Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đức Mẹ Mặc Áo Choàng Lông

Xuyên suốt cuốn sách là một bản tình ca nhẹ nhàng, sâu lắng mà cũng không kém phần cảm động. Chuyện kể về tình yêu giữa Raip Efendi một người Thổ Nhĩ Kỳ có niềm đam mê với hội họa và Maria Puder - 1 họa sĩ người Do Thái với đôi mắt đen và làn da trắng muốt như tuyết, người mà Raip vẫn gọi là "Đức mẹ". Hai người họ gặp nhau ở Berlin và cũng tình cờ yêu nhau một cách say đắm cuồng nhiệt. Tuy ban đầu Maria có vẻ khá khắt khe, vạch ra ranh giới rõ ràng với Raip nhưng cô biết rằng bản thân đã yêu anh ngay từ cái nhìn đầu tiên. Cô luôn dằng xé cảm xúc bản thân vì cô đã mất niềm tin ở đàn ông từ lâu, chính Raip đã đem lại cho cô một hi vọng sống mới. Còn đối với Raip thì Maria thực sự là 1 "Đức mẹ" với đôi mắt đen rất khác biệt với các cô gái anh từng gặp, anh yêu cô bằng cả trái tim chân thành. Tuy nhiên cuộc đời rất không công bằng khi cướp đi mạng sống của Maria, khiến Raip phải chờ đợi suốt 10 năm trong vô vọng vì tưởng rằng cô đã phản bội anh để theo người đàn ông khác. Anh cưới vợ và sống một cuộc sống như người mất đi mọi tri giác, mọi cảm xúc của anh đã chết đi khi anh biết tin Maria vì sinh đứa con gái cho anh mà mất đi, để lại trong anh nỗi tuyệt vọng và dày vò suốt cuộc đời. Đến cuối đời anh vẫn sống trong sự cô đơn, bị sỉ nhục bởi chính người thân trong gia đình, anh chỉ tìm thấy sự bình yên khi ở bên Maria mà thôi. Một câu chuyện tình cảm động rất đáng để đọc. *** SABAHATTIN ALI sinh ngày 12 tháng 2 năm 1906 tại thành phố Egiơnidere, nay là thành phố Ardinê thuộc nước Cộng hòa Nhân dân Bungari. Vào đầu thế kỷ này thành phố vẫn thuộc Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng sau cuộc chiến tranh Bancăng ( 1912 - 1913 ), Bungari đã thu hồi mảnh đất ấy về mình. Năm 1927, sau khi tốt nghiệp trường trung học, Ali trở thành người thầy giáo nông thôn. Cuộc sống ở miền Iodơgađa ( Vùng trung tâm Anatôli ) đã làm cho ông kinh tởm. Những biến động lớn lao của xã hội hầu như không vang động được đến đây. Xung quanh vẫn là sự bóc lột tàn tệ, sự bất công, áp bức được khoác bộ mặt mới ngày càng tinh vi hơn, thâm độc hơn. Sự xung đột sâu sắc với cuộc sống xung quanh đã dẫn Ali đến ý nghĩ tự sát. Khó có thể nói được số phận của anh sẽ ra sao nếu như không có niềm an ủi duy nhất là văn học.  Vào cuối những năm 20 của thế kỷ, vì thiếu những giáo viên có kinh nghiệm, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đã gởi một số giáo viên trẻ ra nước ngoài để học tập thêm. Lợi dụng cơ hội này như là một khả năng để thoát ra khỏi bầu không khí ngột ngạt tù túng ở nông thôn và để tìm hiểu thêm về thế giới, Sabahattin Ali đã cố gắng thi đậu kỳ thi tuyển sinh. Năm 1928 anh được gởi sang Đức học tập, đầu tiên ở Pốtxđam, sau đó ở Berlin.  Cũng như nhiều thanh niên tiến bộ khác lúc bấy giờ, Ali mơ ước xóa bỏ sự áp bức của chủ nghĩa đế quốc đối với nhân dân lao động. Anh đã cảm thấy điều ấy rất thấm thía ngay tại quê hương mình. Từ một đất nước lạc hậu, hoang tàn sau chiến tranh, Ali sang Đức là nhằm mục đích nắm vững kiến thức khoa học, văn hóa để phục vụ cho tổ quốc. Nhưng trong thời gian đó chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở Đức đang phát triển mạnh mẽ và ngày càng tiến dần đến việc nắm lấy chính quyền. Sự căm thù các giá trị tinh thần, văn hóa và nghệ thuật của bọn phân biệt chủng tộc và sô-vanh đã làm cho một số sinh viên Thổ Nhĩ Kỳ đang học tập tại đó trở thành những người chống chủ nghĩa phát xít tích cực.  Một lần trong cuộc tranh luận, một người Đức theo chủ nghĩa xã hội - dân tộc đã xúc phạm đến lòng tự trọng của những sinh viên Thổ Nhĩ Kỳ, Sabahattin Ali đã tát cho y một cái. Lợi dụng sự kiện này những người lãnh đạo hội kiều dân Thổ đã đưa Ali về nước. Đã từ lâu, người thực tập sinh bướng bỉnh cùng với những lời nhận xét cay độc, độc địa đối với bọn sinh viên Đức và Thổ Nhĩ Kỳ theo chủ nghĩa sô-vanh đã làm cho giới lãnh đạo để ý, khó chịu.  Bất chấp những kinh nghiệm cay đắng, Ali không hề có ý định dấu diếm những quan điểm chính trị của mình. Nhà văn, thường đọc thơ cho học sinh và đồng nghiệp nghe. Một trong những độc giả của anh lại là tên chỉ điểm của mật thám trá hình, qua sự tố giác của y, Sabahattin Ali bị bắt vào mùa hè năm 1938. Tòa án hình sự thành phố Kônhi đã xử anh 14 tháng tù giam vì tội "đã thóa mạ những nhân vật cao cấp của chính quyền ". Ali bị giam ở pháo đài Xinôp trên bờ biển Đen.  Tình bạn với những người cộng sản trong nhà tù Xinôp đã giúp Ali hiểu về chủ nghĩa Mác một cách sâu sắc, khơi dậy trong lòng anh sự khát khao hiểu biết một cách khoa học những quy luật xã hội.  Vào đầu cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai, trong đất nước Thổ Nhĩ Kỳ những thế lực đen tối bắt đầu ra sức hoành hành. Những tên phát xít người Thổ đã tổ chức những cuộc biểu tình và những vụ tàn sát đẫm máu. Các câu lạc bộ mà thực chất là các tổ chức phát xít được Berlin đài thọ đã ra sức truy lùng, theo dõi những trí thức yêu nước, tiến bộ để sau đó tìm cách thủ tiêu, giết hại. Vào năm 1939, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ còn tìm cách che đậy lập trường và thiện cảm của mình đối với chủ nghĩa phát xít, song hai năm sau, khi mà những chiến thắng tạm thời của Hitle ở mặt trận phía Tây làm xao động thế giới, thì chiếc mặt nạ của chính phủ cũng rơi ra. Thủ tướng Thổ lúc bấy giờ đã công khai lên tiếng " mong muốn tiêu diệt nước Nga Xô-Viết ".  Các tầng lớp nhân dân tiến bộ trong nước lúc đó đã phải đương đầu rất khó khăn với những thế lực phản động. Và trong cuộc đấu tranh này cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Sabahattin Ali : " Quỷ ám " đã giáng cho bọn phát xít bản địa một đòn đích đáng.  Trước đó tên tuổi nhà văn đã rất nổi tiếng qua những tác phẩm nói về những người công nhân, nông dân, những người thợ thủ công nghiệp và tầng lớp trí thức. Đó là tập thơ " Gió và núi " ( 1934 ), ba truyện ngắn : " Chiếc cối xay " (1935 ), "Arba " ( 1936 ), " Tiếng nói " ( 1937 ), cuốn tiểu thuyết "Uxup từ Kulzacka " ( 1937 ) và bây giờ là " Quỷ ám " (1940 ). Cũng theo lời Nazim Hikmet những tác phẩm trên đã làm cho Sabahattin Ali " trở thành thủ lĩnh của một trường phái văn học, mở ra một hướng đi mới trong văn xuôi Thổ Nhĩ Kỳ ". Hướng đi này trên quê hương nhà văn được gọi là : "Chủ nghĩa hiện thực xã hội."  Vào đầu những năm 40, một trong những chủ đề thu hút nhà văn là sự khủng hoảng trong ý thức cá nhân. Bằng kinh nghiệm sống của mình, Ali đã nhận thấy rằng chủ nghĩa cá nhân tiểu tư sản không thể dễ dàng từ bỏ những đặc điểm của mình dưới sự tác động của những yếu tố bên ngoài. Nhà văn đã đề cập đến vấn đề này trong cuốn truyện vừa " Đức Mẹ mặc áo choàng lông ".  Có lẽ đây là tác phẩm tâm huyết nhất của nhà văn, chứa đựng ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nếu như không tính đến người dẫn truyện thì trong tác phẩm chỉ có hai nhân vật. Những nhân vật khác chỉ xuất hiện vài chỗ và cũng rất ngắn. Thành phố Berlin sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, sự khủng hoảng kinh tế thế giới, những cuộc tranh luận của những sĩ quan Đức theo chủ nghĩa phục thù…toàn bộ những vấn đề này chỉ là một tấm phông cho những hoạt động của nhân vật chính, một thanh niên trí thức Thổ Nhĩ Kỳ trong câu chuyện bị hoàn toàn tách ra khỏi quê hương, sống trong thành phố Berlin xa lạ, không người thân thuộc. Người thanh niên đó cũng giống như Sabahattin Ali lúc còn trẻ mơ ước một tình yêu trong sáng, lành mạnh như là một biện pháp duy nhất để nhận thức cá nhân mình. Và một tình yêu như vậy đã đến với anh và nó đã chỉ cho anh thấy rõ hơn bản thân mình : một con người có cuộc sống nội tâm phong phú, có một tâm hồn trong sáng, cao thượng. Nhưng để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn, để trở nên xứng đáng với tình yêu của mình thì tất cả những điều ấy hãy còn chưa đủ.  Cuốn truyện vừa của Ali cũng giống như một tác phẩm văn học chân chính khác là một bức tranh tổng hợp phức tạp về nhiều mặt của cuộc sống. Mọi người đọc có thể tìm thấy ở đó những điều bổ ích cho mình, còn chính tác phẩm đã trao cho độc giả chiếc chìa khóa để mở ra những điều lý thú khác mà trong cuốn sách không nói đến.  Đối với những người đọc tinh ý thì có thể nhận thấy nhân vật của tác phẩm mang nhiều nét của chính Sabahattin Ali lúc còn trẻ, đặc biệt là trong thời gian ông học tập tại Berlin. Một số nhà phê bình Thổ Nhĩ Kỳ dựa vào đó đã khẳng định rằng đây là tác phẩm tự thuật của nhà văn. Nếu như điều ấy là đúng thì chỉ đúng ở một điểm duy nhất : Sau nhiều năm, trở lại với những suy tư thời trai trẻ, Sabahattin Ali đã hoàn toàn đoạn tuyệt với những ảo tưởng ngây thơ của mình. Ông đã chỉ rõ rằng con người sống bằng những ước mơ lãng mạn của mình, dù cho đó là những ước mơ cao đẹp nhất, trong sáng nhất nhưng nếu không được củng cố bằng những tri thức thực tế của cuộc sống thì sẽ không có khả năng thay đổi được điều gì. Hơn nữa những ước mơ ấy có khi lại trở thành những cạm bẫy mà không dễ gì thoát ra nổi. Một tình yêu đôi lứa cao đẹp cũng chỉ có thể giúp cho nhân vật chính của chúng ta thoát khỏi sự vô nghĩa, đơn điệu trong cuộc sống của anh ta mà thôi.  Năm 1948, sau khi mãn hạn tù 3 tháng vì làm báo " Pasa nổi tiếng ", Sabahattin Ali đi đến quyết định cần phải rời khỏi Thổ Nhĩ Kỳ để tiếp tục cuộc đấu tranh. Ý nghĩ đầu tiên của ông là sang Bungari, đất nước nơi đã sinh ra ông và hiện đang có nhiều người Thổ sinh sống. Nhưng lý do quan trọng hơn cả là ở đó nhân dân đã và đang thực sự làm chủ vận mệnh của mình. Trong số những người bạn tù với Sabahattin Ali có một người tự xưng là đảng viên Cộng sản, anh ta hứa sẽ giúp nhà văn trốn ra nước ngoài. Nhưng thực chất đó là một kẻ khiêu khích do mật vụ cài vào.  Vào đầu tháng 3 năm 1948, Sabahattin Ali biến mất. Mãi đến vài tháng sau các báo mới đưa tin phát hiện thấy xác nhà văn trong khu rừng Karabain gần biên giới Bungari. Những người thân phải khó khăn lắm mới nhận được ra Sabahattin Ali.  Từ đó đến nay đã 38 năm trôi qua. Ngày nay những kẻ thù chính trị của nhà văn cũng phải thừa nhận rằng những sáng tác của ông đã trở thành những tác phẩm cổ điển trong nền văn học Thổ Nhĩ Kỳ. Bằng những tác phẩm và chính cuộc sống của mình, nhà văn đã và đang là tấm gương sáng chói cho một thế hệ nhà văn trẻ tiến bộ của Thổ Nhĩ Kỳ noi theo.  Hàng năm, người ta trao cho những nhà văn xuất sắc nhất giải thưởng cao quý mang tên Sabahattin Ali và đó là niềm tự hào của nền văn học tiến bộ Thổ Nhĩ Kỳ.   Mời các bạn đón đọc  Đức Mẹ Mặc Áo Choàng Lông của tác giả Sabahattin Ali.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bến Thiên Đường
Tác giả Sonja Massie đã được đông đảo công chúng biết đến với nhiều tiểu thuyết được viết nên nhờ vào bối cảnh lịch sử, trong đó nhiều tác phẩm của bà đã được dựng thành phim và được sự đón nhận nồng nhiệt của quần chúng. Tác phẩm “Bến thiên đường” có tựa đề song song là “Far anh Away” của bà cũng là một trong số những tác phẩm được dựng thành phim với nhan đề “Ngàn trùng xa” được phát hành năm 1992; lấy bối cảnh trên đất nước Ailen, tiểu thuyết viết về mối thù truyền kiếp của dòng họ Donelly với dòng họ của ông Daniel. Khi tổ tiên của ông Daniel đi xâm lấn đất đai của gia đình Donelly. Chàng Joseph là một người con của dòng họ Donelly đã được giao trọng trách đi trả thù gia đình Daniel, nhưng vì những đấu tranh nội tâm nơi chàng nên chàng đã không thể giết ông Daniel. Trải qua các tình tiết ly kỳ trong tác phẩm cuối cùng Joseph đã gặp con gái của ông Daniel, cô tên là Shannon. Những lần gặp gỡ giữa hai người và cuộc phiêu lưu của họ khi sang Mỹ để khai khẩn đất đai cuối cùng họ đã nảy sinh tình yêu. Mặc dù trải qua nhiều nhiều sóng gió song tình yêu của họ vẫn chiến thắng tất cả, Joseph và Shannon đã vượt qua được hận thù và rào cản giai cấp để đến với nhau xây dựng một gia đình hạnh phúc. Tiểu thuyết nói lên sức mạnh của tình yêu, của cái thiện và chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc. Xin được gửi tới bạn đọc để cùng khám phá và chiêm ngưỡng. *** Quỷ dữ chặt đầu bọn lãnh chúa chết tiệt này đi! Chặt hết, có bao nhiêu chặt hết bấy nhiêu. Rồi nghiền nát chúng ra như cám! Chửi xong, Patrick, gã thợ mộc trong làng cầm vại bia lên tu một hơi dài, đoạn toét miệng cười, khuôn mặt tròn quay sáng rỡ. Gã nhìn quanh một vòng trong quán rượu, mắt ánh lên vẻ thỏa mãn. Từ trước tới nay, trong đám người thân quen chuộng cái nghệ thuật chửi rủa này, ít ai chửi một cách hay họ độc đáo như gã. Gã im lặng, thách thức bất cứ ai chửi hay hơn. – Ước gì đàn quạ đen bu vào rỉa ráy chúng, ước gì chúng bị nổi mày đay khắp người, ngứa ngáy mà không có móng tay để gãi! Ryan, em của Patrick, ngồi chễm chệ trên một ghế đẩu cao bên quầy rượu, mồm ngậm ống vố, nhả khói cuồn cuộn vào không khí đã sặc mùi cay của than bùn đang cháy trong lò sưởi, và mùi thum thủm của áo quần len dạ còn ẩm ướt. – Ước gì quy dữ nuốt chửng chúng nó đi, và xiết dương vật vào cổ chúng nó! – Ước gì lửa âm ti thiêu đốt chúng mãi cho tới ngày tận thế, mà không cho chúng một giọt bia nào để làm giảm bớt cái khát muôn đời ấy! – Denis bổ sung thêm. Denis là một tá điền có mái tóc màu hung đỏ, mặt sần sùi đầy vết hoe, đang chuồi cái ca bằng thiếc về phía người chủ quán. Ông này liền rót đầy bia cho gã. Nửa tá khách nhậu, theo gương của Denis, chìa cốc ra lấy bia và đã cảm thấy khó chịu vì cái ý nghĩ phải chịu án phạt muôn đời mà không có lấy một giọt bia mát lạnh nào để xoa dịu. – Các bạn nên giữ mồm giữ miệng thì hơn, Danty Duff nói. Ông ta là người vớt rong biển dạt vào bờ, tóc hoa râm, đang ngồi phía đầu quầy bên kia. Ông và Joe Donelly, bạn ông, đã chiếm chỗ sớm hơn, và uống rượu nguyên chất nhiều hơn bất cứ người bạn nào khác mà không hề hấn gì. – Các bạn biết đâu giữa chúng ta, lỡ có thằng thối mồm nào đó chỉ điểm thì sao. Nếu các bạn cứ nói bô bô cho sướng miệng trước bất cứ ai như thế này, thì rồi sẽ lâm vào cảnh khốn đốn như bọn Galway, chứ chẳng phải chơi đâu. Như thế chẳng khác gì đánh đu trên một cái xà ngang đã mục. Joe Donelly mặt đầy nếp nhăn vì suốt ngày dang nắng để lấy than bùn làm chất đốt, bật cười đập vào lưng bạn: – Hè... đồ nhát gan như thỏ đế, còn thua cả một bà góa già rụng răng! Danty Duff né tránh cú đập của Joe, khiến ông ta suýt té ngã vì quá đà. Joe nói tiếp: – Cậu sợ cả chính cái bóng của cậu nữa, Danty ạ. Chúng ta phải là những con người hành động, như... các chàng trai của đại úy Moonlight, họ tổ chức các vụ đánh cướp với tầm vông, gậy gộc và những bó đuốc vung cao. Họ sẽ giành lại được độc lập cho quê hương của chúng ta, chắc chắn như thế. Các thực khách vỗ tay nồng nhiệt hoan hô vang dội cả cái quán rượu cổ lỗ, từ cái trần thấp có đà ngang đến tận nền nhà lát đá, rải rác mấy cọng rơm đây đó. Đó là cái lý do tại sao dân làng tụ tập mỗi ngày tại quán rượu của ông O’Manion. Không phải họ tới đó để uống bia – vì họ có thể uống ở nhà. Không phải họ đến đó để sưởi ấm, hoặc để tăng cường nghị lực nhờ ngửi mùi ra-gu thịt cừu đang hầm trên bếp lò. Cũng không phải để có được vài giờ yên tĩnh, tránh phải nghe miệng lưỡi lách phách của các bà vợ, hoặc trò hề của lũ trẻ con ồn ào... Họ đến quán rượu chỉ là để gặp lại bạn bè khích lệ họ sống dũng cảm hơn, hào hùng hơn và mạnh mẽ hơn; để gặp những con người thách thức nhau thoát khỏi cảnh đói nghèo mà họ đã bị áp đặt, và cầm khí giới để chiến đấu cho tự do. Lâu nay họ chỉ đánh giặc mồm, chỉ phun ra những lời nguyền rủa, để nhẹ bớt tâm tư. Thế nhưng, lịch sử đã chứng minh, lời nói có khả năng thúc đẩy lòng người Ai Len hành động. Và ngày nổi dậy đã gần kề, mọi người ai cũng biết điều đó. – Vậy thì Joe Donelly, hôm nay cậu đã làm gì để lấy lại mảnh đất mà Thượng đế đã ban cho cậu từ tay tên lãnh chúa? – Danty hỏi, vẻ mặt khó chịu – Cậu đã cầm cây đuốc đút sau đít hắn ta, hay là cậu đã ôm hôn mông hắn khi hắn cưỡi con ngựa đẹp đi ngang qua đây? Denis can thiệp vào: – Có thể cậu ta chấp nhận hôn đít con ngựa quèn của hắn – nói đến đây, Denis nhìn thấy đôi mắt của Joe Donelly long lên vì giận dữ, liền tiếp – Xin lỗi cậu, Joe, tớ nói thế mà không có ác ý gì cả, thề danh dự đấy! Trong làng, lão Joe có tiếng là người dễ bị chạm tự ái. Chỉ Danty là bạn từ tấm bé của lão là có thể châm chọc hay nhục mạ lão mà không bị ăn đòn. Người chủ quán vừa đẩy hai vại bia đầy ắp đến trước Joe và Danty, vừa nói: – Này, các bạn. Các bạn nghĩ sao, nếu chúng ta được nghe các nghệ sĩ thượng thặng hát lên một bài ca để chúng ta được vui tai và nhẹ lòng? Lời nịnh hót đã làm tan biến mất nỗi giận hờn. Danty và Joe liền cất lời hát một ca khúc mà họ đã thuộc nằm lòng từ thưở bé. ... Đám khách trong quán lại tiếp tục uống, thưởng thức chất đắng thú vị của rượu bia đang làm mát cổ họng họ. Những cây đèn dầu có tim bấc chiếu ánh sáng chập chờn lên những chiếc bàn vuông thô kệch và phản chiếu trong tấm gương lớn đã rạn nứt treo phía tường sau quầy hàng vì cuộc ẩu đả trước kia giữa Joe và Danty. Tâm hồn của dân làng tạm thời lắng dịu nhờ đã nguyền rủa, và quên đi trong chốc lát nỗi lo âu của cuộc sống, để thưởng thức bài ca du dương của hai chàng ca sĩ. Nhưng sự yên lặng bỗng bị đập tan. Tiếng ồn ào náo động ngoài đường đã làm cho mọi người bật đứng dậy, hấp tấp chạy đến bên cửa sổ nhìn xem chuyện gì đã xảy ra. Những tiếng là hét phẫn nộ vang lên từ đám người đi bộ, giày lấm bùn đất. Người ta nghe cả tiếng một con ngựa hí vang vì sợ hãi. – Kìa, các bạn hãy xem! Một tên lãnh chúa xuất hiện ở đằng kia kìa - Ryan là toáng lên, giọng hớn hở – Phải cho hắn một bài học mới được. Joe và Danty ngừng hát, nốc một hơi cạn vại bia và phóng ra ngoài. Họ nóng lòng được đánh lộn, chứ không chịu làm khách bàng quan như các người bạn khác. Lời nguyền rủa của họ đã mang lại kết quả, còn nhanh hơn là họ tưởng. Huân tước Geoffroy Hampton, chủ nhân tòa dinh thự Hampton, đang ngồi chễm chệ trên cái ghế băng bọc da của cỗ xe ngựa bóng loáng. Một cô xe tuyệt đẹp, gã xa phu cũng láng coóng trong bộ trang phục màu đen viền bạc. Nét mặt hắn ta hơi sửng sốt. Cả chủ lẫn tớ đều cảm thấy mình đang rơi vào một tình huống còn hơn cả sự bực mình. Đám dân quê vây quanh lấy cỗ xe ngựa lộng lẫy một cách hỗn độn vô trật tự, kẻ thì cầm cuốc xẻng, người thì cầm gậy gộc, lòng sôi sục căm thù tích tụ bởi bao nhiêu năm tháng. Áo quần họ mặc quá lâu ngày chưa thay, họ đã trải qua biết bao thử thách và đau khổ, chịu đựng bao nỗi buồn phiền. Họ nhộn nhạo trên đường, chận xe không cho qua. Gã xa phu quất ngựa vun vút, nhưng chiếc xe chỉ nhúc nhích đôi chút giữa lũ người mỗi lúc một đông hơn, phẫn nộ hơn. Môt phụ nữ là lớn: – Thằng heo kia, mày là một thằng khốn nạn. Mày ăn quá nhiều mỡ nên mập phì! Vị lãnh chúa khoanh tay trên cái áo khoác bằng nhung xanh, lót lụa đen, trợn mắt lườm bà ta. Một tá điền lưng còng có đứa con nhỏ trần truồng đang đeo theo chân gã mà kêu khóc, gã rống lên: – Mày là tai họa cho xứ sở của chúng tao, cái xứ sở không bao giờ là của mày. Mày xuống hỏa ngục cho quy dữ nướng mày đi! Một bà già tay không vũ khí, cúi xuống lượm một viên đá cuội, nhắm cỗ xe mà ném tới, trúng chiếc mũ chóp cao bằng xa-tanh đen của lãnh chúa, làm nó rơi xuống đất. Đám đông liền dành nhau đạp dẹp nó, chỉ một chốc là tiêu tan. Joe thúc cùi chỏ vào hông bạn, bảo: – Danty, đưa vũ khí cho tao, tao giết thằng chó này. Mời các bạn đón đọc Bến Thiên Đường của tác giả Sonja Massie.
Axit Sunfuric
rại tập trung là một chương trình truyền hình thực tế mới, qua đó, khán giả sẽ được xem cảnh những kapo độc ác tra tấn các nạn nhân đầy cam chịu. Chỉ có một nạn nhân chống cự và thái độ ấy đưa cô cùng các bạn đồng hành cũng như khán giả và những người chịu trách nhiệm khác đi từ cú sốc này đến cú sốc kia… Câu chuyện xoay quanh khu trại đặc biệt này không hề là sản phẩm của trí tưởng tượng. Ngòi bút sắc sảo của Amélie Nothomb đã biết đào sâu và nhào nặn những sự kiện, những biến đổi thường nhật trong khía cạnh đạo đức con người để tạo thành một Axit sunfuric độc đáo, có tính chất dự báo tương lai của chúng ta, một tương lai trống rỗng và nhẫn tâm nếu chúng ta không biết để ý và sửa đổi những thói quen văn hóa tưởng chừng vô hại. Bất kỳ ai đọc cũng bị cuốn vào cuộc đấu tranh thiện-ác mà tác phẩm miêu tả, cũng bị ngập trong những cảm xúc xót xa, hồi hộp, bất bình rồi thở phào nhẹ nhõm và thậm chí lâng lâng cảm giác yêu thương.    Axit sunfuric tuyệt vời vì nó khiến độc giả phải dừng lại và ngẫm xem ngày nay, trong quan hệ giữa người với người, liệu người này còn thực sự đóng vai trò quan trọng với người khác và liệu chúng ta có thể giúp một người xấu trở nên tốt đẹp hay không. - www.e-litterature.net Amélie Nothomb đã thực sự làm độc giả bị sốc khi gây ra cuộc tranh cãi kỳ lạ song hết sức sáng tạo về cái thiện và cái ác, về thủ phạm của những chương trình truyền hình thực tế tác động xấu đến khán giả trong Axit Sunfuric. Thêm một tác phẩm nữa khiến chúng ta tự hỏi đến bao giờ nữ văn sĩ thông minh người Bỉ này thấy chán thành công và những niềm vinh dự. - L’Express Một trong những nhiệm vụ của tiểu thuyết là dự đoán được các “điểm đến” của thế giới. Axit sunfuric đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đó khi tưởng tượng ra một câu chuyện kỳ lạ giúp người đọc hiểu hơn thực tế họ đang sống, dù câu chuyện ấy thật kinh hoàng. - Tạp chí Lire Amélie Nothomb không hề sáng tạo ra các nhân vật cùng tình tiết trong Axit Sunfuric mà đây thực sự là cuốn tiểu thuyết “dự báo” tương lai của chúng ta. Đó là lý do khiến báo giới tranh luận bấy lâu và là điểm thành công tuyệt vời của nữ văn sĩ. - www.evene.fr *** Đến một lúc sự đau khổ của người khác vẫn chưa đủ với họ; họ muốn nhìn thấy cảnh tượng ấy. Người ta có thể bị bắt mà không cần đến một lý do nào cả. Những cuộc vây ráp diễn ra ở bất cứ đâu: tất cả mọi người bị hốt đi, không ai được chống lại. Miễn sao là con người. Buổi sáng hôm đó, Pannonique đi dạo trong Công viên Bách thảo(1). Những nhà tổ chức chương trình đến và càn quét cả công viên, không để sót một mục tiêu nào. Cô gái trẻ bị đưa lên một chiếc xe tải. Chuyện này diễn ra trước khi chương trình đầu tiên được phát sóng: mọi người còn chưa biết điều gì sẽ xảy đến với mình. Họ giận dữ. Tại nhà ga, họ bị lèn chặt vào một toa chở súc vật. Pannonique phát hiện thấy cô và mọi người đang bị quay phim: rất nhiều máy quay dõi theo họ, không một biểu hiện lo âu vụn vặt nào trên gương mặt họ bị bỏ qua.. Cô hiểu rằng việc chống cự chẳng những không giúp ích được gì, mà còn trở thành tiêu điểm hấp dẫn cho truyền hình. Vì thế trong suốt chuyến đi, cô im lặng không để lộ một cảm xúc nào. Xung quanh cô bọn trẻ gào khóc, người lớn la mắng, người già uất ức đến nghẹt thở. Họ bị lùa xuống một cái trại giống như những cái trại tập trung vốn chưa cổ xưa gì của phát xít Đức, chỉ có một chi tiết khác biệt duy nhất đập ngay vào mắt: những chiếc máy quay giám sát được gắn ở khắp nơi. Để trở thành nhà tổ chức, không cần bất cứ điều kiện nào. Những người chủ xướng chương trình cho các thí sinh lần lượt đi qua và chọn ra những “gương mặt độc nhất”. Sau đó, những thí sinh này phải hoàn thành bảng trắc nghiệm hành vi. Zdena đã được chọn, đó là kẻ cả đời chưa bao giờ vượt qua nổi một cuộc thi. Ả lấy thế làm hãnh diện lắm. Từ nay, ả có thể khoe rằng ả làm ở đài truyền hình. Ở tuổi hai mươi, không một tấm bằng, có được công việc đầu tiên: rốt cuộc thì những người xung quanh sẽ phải ngưng chế nhạo ả. Người ta giải thích với ả các nguyên tắc của chương trình. Những người phụ trách hỏi ả có cảm thấy sốc không. - Không. Mạnh đấy, ả trả lời. Vẻ đăm chiêu, vị phụ trách nhân sự nói với ả rằng chính xác là như vậy. - Đó là những gì mọi người muốn, ông ta nói thêm. Những kiểu trình diễn giả tạo, màu mè đã hết thời rồi. Ả vượt qua những cuộc kiểm tra khác một cách xuất sắc, cho thấy mình có khả năng gây ấn tượng với người lạ, gào thét những lời lăng mạ vô cớ, chứng tỏ quyền lực của mình, không mủi lòng trước những lời kêu than. - Điều quan trọng, là phải tôn trọng khán giả, một người phụ trách nói. Không một khán giả nào đáng để bị coi thường. Zdena đồng tình. Ả được giao vị trí kapo(2). - Chúng tôi sẽ gọi cô là kapo Zdena, người ta nói với ả như vậy. Thuật ngữ quân sự này khiến ả thích thú. - Trông mày oách lắm, kapo Zdena ạ, ả tự nói với mình trong gương. Ả đã không còn để ý đến những chiếc máy quay phim đang thu hình ả nữa. Báo chí chỉ nhắc đến sự kiện này. Các bài xã luận bùng nổ, những người có lương tâm la ó. Ngay sau buổi phát sóng đầu tiên, khán giả yêu cầu được xem tiếp. Với tên gọi ngắn gọn “Trại tập trung”, chương trình đã thu hút được lượng khán giả kỷ lục. Chưa bao giờ người ta gây được ảnh hưởng trực tiếp đến vậy lên tội ác. “Có điều gì đó đang xảy ra,” thiên hạ kháo nhau. Máy quay phim thỏa sức ghi hình. Nó hướng vô số các con mắt của mình đến mọi lán trại nơi nhốt các tù nhân: những cái nhà tiêu, với tiện nghi duy nhất là các chồng đệm rơm. Bình luận viên chương trình cố gắng miêu tả mùi nước tiểu và cái lạnh ẩm thấp mà, tiếc thay, truyền hình không có khả năng chuyển tải. Mỗi kapo có vài phút để tự giới thiệu mình. Zdena không khỏi bất ngờ trước đặc quyền này. Trong vòng hơn năm trăm giây, chiếc máy quay sẽ chỉ hướng mắt về phía ả. Và cái con mắt nhân tạo ấy sẽ kết nối với hàng triệu con mắt bằng xương bằng thịt. - Đừng bỏ lỡ dịp tỏ ra thân thiện, một người tổ chức chương trình nói với các kapo. Khán giả nhìn các bạn như những kẻ độc ác, thô lỗ: hãy chứng tỏ cho họ thấy các bạn là con người. - Và cũng đừng quên rằng truyền hình có thể là một diễn đàn dành cho những ai trong số các bạn có ý tưởng, có lý tưởng, một người khác gợi ý với nụ cười nham nhở khiến người ta liên tưởng ngay đến những điều ghê tởm mà hắn hy vọng được nghe thấy các kapo tuôn ra. Mời các bạn đón đọc Axit Sunfuric của tác giả Amélie Nothomb.
Mùa Hè Thứ Tư Của Quần Jeans May Mắn
Chỉ thêu đã xổ, đường viền đã long, Quần Jeans may mắn trở lại cùng một mùa hè rực rỡ cuối cùng. Lena: Đắm chìm trong hội họa và hò hẹn mới, lòng không khỏi sợ rằng giây phút cô quên đi Kostos cũng chính là thời khắc cô gặp lại anh. Carmen: Bị “yểm bùa” bởi cô bạn đại học mà với cô ta, một vai kịch trên sân khấu đáng giá hơn tất thảy. Bridget: Tham gia khu khai quật tại một thành phố cổ bên bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ, những tưởng tìm được tình yêu đích thực. Tibby: Bỏ lại sau lưng người cô yêu, cứ ngỡ người ấy sẽ mãi  đợi mình. Mùa hè thứ tư của Quần Jeans may mắn cũng là mùa hè cuối cùng trong thời niên thiếu của bốn cô gái trẻ. Dịu dàng và hài hước, xúc động và hân hoan, nỗi buồn và niềm vui cứ thế đan xen trong cuốn tiểu thuyết cuối cùng của series Quần Jeans ăn khách bậc nhất nước Mỹ này, như một khúc ca về tuổi trẻ, như một màu xanh bất diệt của những kỷ niệm sẽ không phai dấu suốt cuộc đời. *** Đôi nét về tác giả Ann Brashares Ann Brashares, sinh năm 1967, từng theo học ngành Triết học tại trường Cao đẳng Barnard, một nhánh thuộc Đại học Columbia ở thành phố New York. Sau khi tốt nghiệp cao đẳng, cô trở thành biên tập viên, dự định sẽ dành một năm đi làm kiếm tiền để tiếp tục học lên đại học ngành Triết. Nhưng vì quá yêu nghề Ann Brashares đã không học đại học nữa mà ở lại New York làm việc trong nhiều năm rồi trở thành nhà văn chuyên nghiệp sau tác phẩm đầu tay Quần jeans may mắn. Ngay sau khi ra đời, Quần jeans may mắn đã thành công rực rỡ về mặt thương mại, được dựng thành phim năm 2005 và đưa tác giả của nó vào hàng ngũ các nhà văn có sách bán chạy nhất trên toàn thế giới. Brashares hiện đang sống tại New York với chồng - Jacob Collin, con trai một giáo sư dạy triết của cô từ hồi học cao đẳng, là một họa sĩ khá thành danh ở Mỹ - và ba con. *** Ngày xửa ngày xưa có bốn cô gái. Bốn phụ nữ trẻ, thậm chí bạn có thể nói vậy. Và mặc dù cuộc đời chúng đã rẽ về các hướng khác nhau, chúng vẫn vô cùng yêu mến nhau. Ngày xửa trước cả ngày xưa kia, cũng bốn cô gái ấy đã tìm thấy một cái quần, thông thái và kỳ diệu, và đặt tên cho nó là Cái quần Du lịch. Cái quần có phép màu dạy cho bốn cô gái cách chia xa. Nó dạy chúng khi là bốn người chứ không phải một người thì như thế nào. Làm sao để chúng vẫn mãi bên nhau dù có ở đâu. Làm sao để yêu thương chính mình nhiều như yêu thương người khác. Và ở một khía cạnh thực tế, Cái quần có phép màu vừa khít cả bốn đứa con gái, có vẻ khó tin nhưng đúng thế thật, nhất là khi một trong bốn đứa (em tóc vàng) người ngợm chả khác gì siêu mẫu. Được rồi. Huỵch toẹt ra luôn. Tôi là một trong bốn cô gái ấy. Tôi mặc Cái quần này. Tôi có những người bạn này. Tôi biết phép màu này. Mà thực ra tôi chính là em tóc vàng đây, còn khoản siêu mẫu thì tôi chỉ đùa thôi. Nhưng mà, như vẫn xảy ra với hầu hết các loại phép màu, Cái quần này hoàn thành nghĩa vụ hơi quá xuất sắc. Và các cô gái, là những cô em phi thường (nếu bạn không phiền cho tôi nói vậy), học bài học của họ cũng hơi quá kỹ. Và rồi khi cuộc đời của bốn cô gái thay đổi vào cái mùa hè cuối cùng đó, Cái quần, vốn thông thái, cũng phải đổi thay theo. Thế là câu chuyện về hội chị em bắt đầu, nhưng không kết thúc, như thế đấy. Mời các bạn đón đọc Mùa Hè Thứ Tư Của Quần Jeans May Mắn của tác giả Ann Brashares.
Mùa Hè Thứ Ba Của Quần Jeans May Mắn
Các bạn đã biết đến nhóm bốn người bạn gái thân thiết qua Mùa hè thứ nhất và thứ hai của Quần Jean May mắn, giờ đây, cuốn thứ ba trong series  của nhà văn Ann Brashares đã đến với độc giả Việt Nam.   Đó là mùa hè trước khi từng người trong nhóm đi học đại học... mùa hè cuối cùng họ thực sự còn được ở bên nhau trước khi mỗi người khởi đầu cuộc sống trưởng thành của riêng mình. Đó là khi họ cần tới Quần Jeans May mắn nhất. Carmen: cần tới tất cả sự diệu kỳ mà cái quần có thể đem tới, nhất là vì cô đã nhận lời trông người bà Hy Lạp hay càu cạu của Lena suốt của mùa hè. còn chưa kể là cô phải giả vờ làm một người không phải chính cô - với người có thể rất quan trọng với cô. Tibby: Ngớ ra cái quần luôn biết rõ điều cô không cảm thấy ở Brian, và cứ kè kè cái quần bên mình - trong khi những người bạn của cô cũng lao vào cái quần. Lena: Mong cái quần có thể nói cho biết liệu theo học trường nghệ thuật có phải là ước mơ mà cô nên theo đuổi, cho dù điều đó đi đôi với việc gia đình cô sẽ không ủng hộ. Bridget: Cực kỳ vui sướng khi được mang cái quần theo trong đợt trại đá bóng cho tới khi phát hiện ra huấn luyện viên đồng nghiệp là ai. *** Chúng ta, Hội chị em, bằng văn bản này đặt ra các quy tắc dưới đây để quản lý việc sử dụng Cái quần Du lịch: 1. Không bao giờ được giặt Cái quần. 2. Không được phép xắn gấu quần lên. Rất quê. Sẽ không có lúc nào làm thế mà trông lại không quê. 3. Không bao giờ nói từ “péo” khi mặc Cái quần. Không bao giờ được có ý nghĩ “Mình béo” khi mặc Cái quần. 4. Không được để một anh chàng nào cởi Cái quần (tuy nhiên có thể tự cởi trước mặt anh chàng). 5. Không được phép ngoáy mũi khi đang mặc Cái quần. Tuy nhiên, có thể vô tình quệt lỗ mũi mà thực ra là ngoáy mũi. 6. Khi họp mặt, phải tuân theo các thủ tục khi ghi lại quãng thời gian mặc Cái quần như sau: Ghi lại trên ống quần bên trái nơi thú vị nhất mà bạn đã ở khi mặc quần. Ghi lại trên ống quần bên phải điều quan trọng nhất xảy ra với bạn. (Chẳng hạn như, “Tôi đã ở cùng anh họ tôi Ivan khi mặc Cái quần Du lịch này.”) 7. Phải thường xuyên viết thư cho các chị em khác trong hội trong suốt mùa hè, cho dù bạn có vui vẻ như thế nào khi không có họ bên cạnh. 8. Phải chuyển Cái quần cho các thành viên khác trong hội theo đúng quy ước của hội. Nếu không tuân theo sẽ bị đá đít thật mạnh khi họp hội. 9. Không được nhét áo vào Cái quần và đeo thắt lưng. Xem điều 2. 10. Hãy nhớ: Cái quần = Tình yêu. Hãy yêu quý bạn bè. Hãy yêu quý chính mình. PHẦN MỞ ĐẦU Nếu bạn đang đọc cuốn sách này, có lẽ bạn đã biết chúng tôi rồi. Hay dù gì cũng biết Cái quần của chúng tôi. Nếu rồi, bạn có thể lật qua vài trang đầu. Nếu chưa, ngồi chơi với tôi một phút. Tôi sẽ cố không làm đau chút nào đâu. Nếu không, bạn có thể nói, tớ chả muốn đọc một cuốn sách viết chuyện quần kiếc. Và tôi hoàn toàn hiểu bạn cảm thấy thế nào. (Ở Anh, khi nói quần, ý người ta là quần lót đấy. Bạn có biết điều này không nhỉ?) Nhưng tin tôi đi, đây là một Cái quần hoành tráng. Cái quần mang trong mình quyền năng tuyệt đối biến bốn cô gái tuổi teen bình thường thành bốn tạo vật đẹp đẽ vô ngần, biến cuộc sống của họ thành cuộc phiêu lưu đáng kinh ngạc, đó là còn chưa đả động đến việc nó khiến các chàng trai cực ngon lành ngay tắp lự quỳ gục gối. Thôi được rồi, tôi hơi nổ quá. Thực sự Cái quần không làm thế. Nhưng nó gắn kết chúng tôi lại với nhau khi chia xa. Nó cho chúng tôi cảm giác bình an và được yêu thương. Nó đưa chân chúng tôi đến những chốn mà nếu không có nó chúng tôi sẽ chẳng đời nào dám cất bước. Nó khiến chúng tôi trở thành người tốt hơn, trở thành bạn bè tốt hơn. Tất cả những điều này, tôi thề đấy, là thật 100%. Và suốt chặng đường đó, Cái quần lúc nào trông cũng tuyệt cả. Chúng tôi là ai? Chúng tôi là chúng tôi. Chúng tôi đã, đang, và sẽ mãi là chúng tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi là chúng mình. (Vấn đề ngữ pháp ấy mà.) Tất cả là nhờ phòng tập thể dục của Trung tâm Gilda ở Bethesda, Maryland vì họ đã mở một lớp tập aerobics cho các bà bầu cách nay chừng mười tám năm. Ở đó, mẹ tôi, mẹ Carmen, mẹ Lena và mẹ Bee đã nhảy lên nhảy xuống và đổ mồ hôi trong suốt mùa hè mang thai dài dặc, rồi đến tháng Chín mỗi người sinh ra một bé gái (riêng mẹ Bee thì thêm cả một bé trai). Theo như tôi biết thì trong vài năm đầu các bà mẹ nuôi bọn tôi giống nuôi một ổ chó con hơn là nuôi từng em bé. Mãi sau này các mẹ mới chia tách ra. Tôi miêu tả bốn bọn tôi thế nào đây nhỉ? Lấy ô tô làm hình ảnh ẩn dụ nhé. Carmen là một con xe màu đỏ anh đào cực bốc, động cơ tám xi lanh bốn thì ngốn xăng hàng khủng. Nó có thể khiến mọi thứ rối tung rối mù lên, nhưng lại rất thú vị, luôn bám chặt lấy con đường mình đi, và có khả năng tăng tốc tuyệt hảo. Lena thì tiết kiệm tối đa xăng dầu. Giống xe lai xăng-điện ấy. Nó không hại môi trường và dĩ nhiên hợp nhãn. Nó có hệ thống GPS định vị toàn cầu tối tân bậc nhất nhưng thỉnh thoảng cũng chỉ nhầm đường. Nó được trang bị hệ thống túi khí an toàn nữa. Bee thì không túi khí túi khiếc gì. Có khi còn không có hãm xung nữa. Thậm chí có khi không cả phanh. Nó có thể chạy một triệu dặm một giờ. Nó là một em Ferrari xanh màu đại dương, trừ việc không có phanh. Còn tôi, Tibby, thì là một chiếc... xe đạp. Không, đùa thôi. (Mình đủ tuổi lái ô tô rồi, khỉ thật!) Hừm. Thế tôi là cái gì? Tôi là một em Plymouth Duster hầm hố xanh sẫm với bộ truyền lực chọn lọc. Thôi được rồi, có thể đó chỉ là cái tôi muốn trở thành thôi. Nhưng tôi là người viết cái này, vì thế tôi có quyền quyết định. Cái quần đến với chúng tôi vào thời điểm hoàn hảo. Đó là lần đầu tiên chúng tôi chia tách. Chúng tôi lần đầu phát hiện ra phép lạ của nó vào mùa hè hai năm trước và đến mùa hè vừa rồi nó lại khuấy động cuộc đời bốn chúng tôi một lần nữa. Bạn thấy đấy, bọn tôi đâu có mặc Cái quần suốt năm. Trong năm chúng tôi cho nó nghỉ ngơi để trữ thêm năng lượng cho mùa hè tới. (Mùa đông năm nay có lần Carmen mặc nó tham dự lễ cưới mẹ, nhưng đó là trường hợp đặc biệt.) Hai năm trước chúng tôi đã nghĩ đấy là chuyện to tát lắm, mùa hè đầu tiên chúng tôi xa nhau ấy. Bây giờ trước mắt chúng tôi là mùa hè cuối cùng còn được bên nhau. Ngày mai chúng tôi tốt nghiệp cấp ba. Tháng Chín tới, chúng tôi vào đại học. Và đó không giống như trên mấy chương trình ti vi, kiểu như một cách diệu kỳ nào đó, chúng tôi lại vào cùng một trường. Bốn chúng tôi vào bốn trường khác nhau ở ba thành phố khác nhau (nhưng chỉ mất bốn tiếng là đến ngay được trường kia - đó là quy tắc số một của chúng tôi). Trong số bốn đứa thì Bee là đứa học hành chểnh mảng nhất nhưng trường nào nó nộp đơn cũng xin vào được cả. (Bạn có thể bảo là đỉnh của đỉnh không nhỉ?) Nó chọn Brown. Mặc lời khuyên của bố mẹ, Lena quyết định đi học trường nghệ thuật Rhode Island School of Design, Carmen sẽ đến William mà nó hằng mơ ước, còn tôi sẽ vào trường điện ảnh của NYU. Khi cuộc đời đổi thay, nó thực sự, thực sự lớn. Nếu bạn là bố tôi, bạn sẽ bảo, “Này, bọn con sẽ gặp nhau vào lễ Tạ ơn mà.” Nhưng nếu bạn là tôi, bạn nhận ra rằng cuộc sống mà bọn tôi hằng thân quen đã kết thúc rồi. Tuổi ấu thơ cùng nhau đang kết thúc. Có thể chúng tôi sẽ chẳng bao giờ sống ở nhà mình nữa. Có thể chúng tôi sẽ chẳng bao giờ cùng sống ở một nơi nữa. Chúng tôi xuất hành để bắt đầu sống cuộc sống thực của mình. Với tôi việc này thật sự gây kinh hoàng, nhưng trên khắp thế giới này, chỉ có nó là ý nghĩ đáng sợ hãi nhất. Tối mai tại trung tâm Gilda chúng tôi sẽ khởi động chuyến du hành mùa hè lần thứ ba của Cái quần. Ngày mai sẽ là lúc cuộc sống mới của chúng tôi bắt đầu. Đó chính là lúc chúng tôi cần Cái quần hơn hết. Mời các bạn đón đọc Mùa Hè Thứ Ba Của Quần Jeans May Mắn của tác giả Ann Brashares.