươi phút có điểm số thi SAT bình quân đạt hơn 210 điểm. Thí nghiệm vẫn đang tiếp tục tiến hành. Sau khi đám trẻ trưởng thành, chúng bắt đầu xuất hiện những biểu hiện khác nhau rõ rệt. Những đứa trẻ không giỏi chờ đợi sẽ sa vào con đường nghiện ngập. Còn những đứa trẻ chờ đợi được thường có thành tựu lớn, gia đình êm ấm hơn. Qua tuổi 30 tôi mới dần hiểu được tính quan trọng của việc tự kiểm soát bản thân. Tôi cũng từng nghĩ con người nên giữ một cách nhìn thoải mái về cuộc sống, muốn ăn thì ăn, muốn uống thì uống, dẫu sao đời người ngắn ngủi, vui vẻ tùy thích mới không uổng phí. Nhưng khi lớn dần, tôi mới nhận ra suy nghĩ này không đúng. Trong cuốn 'Sức mạnh của ý chí: Tâm lý học về sự tập trung, tự kiểm soát và hiệu suất' có một đoạn viết thế này: 'Cốt lõi của những vấn đề cá nhân và xã hội nằm ở chỗ thiếu khả năng tự kiểm soát: không tự làm chủ được mà tiêu tiền vay tiền, đánh người trong lúc kích động, thành tích học tập kém, làm việc chậm chạp rề rà, rượu chè nghiện ngập, ăn uống không lành mạnh, ít vận động, thường xuyên lo âu, tính tình nóng nảy...' Thiếu khả năng tự kiểm soát sẽ dẫn đến hàng loạt bi kịch trong cuộc sống: cơ thể biến dạng, đau khổ bệnh tật, đánh mất bạn bè, bị sa thải, ly hôn, vướng vào lao tù... Chẳng hạn, một người luôn ăn uống thả ga thì hiện tại có thể rất mập; một cô gái từ sáng đến tối chỉ muốn chơi bời, bữa nhậu nhẹt tụ tập nào cũng góp mặt, quán bar hay karaoke nào cũng từng đến, cứ nghĩ bản thân phóng khoáng quyến rũ lắm, nhưng không hay biết mỗi khi người khác nhắc đến cô ấy đa số đều tỏ ý khinh thường, chẳng mấy ai xem trọng; một người cuồng mua sắm, hễ thấy giảm giá là mua sắm điên cuồng, có thể đến bây giờ vẫn lôi thôi lếch thếch, không biếng, vô kỷ luật được tô vẽ thật đẹp để an ủi mình. Chúng ta sẽ nói, buông thả bản thân cũng là cách đối xử tốt với chính mình. Chúng ta sẽ nói, làm gì cũng phải cẩn thận từng li từng tí thật sự quá bức bối, quá thất bại... Thật ra không phải như vậy. Cho dù là trong học tập, công việc, hay trong cuộc sống cá nhân, tự kiểm soát chính là nhân tố quan trọng nhất dẫn đến thành công. Có một nghiên cứu tâm lý học điều tra những nhân tố ảnh hưởng đến thành tích học tập của các sinh viên đại học. Đầu tiên, người làm thí nghiệm liệt kê hết những phẩm chất có thể dùng được ra, có hơn 30 phẩm chất được liệt kê như tích cực, cởi mở, vui tính, nghiêm túc, cẩn thận, hoạt ngôn, hướng nội, thích đọc sách... Sau đó, họ tìm hàng trăm sinh viên để tiến hành thử nghiệm. Cuối cùng, họ phát hiện ra những phẩm chất này không hề ảnh hưởng trực tiếp gì đến thành tích học tập. Điểm duy nhất có thể ảnh hưởng đến thành tích là khả năng tự kiểm soát. Thậm chí sức ảnh hưởng của nó còn cao hơn cả chỉ số IQ. Có thể kiểm soát chính mình, khi nên học bài thì học bài, khi cần nghe giảng thì nghe giảng, khi phải làm bài tập thì làm bài tập, cứ thế người đó rất có khả năng sẽ đạt được thành tích hơn người. Trong đời sống cũng thế. Người có khả năng tự kiểm soát mạnh thường ít mắc bệnh tâm lý, hiệu suất làm việc cao, phần lớn có lòng đồng cảm, được người khác tin tưởng và dễ thành công hơn. Vì thế, ở phần đầu cuốn 'Sức mạnh của ý chí: Tâm lý học về sự tập trung, tự kiểm soát và hiệu suất', Roy Baumeister đã viết thế này: 'Dù bạn định nghĩa thành công thế nào đi nữa: gia đình êm ấm, có được tri kỷ, cuộc sống giàu sang, đảm bảo kinh tế, làm việc mình thích, tâm hồn khỏe mạnh, nội tâm phong phú... Tất cả đều cần chuẩn bị sẵn vài phẩm chất cho mình.' Khi các nhà tâm lý học đi tìm các phẩm chất ấy, họ đều phát hiện: Khả năng tự kiểm soát mới là phẩm chất quan trọng nhất trong số chúng. Tất nhiên, lực chọn cách sống thế nào là việc của mỗi cá nhân. Bất cứ một ai có ý chí, có thú vui, có phẩm chất đều muốn hướng đến điều tốt hơn, cố gắng thoát khỏi sự kém cỏi của chính mình để có được cuộc sống chân thiện mỹ. Chỉ có như thế chúng ta mới có thể cảm thán: Được sinh ra làm người thật tốt biết bao! Vậy, phải như thế nào mới có thể làm được điều đó! Kant từng nói, khả năng tự kiểm soát khiến chúng ta khác với mọi người. Tự kiểm soát giúp chúng ta có mức sống cao hơn, cũng giúp chúng ta có một cuộc sống tự do hơn. Ông đã suy luận thế này: Giả sử chúng ta giống các loài động vật, đi theo ham muốn của bản thân, né tránh khổ đau, khi đó chúng ta hoàn toàn không phải đang hành động một cách tự do thật sự. Vì sao không phải? Vì chúng ta đã trở thành một tên nô lệ cho ham muốn và sự kích động. Không phải chúng ta đang lựa chọn, mà chúng ta đang phụ tùng. Nhưng, sở dĩ con người là người, vì con người không phải do ham muốn mà là do chính mình làm chủ. Chỉ khi chính mình làm chủ mới thật sự có được tự do. Mấy hôm trước tôi đọc được một bài đăng rất hay của một người bạn. Bài viết như sau: 'Tôi không có lòng tin đối với những thứ hễ đưa tay ra là có được, những thứ cấp tốc, tùy hứng, không rõ ràng, xuất phát từ bản năng. Tôi tin vào sự từ tốn, bình thản, thiết thực, bình tĩnh, vào sức mạnh tích tiểu thành đại. Tôi không tin rằng thiếu tinh thần tự giác, không tự mình bồi đắp, không nỗ lực lại có thể giải phóng được một cá nhân hay tập thể nào. Khi bạn rút gươm chĩa về tứ phía đầy vẻ hoang mang, bạn sẽ bị vây hãm trong hoang mang của cuộc sống trong lồng giam của hiện thực, không biết đi đâu về đâu. Xin hãy ghi nhớ, con đường duy nhất để tìm đến tự do chính là: Dùng cách tự kiểm soát để tránh khỏi rắc rối, để thoát khỏi xiềng xích, tập trung tinh thần, dốc toàn lực để tiến về nơi mà bạn muốn đến. Dù có thể dùng cách này thì đến hết cuộc đời bạn cũng không thể đến được Utopia trong mơ ước, nhưng dọc đường đi chắc chắn bạn sẽ có rất nhiều niềm vui, rất nhiều hạnh phúc, gặp được chốn đào nguyên của mình, đến được vùng đất lí tưởng của lí chí. Ở trong thế giới đại đồng ấy, bạn sẽ lại yêu thương chính mình, sẽ nắm tay hòa thuận với người khác, đồng thời nói với thế giới rằng: 'Tôi được sống, tôi được yêu thương, tôi không hối tiếc!' Mời các bạn đón đọc Tôi Thích Bản Thân Nỗ Lực Hơn của tác giả Chu Xung.