Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sáu Đợt Thức Tỉnh

Maria Arena là một bản sao vô tính. Sau mỗi lần chết đi, cô sẽ lại “thức tỉnh” trong một thân xác trẻ trung, sở hữu ký ức của mọi “kiếp đời” trước. Do vậy, cô cùng năm bản sao khác đã được bổ nhiệm làm phi hành đoàn của tàu vũ trụ Dormire, thực hiện chuyến bay dài mấy thế kỷ để lên định cư trên hành tinh Artemis tươi đẹp. Bỗng một ngày, Maria cùng phi hành đoàn thức tỉnh giữa một bể máu. Cả sáu vừa bị giết, máy móc trên tàu thì đã bị phá hoại, và không ai nhớ chuyện gì đã xảy ra hết, thậm chí còn chẳng nhớ gì về nhau. Nguy hiểm hơn, thủ phạm hẳn phải là một người trong nhóm bọn họ. Kẻ ấy vẫn đang rình rập, chờ thời cơ ra tay lần nữa… Sáu đợt thức tỉnh tên gốc là Six Wakes, một cuốn trinh thám với bối cảnh tương lai của Mur Lafferty. Truyện từng lọt danh sách đề cử các giải lớn năm 2017 như Hugo, Nebula, Goodreads Choice, và được mệnh danh là "10 người da đen nhỏ ngoài vũ trụ." --- REVIEW TỪ BẠN ĐỌC: 9.0/10 Đây là một cuốn Sci Fi vừa có tính giải trí rất cao thông qua việc đi giải mã một vụ thảm sát đầy lắt léo trên tàu vũ trụ, đồng thời còn giúp khơi gợi suy tư thông qua những bình luận cực kỳ sâu sắc về sức ảnh hưởng của một trong những thứ công nghệ mang tính bước ngoặt. Truyện pha trộn rất hài hoà các mô típ của trinh thám và Sci Fi, thế kể cả nếu chỉ đọc được một trong hai dòng này, chắc chắn bạn sẽ không thất vọng với Sáu đợt thức tỉnh. ~ Long Nguyen (Admin cộng đồng Hội thích truyện Sci Fi trên Facebook)   Đánh giá: 8/10đ (Hay. Đặc biệt. Đáng suy ngẫm). Đọc những chương đầu tiên trong tôi bùng nổ một cảm giác phấn khích kỳ lạ, nội dung mở màn thú vị tới mức tôi cứ suy nghĩ: "Liệu đây có phải cuốn sách hay nhất năm của mình hay không?" Mặc dù sau đó vì vướng bận công việc phải bỏ dở ít bữa nên sự lôi cuốn có phần chững lại và mạch truyện khúc giữa cũng hơi chậm, nhưng càng đọc về cuối tác phẩm càng để lại cho tôi nhiều cảm xúc và sự trăn trở quặn lòng. ~ Nguyệt Ngọt Ngào (Admin cộng đồng Hội Yêu Sách trên Facebook)   Đủ bí ẩn, đằng sau mỗi nhân vật là một câu chuyện không tưởng. Và, cốt truyện đủ bất ngờ, thật, mình chuyên đọc trinh thám, nội dung cuốn sách không được gọi là máu me nhưng đủ bất ngờ, khiến độc giả lăn đùng ngã ngửa luôn. Và âm mưu to lớn cùng ý đồ sau cùng cả cả câu chuyện sẽ là Hô hô, mình không nói đâu.  ~ Trang Đào (Admin cộng đồng Bình Thư Quán trên Facebook)   4/5 Phần đầu và cuối hấp dẫn, vậy đoạn giữa là gì? Là backstory của từng nhân vật, và các đoạn đối thoại liên tục. Có thể người đọc sẽ đôi lúc chán nản, nhưng đừng quên trong một tác phẩm trinh thám, tác giả thường không vô cớ đưa vào những chi tiết thừa, tất cả đều có lý do của nó.  ~ xuxudocsach (review trên Instagram)   Thể loại: Khoa học viễn tưởng – Trinh thám. Điểm: 9.5/10 Có thể nhiều người sẽ cho rằng “Sáu đợt thức tỉnh” chỉ là một quyển sách để giải trí, nhưng Biển ngộ ra được một số giá trị nhân văn mà (chắc là) tác giả muốn gửi gắm: sự tôn trọng sinh mệnh – kể cả sinh mệnh của bản sao vô tính, sự tôn trọng nhân quyền và tư duy của người khác, tội lỗi cay đắng và sự tha thứ nhẹ nhõm, hận thù và yêu thương. Đọc đến trang 467 thì Biển mỉm cười sung sướng, cảm thấy thật đáng công đọc từ đầu đến đó. Tha thứ thật sự quá khó, nhưng nếu làm được thì thanh thản biết bao, mà nếu không làm được thì cứ coi kẻ thù như không khí đi.  ~ Camellia Phoenix (review trong cộng đồng Hội thích truyện trinh thám trên Facebook)   3.5/5 Nhìn chung Sáu Đợt Thức Tỉnh là một cuốn trinh thám khá ổn, đặc biệt dành cho bạn nào thích khoa học viễn tưởng hay lập trình máy móc các kiểu đan xen một chút trinh thám thì okay, cuốn này đúng là dành cho bạn luôn. Dịch giả dịch siêu có tâm, tớ còn bị ấn tượng với dịch giả hơn cả nội dung sách ý huhu. ~ neverblossom (review trên Instagram)   Điểm: 9,5/10 Đây là một cuốn truyện rất hay, cả về khía cạnh trinh thám lẫn viễn tưởng. Dù có một hai lỗi đánh máy nhưng nội dung cuốn đến mức đọc bỏ qua sạch luôn. Dù bạn muốn một cuốn trinh thám bí ẩn và lắt léo với những nhân vật có chiều sâu hay một cuốn du hành không gian kỳ thú với những pha hành động đầy kịch tính hay thậm chí là một quyển sách triết lý sâu sắc nhưng không kém phần hài hước và cảm động về những khía cạnh xã hội lớn lao cũng như mối quan hệ giữa con người và công nghệ, chắc chắn đây sẽ là quyển hợp với bạn. ~ Ngoc Anh Nguyen (review trong cộng đồng Nhã Nam reading club trên Facebook)   5/5 Kéo full điểm luôn không cần phải bàn cãi  ~ Mai Nguyễn (review bản tiếng Việt trên Goodreads)   Điểm tổng: 4/5. Rất đáng đọc. Đây có lẽ là một trong những cuốn trinh thám mật thất lạ thường và cuốn hút nhất mình được đọc trong năm nay. Truyện mở ra trong một bể máu: 6 bản sao vô tính trần truồng thức dậy trên một con tàu vũ trụ, và thấy trôi lềnh bềnh xung quanh mình là máu, rất lắm máu, phòi ra từ những cái xác đã bị sát hại dã man. Lúc khám nghiệm xác, họ giật mình nhận thấy đây là xác của… chính họ. ~ Long Tran (review trong cộng đồng Người Đọc Sách trên Facebook) ***   Tác giả: Mur Lafferty. Dịch giả: Nguyễn Thành Long Thể loại: Trinh thám, Khoa học giả tưởng “Tôi phát ngấy cái giọng điệu đấy rồi. Suốt bao thế kỷ nay cứ phải nghe đi nghe lại. Đóng vai Chúa. Wolfgang, chúng ta đã đóng vai Chúa từ hồi thiên hạ còn tin mình có thể định đoạt giới tính cho con nếu làm tình chuẩn tư thế. Chúng ta đóng vai Chúa lúc phát minh ra ngừa thai, chọc ối, mổ lấy thai, lúc phát triển y học và phẫu thuật hiện đại. Bay là đóng vai Chúa. Chống ung thư là đóng vai Chúa. Kính áp tròng và kính gọng là đóng vai Chúa. Bất cứ hành động nào khiến cuộc sống của ta đổi khác so với thuở khai sinh là đóng vai Chúa. Thụ tinh trong ống nghiệm. Liệu pháp thay thế nội tiết tố. Phẫu thuật sửa đổi giới tính. Kháng sinh. Tại sao anh chấp nhận hết tất cả những thứ ấy, nhưng lại thấy sao chép vô tính có vấn đề?” Lúc cuốn này mới ra, không hiểu sao Biển cứ nhầm nó với “Đợt tuyệt chủng thứ 6”, thế là suốt một thời gian dài không đọc vì nghĩ nó thuộc thể loại sách học thuật khó nhằn. Đến khi được chính dịch giả comment trên một bài đăng thì Biển mới biết “Sáu đợt thức tỉnh” là trinh thám và chẳng liên quan gì đến tuyệt chủng, à chắc cũng có liên quan chút chút, vì bối cảnh truyện này là vào thế kỷ 25, diễn ra ngoài vũ trụ, lúc đó chắc có thêm một số loài đã tuyệt chủng trên Trái Đất. Sau khi đọc lần đầu và rung động vì độ hay của truyện, Biển chờ vài năm để quên bớt nội dung rồi đọc lại lần nữa, biết rằng mình sẽ hiểu sâu hơn và có thêm nhiều cảm nhận vừa giống vừa khác với lần đọc đầu. Ngày 25-7-2493 (đúng 472 năm tính từ ngày Biển đọc cuốn này lần 2), trên con tàu vũ trụ Dormire dài ba dặm rưỡi và đường kính một dặm rưỡi, bản sao của cô lao công Maria Arena tỉnh dậy trong khoang sao chép, xung quanh là xác chết năm đồng đội khác, bao bọc bởi hàng chục lít máu và các giọt chất lỏng độc hại sinh học khác đang trôi nổi trong môi trường vô trọng lực. Các đồng đội của Maria gồm Thuyền trưởng, Phi công kiêm Hoa tiêu, Sĩ quan Y tế kiêm Bác sĩ, Kỹ sư trưởng và Trưởng ban An ninh của tàu Dormire. Sau khi bản sao của năm người còn lại được thức tỉnh, họ nhận ra rằng tất cả đều đã chết hoặc bị giết gần như cùng lúc theo nhiều cách khác nhau, khi tàu Dormire đã rời Trái Đất được 25 năm và đang trong chuyến hành trình đến hành tinh Artemis – dự kiến là chốn định cư mới của phi hành đoàn cùng các bản sao và người thường chở theo trên tàu. Khoang sao chép đã hư hại, đồng nghĩa với việc họ chỉ còn bản thể duy nhất đang có chứ không thể tái sinh để sống tiếp. Trong bối cảnh kinh hoàng ấy, phi hành đoàn chật vật phục hồi lại môi trường sinh hoạt trên tàu đồng thời không bỏ qua nổi cảm giác nghi kỵ lẫn nhau, không biết rằng liệu người đang đứng bên ta đây có phải chính là người đã giết ta trong kiếp sống trước không. Ngoài lý do ban đầu là nhầm lẫn “Sáu đợt thức tỉnh” với “Đợt tuyệt chủng thứ sáu”, thêm một lý do khác khiến lúc đầu Biển ngần ngại đọc là vì cuốn này thuộc thể loại khoa học viễn tưởng. Biển sợ nó khó hiểu. Nhưng khi đã đọc rồi thì thấy đây là một truyện trinh thám rất dễ hiểu và hấp dẫn, thậm chí có thể nói đây là trinh thám cổ điển (điều tra dựa vào suy luận chứ không dựa vào khoa học kỹ thuật), vì tuy bối cảnh truyện là vào thế kỷ 25 trên một con tàu vũ trụ đang bay ngoài không gian nhưng trong cả truyện không hề áp dụng xét nghiệm nhóm máu, tìm dấu vân tay hay khám nghiệm pháp y… Các nhân vật chính sau khi sống lại nhờ đợt sao chép cuối cùng thì sinh hoạt tiếp dựa vào lịch sử sao lưu các dữ kiện của bản thân và người khác, phần lớn đã bị mất / xóa trắng do sự hư hại của IAN – Mạng Trí Tuệ Nhân Tạo đảm nhận nhiệm vụ duy trì sự sống và hoạt động cho mọi sinh vật và đồ vật trên tàu, bao gồm bản thân con tàu. Nếu coi tàu Dormire như một không gian khép kín (thực chất là vậy mà) thì truyện này kể về sáu vụ án mạng trong phòng kín. Thường thì Biển không mặn mà lắm với motip “án mạng phòng kín” (nhưng lại thích mấy cuốn Quán của Yukito Ayatsuji) nhưng cách tác giả xử lý cốt truyện trong “Sáu đợt thức tỉnh” thật sáng tạo và lôi cuốn, đúng kiểu ‘sự đơn giản làm nên vẻ đẹp’. “Lý thuyết” về sao chép người trong truyện này rất thú vị và dễ hiểu: Khi Biển qua đời, những gì chứa trong bộ não – có thể gọi là linh hồn, tâm tư, ký ức – được “đóng gói” thành não đồ và lưu vào một ổ cứng rời. Thân xác đã chết sẽ được cho vào máy tái chế và phục hồi lại ở độ tuổi như mong muốn, bằng một dung dịch tên là Lyfe. (Vâng, Life. Sự Sống). Sau đó não đồ sẽ được các chuyên viên lập trình (trong truyện này hầu hết bị gọi chung là “hacker”) tải trở vào thân thể mới. Bằng cách này, Biển sẽ không bao giờ chết, liên tục được tái sinh trong thân thể thanh xuân, với ký ức của TẤT CẢ những kiếp sống cũ, với điều kiện ký ức – não đồ đó không bị hacker can thiệp trước khi tải vào thân thể. Các bản sao sẽ được triệt sản, tài sản được tích góp qua các kiếp đời. Cách dùng công nghệ sao chép để có sự sống bất tử này là tác giả Mur Lafferty lấy ý tưởng từ một game mô phỏng không gian tên Faster Than Light. Trong truyện, công nghệ sao chép vô tính này bị phản đối kịch liệt bởi các tổ chức tôn giáo. Nếu nó tồn tại ngoài thực tế, Biển tin rằng nó cũng sẽ bị chống đối, lãnh lấy rất nhiều công kích và gây nên nhiều cuộc bạo loạn với tổn hại vô cùng lớn. Riêng ý kiến cá nhân thì Biển đồng tình, ủng hộ và sẵn sàng tham dự. Thường với những cuốn trinh thám có nhiều đoạn dài dòng về khoa học kỹ thuật thì Biển hay lướt, thậm chí ngay cả sách của hai tác giả yêu thích là Dan Brown và Jeffery Deaver mà Biển còn lướt, nhưng với “Sáu đợt thức tỉnh” là một cuốn trinh thám khoa học giả tưởng nhưng Biển không hề lướt một đoạn nào, bởi vì suốt truyện không hề có đoạn nào đậm chất khoa học kỹ thuật lê thê dài dòng cả. Mỗi câu đều cần thiết, mỗi đoạn đều đáng giá, mỗi chương đều hấp dẫn, cuối chương không dùng “mánh lới” thu hút nhưng vẫn thành công níu người đọc phải nhanh chóng giở đến chương tiếp theo. Với một phụ nữ nghiện game thì tác giả viết được cuốn tiểu thuyết như vậy là quá xuất sắc (không biết câu này có thể hiện thành kiến không nên có nào trong tiềm thức của Biển về việc “nghiện game” hoặc với giới tính nữ không!). Sau khi đọc “Sáu đợt thức tỉnh” của Mur Lafferty và hai cuốn đã xuất bản tiếng Việt của Chan Ho Kei thì Biển có một ‘thành kiến tốt’ rằng chả lẽ những ai đam mê công nghệ máy tính / làm trong ngành IT + có kỹ năng văn chương thì sẽ viết được những quyển sách rất ấn tượng? Sẽ thiếu sót nếu trong review không nói đến các nhân vật chính của truyện. Ở hầu hết các khía cạnh thì Biển nhận thấy mình khá trùng hợp với nữ chính Maria Arena (là lao công, thích nấu ăn, thích pha trà, mê trai Nhật – à có thể bỏ điều cuối cùng). Mỗi nhân vật có lai lịch và tính cách khác biệt, tất cả đều là những bản sao của chính mình, đã mấy trăm tuổi và trải qua nhiều kiếp sống thăng trầm đến nỗi canh Mạnh Bà cũng không giúp quên được những ký ức đau thương. Ngoài thích nữ chính vì kiêu ngạo cho rằng mình giống cô ấy, Biển còn thích cả chàng trai Nhật Akihiro Sato với khả năng chọc cười tinh tế và nhân vật IAN với kiểu nói chuyện rất “người”, tương tự như khi Biển thích Winston trong cuốn “Nguồn Cội”. Dẫu biết AI rất nguy hiểm nhưng không hiểu sao Biển luôn mê đắm chúng một cách mù quáng…. ____ Dành cho các tâm hồn lãng mạn, “Sáu đợt thức tỉnh” có ẩn chứa tình cảm lứa đôi, không cần quá tinh ý để phát hiện được, và cách viết của tác giả sẽ gieo rắc không ít hy vọng vào sự nảy nở tươi đẹp của (các) mối quan hệ này. Lần đầu Biển đọc “Sáu đợt thức tỉnh” đúng kiểu lần đầu làm chuyện ấy, cảm giác rất mới mẻ hồi hộp do liên tục không biết “chuyện này sẽ đi tới đâu”. Đến lần đọc thứ hai, do vẫn còn hơi nhớ cốt truyện nên Biển tưởng sẽ bớt thú vị. Nhưng không, sự thú vị và dòng chảy cảm xúc vẫn diễn ra với cách thức khác. Biển “bắt” được nhiều chi tiết mà lần đầu đọc đã bỏ qua, phát hiện thêm một điều khó hiểu để đem ra chất vấn dịch giả và đã được trả lời đầy đủ tính thuyết phục. Như thường lệ, sau nội dung chính thì Biển hứng thú đọc kỹ những Lời Bạt / Lời cảm ơn, trong cuốn này là phần phỏng vấn tác giả, và mức độ ưa thích đối với tác phẩm càng tăng lên. Biển rất mong chờ cuốn này được chuyển thành phim, nếu vào tay một vị đạo diễn tài năng thì chắc chắn nó sẽ là một tác phẩm điện ảnh hoành tráng đáng nhớ. Vì đọc với niềm yêu thích mù quáng nên Biển chả nhớ có lỗi chính tả hay lỗi đánh máy nào không (đoan chắc 99% là không có). Một trong những niềm dzui lớn khi đọc sách là mình có thể trực tiếp liên hệ với tác giả hoặc dịch giả để hỏi khi không hiểu, hoặc càm ràm khi không ưng ý (!)… điều mà Biển đã hai lần làm khi đọc “Sáu đợt thức tỉnh”. Thành thật mà nói thì bìa hơi xấu và tựa sách khó nhìn nhưng não đồ của Biển chưa đủ phong phú để nghĩ ra thiết kế bìa khác cho nó. Vì lý do cá nhân mà Biển có hai cuốn này và đã tặng một cuốn cho anh công an khu vực của mình. Biển sẽ mua thêm trong khả năng của mình để tặng, vì đây là một quyển trinh thám tuyệt vời rất đáng để quảng bá. Nội dung truyện này cũng tình cờ là cặp đôi hoàn hảo với bản nhạc mà Biển thích nhất: (Sea, 5-8-2021) Cáo Biển Non Xanh Reviewer: Điền Yên ——- Cơ sở khoa học của cuốn sách này rất thú vị. Nó thỏa mãn cuồng vọng bất tử của con người. Mỗi khi ta chết đi, một bản sao vô tính của ta sẽ được thức tỉnh, vào giai đoạn sung mãn nhất đời ta, ví dụ như tuổi đôi mươi. Hơn nữa, nó còn kế thừa trí nhớ của tất cả các kiếp trước. Thời gian và cái chết chẳng còn tí uy hiếp nào nữa. Sáu đợt thức tỉnh là câu chuyện về 6 thành viên phi hành đoàn. Họ thức tỉnh và nhận ra toàn bộ phi hành đoàn đã bị giết (nếu không thì họ đã chả thức tỉnh). Nhưng ai lại là người giết sạch bọn họ, khi mà chỉ có 6 người với nhau? Ai cũng đáng nghi. Ai cũng có bí mật của mình. Tấm màn che sự thật dần được vén lên. Thì ra họ không quen biết nhau trước khi lên tàu nhưng đều kết nối với nhau theo một cách thức nào đó. Đây là một tác phẩm trinh thám viễn tưởng lạ. Quá trình điều tra không phức tạp loằng nhoằng gì vì các nhâm vật đều bị khuyết trí nhớ. Manh mối để lại thì vụn vặt, chỉ đủ để chứng tỏ ai cũng không thoát khỏi liên quan. Họ khám phá ra sự thật một cách dần dần qua 6 đợt thức tỉnh. Cá nhân tôi thích cuốn này chủ yếu vì bối cảnh xã hội mà truyện xây dựng nên và cả quan điểm đạo đức của tác giả. Những người lòng tràn đầy kì thị khó đem lại điều gì tốt đẹp. Ngoài ra, qua truyện này, tôi thấy không nên gây thù với bọn lập trình Dang Thi Quynh Anh 3.5/5 Sẽ ra sao nếu như Mười Người Da Đen Nhỏ của Agatha Christie có một phiên bản với viễn cảnh xảy ra ở thì tương lai và ngoài không gian? Bùm, chúng ta có Sáu Đợt Thức Tỉnh của tác giả Mur Lafferty, một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng đan xen yếu tố trinh thám này đây. Sáu Đợt Thức Tỉnh đưa người đọc theo chân một nhóm phi hành gia gồm sáu người – với điểm nhìn chính là nhân vật Maria Arena – một bản sao vô tính. Điều đặc biệt ở Maria là sau mỗi lần cô chết đi bất kể vì lý do gì, cô sẽ lại “thức tỉnh” trong một thân xác trẻ trung, đồng thời sở hữu mọi ký ức của “kiếp đời trước”. Chính vì vậy, cô cùng năm bản sao khác cũng chính là những phi hành đoàn đã được bổ nhiệm làm một nhiệm vụ trên con tàu vũ trụ Dormire, cùng nhau thực hiện chuyến bay dài mấy thế kỷ để lên định cư trên hành tinh Artemis tươi đẹp. Tuy nhiên, mọi chuyện không được như mong đợi khi cả nhóm gồm sáu người thì tất cả đều bị giết, máy móc bị phá hoại và khủng khiếp hơn nữa là không ai nhớ chuyện gì đã xảy ra, thậm chí ký ức về nhau cũng bị xóa sạch. Nguy hiểm hơn, thủ phạm gây ra tội ác này nằm trong số họ, và kẻ ấy vẫn đang rình rập, chờ thời cơ ra tay lần nữa. Tiểu thuyết khoa học viễn tưởng vốn không phải là thể loại tớ hay đọc thường xuyên. Mặc dù vậy Sáu Đợt Thức Tỉnh một phần do bởi yếu tố hoàn cảnh lạ lùng nên có sức lôi cuốn nhất định. Có đôi khi tác giả dường như hé lộ một chút manh mối dẫn đến kẻ sát nhân, nhưng hóa ra đó cũng chỉ là đòn hỏa mù đưa người đọc dấn thân sâu hơn vào mê cung của bí ẩn mà thôi. Cách triển khai mạch truyện có phần chậm chạp và đôi chút dài dòng, nhưng tuy nhiên cách kể chuyện đó lại mang một ưu điểm: Đó là Mur Lafferty đã giúp cho người đọc khám phá ra được tất cả những thân phận hay tính cách đặc trưng, những câu chuyện riêng của từng cá nhân sáu người phi hành đoàn. Bên cạnh đó, tớ thực sự thích cái cách mà tác giả đặt vấn đề cũng như xây dựng được cốt truyện có tính liên kết chặt chẽ với nhau, cũng như Mur Lafferty đã hoàn toàn nêu bật được lên sự bối rối, sự nghi ngờ hay thậm chí cả lòng ganh ghét đố kị và rất nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau của “các bản sao” khi họ bỗng nhiên “sống dậy” trong bể máu tội ác. Cách tạo dựng không gian hay nói cách khác, là bối cảnh trôi nổi ngoài vũ trụ của Sáu Đợt Thức Tỉnh cũng là yếu tố làm tăng lên được sự thú vị cho tác phẩm. Ngoài ra công nhận một điều là tác giả có kiến thức về khoa học cũng như trí tưởng tượng phong phú vô cùng luôn và cuốn tiểu thuyết này chính là cách dể tác giả “phô diễn” ra tầng tầng lớp lớp kiến thức của mình cho người đọc. Một ưu điểm và cũng là phần tớ cực kỳ ấn tượng về Sáu Đợt Thức Tỉnh không chỉ bởi ở nội dung cuốn sách mà đó là dịch giả Nguyễn Thành Long. Thề hơn hai mươi nồi bánh chưng rồi mới thực sự thực sự thực sự x 3000 lần ưng một dịch giả đến mức độ này. Đến độ đôi khi đọc cũng phải bất giác xuýt xoa ối giời ơi anh là ai mà dịch có tâm thế. Ngôn từ sử dụng rất linh hoạt và thậm chí còn sử dụng cả những từ lóng của cộng đồng mạng cho vào Sáu Đợt Thức Tỉnh Nữa cơ. Nếu để “mạn phép” chấm điểm riêng cho phần dịch thì tớ sẽ để điểm tối đa là 5/5 luôn, dịch duyên và có tâm thế chứ lị. Mặc dù vậy, Sáu Đợt Thức Tỉnh bên cạnh những ưu điểm thì còn có điểm trừ. Đó là các cuộc hội thoại giữa các nhân vật với nhau tớ cảm thấy đôi chút gượng gạo và lắm lúc trí não thuộc ban xã hội của tớ có không kham nổi những đoạn tác giả viết về mạch vi tính hay máy móc hay mọi thức liên quan đến khoa học nên có hơi bị nản. Và sự “hơi nản” này dẫn đến việc tớ có skip một số trang nhưng không sao, vẫn hiểu rõ nội dung ngon nghẻ lắm. Ngoài ra, mặc cho sự cái “dai dài” của tác phẩm nhưng Sáu Đợt Thức Tỉnh không thực sự có yếu tố xây dựng và phát triển nhân vật, chúng ta biết họ ra sao vì tác giả miêu tả vậy chứ không được khai thác sâu. Nhưng nhìn chung Sáu Đợt Thức Tỉnh là một cuốn trinh thám khá ổn, đặc biệt dành cho bạn nào thích khoa học viễn tưởng hay lập trình máy móc các kiểu đan xen một chút trinh thám thì okay, cuốn này đúng là dành cho bạn luôn. Dịch giả dịch siêu có tâm, tớ còn bị ấn tượng với dịch giả hơn cả nội dung sách ý huhu. Bạn nào muốn đổi gió đọc Mười Người Da Đen Nhỏ ngoài vũ trụ này có thể tìm đọc em ý nha, mà bạn nào muốn trau dồi khả năng dịch thì cũng có thể tham khảo cuốn nè luôn. Neverblossom Đây có lẽ là một trong những cuốn trinh thám mật thất lạ thường và cuốn hút nhất mình được đọc trong năm nay. Truyện mở ra trong một bể máu: 6 bản sao vô tính trần truồng thức dậy trên một con tàu vũ trụ, và thấy trôi lềnh bềnh xung quanh mình là máu, rất lắm máu, phòi ra từ những cái xác đã bị sát hại dã man. Lúc khám nghiệm xác, họ giật mình nhận thấy đây là xác của… chính họ. Những cái xác ấy thực chất là cơ thể cũ của họ, còn bọn họ là các thân xác mới, vừa được đánh thức dậy sau khi cơ thể cũ chết đi. Đống xác trông rất già, chứng tỏ trước khi chết, bọn họ đã cùng nhau sống trên tàu hơn mấy chục năm. Theo lý thuyết, ký ức của cơ thể cũ sẽ được máy nhân bản copy sang cơ thể mới, nhưng tất cả các bản sao mới này chẳng nhớ gì hết. Họ thậm chí còn không nhớ mình từng đặt chân lên tàu, không nhớ mình từng gặp nhau, và đương nhiên, không nhớ ai đã giết mình. Nguy hiểm hơn, lúc kiểm tra máy móc trên tàu, họ nhận thấy sau lần sao chép cơ thể mới cho mình vừa rồi, máy nhân bản đã hỏng nặng, và đây sẽ là lần đầu thai cuối cùng trong cuộc đời nhân bản của họ. Nếu xảy ra thêm một vụ tàn sát nữa, họ sẽ chết thật, không còn thân xác mới nào để sống lại cả. Bởi vậy, phi hành đoàn 6 người này bị tống vào một cuộc đua đầy chết chóc: phải khẩn trương tìm ra hung thủ, trước khi hung thủ nhớ được mình phải làm gì. Các manh mối giúp giải mã vụ án được đưa ra dưới dạng các thông tin về công nghệ nhân bản, lịch sử tương lai của thế giới, và quá khứ của từng nhân vật. Tính cách, bí mật, tội lỗi, động cơ tiềm tàng cũng như lý do từng nhân vật xuất hiện trên tàu dần dần được hé lộ, vừa tăng thêm chiều sâu và độ hấp dẫn cho từng người, vừa góp phần đưa ra gợi ý để độc giả có căn cứ đoán hung thủ là ai, song cũng tung khá nhiều hỏa mù để thủ phạm không quá dễ đoán. Vì ban đầu cần giới thiệu thế giới tương lai nên mấy chương đầu đi hơi chậm, và có nhiều tình tiết xem chừng rời rạc, nhưng sau khi xây dựng xong nền tảng thì truyện trở nên kịch tính và sâu sắc hơn hẳn, mọi thứ được xâu chuỗi hết lại, và tất cả các tình tiết ngỡ tưởng vô nghĩa ban đầu đều được hé lộ là manh mối quan trọng. Thủ phạm không hoành tráng lắm, nhưng cũng ổn và hợp lôgic. Cách lý giải bí ẩn không vi phạm nguyên tắc căn bản nào của một tác phẩm trinh thám, chẳng hạn như không tự nhiên đưa ra tình tiết mới mà độc giả không biết, không có gì siêu nhiên, không ăn may thấy manh mối,… Lúc đọc xong và ngẫm lại, mình tin đến khoảng 2/3 truyện là sẽ có thể đoán được hung thủ nếu chịu để ý từ đầu. Đặc biệt là sau khi hung thủ bị bắt, một lời giải cho một vấn đề quan trọng khác được đưa ra một cách rất bất ngờ và tài tình, và với mình thì đây là điểm sáng nhất truyện. Điểm tổng: 4/5. Rất đáng đọc. Long Tran Mời các bạn mượn đọc sách Sáu Đợt Thức Tỉnh của tác giả Mur Lafferty & Nguyễn Thành Long (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cậu Tú - Jules Vallès
Tập II Cậu Tú chủ yếu kể lại cuộc kiếm sống chật vật của Jăc Vanhtrax ở Pari, do đó một mặt Juyn Valex vẽ lên một bức tranh khá sinh động về xã hội Pari, mặt khác ông vạch ra bước đầu đi vào hoạt động chính trị của Jăc Vanhtrax mà cũng là của bản thân ông. Chắc chẳn là khi viết về cuộc sống chật vật của Jăc Vanhtrax ở Pari, Juyn Valex đã liên hệ với cuộc sống ở Pari của những Raxtinhăc, Ruybemprê trong Tấn trò đời mà Jăc Vanhtrax gọi là những người “anh em về tham vọng và lo âu của mình”. Nhưng cái xã hội Pari của Juyn Valex có khác cái xã hội Pari của Banzăc, là vì tham vọng của Ruybeniprô, một kẻ muốn vươn tới danh vọng và giàu sang, có khác tham vọng của Jăc Vanhtrax, một kẻ bất bình muốn chống lại bất công xã hội. Ở đây hầu như vắng bóng những quý tộc hay tư sản hãnh tiến, cùng với những cảnh ăn chơi đàng điếm, xa hoa, mà phần nhiều là nhân dân lao động, là sinh viên, và nhất là những người làm chính trị, trong đó nổi bật lên nhân vật Matutxanh, một điển hình chính khách tài tử. Không khí chính trị ở đây đậm nét hơn, căng hơn trong Vỡ mộng chẳng hạn, vì là không khí sau những ngày tháng Sáu 1848, sau cuộc đảo chính 1852 của tên độc tài Napôlêông III. Cái xã hội đó, cái không khí đó đã chuyển Jăc Vanhtrax từ cái chí hướng muốn làm thợ đến chỗ dứt khoát trở thành “người chỉ huy những kẻ mặc áo rơđanhgốt (trí thức) xếp thành hàng ngũ chiến đấu bên cạnh những kẻ mặc áo bludơ (công nhân)”, đúng như lời khuyên của người công nhân già Pari mà Jăc Vanhtrax đã gặp buổi đầu khi mới bước chân tới Pari. *** Juyn Valex (Jules Vallès) là một nhà văn lớn mà cũng là một chiến sĩ kiên cường của Công xã Pari. Ông sinh năm 1832 ở thị trấn Puy (xứ Ôvecnhơ) nước Pháp và mất năm 1885 tại Pari. Xuất, thân từ một gia đình công chức, Juyn Valex ngay từ thuở bé đã là nạn nhân của một nền giáo dục gia đình khắc nghiệt cũng như một nền giáo dục nhà trường sai lầm. Cha ông làm giám thị, sau làm giáo sư trung học, tuy cũng thương con, nhưng lại là một người nhút nhát, luôn luôn lo sợ cho chức vụ của mình, do đó mà sinh ra khắc nghiệt với con, thậm chí có lần, để khỏi bị liên lụy, đã cho giam con vào một nhà thương điên sau khi Juyn Valex tham gia vào một vụ chống đối cuộc đảo chính của Napôlêông thứ III. Mẹ Juyn Valex xuất thân từ nông dân nhưng có tư tưởng hãnh tiến, học làm sang, muốn cho con làm nên danh giá, và, vì không được toại nguyện, nên trút cả nỗi cay đắng lên đầu con, roi vọt hành hạ con đến tàn nhẫn. Một mặt khác, cha Juyu Valex muốn cho con trở thành giáo sư, nhưng cậu học sinh Juyn Valex, qua tấm gương của bố, đã chán ngấy cái cảnh nhà trường do bọn phản động công giáo thời Đế chính thứ II lũng đoạn, ở đó các giáo sư vừa quỵ lụy, khúm núm trước hiệu trưởng và cấp trên, lại vừa hành hạ học trò bằng đòn và phạt, ở đó người ta dạy cho thanh niên một kiểu học tầm chương trích cú, nô lệ sách cũ người xưa, xa rời thực tế. Chính cái giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường sai lầm, tàn nhẫn ấy đã tác động mạnh tới cậu bé Juyn Valex đa cảm và sớm biến cậu thành một kẻ bất bình, môt con người nổi loạn. *** Nhưng con người bất bình ấy đã trở nên một chiến sĩ cách mạng kiên cường, thì lại là do hoàn cảnh xã hội nước Pháp lúc bấy giờ. Khi Juyn Valex sinh ra thì phong trào công nhân Pháp bắt đầu lên mạnh với công cuộc công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa bắt đầu ở nước Pháp trong những năm 30 thế kỷ XIX, và nó được đánh dấu bằng những cuộc đấu tranh và khởi nghĩa của công nhân ở Lyông (1831, 1834) và ở Pari (1832, 1834). Song giai cấp công nhân Pháp chỉ có thể trưởng thành sau khi nó đã dứt bỏ được mọi ràng buộc với giai cấp tư sản để lần đầu tiên, đứng lên như một lực lượng chính trị độc lập, trực diện đấu tranh chống giai cấp tư sản vào tháng Sáu năm 1848. Và chính là phải trải qua những ngày tháng Sáu đẫm máu ấy nó mới bước đầu rũ bỏ được ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng, của mọi thứ“chủ nghĩa xã hội tư sản và tiểu tư sản”. Tuy nhiên, những năm liền sau khi cách mạng 1848 thất bại ở châu Âu nói chung, chính là “thời đại - như Lênin đã nói,- mà tinh thần cách mạng của phái dân chủ tư sản đã suy vong rồi (ở châu Âu), trong khi đó thì tinh thần cách mạng của giai cấp vô sản xã hội chủ nghĩa chưa tới lúc già dặn” [1] . Riêng ở nước Pháp, trong thời kỳ đầu của nền Đế chính thứ II tối phản động thiết lập từ tháng Chạp 1852, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân bị lắng xuống cho mãi tới những năm 60 nó mới được phục hồi. Và với sự thành lập Chi nhánh Pháp Quốc tế thứ nhất năm 1866, một thời kỳ bão táp cách mạng mới lại mở ra để đến khi giai cấp tư sản thống trị, dưới nhãn hiệu Chính phủ Quốc phòng, đầu hàng quân xâm lược Phổ (tháng Giêng 1871), thì nó lên tới đỉnh cao với phong trào Công xã Pari thiết lập nền chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới trong bảy mươi hai ngày (18 tháng 3 đến 28 tháng 5 năm 1871). *** Juyn Valex sinh ra và lớn lên trong cái hoàn cảnh lịch sử xã hội như thế đó. Thị trấn quê hương ông ở sát cạnh những trung tâm công nghiệp như Xanh-Êchiên (nơi mà cha ông đã từng tới dạy học một thời kỳ), như Lyông, nên không khỏi nhận được âm vang mạnh mẽ của những làn sóng đấu tranh của giai cấp công nhân. Và chàng trai có chí hướng muốn làm thợ đó đã từng đi đầu trong đám thanh niên cộng hòa khi nổ ra cuộc Cách mạng tháng Hai 1848. Sau đó, khi được gia đình gửi lên Pari theo học, Juyn Vanlex, sống nghèo khổ ở thủ đô, lại đã sớm tiếp xúc với phong trào cách mạng trên mảnh đất chôn nhau của cách mạng. “Tôi đã đi vào lịch sử cuộc Cách mạng. Người ta vừa mở ra trước mặt tôi một quyển sách trong đó có nói về bần cùng và đói khát, trong đó tôi thấy diễu qua những bộ mặt làm tôi nhớ đến cha Jôdép hoặc chú Sađơna, những người thợ mộc với chiếc compa mở rộng ra làm vũ khí và những nông dân cầm chĩa sắt có vấy máu ở đầu răng. Có những phụ nữ đi tấn công Vécxay, vừa đi vừa thét lên là bà Vêlô làm nhân dân đói, và ngọn giáo có xiên ổ bánh mì đen - một lá cờ - đâm thủng các trang sách và chọc vào mắt tôi... ... Lần này thì không còn là tiếng La-tinh nữa. Họ nói: “Chúng tôi đói! Chúng tôi muốn tự do!” Tôi đã ăn thử bánh mì quá cay đắng ở gia đình tôi, tôi đã bị hành hạ quá nhiều ở nhà nên những tiếng kêu đó không thể không làm kinh động trái tim tôi”. [2] Juyn Valex đã kể lại như thế cuộc tiếp xúc đầu tiên của mình với phong trào cách mạng Pari qua một cuốn lịch sử cuộc Cách mạng 1789 và người ta đã đưa ông mượn đọc. Và không lạ rằng Juyn Valex đã từ đó tiến tới đứng dưới lá cờ của Công xã Pari để hợp thành cái mà ông gọi là “Cuộc đại liên minh của những đau khổ”. *** Công xã Pari thất bại; Juyn Valex, sau khi chiến đấu đến phút cuối cùng, đã trốn ra được nước ngoài, ông sang Bỉ, Thụy-sĩ, rồi sang Anh. Ở đấy ông sống nghèo khổ bằng nhuận bút của một số bài báo, trang tiểu thuyết đăng trên vài tờ báo cộng hòa xuất bản ít ỏi ở Pari. Đến năm 1880, khi luật ân xá được ban hành, ông trở về nước Pháp, viết sách viết báo cho tới lúc qua đời. Juyn Valex bắt đầu viết từ khoảng cuối những năm 50, sau khi đã chật vật làm đủ nghề để kiếm sống ở Pari. Ông cộng tác với một số tờ báo như Figarô , Biến cố ; ông giao thiệp với Giracđanh, ông vua báo chỉ đương thời, và Vilơmexăng, chủ nhiệm báo Figarô . Trên tờ Figarô ông giữ mục Thị trường chứng khoán là vấn đề mà ông nghiên cứu trong cuốn sách đầu tay của ông nhan đề Tiền bạc (1857). Nhưng ít lâu sau ông bỏ mục đó để cộng tác với những tờ báo không chịu phục tùng nền Đế chính như Tạp chí châu Âu , Tự do , Báo chí , Thời đại ... và chẳng mấy lúc ông nổi tiếng là một nhà văn luận chiến hăng hái và độc lập, một nhà báo trào phúng và chiến đấu, độc đáo và tài năng. Năm 1865, với tác phẩm Những kẻ không phục tùng (Les Réfractai res) tập hợp một số bài báo, ông nhằm đả kích lối sống nghệ sĩ giang hồ mà nhà văn đương thời Hăngri Muyêcgiê đã ca tụng trong cuốn Cảnh đời sống giang hồ có ảnh hưởng xấu tới thanh niên. Năm 1867 ông sáng lập tờ báo Đường phố , trong đó ông đả kích thẳng tay mọi thiết chế chính trị, văn học, nghệ thuật đương thời, đả kích những kẻ mà ông gọi là “bọn giữ đồ thánh trong văn học, chính trị, và cả trong Cách mạng nữa!” Nhưng ra đến số 34 thì tờ báo bị tịch thu và phá sản. Trong thời kỳ Công xã ông thành lập tờ báo Tiếng kêu của dân chúng nó mau chóng trở thành cơ quan chủ yếu của Công xã, trong đó Juyn Valex khích lộ tinh thần kháng chiến đến mức “kiên cường tuyệt vọng”. Nhưng tác phẩm văn học lớn và chủ yếu của Juyn Valex là bộ tiểu thuyết ba tập Jăc Vanhtrax (Jacques Vingtras) mà hai tập đầu ông đã viết và cho đăng báo ngay từ hồi ông còn lưu vong ở Anh (1878 - 1879). Sau khi trở về Pháp ông đã chữa lại hai tập đó và viết tiếp tập ba mà mãi sau khi ông mất, năm 1886, mới được in thành sách. Jăc Vanhtrax là một tiểu thuyết tự truyện thuật lại chính cuộc đời của tác giả và, với nội dung xã hội - chính trị, nó giúp cho chúng ta hiểu khá sâu xã hội Pháp từ sau cuộc cách mạng 1848, trải qua thời Đế chính thứ II cho đến phong trào Công xã Pari. Cùng với tiểu thuyết Jăc Vanhtrax cũng phải kể đến việc Juyn Valex cho xuất bản lại tờ báo Tiếng kêu của dân chúng từ năm 1883, và ông đã làm cho nó thành tờ báo cách mạng lớn đầu tiên của nước Pháp. Tiếng kêu của dân chúng đã tham gia vào tất cả mọi chiến dịch xã hội chủ nghĩa thời bấy giờ, nó đã kịch liệt phản đối những cuộc chinh phục thuộc địa ở Tuynidi và ở Bắc kỳ (Bắc-bộ Việt Nam), nó đã nhiệt liệt ủng hộ những cuộc đình công của thợ mỏ tại Anzin và Đơcazơvilơ. Và điều đáng kể là Juyn Valex đã biết đặt Juyn Ghexđơ (Jules Guesde), vị lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân Pháp đương thời, vào địa vị cây bút số một trong tờ báo của ông. Chính sự hợp tác của Ghexđơ và những đồng chí của ông này đã khiến cho Tiếng kêu của dân chúng trở thành cơ quan ngôn luận lớn nhất của giai cấp công nhân đã xuất hiện ở Pháp từ trước cho đến thời bấy giờ. Juyn Valex qua đời năm 1885, hai năm sau khi Tiếng kêu của dân chúng lại xuất hiện. Hàng chục vạn nhân dân lao động Pari đã đưa tới nghĩa địa Perơ Lasedơ “người ứng cử viên của bần cùng” [3] “người đại biểu của những kẻ bị xử bắn” ấy. Nhân dân Pari đã biểu lộ lòng tôn trọng chính đáng của mình đối với “con người tâm huyết” ấy, “người bạn chân thành của thợ thuyền, người chiến sĩ vẻ vang của Công xã, nhà văn cách mạng lớn của nước Pháp!” *** Tiểu thuyết Jăc Vanhtrax, với ba tập của nó nhan đề lần lượt: - tập I, Chú bé (L’enfant - 1879), - tập II, Cậu tú (Le bachelier - 1881), - tập III, Người khởi nghĩa (L’insurgê - 1886), Jacques Vingtras là một kiệt tác kỳ lạ của Juyn Valex; nó đã đặt ông vào hàng những nhà văn xuôi lớn của nước Pháp thế kỉ XIX. Một mặt, bộ tiểu thuyết vạch rõ bước đường tất yếu của một người trí thức tiểu tư sản, dưới thời Đế chính thứ II, đi đến với cách mạng. Bước đường của Jăc Vanhtrax chính là bước đường của bản thân Juyn Valex. Có thấy hết mọi nỗi nhục nhã, cay đắng vì nghèo khổ, vì hành hạ, vì bất công, mà chú bé Jăc Vanhtrax, cậu tú Jăc Vanhtrax phải chịu đựng trong gia đình, ở nhà trường và ngoài xã hội, có thấy cả cái không khí đấu tranh chính trị ở Pari, dưới thời Đế chính thứ II, khi ngấm ngầm khi công khai, sôi sục, mới hiểu được tại sao Jăc Vanhtrax đã trở thành một kẻ bất bình, và từ một kẻ bất bình trở thành người khởi nghĩa đứng dưới lá cờ của Công xã Pari. Mặt khác, bộ tiểu thuyết cũng đồng thời vừa là một bức tranh sinh động vừa là mội bản cáo trạng nghiêm khắc cái xã hội Pháp đương thời, dưới nền Đế chính thứ II cực kỳ phản động, dưới sự thống trị của giai cấp tư sản, đầy rẫy những tàn ác, bất công trong quan hệ gia đình, quan hệ học đường, quan hệ xã hội. Tập I, Chú bé, với lời đề tặng cho TẤT CẢ NHỮNG AI đã buồn chán đến chết trong trường học hoặc đã phải khóc trong gia đình, những ai, trong thời thơ ấu, bị thầy giáo hành hạ hoặc bị cha mẹ đánh đập”, chính là đã vạch trần những quan hệ gia đình, quan hệ học đường tàn nhẫn đó. Tập II, Cậu tú với lời đề tặng cho “Những ai bụng nhồi đầy tiếng Hy-lạp, tiếng La-tinh mà chết đói”, vừa mỉa mai cái nền giáo dục nhồi sọ, sách vở, xa rời thực tế, vừa tố cáo “cái xã hội chó má nó làm cho những người có học thức và những người can đảm phải chết đói khi họ không muốn làm đầy tớ cho nó”. Đến như tập III, Người khởi nghĩa, với lời đề tặng “Những liệt sĩ năm 1871, những ai là nạn nhân của bất công xã hội, đã cầm vũ khí chống lại một xã hội tổ chức hỏng và họp thành, dưới lá cờ của Công xã, cuộc đại liên minh của những đau khổ”, thì chính là một thiên ký sự lịch sử độc đáo kể lại bước đấu tranh cách mạng tất yếu của Jăc Vanhtrax, và, nhân đó, vẽ lên cả bức tranh nhân dân lao động Pari sôi sục nổi dậy chống chính quyền tư sản đầu hàng giặc, thiết lập Công xã và chiến đấu suốt trong bẩy mươi hai ngày. *** Tiểu thuyết Jăc Vanhtrax , như vậy, với hình tượng nhân vật chủ yếu của nó là Jăc Vanhtrax, bao trùm cả ba tập, vẽ lên thành một điển hình sắc nét của người chiến sĩ Công xã Pari, là một tác phẩm xuất sắc của dòng văn học hiện thực chủ nghĩa nước Pháp, kế tục trực tiếp những truyền thống hiện thực chủ nghĩa của Xtăngđan, của Banzắc mà Juyn Valex đã từng nói đến trong tác phẩm của ông. Tính cách của Jăc Vanhtrax được hình thành và phát triển trong những hoàn cảnh gia đình và xã hội nhất định, đó là điều mà tác giả có ý thức đầy đủ và muốn chứng minh rõ ràng. Song, giá trị hiện thực của bộ tiểu thuyết tăng lên qua ba tập sách với trình độ khái quát hóa càng ngày càng cao thêm. Tập I chủ yếu trình bày cái khung cảnh gia đình và nhà trường tỉnh nhỏ trong đó chú bé Jăc Vanhtrax lớn lên. Trước hết hình tượng bố và mẹ Jăc Vanhtrax cũng đạt tới những nhân vật điển hình sinh động: ông bố tiêu biểu cho một lớp giáo viên không phải thiếu học vấn, thiếu tư tưởng và tinh cảm, nhưng vì nhút nhát, một mặt luôn luôn lo sợ mất chức vụ, mặt khác lại bị bà vợ đành hanh khống chế, nên hóa ra một con người tầm thường, hèn với cấp trên, ác với con; bà mẹ đại diện cho hạng tiểu tư sản xuất thân từ nông dân, với đầu óc hẹp hòi mà hãnh tiến” - muốn đua đòi, bay nhẩy, học làm sang, thậm chí vì không được toại nguyện mà đâm cay nghiệt, tàn ác với con. Bên cạnh hai nhân vật đó tập truyện còn đạt ở một loạt hình tượng chân dung những giáo sư, hiệu trưởng trường trung học, như Tuyếcfanh kiêu căng, hợm hĩnh, khinh người nghèo, hành hạ học trò có học bổng, như Lacbô tâm ngẩm, giảo quyệt, - cóc cần học trò và chỉ dịu dàng với đám con nhà quyền thế, hay như Bécgunha đạo mạo, lạnh lùng, lên mặt triết gia mà độc ác với con như quỷ sứ, thậm chí đã giết con bằng roi vọt tàn bạo, tất cả đều nói lên một chế độ nhà trường ghê tởm, thối tha. Rõ ràng, với những tính cách nhân vật và bức tranh xã hội đạt tới tính chân thực, tính lịch sử và tính khái quát cao, tiểu thuyết Jăc Vanhtrax đã kế tục và phát huy vẻ vang những truyền thống hiện thực chủ nghĩa của Xtăngđan và Banzắc ở nửa sau thế kỷ XIX khi mà chủ nghĩa hiện thực phê phán cổ điển đã bắt đầu xuống dốc với Guyxtavơ Flôbe để mở ra thời kỳ của chủ nghĩa tự nhiên và tiếp theo nó là hàng loạt những trường phái suy đồi đủ loại. Hơn thế nữa, mặc dầu Juyn Valex không vẽ lên một bức tranh xã hội thật rộng lớn, đồ sộ và không đả kích mạnh vào cái mặt cơ cấu của xã hội tư sản là quan hệ tiền bạc như Xtăngđan hay Banzắc, nhưng ông lại vượt hẳn các nhà hiện thực phê phán cổ điển này ở chỗ ông đã mường tượng thấy và đề cập tới người chủ tương lai của xã hội sẽ thay thế cho giai cấp tư sản, đó là giai cấp công nhân. Với ông lần đầu tiên trong văn học Pháp xuất hiện hình ảnh người công nhân, hình ảnh quần chúng nhân dân như những nhân vật anh hùng phần nào với cái tư thế của những người làm nên lịch sử, và ít ra thì cũng đã có lúc họ làm nghiêng ngửa cả uy thế của những tay chính khách tư sản sừng sỏ trong bộ máy thống trị như Juyn Fery, Gămbetta... Và, mặc dầu bộ tiểu thuyết kết thúc bằng sự thất bại của Công xã Pari, người ta không thấy bóng dáng của bi quan thất vọng, trái lại hình ảnh cuối cùng vẫn là hình ảnh của chiến đấu trong tương lai: ... Tôi vừa vượt qua một dòng suối làm biên giới. Chúng nó không bắt được tôi nữa! Và tôi sẽ còn có thế đứng với nhân dân, nếu nhân dân lại bị ném ra ngoài phố và dồn tới chỗ phải chiến đấu. Tôi nhìn trời về phía tôi cảm thấy có Pari. Trời một màu xanh tươi rói, với những đám mây đỏ. Tưởng như một chiếc áo bludơ lớn đẫm máu”. Chính ở những điểm trên đây, tiểu thuyết Jăc Vanhtrax của Juyn Valex, cùng với toàn bộ nền văn học Công xã Pari, đã hé mở ra một bước phát triển mới của văn học hiện thực chủ nghĩa sau này, đó là bước đường đi tới chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta ngày nay. Tháng Năm 1972 TRỌNG ĐỨC Mời các bạn đón đọc Cậu Tú của tác giả Jules Vallès.
Chú Bé - Jules Vallès
JUYN VALEX VÀ TIỂU THUYẾT JĂC VANHTRAX Juyn Valex (Jules Vallès) là một nhà văn lớn mà cũng là một chiến sĩ kiên cường của Công xã Pari. Ông sinh năm 1832 ở thị trấn Puy (xứ Ôvecnhơ) nước Pháp và mất năm 1885 tại Pari. Xuất, thân từ một gia đình công chức, Juyn Valex ngay từ thuở bé đã là nạn nhân của một nền giáo dục gia đình khắc nghiệt cũng như một nền giáo dục nhà trường sai lầm. Cha ông làm giám thị, sau làm giáo sư trung học, tuy cũng thương con, nhưng lại là một người nhút nhát, luôn luôn lo sợ cho chức vụ của mình, do đó mà sinh ra khắc nghiệt với con, thậm chí có lần, để khỏi bị liên lụy, đã cho giam con vào một nhà thương điên sau khi Juyn Valex tham gia vào một vụ chống đối cuộc đảo chính của Napôlêông thứ III. Mẹ Juyn Valex xuất thân từ nông dân nhưng có tư tưởng hãnh tiến, học làm sang, muốn cho con làm nên danh giá, và, vì không được toại nguyện, nên trút cả nỗi cay đắng lên đầu con, roi vọt hành hạ con đến tàn nhẫn. Một mặt khác, cha Juyu Valex muốn cho con trở thành giáo sư, nhưng cậu học sinh Juyn Valex, qua tấm gương của bố, đã chán ngấy cái cảnh nhà trường do bọn phản động công giáo thời Đế chính thứ II lũng đoạn, ở đó các giáo sư vừa quỵ lụy, khúm núm trước hiệu trưởng và cấp trên, lại vừa hành hạ học trò bằng đòn và phạt, ở đó người ta dạy cho thanh niên một kiểu học tầm chương trích cú, nô lệ sách cũ người xưa, xa rời thực tế. Chính cái giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường sai lầm, tàn nhẫn ấy đã tác động mạnh tới cậu bé Juyn Valex đa cảm và sớm biến cậu thành một kẻ bất bình, môt con người nổi loạn. *** Nhưng con người bất bình ấy đã trở nên một chiến sĩ cách mạng kiên cường, thì lại là do hoàn cảnh xã hội nước Pháp lúc bấy giờ. Khi Juyn Valex sinh ra thì phong trào công nhân Pháp bắt đầu lên mạnh với công cuộc công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa bắt đầu ở nước Pháp trong những năm 30 thế kỷ XIX, và nó được đánh dấu bằng những cuộc đấu tranh và khởi nghĩa của công nhân ở Lyông (1831, 1834) và ở Pari (1832, 1834). Song giai cấp công nhân Pháp chỉ có thể trưởng thành sau khi nó đã dứt bỏ được mọi ràng buộc với giai cấp tư sản để lần đầu tiên, đứng lên như một lực lượng chính trị độc lập, trực diện đấu tranh chống giai cấp tư sản vào tháng Sáu năm 1848. Và chính là phải trải qua những ngày tháng Sáu đẫm máu ấy nó mới bước đầu rũ bỏ được ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng, của mọi thứ“chủ nghĩa xã hội tư sản và tiểu tư sản”. Tuy nhiên, những năm liền sau khi cách mạng 1848 thất bại ở châu Âu nói chung, chính là “thời đại - như Lênin đã nói,- mà tinh thần cách mạng của phái dân chủ tư sản đã suy vong rồi (ở châu Âu), trong khi đó thì tinh thần cách mạng của giai cấp vô sản xã hội chủ nghĩa chưa tới lúc già dặn” [1] . Riêng ở nước Pháp, trong thời kỳ đầu của nền Đế chính thứ II tối phản động thiết lập từ tháng Chạp 1852, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân bị lắng xuống cho mãi tới những năm 60 nó mới được phục hồi. Và với sự thành lập Chi nhánh Pháp Quốc tế thứ nhất năm 1866, một thời kỳ bão táp cách mạng mới lại mở ra để đến khi giai cấp tư sản thống trị, dưới nhãn hiệu Chính phủ Quốc phòng, đầu hàng quân xâm lược Phổ (tháng Giêng 1871), thì nó lên tới đỉnh cao với phong trào Công xã Pari thiết lập nền chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới trong bảy mươi hai ngày (18 tháng 3 đến 28 tháng 5 năm 1871). *** Juyn Valex sinh ra và lớn lên trong cái hoàn cảnh lịch sử xã hội như thế đó. Thị trấn quê hương ông ở sát cạnh những trung tâm công nghiệp như Xanh-Êchiên (nơi mà cha ông đã từng tới dạy học một thời kỳ), như Lyông, nên không khỏi nhận được âm vang mạnh mẽ của những làn sóng đấu tranh của giai cấp công nhân. Và chàng trai có chí hướng muốn làm thợ đó đã từng đi đầu trong đám thanh niên cộng hòa khi nổ ra cuộc Cách mạng tháng Hai 1848. Sau đó, khi được gia đình gửi lên Pari theo học, Juyn Vanlex, sống nghèo khổ ở thủ đô, lại đã sớm tiếp xúc với phong trào cách mạng trên mảnh đất chôn nhau của cách mạng. “Tôi đã đi vào lịch sử cuộc Cách mạng. Người ta vừa mở ra trước mặt tôi một quyển sách trong đó có nói về bần cùng và đói khát, trong đó tôi thấy diễu qua những bộ mặt làm tôi nhớ đến cha Jôdép hoặc chú Sađơna, những người thợ mộc với chiếc compa mở rộng ra làm vũ khí và những nông dân cầm chĩa sắt có vấy máu ở đầu răng. Có những phụ nữ đi tấn công Vécxay, vừa đi vừa thét lên là bà Vêlô làm nhân dân đói, và ngọn giáo có xiên ổ bánh mì đen - một lá cờ - đâm thủng các trang sách và chọc vào mắt tôi... ... Lần này thì không còn là tiếng La-tinh nữa. Họ nói: “Chúng tôi đói! Chúng tôi muốn tự do!” Tôi đã ăn thử bánh mì quá cay đắng ở gia đình tôi, tôi đã bị hành hạ quá nhiều ở nhà nên những tiếng kêu đó không thể không làm kinh động trái tim tôi”. [2] Juyn Valex đã kể lại như thế cuộc tiếp xúc đầu tiên của mình với phong trào cách mạng Pari qua một cuốn lịch sử cuộc Cách mạng 1789 và người ta đã đưa ông mượn đọc. Và không lạ rằng Juyn Valex đã từ đó tiến tới đứng dưới lá cờ của Công xã Pari để hợp thành cái mà ông gọi là “Cuộc đại liên minh của những đau khổ”. *** Công xã Pari thất bại; Juyn Valex, sau khi chiến đấu đến phút cuối cùng, đã trốn ra được nước ngoài, ông sang Bỉ, Thụy-sĩ, rồi sang Anh. Ở đấy ông sống nghèo khổ bằng nhuận bút của một số bài báo, trang tiểu thuyết đăng trên vài tờ báo cộng hòa xuất bản ít ỏi ở Pari. Đến năm 1880, khi luật ân xá được ban hành, ông trở về nước Pháp, viết sách viết báo cho tới lúc qua đời. Juyn Valex bắt đầu viết từ khoảng cuối những năm 50, sau khi đã chật vật làm đủ nghề để kiếm sống ở Pari. Ông cộng tác với một số tờ báo như Figarô , Biến cố ; ông giao thiệp với Giracđanh, ông vua báo chỉ đương thời, và Vilơmexăng, chủ nhiệm báo Figarô . Trên tờ Figarô ông giữ mục Thị trường chứng khoán là vấn đề mà ông nghiên cứu trong cuốn sách đầu tay của ông nhan đề Tiền bạc (1857). Nhưng ít lâu sau ông bỏ mục đó để cộng tác với những tờ báo không chịu phục tùng nền Đế chính như Tạp chí châu Âu , Tự do , Báo chí , Thời đại ... và chẳng mấy lúc ông nổi tiếng là một nhà văn luận chiến hăng hái và độc lập, một nhà báo trào phúng và chiến đấu, độc đáo và tài năng. Năm 1865, với tác phẩm Những kẻ không phục tùng (Les Réfractai res) tập hợp một số bài báo, ông nhằm đả kích lối sống nghệ sĩ giang hồ mà nhà văn đương thời Hăngri Muyêcgiê đã ca tụng trong cuốn Cảnh đời sống giang hồ có ảnh hưởng xấu tới thanh niên. Năm 1867 ông sáng lập tờ báo Đường phố , trong đó ông đả kích thẳng tay mọi thiết chế chính trị, văn học, nghệ thuật đương thời, đả kích những kẻ mà ông gọi là “bọn giữ đồ thánh trong văn học, chính trị, và cả trong Cách mạng nữa!” Nhưng ra đến số 34 thì tờ báo bị tịch thu và phá sản. Trong thời kỳ Công xã ông thành lập tờ báo Tiếng kêu của dân chúng nó mau chóng trở thành cơ quan chủ yếu của Công xã, trong đó Juyn Valex khích lộ tinh thần kháng chiến đến mức “kiên cường tuyệt vọng”. Nhưng tác phẩm văn học lớn và chủ yếu của Juyn Valex là bộ tiểu thuyết ba tập Jăc Vanhtrax (Jacques Vingtras) mà hai tập đầu ông đã viết và cho đăng báo ngay từ hồi ông còn lưu vong ở Anh (1878 - 1879). Sau khi trở về Pháp ông đã chữa lại hai tập đó và viết tiếp tập ba mà mãi sau khi ông mất, năm 1886, mới được in thành sách. Jăc Vanhtrax là một tiểu thuyết tự truyện thuật lại chính cuộc đời của tác giả và, với nội dung xã hội - chính trị, nó giúp cho chúng ta hiểu khá sâu xã hội Pháp từ sau cuộc cách mạng 1848, trải qua thời Đế chính thứ II cho đến phong trào Công xã Pari. Cùng với tiểu thuyết Jăc Vanhtrax cũng phải kể đến việc Juyn Valex cho xuất bản lại tờ báo Tiếng kêu của dân chúng từ năm 1883, và ông đã làm cho nó thành tờ báo cách mạng lớn đầu tiên của nước Pháp. Tiếng kêu của dân chúng đã tham gia vào tất cả mọi chiến dịch xã hội chủ nghĩa thời bấy giờ, nó đã kịch liệt phản đối những cuộc chinh phục thuộc địa ở Tuynidi và ở Bắc kỳ (Bắc-bộ Việt Nam), nó đã nhiệt liệt ủng hộ những cuộc đình công của thợ mỏ tại Anzin và Đơcazơvilơ. Và điều đáng kể là Juyn Valex đã biết đặt Juyn Ghexđơ (Jules Guesde), vị lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân Pháp đương thời, vào địa vị cây bút số một trong tờ báo của ông. Chính sự hợp tác của Ghexđơ và những đồng chí của ông này đã khiến cho Tiếng kêu của dân chúng trở thành cơ quan ngôn luận lớn nhất của giai cấp công nhân đã xuất hiện ở Pháp từ trước cho đến thời bấy giờ. Juyn Valex qua đời năm 1885, hai năm sau khi Tiếng kêu của dân chúng lại xuất hiện. Hàng chục vạn nhân dân lao động Pari đã đưa tới nghĩa địa Perơ Lasedơ “người ứng cử viên của bần cùng” [3] “người đại biểu của những kẻ bị xử bắn” ấy. Nhân dân Pari đã biểu lộ lòng tôn trọng chính đáng của mình đối với “con người tâm huyết” ấy, “người bạn chân thành của thợ thuyền, người chiến sĩ vẻ vang của Công xã, nhà văn cách mạng lớn của nước Pháp!” *** Tiểu thuyết Jăc Vanhtrax, với ba tập của nó nhan đề lần lượt: - tập I, Chú bé (L’enfant - 1879), - tập II, Cậu tú (Le bachelier - 1881), - tập III, Người khởi nghĩa (L’insurgê - 1886), Jacques Vingtras là một kiệt tác kỳ lạ của Juyn Valex; nó đã đặt ông vào hàng những nhà văn xuôi lớn của nước Pháp thế kỉ XIX. Một mặt, bộ tiểu thuyết vạch rõ bước đường tất yếu của một người trí thức tiểu tư sản, dưới thời Đế chính thứ II, đi đến với cách mạng. Bước đường của Jăc Vanhtrax chính là bước đường của bản thân Juyn Valex. Có thấy hết mọi nỗi nhục nhã, cay đắng vì nghèo khổ, vì hành hạ, vì bất công, mà chú bé Jăc Vanhtrax, cậu tú Jăc Vanhtrax phải chịu đựng trong gia đình, ở nhà trường và ngoài xã hội, có thấy cả cái không khí đấu tranh chính trị ở Pari, dưới thời Đế chính thứ II, khi ngấm ngầm khi công khai, sôi sục, mới hiểu được tại sao Jăc Vanhtrax đã trở thành một kẻ bất bình, và từ một kẻ bất bình trở thành người khởi nghĩa đứng dưới lá cờ của Công xã Pari. Mặt khác, bộ tiểu thuyết cũng đồng thời vừa là một bức tranh sinh động vừa là mội bản cáo trạng nghiêm khắc cái xã hội Pháp đương thời, dưới nền Đế chính thứ II cực kỳ phản động, dưới sự thống trị của giai cấp tư sản, đầy rẫy những tàn ác, bất công trong quan hệ gia đình, quan hệ học đường, quan hệ xã hội. Tập I, Chú bé, với lời đề tặng cho TẤT CẢ NHỮNG AI đã buồn chán đến chết trong trường học hoặc đã phải khóc trong gia đình, những ai, trong thời thơ ấu, bị thầy giáo hành hạ hoặc bị cha mẹ đánh đập”, chính là đã vạch trần những quan hệ gia đình, quan hệ học đường tàn nhẫn đó. Tập II, Cậu tú với lời đề tặng cho “Những ai bụng nhồi đầy tiếng Hy-lạp, tiếng La-tinh mà chết đói”, vừa mỉa mai cái nền giáo dục nhồi sọ, sách vở, xa rời thực tế, vừa tố cáo “cái xã hội chó má nó làm cho những người có học thức và những người can đảm phải chết đói khi họ không muốn làm đầy tớ cho nó”. Đến như tập III, Người khởi nghĩa, với lời đề tặng “Những liệt sĩ năm 1871, những ai là nạn nhân của bất công xã hội, đã cầm vũ khí chống lại một xã hội tổ chức hỏng và họp thành, dưới lá cờ của Công xã, cuộc đại liên minh của những đau khổ”, thì chính là một thiên ký sự lịch sử độc đáo kể lại bước đấu tranh cách mạng tất yếu của Jăc Vanhtrax, và, nhân đó, vẽ lên cả bức tranh nhân dân lao động Pari sôi sục nổi dậy chống chính quyền tư sản đầu hàng giặc, thiết lập Công xã và chiến đấu suốt trong bẩy mươi hai ngày. *** Tiểu thuyết Jăc Vanhtrax , như vậy, với hình tượng nhân vật chủ yếu của nó là Jăc Vanhtrax, bao trùm cả ba tập, vẽ lên thành một điển hình sắc nét của người chiến sĩ Công xã Pari, là một tác phẩm xuất sắc của dòng văn học hiện thực chủ nghĩa nước Pháp, kế tục trực tiếp những truyền thống hiện thực chủ nghĩa của Xtăngđan, của Banzắc mà Juyn Valex đã từng nói đến trong tác phẩm của ông. Tính cách của Jăc Vanhtrax được hình thành và phát triển trong những hoàn cảnh gia đình và xã hội nhất định, đó là điều mà tác giả có ý thức đầy đủ và muốn chứng minh rõ ràng. Song, giá trị hiện thực của bộ tiểu thuyết tăng lên qua ba tập sách với trình độ khái quát hóa càng ngày càng cao thêm. Tập I chủ yếu trình bày cái khung cảnh gia đình và nhà trường tỉnh nhỏ trong đó chú bé Jăc Vanhtrax lớn lên. Trước hết hình tượng bố và mẹ Jăc Vanhtrax cũng đạt tới những nhân vật điển hình sinh động: ông bố tiêu biểu cho một lớp giáo viên không phải thiếu học vấn, thiếu tư tưởng và tinh cảm, nhưng vì nhút nhát, một mặt luôn luôn lo sợ mất chức vụ, mặt khác lại bị bà vợ đành hanh khống chế, nên hóa ra một con người tầm thường, hèn với cấp trên, ác với con; bà mẹ đại diện cho hạng tiểu tư sản xuất thân từ nông dân, với đầu óc hẹp hòi mà hãnh tiến” - muốn đua đòi, bay nhẩy, học làm sang, thậm chí vì không được toại nguyện mà đâm cay nghiệt, tàn ác với con. Bên cạnh hai nhân vật đó tập truyện còn đạt ở một loạt hình tượng chân dung những giáo sư, hiệu trưởng trường trung học, như Tuyếcfanh kiêu căng, hợm hĩnh, khinh người nghèo, hành hạ học trò có học bổng, như Lacbô tâm ngẩm, giảo quyệt, - cóc cần học trò và chỉ dịu dàng với đám con nhà quyền thế, hay như Bécgunha đạo mạo, lạnh lùng, lên mặt triết gia mà độc ác với con như quỷ sứ, thậm chí đã giết con bằng roi vọt tàn bạo, tất cả đều nói lên một chế độ nhà trường ghê tởm, thối tha. Rõ ràng, với những tính cách nhân vật và bức tranh xã hội đạt tới tính chân thực, tính lịch sử và tính khái quát cao, tiểu thuyết Jăc Vanhtrax đã kế tục và phát huy vẻ vang những truyền thống hiện thực chủ nghĩa của Xtăngđan và Banzắc ở nửa sau thế kỷ XIX khi mà chủ nghĩa hiện thực phê phán cổ điển đã bắt đầu xuống dốc với Guyxtavơ Flôbe để mở ra thời kỳ của chủ nghĩa tự nhiên và tiếp theo nó là hàng loạt những trường phái suy đồi đủ loại. Hơn thế nữa, mặc dầu Juyn Valex không vẽ lên một bức tranh xã hội thật rộng lớn, đồ sộ và không đả kích mạnh vào cái mặt cơ cấu của xã hội tư sản là quan hệ tiền bạc như Xtăngđan hay Banzắc, nhưng ông lại vượt hẳn các nhà hiện thực phê phán cổ điển này ở chỗ ông đã mường tượng thấy và đề cập tới người chủ tương lai của xã hội sẽ thay thế cho giai cấp tư sản, đó là giai cấp công nhân. Với ông lần đầu tiên trong văn học Pháp xuất hiện hình ảnh người công nhân, hình ảnh quần chúng nhân dân như những nhân vật anh hùng phần nào với cái tư thế của những người làm nên lịch sử, và ít ra thì cũng đã có lúc họ làm nghiêng ngửa cả uy thế của những tay chính khách tư sản sừng sỏ trong bộ máy thống trị như Juyn Fery, Gămbetta... Và, mặc dầu bộ tiểu thuyết kết thúc bằng sự thất bại của Công xã Pari, người ta không thấy bóng dáng của bi quan thất vọng, trái lại hình ảnh cuối cùng vẫn là hình ảnh của chiến đấu trong tương lai: ... Tôi vừa vượt qua một dòng suối làm biên giới. Chúng nó không bắt được tôi nữa! Và tôi sẽ còn có thế đứng với nhân dân, nếu nhân dân lại bị ném ra ngoài phố và dồn tới chỗ phải chiến đấu. Tôi nhìn trời về phía tôi cảm thấy có Pari. Trời một màu xanh tươi rói, với những đám mây đỏ. Tưởng như một chiếc áo bludơ lớn đẫm máu”. Chính ở những điểm trên đây, tiểu thuyết Jăc Vanhtrax của Juyn Valex, cùng với toàn bộ nền văn học Công xã Pari, đã hé mở ra một bước phát triển mới của văn học hiện thực chủ nghĩa sau này, đó là bước đường đi tới chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta ngày nay. Tháng Năm 1972 TRỌNG ĐỨC Mời các bạn đón đọc Chú Bé của tác giả Jules Vallès.
Cậu Ấm Ngây Thơ - Natsume Soseki
Natsume Soseki (1867 - 1916) là nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận văn học và chuyên gia văn học Anh. Ông sinh ngày 9-2-1867 trong một gia đình Danh chú (“Nanushi"- một loại cường hào địa phương thời phong kiến) tại Tokyo. Tên chính thức của ông là Natsume Kinnosuke (Na-chư-mê Kin-nô-su-ke). Bút danh Soseki chữ Hán là “sấu thạch” có nghĩa là súc miệng bằng đá, lấy từ điền tích “sấu thạch trầm lim” của Trung Quốc, mang ý nghĩa là kiên cường, cứng rắn. Bút danh này có từ sau năm 1889, khi ông gặp Masaoka Shiki, người bạn thân thiết nhất, có ảnh hưởng quyết định đến con người và văn học của Soseki. (Masaoka Shiki (1867 - 1902) là nhà thơ nổi tiếng của Nhật Bản). Ngay sau khi ra đời, Soseki đã bị cho đi làm con nuôi một gia đình thương gia nghèo nên không được nuôi nấng, chăm sóc đầy đủ. Thấy thế, gia đình cha mẹ đẻ đưa ông về, rồi lại cho làm con nuôi một gia đình khác. Cho đến năm 21 tuổi, Soseki mới trở lại nhập tịch gia đình Natsume. Thời kỳ học tiểu học, ông phải chuyển hết trường nọ đến trường kia. Năm 12 tuổi Soseki vào học trường trung học công lập tỉnh Tokyo. Ông bỏ dở năm thứ 2 trung kọc để theo học Hán học trường tư thục. Ở đây, ông đã học được nhiều văn thơ Đường, Tống, Hán thư, sử thư và văn hóa cổ điển Trung Quốc, có ảnh hưởng lớn đến văn học của ông sau này về văn phong, về tư tưởng, giá trị thẩm mỹ v.v... Năm 1883, Soseki lại bỏ Hán học, theo học trường tiếng Anh tư thục để chuẩn bị vào trường dự bị đại học. Năm 1884, Soseki vào trường dự bị đại học. Trong thời gian học dự bị, ông đã từng bị bệnh, không thể đi dự thi, đã từng đi dạy cho các trường tư thục để trang trải học phí. Năm 1890, Soseki vào học trường Đại học đế quốc Tokyo (tiền thân của Đại học Tokyo ngày nay), là trường quốc lập mới mở trước đó không lâu. Ổng bắt đầu sáng tác thơ từ thời sinh viên. Năm 1893, Soseki tốt nghiệp khoa văn trường đại học Tokyo. Ông được bổ nhiệm làm giáo viên tiếng Anh trường cao đẳng sư phạm Tokyo. Ngay sau đó ông bị bệnh lao phổi và bệnh suy nhược thần kinh nặng. Để chạy trốn khỏi Tokyo nhằm dưỡng bệnh, năm 1895, ông thôi dạy ở trường cao đẳng, chuyển đến trường trung học Matsuyama, tỉnh Ehime, quê hương của Shiki. Chính trường trung học này là bối cảnh và đề tài để mười năm sau ông viết tác phẩm “Cậu ấm ngây thơ” (Bốt chang) vào năm 1906. Từ 1896, Soseki được bổ nhiệm làm giáo viên tiếng Anh trường cao đẳng số 5 ở tỉnh Kumamoto. Năm 1900, Soseki được Bộ Giáo dục Nhật Bản cứ đi nghiên cứu văn học Anh 2 năm ở Luân Đôn. Năm 1903, về nước ông được bổ nhiệm dạy tại trường cao đẳng số I, đồng thời dạy văn học Anh tại trường đại học Tokyo. Việc dạy lý luận văn học Anh ở Đại học Tokyo gặp trục trặc làm cho bệnh suy nhược thần kinh và tình trạng tinh thần của Soseki trở nên trầm trọng. Theo lời khuyên của Takahama Kyosi, chú bút tạp chí "Chim Tứ Quý”, Soseki sáng tác tiểu thuyết để thư giãn tinh thần. Truyện “Tôi là cơn mèo” ra đời, lập tức được hoan nghênh nồng nhiệt và bệnh tình của ông cũng thuyên giảm. Từ đó, Soseki có ý định đi theo nghề viết văn. Ổng viết tiếp “Tháp Luân Đôn” rồi “Cậu ấm ngây thơ”, tất cả đều là những kiệt tác, xác lập chỗ đứng chắc chắn của ông trên văn đàn. Tháng 2-1907, được báo Asihi mời, ông bỏ hẳn nghề giáo viên, vào làm ờ báo Asihi, chuyên viết tiểu thuyết và sáng tác văn học cho đến khi qua đời vào ngày 9-12-1916. Cuộc đời 49 năm với 10 năm viết văn chuyên nghiệp, Natsume Soseki đã để lại nhiều kiệt tác, trong đó có các tác phẩm tiêu biểu là: Cuộc nổi loạn ngoạn mục Ngày 210 Nỗi Lòng “Tôi là con mèo", 1907 “Tháp Luân Đôn”, 1904 “Cậu ấm ngây thơ”, 1906 ‘Hoa thuốc phiện’’, 1907 “Gối Đầu Lên Cỏ”, 1907 “Chàng trai Sanshiro", 1908 ‘Tù đó", 1909 “Cái cổng", 1910 “Người đi đường", 1912 -1913 “Cỏ ven đường", 1915 “Sáng tối", 1916 Ngoài ra, ông còn để lại nhiều tác phẩm lý luận văn học và thơ. Natsume Soseki là một nhà văn, nhà thơ, nhà trí thức đa dạng, có thiên tài đặc biệt. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của ông có nhiều nét độc đáo mà Kenzaburo Oe đã gọi là “một hiện tượng lạ lùng hiếm có của văn học Nhật Bản”. Ông có khả năng sáng tác phong phú, đa dạng. Cùng một lúc ông viết nhiều tác phẩm khác nhau về đề tài, về văn phong, về bối cảnh, về không gian và thời gian: từ xã hội châu Âu thời trung cổ cho đến một trường học ở nông thôn Nhật Bản đương thời; từ câu văn cầu kỳ điêu luyện đầy tu từ cho đến những câu văn nói rõ ràng, đơn giản. Từ nội dung đả kích châm biếm chua cay đến tình yêu tuổi trẻ đầy thơ mộng, trữ tình... Là nhà thơ, ông nắm bắt được những động tĩnh kỳ diệu của tình cảm con người trước thiên nhiên, trong cuộc sống hàng ngày. Thơ ông vượt lên trên lĩnh vực vẽ tranh bằng thơ, nó đạt tới trình độ là những bức khắc họa hiện thực cuộc sống. Là nhà tiểu thuyết, ông đã xây dựng thành công một hình thức tiểu thuyết tâm lý, mượn hình thức của văn học phương Tây để viết bằng tiếng Nhật. Tiểu thuyết của ông miêu tả tỉ mỉ mọi tâm lý, tính cách, giá trị quan, cách suy nghĩ cúa từng cá nhân trong cuộc sống đời thường. Qua những vấn đề nội tại sâu sắc, về lý luận, về sự cắn rứt lương tâm v.v... ông đề cập đến cái chung là cách sống của con người, tư tưởng của thời đại. Văn phong của ông giản dị, khúc chiết, hư cấu chặt chẽ nên có sức lôi cuốn rộng rãi. Ông đã đạt tới đỉnh cao nhất của nghệ thuật tiểu thuyết tâm lý Nhật Bản mà từ sau ông chưa có ai đuổi kịp. Natsume Soseki là một văn mới tiêu biểu của văn học Nhật Bản. Ông là người có vai trò chù chốt trong nền văn học cận và hiện đại Nhật Bản, là nhà văn có ảnh hưởng lớn nhất trong toàn bộ thời kỳ tiến hành công cuộc hiện đại hóa của Nhật. Nhiều đệ tử và học trò của ông đã trở thành các nhà trí thức, nhà văn, nhà chính trị nổi tiếng của Nhật Bản. Ông là nhà văn của đại chúng. Tác phẩm của ông được mọi tầng lớp, mọi thế hệ độc giả yêu thích. Ông nổi tiếng từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên. Cùng thời với ông, trong khi tác phẩm của các nhà văn khác chỉ xuất bản hàng trăm số thì tác phẩm của ông luôn xuất bản hàng vạn số. Tác phẩm của ông còn được đọc nhiều hơn qua suốt thời đại Chiêu Hòa (1925 - 1989) và cho đến nay, ông vẫn là một trong những tác gia có nhiều độc giả nhất. Năm 1984, đánh dấu mốc lịch sử 100 năm công cuộc hiện đại hóa Nhật Bản, chính phủ Nhật Bản đa chọn 3 nhà trí thức tiêu biểu, có ảnh hướng lớn đối với xã hội để in ảnh trên giấy bạc. Một trong ba người đó là Natsume Soseki. (Bạc giấy của Nhật Bản lúc đó có 3 loại là: tờ mệnh giá 1.000 yên, tờ 5.000 yên và tờ 10.000 yên). Ảnh Natsume Soseki được in trên tờ mệnh giá 1.000 yên. Cùng với "Cậu ấm ngây thơ” (“Bốt chang”), tên tuổi và hình ảnh Natsume Soseki rất gần gũi, thân thuộc với người dân Nhật Bản. *** Về tác phẩm “CẬU ẤM NGÂY THƠ": Tên tác phẩm này trong nguyên bản tiếng Nhật là “Bốt chang" (Botchan). “Bốt chang” là một từ dùng để chỉ một người nam giới có một địa vị tương đối hoặc là con nhà giàu sang quyền quý, có danh giá nhất định trong xã hội. Nghĩa này tương ứng với “cậu ấm”, “công tử’’ trong tiếng Việt. Người Nhật thường dùng từ “bốt chang” để gọi con trai của người khác, với ý nghĩa tôn trọng, đề cao, hơi có ý lấy lòng đối phương, kiểu như trong tiếng Việt chúng ta gọi “cậu nhà”, “quý tử" v.v... “Bốt chang” còn được dùng để gọi một cách chế giễu những người con trai được nuôi dưỡng trong môi trường nhung lụa, được nuông chiều, nên ít hiểu biết cuộc đời, ngây thơ, khờ khạo trước thực tế cuộc sống v.v... Natsume Soseki lấy “Bốt chang” làm nhan dề và nhân vật chính cho cuốn tiểu thuyết (truyện vừa) vui vẻ, hài hước, này. (Trong bản dịch, từ này được dịch là "cậu nhỏ” hay “cậu”, là đại tử nhân xưng mà nhân vật bà Ki-yô vẫn gọi nhân vật chính - nhân vật “tôi”). Tác phẩm đăng lần đầu tiên trên tạp chí Hototogisu (Chim tứ quý) năm 1906. Theo nhà phê bình văn học Eto Jun thì Natsume Soseki viết tác phẩm này vào khoảng tháng 3- 1906, chỉ trong khoảng trên dưới hai tuần lễ. Bản thảo của ông rất ít vết tẩy xóa, càng về sau chữ càng viết to, chứng tỏ ông viết rất hào hứng theo cảm hứng tự phát. Bối cảnh của truyện lấy nguyên mẫu từ trường trung học Matsuyama, nơi ông đã dạy học một năm (năm 1895 - 1896). Một số địa điểm và sự vật trong truyện cũng lấy nguyên mẫu từ trong thực tế. Có những tên người, sự vật, sự kiện được giữ nguyên, có địa điểm, địa danh thì được đặt tên khác. Từ sau khi tác phẩm ra đời, nhiều cái trong thực tế đã được gọi tên theo truyện. Ví dụ: ‘Tàu hỏa Bốt chang”, “Nước nóng Bốt chang”, “Bánh trôi Bốt chang”, “Đảo Turner" v.v... Nhà tắm nước nóng Dogo ở thành phố Matsuyama tỉnh Ehime mà trong truyện gọi là “suối nước nóng Sumita” hiện nay là một di tích xếp hạng di sản quốc gia của Nhật Bản và được gọi là “Suối nước nóng Bốt chang". Có thể nói “Bốt chang" đã đi vào cuộc sống gần gũi thân quen với người Nhật Bản như một nét tự nhiên. Trong cuộc sống hàng ngày, ngoài đồng tiền có in ảnh tác giả, thỉnh thoảng người ta vẫn được nghe nhắc đến “Bốt chang" và Natsume Soseki mỗi khi có những sự kiện đặc biệt xảy ra về thời cuộc, thời tiết, khí hậu.... Vì sao Natsume Soseki và “Bốt chang” lại thân thuộc với người Nhật như vậy? Có lẽ để hiểu được tất cả điều này, cần phải biết nhiều hơn nữa về văn hóa, lịch sử, về tâm lý, tính cách của người Nhật Bản chăng? Bởi vì Nhật Bản là đất nước của thơ Haiku, của một dân tộc thích tranh biếm họa và man-ga. Truyện “”Bốt chang“” không chỉ có nội dung vui vẻ, hài hước, mới mẻ, sảng khoái. Có lẽ nó còn ẩn chứa cái gì như là ước mơ, tinh thần thời đại, và có thể cả tâm tư, tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm?. Ngoài ra, nó không chỉ lôi cuốn các thế hệ độc giả Nhật Bản bằng nội dung, cốt truyện, mà cái chính là bởi văn phong tuyệt vời, một giọng điệu tươi vui, giòn giã, mang đậm phong cách ngôn ngữ đời thường của người dân Eđô. Đó là sức hấp dẫn đặc biệt của một thiên tài duy nhất trong tiếng Nhật hiện đại. Với bản dịch tiếng Việt “Cậu ấm ngây thơ”, người dịch hy vọng đem lại cho bạn đọc Việt Nam những khoảnh khắc thư giãn khi theo dõi bước đi, suy nghĩ và hành động dại khờ nhưng đầy trong sáng, lành mạnh của “Bốt chang”. Và nếu đọc xong "Bốt chang”, các bạn hiểu thêm một chút nào về văn học, văn hóa và con người Nhật Bản thì đó là mong ước và niềm vui của người dịch. Osaka tháng 2 năm 2006 Người dịch Bùi Thị Loan Mời các bạn đón đọc Cậu Ấm Ngây Thơ của tác giả Natsume Soseki,
Bản Giao Hưởng Pháp - Iréne Némirovsky
Nước Pháp những năm 1940. Sau một mùa hè tản cư rối loạn, đầy kinh hãi và cả đớn hèn, người dân bắt đầu bước vào thời kỳ buộc phải chung sống cùng quân Đức. Nghịch lý thay, giai đoạn tưởng chừng ngập tràn khiếp sợ này lại diễn ra hết sức êm đềm với những tình cảm con người trìu mến, trong đó có những mối tình thầm lặng, trong sáng, lãng mạn, ngập tràn chất thơ… Bản giao hưởng Pháp được hết thảy giới nhà văn, nghiên cứu,phê bình, giới truyền thông và tất cả những ai từng đọc nó trên toàn thế giớ tôn vinh như một viên ngọc quý của nền văn học. Dù còn dang dở, song kiệt tác này vẫn “kịp” miêu tả thành công cái nền chân thực của một tấn trò đời thời chiến, ở đó, toàn bộ tài năng của tiểu thuyết gia được bộc lộ thông qua nhân vật trong vô số gương mặt thuộc mọi giai tầng khác nhau. Đó chính là lý do giải thich vì sao Irène Némirovsky được coi như một văn sĩ hiếm hoi đã diễn tả đầy sức mạnh và sinh động cuộc sống hậu phương thời chiến ở một tầm vóc sử thi. Và khiến bà trở thành nhà văn quá cố duy nhất cho tới lúc này giành được giải Renaudot - một trong những giải thưởng văn học uy tín nhất của Pháp. … Khi anh trở về, vào giờ ăn xúp, anh thấy ngay lập tức là đã có một sự kiện xảy ra trong khi anh vắng mặt. Cậu bé người làm đi lên thị trấn mua bánh mì; cậu ta mang về bốn cái bánh mì đẹp đẽ vàng ruộm hình vòng treo ở ghi đông xe đạp; đám phụ nữ vây quanh cậu. Nhìn thấy Jean-Marie, một cô gái kêu lên với anh: - Này! Anh Mi chaud, anh hài lòng nhé, bưu điện hoạt động rồi. - Không thể thế được, - Jean-Marie nói, cậu, - cậu có chắc không, cậu bạn? - Chắc. Em thấy bưu điện mở cửa và có những người đọc thư. - Thế thì tớ lên nhà viết vài dòng cho gia đình tớ rồi chạy ra thị trấn bỏ thư đây. Cậu cho tớ muợn xe đạp của cậu được chứ? Đến thị trấn, anh không chỉ bỏ thư ở bưu điện mà còn mua những tờ báo vừa mới tới. Tất cả những cái đó thật là kỳ cục! Anh giống như một kẻ đắm tàu tìm lại được quê hương, nền văn minh, xã hội của những kẻ giống mình. Trên quảng trường nhỏ mọi người đọc những bức thư tới trong chuyến thư buổi tối; đám phụ nữ khóc. Nhiều tù binh gửi tin tức về, nhưng họ cũng cho biết tên các đồng đội đã chết. Như mọi người ở trang trại đã yêu cầu anh, anh bèn hỏi có ai biết anh con trai Benoit ở đâu không. - A! Thế ra anh là anh lĩnh sống ở đấy đó à? - mấy bà nông dân nói, - Chúng tôi thì chẳng biết gì đâu, nhưng bây giờ thư từ đến rồi, chúng ta sẽ biết những người đàn ông của chúng ta ở đâu! Và một trong những người này, một bà già, để đi ra thị trấn, đã đội một chiếc mũ đen nhỏ chóp nhọn, cài một bông hồng trên đỉnh đầu, vừa nói vừa khóc: - Sẽ có những người biết tin khá sớm đấy. Tôi muốn thà đừng nhận được tờ giấy chết tiệt này còn hơn. Thằng con tôi là thuỷ thủ trên chiếc Bretagne đã bị mất tích khi người Anh phóng ngư lôi vào tàu, người ta bảo thế. Thật là khốn khổ! - Bà đừng đau buồn. Mất tích không có nghĩa là chết. Có thể anh ấy bị bắt làm tù binh ở Anh. Nhưng đáp lại tất cả những lời an ủi, bà vừa chậm rãi trả lời vừa lắc đầu và bông hoa giả rung lên theo từng cử động trên chiếc cọng bằng dây đồng. - Không, không, thế là thôi rồi, thằng bé tội nghiệp của tôi! Thật là khốn khổ… Jean-Marie lên đường về làng. Dọc đường anh gặp Cécile và Madeleine đi ngược về phía anh; hai cô hỏi cùng một lúc: - Anh có biết tin gì về anh trai của em không? Anh có biết tin gì về Benoit không? - Không, nhưngđiều đó không có nghĩa gì hết. Các cô có biết là có bao nhiêu thư từ bị chậm trễ không? Bà mẹ thì không nói gì. Bà đưa bàn tay vàng vọt và gầy guộc lên che mắt, nhìn anh, anh lắc đầu ra hiệu là không. Xúp đặt trên bàn, những người đàn ông trở về, tất cả cùng ăn. Sau bữa ăn tối và khi bát đĩa đã được lau khô, gian phòng đã được quét dọn, Madeleine đi hái đậu ngoài vườn. Jean-Marie đi theo cô. Anh nghĩ là chẳng bao lâu nữa anh sẽ rời trang trại và tất cả dưới mắt anh trở nên đẹp hơn, thanh bình hơn… *** - “Sau nhật ký của Anne Frank, có thể coi Bản giao hưởng Pháp của Irène Némirovsky là một sự kiện lớn, độc đáo cả về khía cạnh văn học lẫn lịch sử. Một kiệt tác” – L’Express - “Tuyệt vời! Một tác phẩm ngnag tầm và đạt đến độ tinh tế như những tác phẩm của Marcel Proust, với những diễn biến khôi hài và cảm động sâu sắc” – Time - “Siêu việt, đáng kinh ngạc… có thể coi tác phẩm này của Irène Némirovsky là cuốn tiểu thuyết vĩ đại cuối cùng hư cấu về chủ đề chiến tranh” – The Pittsburgh Post-Gazette. *** Iréne Némirovsky sinh năm 1903 tại Kiev. Sau nhiều năm phiêu bạt ở Phần Lan và Thụy Điển, bà đến Paris. Say mê văn chương, thành thạo bảy ngoại ngữ cùng vốn sống phong phú bà có nhiều tác phẩm được xuất bản và đã trở thành một hiện tượng văn học đặc biệt. Sau đó, bà trở thành nạn  nhân của chính sách bài Do Thái do phát xít Đức tiến hành. Năm 1942, Irène Némirovsky bị đày đến Auschwitz và bị ám sát ở đó. Năm 2004, Denise Epstein, con gái đầu lòng của Irène Némirovsky khi đó ở tuổi bảy mươi tư, mới quyết định cho in Bản giao hưởng Pháp - tác phẩm được mẹ bà dự định viết thành năm phần với số lượng nhân vật đông đảo, với những tình tiết thắt-mở nút bất ngờ xoay quanh mối quan hệ giữa các nhân vật ấy trong thời kỳ Thế Chiến II.   Mời các bạn đón đọc Bản Giao Hưởng Pháp của tác giả Iréne Némirovsky.