Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chị Đào Chị Lý

Đây là một tác phẩm không quá bi kịch hay nổi bật so với nhiều tác phẩm khác. Nhưng câu chuyện toát lên một vẻ rất riêng. Một bà Ngọc tao nhã nhưng u buồn, một cô Đào vui vẻ, xởi lởi, một cậu Khánh điển trai, trí thức, một cô Lý nhạy cảm, dịu dàng và nhiều nhiều nhân vật mang màu sắc sinh động vô cùng. Tính triết lí trong truyện nói lên hệ luật nhân-quả, những gì mà bất cứ ai, ở bất cứ thời điểm nào cũng đều sẽ hành động như thế, cũng đều sẽ cảm nhận những hỉ nộ ái ố mà nhân vật trong truyện. Có lẽ “Chị Đào chị Lý” của Hồ Biểu Chánh là một trong số những truyện hiếm hoi mà tác giả viết màu sắc khá sinh động, không quá buồn như các tác phẩm khác và cũng không quá mang tính hài hước, một tác phẩm khá bình dị và mộc mạc về người Nam Bộ. Truyện là một chuỗi những sắc thái khác nhau của các nhân vật: bà Ngọc, cô Đào, cô Lý…Truyện là một bài học về cách đối nhân xử thế và để chúng ta hiểu thêm rằng “Gieo nhân nào, gặp quả nấy” vẫn là quy luật muôn đời. *** Có buồn rồi mới có được vui; có cực rồi, mới biết sướng. Bà Ngọc trải qua những nỗi buồn rầu cực khổ. Từ đây bà mới vui sướng mà sống với cảnh đời thân ái giữa con trai con gái với dâu rể hòa thuận một nhà. Có một điều làm cho người không hiểu tâm sự của con rể bà, họ có hơi thắc mắc, là Khánh kêu vợ là chị Đào mà Hoài cũng kêu vợ là chị Lý. Ai muốn hiểu sao tự ý, bà Ngọc cứ vui cười tối ngày." Hồ Biểu Chánh tên thật là Hồ Văn Trung, là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 - 1930. Tiểu thuyết của ông bao quát những mảng hiện thực, những nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào những thập niên đầu thế kỷ 20. Đó là sự tha hóa của con người trước sự lớn lên vùn vụt của đầu óc trọng thương, là số phận đáng thương của những thường dân rơi vào cảnh cùng quẫn, là những câu chuyện thế sự giàu chất nhân văn của những con người trên vùng đất mới... Lối viết bình dị, ngôn ngữ gần với lời nói thường ngày là một ưu thế khiến tác phẩm của Hồ Biểu Chánh chiếm được cảm tình đặc biệt của người dân Nam Bộ. *** Thường nghe người ta nói "vật hoán tinh di, tang điền thương hải" 1 : mấy lời ấy thiệt không sai. Khúc đường từ chợ Thị Nghè sang chợ Bà Chiểu mới có mấy năm nay mà nó nổi danh xóm Hàng Sanh rộn rực tưng bừng. Quang cảnh đìu hiu ngày trước đã biến thành quang cảnh náo nhiệt không thua gì Phú Nhuận, Hòa Hưng, Vườn Lài hay Xóm Chiếu. Hai bên đường nhà phố cất liên tiếp giáp hết không còn chỗ trống mà chen vô ở được nữa. Tối ngày thiên hạ qua lại dập dìu, lại thêm đủ thứ xe tranh nhau chạy rần rần không ngớt. Đến đây ai cũng nhớ cách lối ba mươi năm về trước những người giàu có với những khách tầm hoa, chiều chiều hay mướn xe cyclo đi hứng gió. Hễ đi vòng chợ Bà Chiểu mà qua khỏi chợ Thị Nghè, thì từ mũi tàu, là chỗ sở Trường Tiền dượt thi đặng phát giấy phép lái xe hơi, vòng qua tới Cầu Mới, là ranh Châu Thành Bà Chiểu, hai bên đường đều là ruộng rẫy sình lầy, quang cảnh vắng vẻ im lìm, giống như quang cảnh thôn quê đồng bái. Nếu ở Thị Nghè mà ngó thẳng xuồng cầu kinh Thanh Đa thì thấy mấy đám dừa nước xơ rơ, gió chiều thổi tàu lá xổng lên rồi oặt xuống như chào khách nhàn du, lại có mấy cây bần rạch đứng chần ngần theo mé xẻo 2 , dưới gốc lác mọc bao chung quanh như lác trìu mến không nở bỏ bần, còn bần như tiếc nước ròng nên đứng ngóng trông nước mau lớn lại. Xóm bây giờ người ta gọi là xóm Hàng Sanh đó thì ngày trước chỉ có vài ba cái chòi lá nhỏ, lại nằm cách xa nhau, có lẽ chủ cố ý giấu kín đời sống nghèo khổ của mình nên không chịu ở gần nhau, tránh cho khuất mắt dòm ngó của thiên hạ. Cái chòi dựa bên đuờng; gần ngã ba quanh qua Bà Chiểu tuy có một căn lúm túm, song coi cao ráo sạch sẽ hơn mấy cái ngoài xa kia. Trước chòi có cái sân nhỏ trồng rau dừa 3 hai bên, trổ bông đủ bốn mùa, bông trắng chen với bông đỏ, coi có vẻ vui vui một chút. Bên hè có cây đu đủ ngọn lên cao gần ngang đầu song, cổ có tới vài chục trái, dưới lớn bằng cái chén ăn cơm, trên nhỏ như trái cau ăn trầu, chủ nhà bữa nào cũng thăm chừng, chồng trông mau chín mà ăn, vợ tính để dành mà bán. Chòi nầy là chòi của anh Lê Văn Thái, cất với vợ là Nguyễn Thị Hòa hơn ba năm rồi, phía trong có lót cái chõng để vợ chồng ngủ, có bếp để nấu cơm ăn và có một cặp thúng một đôi gióng và một đôi quang gánh, để cho chị Hòa mỗi ngày đi kiếm mua thơm, mít, ổi, gánh ra chợ bán. Phía ngoài một bên có lót một bộ ván dầu 4 nhỏ để nằm chơi, còn một bên để bàn lóc nhóc, với hai cái ghế đẩu để có ai tới thì mời ngồi nói chuyện. Cái chòi như vậy mà vợ chồng anh Thái hãnh diện, nói chuyện với ai anh cũng khoe "nhà của tôi". Mà vợ chồng anh khoe cũng phải, chòi dầu lớn dầu nhỏ, dầu tốt dầu xấu, không phải cướp giựt của ai, cũng đủ cho vợ chồng ảnh đụt nắng đụt mưa mấy năm rồi, cũng là cái tổ êm ấm cho vợ chồng ảnh hẩm hút giữa thân yêu hòa thuận. Anh Thái làm bên sở Ba Son. Vì anh không phải là thợ chuyên môn về nghề nào hết, nên không lãnh tiền công theo thầy hay thợ đuợc. Anh biết chữ Việt rành. Anh viết chữ tốt, lại biết nói tiếng Pháp cột quẹt. Người ta mới giao cho anh phát thẻ cho thợ thuyền, kiểm điểm số công nhân đi làm mỗi buổi đặng biên rồi giao cho xếp rồi xớ rớ coi dọn dẹp nhà giấy vậy thôi. Công việc của anh làm thì nhẹ nhàng, khoẻ khoắn, nhưng tại như vậy người ta cho anh lãnh tiền công có 9 cắc một ngày mà chúa nhựt nghỉ thì không được ăn tiền. Anh cực có một việc là mỗi buổi anh phải có mặt trước giờ sở mở cửa và mãn giờ anh phải chờ thợ thuyền ra hết rồi anh sẽ về sau. May anh là người biết lo, lại anh nhờ có chiếc xe máy cũ cỡi đi làm, bởi vậy không bao giờ anh đi trễ. Còn chị Hòa là vợ anh thì chị bãi buôi nhậm lẹ, chị giỏi nghề mua bán, tay bằng miệng miệng bằng tay. Hễ xế chồng đi làm rồi thì chị khóa cửa quảy thúng đi mua trái cây gánh về để sáng đem ra chợ Thị Nghè ngồi bán, kiếm lời mỗi bữa 5-7 cắc hoặc 1 đồng phụ với chồng mà sống cho no ấm. Vợ chồng đồng tâm hiệp ý sống với nhau trót ba năm trong cảnh đời tuy không phải trưởng giả song luôn no ấm an vui. Thời may chị Hòa có thai, vợ chồng đều mừng, mừng vì có dấu tích về tình yêu của vợ chồng khắng khít. Tuy nhiên mà rồi lại phải lo, lo dành cho có sẵn một số tiền để cho vợ ăn đẻ. Chị Hòa lại lo hễ có con thì chị mắc nuôi con, làm sao đi mua bán mà kiếm tiền thêm. Thái lo tiện tặn đến nỗi khuya ăn cơm nguội hoặc mua xôi hay bắp ăn đi làm, chớ không dám ngồi quán ăn hủ tiếu uống cà phê như trước nữa. Chiều cũng vậy, hễ làm việc mãn giờ thì tuốt về nhà ăn cơm, chớ không dám ta bà ăn nhậu với chúng bạn. Đến chừng chuyển bụng, may có anh Thái ở nhà anh đưa vợ vào nhà bảo sanh Thị Nghè mà nằm. Chị sanh một đứa con gái mạnh mẽ. Mới được một đứa con đầu lòng, dầu gái hay trai không cần, vợ chồng đều mừng rỡ, đặt cho con tên Đào, là tên một trái quí. Nhờ vợ chồng lo trước, nên chị Hòa đi sanh trong túi có sẵn 40 đồng bạc, khỏi bối rối chi hết, nhà nghèo nếu sanh mạnh giỏi thì nằm ba bốn bữa rồi thường người ta bồng con về. Tuy Hòa khoẻ khoắn, ăn cơm biết ngon, đủ sữa cho em bú, Thái muốn vợ nằm lâu cho có người săn sóc lại cô mụ cũng nài ép nằm cho đủ tám bữa, em rụng rún rồi sẽ về lại càng tốt hơn, bởi vậy Hòa ráng nằm cho đủ 6 bữa đi đứng cứng cát rồi chị cứ đòi về nhà nằm cho thong thả và lo cơm nước cho chồng. Thái phải chiều theo ý vợ mà thiệt anh cũng muốn vợ con về nhà đặng sum hiệp cho vui. Anh mới đóng tiền nhà thương và đền ơn cô mụ rồi kêu xe kéo rước vợ con về, trong túi còn được 9, 10 đồng bạc lại còn 6 bữa nữa tới kỳ lãnh tiền nên không lo gì lắm. Trót một tuần đầu vợ chồng vui vẻ cực điểm. Thái đi làm về hễ thấy con thức thì giành với vợ đặng bồng mà nựng nịu; còn nếu con ngủ thì đứng chống tay mà nhìn, thấy vợ còn non ngày anh không cho làm việc chi hết, mỗi bữa đi làm về anh ghé chợ mua thịt cá hoặc khô mắm đem về rồi phụ kho nấu đặng vợ chồng ăn với nhau. Mắc mừng vui với đứa con nằm ngoa ngoe, ngủ thì mụ bà dạy cười, thức thì huơi tay chòi cẳng, vợ chồng say sưa hạnh phúc, quên hết cảnh hẩm hiu, bần hàn. Vui được chừng mươi bữa, rồi không hiểu tại sao mà chị Hoà ăn cơm không biết ngon, lại còn thêm chứng nóng lạnh. Thái mua thuốc hoàn thuốc tán cho vợ uống mấy bữa không thấy công hiệu chút nào. Anh biểu vợ phải bồng em ra tiệm thuốc cho thầy coi mạch đặng hốt thuốc thang mà uống. Chị Hòa nói sợ tốn tiền nên nói đau sơ sịa ít bữa rồi mạnh, cần gì phải uống thuốc. Đã không có thuốc bổ để tiếp dưỡng sức khoẻ lại thêm nóng lạnh, miệng đắng nên mỗi bữa ráng lắm mới ăn được một chén cơm mà thôi, tự nhiên chị Hòa phải ốm, nước da phải mét. Mà đàn bà cho con bú hễ thiếu sức khoẻ thì sữa phải giảm. Sữa của Hòa lại giảm nhiều. Con nhỏ sanh tuy mới 20 ngày, nhưng không có đủ sữa cho nó bú nên ban đêm nó thức khóc hoài, làm cho Hòa phải bồng nó ngồi mà dỗ. Thái thấy vợ bịnh mà nghỉ không được nên mặc dầu không có tiền nhiều, đến chúa nhựt anh ép vợ bồng con đi với anh ra tiệm thuốc đặng thầy coi mạch hốt thuốc thang cho vợ uống. Uống liên tiếp ba bốn thang mà bịnh vẫn còn bịnh. Anh Thái đem toa ra than phiền với ông thầy thuốc. Ông đổi toa mới và uống luôn ba thang nữa, bịnh cũng trơ trơ, trưa cũng en en lạnh trùm mền rồi nóng ăn cơm không biết ngon, không đủ sữa con bú. Mỗi buổi đi làm về, Thái thấy vợ đau rề rề con khóc nhề nhệ, anh châu mày nhăn mặt, đi vo gạo nấu cơm, mà bận lòng rối trí muốn điên. Trong túi còn có mấy đồng bạc, nhưng ăn cơm rồi anh tuốt ra chợ mua một hộp sữa bò, một cái ve với cái núm vú rồi đem về khuấy sữa đổ vô ve cho con bú. Con nhỏ khát sữa nên nó chầm bú no bụng rồi nằm êm mà ngủ. Thái khuấy luôn một chén nữa rồi bưng ra ép vợ uống, anh ta nói ăn cơm không được thì uống sữa nó bổ cũng như cơm. Mời các bạn đón đọc Chị Đào Chị Lý của tác giả Hồ Biểu Chánh.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người tình Hoa Bắc - Marguerite Duras
7 năm sau thành công với “Người tình”, Marguerite Duras một lần nữa trở lại với câu chuyện tình yêu ám ảnh giữa cô bé người Pháp mới lớn và chàng thanh niên Trung Hoa. Tiểu thuyết “Người tình Hoa Bắc” của bà vừa được xuất bản bằng tiếng Việt. Mở đầu cuốn Người tình Hoa Bắc, Duras viết: “Tôi được biết anh ấy đã qua đời. Đó là vào tháng 5/1990, cách đây một năm. Tôi chưa bao giờ từng nghĩ đến sự ra đi của anh ấy. Người ta còn nói với tôi rằng anh được an táng tại Sa Đéc, rằng ngôi nhà màu xanh vẫn luôn ở chỗ đó, nơi gia đình và con cái anh cư ngụ”. Cuốn sách ra đời năm 1991 - một năm sau khi ông Huỳnh Thủy Lê - nguyên mẫu người tình của nhà văn mất. Cái chết của ông dường như đã làm sống dậy những ký ức đã trôi qua hơn nửa thế kỷ trong tâm hồn cô bé da trắng. Một lần nữa khai thác lại mối tình cũ, nhưng theo dịch giả Lê Hồng Sâm, Người tình Hoa Bắc thể hiện những cảm nhận khác biệt về nhân vật, về lối viết. Theo bà, nhân vật người tình trong cuốn tiểu thuyết thứ hai của Duras “táo bạo hơn, cường tráng hơn, tuấn tú hơn”. Nếu như trong cuốn Người tình, nhà văn trao nhiều quyền chủ động chèo lái chuyện yêu cho cô gái 15 tuổi thì ở tác phẩm mới này, người tình Trung Hoa đã bớt rụt rè, bớt mặc cảm chủng tộc hơn. Bà Lê Hồng Sâm tỏ ra ngạc nhiên khi mà Người tình Hoa Bắc - được viết 60 năm sau khi Duras rời khỏi Việt Nam - vẫn tái hiện được những ký ức đầy sống động về xứ sở Đông Dương trong vẻ đẹp của những đêm mùa khô, của những cơn mưa gió mùa, của mênh mang đồng ruộng, của xóm ghe thuyền, của bầy trẻ đánh xe trâu, của màu chiếc quần lụa đã nhợt nhạt. Người tình Hoa Bắc khác biệt với Người tình còn ở tính chất kép của tác phẩm. Nhà văn xác định: “Đây là một cuốn sách. Đây là một bộ phim”. Chuyên gia văn học Trần Hinh cũng phát hiện ra tính chất lai tạo giữa văn học và điện ảnh trong tác phẩm của Marguerite Duras. Ông cho rằng, Duras phải chăng không hài lòng với các nhà làm phim Người tình chăng nên với Người tình Hoa Bắc, bà muốn tạo nên một cuốn tiểu thuyết có khả năng đọc như một kịch bản phim? ***     Marguerite Duras (1914 - 1996) tên thật là Marguerite Donnadieu. Năm 1943, bà đổi tên thành Marguerite Duras theo tên một làng vùng Lot-et-Ga-ronne, nơi có ngôi nhà của cha mẹ bà. Bà sinh tại Gia Định, Đông Dương (thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Cha là giáo sư toán mở đồn điền nhưng thất bại, lâm vào cảnh nợ nần và mất năm Marguerite mới lên bốn tuổi. Mẹ bà là giáo viên tiểu học, sau được bổ nhiệm làm hiệu trưởng Trường Escole de jeunes filles ở thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp (trường Tiểu học Trương Vương ngày nay). Mẹ bà ở vậy nuôi bà người con trong cảnh khốn khó. bà có một người anh nghiện ngập và người em thì quá yếu đuối. Trải qua tuổi thơ và thời thiếu niên ở Việt Nam, nhưng kỷ niệm nơi đây đã gợi nhiều cảm hứng và in đậm trong các tác phẩm của bà. Năm mười tám tuổi, Duras trở về Pháp. Sau khi học toán, luận và khoa học chính trị, bà làm thư ký tại bộ Thuộc địa từ năm 1935 tới năm 1941. Năm 1950, Duras được biết tới lần đầu tiên với cuốn tự truyện Un barrage contre le Pacifique. Những tác phẩm sau này của bà đã góp phần làm mới cho thể loại tiểu thuyết. Năm 1984, Duras đoạt giải thưởng Goncourt với người tinh (l’ Amant), cuốn tiểu thuyết viết về cuộc tình nông nàn và lãng nạm giữa bà với điền chủ gốc hao giàu có, Huỳnh Thủy Lê, tại Sa Đéc. Người tình là một thành công lớn, đã được dịch ra hơn bốn mươi thứ tiếng và được dựng thành phim năm 1992. Tác phẩm của Duras bao gồm khoảng bốn mưới tiểu thuyết và mười vở kịch. Bà cũng đã thực hiện nhiều bộ phim, trong đó có India Song và Les- enfants. Cuộc đời của bà giống như một cuốn tiểu thuyết. Bà không ngừng viết vê những câu chuyện về nỗi đau, về bão tố, rượu và những nỗi muộn phiền, về những lời nói và cả sự im lặng... Những tác phẩm đầu tay của Duras thường được viết theo một dạng nhất định (tính chất lãng mạn của chúng đã từng bị nhà văn Raymond Quene-au chỉ trích), nhưng kể từ Monderato Cantabile, bà đã thử những lỗi viết mới, đặc biệt là cắt bổ những đoạn văn dài nhằm làm tăng tầm quan trọng của những gì không được viết ra. bà được xếp vào phong trào tiểu thuyết mới trong văn học Pháp. Các phim của bà cũng mang tính chất thực nghiệm, thường tránh dùng âm thanh thu cùng hình ảnh mà dùng lời của người kể truyện, nhưng không phải để kể lại mà để ám chỉ những chuyện có thể xảy ra với các hình ảnh đó. Năm 1989, bà được trao Giải quốc gia Áo cho Văn học châu Âu. Marguerite Duras mất ngày 3 tháng 3 năm 1996 ở paris, được chôn cất tại nghĩa trang Montparnasse. Trên bia mộ của bà khắc hai đóa hoa và hai chữ viết tắt M.D. của tên tuổi Marguerite Duras cùng hai tấm chân dung, một khi còn trẻ và một khi đã già. BachvietBooks Mời các bạn đón đọc Người tình Hoa Bắc của tác giả Marguerite Duras.
Thời Thơ Ngây - Edith Wharton
Thời thơ ngây (tên gốc là The Age of Innocence) là tiểu thuyết thứ mười hai của bà. Tác phẩm đạt giải Pulitzer năm 1921, giúp Edith Wharton trở thành nhà văn nữ đầu tiên giành giải thưởng này. Cuốn sách kể về câu chuyện của một cặp đôi thuộc tầng lớp thượng lưu xã hội Mỹ đang chuẩn bị kết hôn. Newland Archer, một luật sư hào hoa và là người thừa kế của một trong những gia đình có danh tiếng bậc nhất ở New York lúc bấy giờ, đang háo hức chuẩn bị cho đám cưới mơ ước của mình với tiểu thư May Welland xinh đẹp. Đúng vào thời điểm ấy, nữ Bá tước Ellen Olenska, cô chị họ xinh đẹp của May trở về từ châu Âu sau tin đồn ly hôn với một Bá tước người Ba Lan. Ban đầu, Archer lo lắng vì tai tiếng của cô có thể ảnh hưởng đến May Welland nhưng dần dần anh lại bị Ellen- người coi thường những quy định hà khắc của xã hội New York thu hút. Tình cảm anh dành cho nữ Bá tước ngày càng sâu đậm và điều đó có thể làm hủy hoại đám cưới của anh và May. Điều gì sẽ xảy ra? Liệu Ellen có dành tình cảm cho anh? Đứng giữa cô dâu tương lai và tình yêu định mệnh của cuộc đời, anh sẽ lựa chọn như thế nào? Bằng giọng văn châm biếm và hài hước, Edith Wharton đã tái hiện lại xã hội New York vào những năm 70 của thế kỉ XIX với những lề thói cổ hủ, lạc hậu, cái xã hội khiến con người ta không thể sống thật với bản chất, tình cảm của mình. Đồng thời, người đọc cũng cảm nhận được tài năng của bà qua cách bà miêu tả mối tình lặng lẽ của Ellen và Archer. *** Edith Wharton sinh ngày 24-1-1862 tại số nhà 14, Đường Hai mươi ba Tây, Thành phố New York. Bà là con gái duy nhất trong một gia đình có quá đông con trai thuộc tầng lớp thượng lưu giàu có, từng được bà miêu tả vào năm 1933 như một “trung tâm quý tộc thu nhỏ… một xã hội mà tất cả những người buôn bán đều bị loại ra như một điều đương nhiên” (Hồi ký, 1.3). Bà là nữ tiểu thuyết gia đầu tiên đạt giải Pulitzer. Ngoài ra, bà cũng viết truyện ngắn và là một nhà thiết kế. Bà từng được đề cử giải Nobel Văn học năm 1927,1928 và năm 1930. Wharton kết nối quan điểm của bà về các tầng lớp đặc quyền trong xã hội Mỹ với trí thông minh bản năng xuất sắc để tạo nên những tiểu thuyết và truyện ngắn hài hước, sâu cay về vấn đề xã hội và tâm lý. Bà cũng quen biết nhiều cây bút văn chương cũng như những chính trị gia thời đó, trong đó có cả Tổng thống Theodore Roosevelt. Hồi còn nhỏ, bà đã phản đối những chuẩn mực về ăn mặc và lễ nghi dành cho con gái lúc bấy giờ. Bà cho rằng những yêu cầu đó là cứng nhắc và thiển cận. Edith muốn nhận được nhiều hơn từ nền giáo dục, bởi vậy bà đọc sách từ thư viện của bố và những người bạn của ông. Mẹ của bà ngăn cấm bà đọc tiểu thuyết cho đến khi kết hôn và Edith đã tuân theo. Edith bắt đầu làm thơ và viết tiểu thuyết từ khi còn nhỏ. Bà thử viết tiểu thuyết từ khi mười một tuổi. Tác phẩm đầu tiên được phát hành của bà là bản dịch từ một bài thơ bằng tiếng Đức có tên “What the Stones tell” của Heinrich Karl Brugsch và bà kiếm được 50 đô la. Lúc đó, bà mới mười lăm tuổi. Gia đình bà không muốn tên của bà xuất hiện ngoài công chúng bởi vì tên của phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu chỉ xuất hiện trên mặt báo để thông báo về sự ra đời, kết hôn hay từ trần. Do vậy, bài thơ được phát hành dưới tên một người bạn của bố bà, E. A. Washburn. Ông đóng vai trò quan trọng trong nỗ lực tự học của bà, và ông đã khuyến khích bà theo đuổi nghiệp viết chuyên nghiệp. Ngoài viết tiểu thuyết, Wharton đã sáng tác hơn 85 truyện ngắn. Bà cũng là một nhà thiết kế và bà cũng viết nhiều sách về thiết kế, bao gồm tác phẩm đầu tiên được phát hành của bà. Bà mất ngày 11-8-1937 sau một cơn đột quỵ tại Pháp.   Mời các bạn đón đọc Thời Thơ Ngây của tác giả Edith Wharton.
Ông Hoàng Xứ Kahel - Tierno Monénembo
“Qua những cuộc phiêu lưu của một nhà tiên phong Pháp, tiểu thuyết gia gốc Guinée đã lần ngược lại những biến cố và đổ nát của vương triều Peul ở Fouta-Djalon. Tác phẩm được viết dưới một tài năng tuyệt vời về viễn tưởng và hư cấu mạch lạc giữa Lịch sử và Danh phận, lịch sử của một Phi châu hiện đại có thể nhìn về quá khứ của mình mà không rơi vào thuyết máy móc phân biệt giữa Da Trắng và Da Đen.  *** Qua những trang hơi khó đọc của phần đầu tác phẩm, thì bạn đọc dễ dàng bị cuốn hút bởi biên độ trí tưởng tượng sử thi, kết hợp giữa các trò cười của cuộc sống và linh cảm bất thường đáng lo ngại của cuộc chiến tranh giữa các nền văn minh trong chế độ thuộc địa.” • Đài RFI “Với cuốn tiểu thuyết pha trộn giữa cuộc sống và những tìm hiểu sâu rộng về tư liệu, Tierno Monénembo đã miêu tả chặng đường đi tìm và thiết lập vương quốc của một con người kỳ tại, lập dị nhưng rất đáng mến của thế kỷ XIX.” • Tạp chí Văn Học “Một tác phẩm dữ dội đề cập đến thảm cảnh và những thăng trầm của lịch sử châu Phi…” • Tạp chí Nouvel Observateur “Đấng Tối cao đã sinh ra họ màu đen để cho những cú bị đánh không bị nhìn thấy được.” • Olivier De Sanderval *** Tierno Monénembo, tên thật là Thierno Saïdou Diallo, sinh ngày 21-7-1947, ở Porédaka ở Guinée. Ông là một nhà văn thuộc khối Pháp ngữ. Năm 1969 ông đã bỏ trốn khỏi chế độ độc tài Sékou Touré. Ông đã chạy bộ gần 150 kilomet để đến Sénégal. Ông theo học Y khoa tại Dakar, rồi sau đó đến Bờ Biển Ngà (Côte d’Ivoire) và tại đây, ông bắt đầu theo học ngành Sinh Hóa và tiếp tục ngành này tại Pháp vào năm 1973, ông bảo vệ thành công luận án tiến sỹ tại trường đại học Lyon. Ông đến Algérie và Maroc giảng dạy một thời gian. Từ năm 2007, ông là giáo sư danh dự của Middlebury College tại vùng Vermont, Hoa Kỳ. Có thể nói lang thang viễn xứ là trọng tâm cuộc đời và tác phẩm của người con tộc Peul này. Ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên Những chú cóc-trảng bụi năm 1979. Bảy năm sau, ông cho ra đời tác phẩm Những chiếc vẩy tê tê của bầu trời và đoạt giải Grand Prix của châu lục Đen. Năm 1991, cuốn Giấc mơ hữu ích cũng ra đời dưới ngòi bút của ông. Đến nay, ông đã hoàn thành mười cuốn tiểu thuyết. Và cuốn Ông hoàng xứ Kahel đã vinh dự được trao giải Renaudot, một phần thưởng danh giá trong làng văn học Pháp.   Mời các bạn đón đọc Ông Hoàng Xứ Kahel của tác giả Tierno Monénembo.
Cô Hầu Bàn của Hoàng Tử - Sarah Morgan
“Làm cho Hoàng tử vui lòng”   Khi cô nàng phục vụ đồng trinh tên Holly ngã vào vòng tay của Hoàng tử nổi tiếng là một playboy thứ thiệt thì danh tiếng xấu xa đã được chàng làm ‘sống dậy’ khi lên giường với cô nàng- và sau đó đã bỏ rơi nàng!   “Mong chờ tình phụ tử từ Hoàng tử”   Holly đang mang thai! Casper rất tức giận; cô ả đích thực chỉ là muốn làm kẻ ‘đào mỏ’, nhưng theo nghi lễ của hoàng gia đòi hỏi chàng phải cưới ả làm vợ!   “Hôn lễ theo lệnh của hoàng gia”   Nàng Holly vô tội đã có đám cưới như trong mơ- và Casper biết rằng nhiệm vụ đầu tiên của cô nàng sau khi làm vợ chính là ‘thoả mãn’ chàng trong đêm tân hôn của họ… Mời các bạn đón đọc Cô Hầu Bàn của Hoàng Tử của tác giả Sarah Morgan.