Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vụ Án Mạng Giám Mục

Những án mạng kỳ lạ và những bức thông điệp chỉ dẫn về các án mạng được gửi đến báo chí như thách thức dư luận. Liệu kẻ bí ẩn có biệt danh là  "Giám Mục", người được cho rằng đã đánh máy và gửi những thông điệp đó, có phải là hung thủ? Rất nhiều lĩnh vực có thể được đưa vào một tiểu thuyết trinh thám đã xuất hiện trong cuốn sách này. Những bài đồng dao gợi cảm hứng cho hung thủ về các án mạng. Công thức toán học tìm thấy bên cạnh xác nạn nhân. Một án mạng liên quan đến cờ vua. Những tình tiết liên quan đến triết học, y học, thiện văn học... cũng có ảnh hưởng khá quan trọng đến diễn biến của câu chuyện. ... Hơn một lần, nghi can đã bị nghi ngờ nhiều nhất bỗng nhiên chết với nhiều nghi vấn. Bất ngời nối tiếp bất ngờ... *** Review Vụ án mạng Giám mục (Philo Vance #4). Về nội dung: quyển sách viết rất ổn, nhìn chung bảo vô cùng đặc sắc thì không phải, nhưng chắc chắn là có những nét riêng của mình. Tuy nhiên, trước hết phải nói nó không dễ đọc, vì hàm lượng kiến thức Toán, Vật lý cao cấp, Lịch sử, Nghệ thuật,… rất nhiều, tương đương với dung lượng dành cho vụ án. Lý do là rất nhiều các nhà khoa học dính líu vào vụ này. Nói đơn giản, nó như một sự pha trộn giữa các tác phẩm thời kì Hoàng Kim và các tác phẩm của H.G.Wells. Bản thân tôi thì đọc được không vấn đề, tuy nhiên độc giả thông thường có thể thấy mệt khi theo dõi. Về bản thân vụ án: không quá khó đoán hung thủ, mặc dù tất cả chỉ là suy đoán vì thủ pháp gây án hoàn hảo không có chứng cứ. Việc có ích duy nhất là xem xét thời gian hoạt động và chứng cứ ngoại phạm của các nhân vật tình nghi, sau đó khoanh vùng hung thủ. Việc còn lại là để sự việc diễn tiến để dùng thủ pháp “loại trừ” (loại trừ đúng nghĩa đen) để đoán ra hung thủ. Có twist cuối truyện, nhưng không thật sự đặc sắc với những ai đọc thể loại này lâu năm, và thật sự là đến lúc đó thì tùy vào diễn biến truyện xem tác giả “chọn mặt” ai để “gửi vàng”. Về việc làm sách: Bìa không tạo được cảm giác thu hút, thấy nghi ngại (cảm giác cá nhân) có thể khiến khó bán sách. Mặc dù nếu xem kỹ thì bìa là bản đồ (không trọn vẹn) hiện trường nên cũng khá thú vị. Dịch thuật ban đầu cảm tưởng như dịch word-to-word nhiều, còn non tay nhưng về sau càng đọc càng vào, dịch càng lên. Sách cũng không có các trang thông tin sau khi truyện kết thúc (trước bìa 3 và 4), hơi khó hiểu. Điều đáng nói ở đây là công sức trong việc chú giải: đây là điều rất đáng ghi nhận vì đội ngũ làm sách đã cố gắng hết sức để giữ cho trải nghiệm của người đọc được như khi đọc nguyên tác. Các chú thích rất nhiều và được làm rất chi tiết, phân ra rõ ràng chú thích cũ của tác giả và chú thích mới của người dịch. Các đoạn “tiếng nước ngoài” rất nhiều (các nhân vật thời này có vẻ thích chêm vào vài câu Latin, Đức, Pháp để tỏ ra nguy hiểm? Điều này gây khó chịu khi đọc, nhưng không phải lỗi ở đội ngũ làm mà là do nguyên bản, không thể trách họ). Rất giống Poirot, nhưng Trẻ làm chỉ dịch đúng 1 lần, nên lần sau gặp lại từ đó không nhớ thì rất khó chịu. May là đội ngũ làm sách rất có tâm nên không phải chịu đựng cảnh này. Một chi tiết khá thú vị nữa là các nhân vật nhắc đến những tên tuổi nổi danh trong giới khoa học đương thời như thể trong những câu chuyện thường ngày, như thể họ đang cạnh tranh những công trình khoa học với những người đó, điều này khiến cho cuốn sách có cảm giác như đã thực sự diễn ra trong thời điểm đó. Tuy nhiên, có điểm hơi thất vọng là mặc dù tác giả xây dựng hình tượng Vance rất nguy hiểm: ngoài bắt chước Conan Doyle xây dựng Sherlock Holmes từ góc nhìn của Dr. Watson, ông này còn vô cùng hiểu biết, cái quái gì cũng nói chuyện được (chém Toán cao cấp, Vật lý, thậm chí cờ vua như đúng rồi). Nhưng cuối cùng vẫn không giải quyết vụ án ở mức độ hiệu quả cao nhất. Đáng lẽ không nên nâng bi quá đà như vậy. Điểm cá nhân: 7/10. Nguyễn Minh Thắng   VỤ ÁN MẠNG GIÁM MỤC – S.S. VAN DINE Ngày xửa ngày xưa, ở 1 vùng đất xa xôi bên kia đại dương (ờ thì thật ra cũng không xưa lắm và không xa lắm, chỉ là mùa xuân năm 1929 ở New York thôi), có 1 cô tiểu thư hiền lành giỏi bắn cung tên là Belle Dillard. Belle sống với bác mình là giáo sư Bertrand Dillard và người con nuôi của ông, Sigurd Arnesson. Ngày nọ, 1 trong những người thường tập bắn cung với Belle bị chết vì cung tên. Sau đó không lâu, 1 sinh viên có quen với gia đình Dillard bị chết do súng lục bắn vào đỉnh đầu. Tiếp theo là những cái chết kỳ lạ ứng với 1 bài đồng dao trẻ con xảy ra xung quanh gia đình Dillard. Thám tử Philo Vance, luật sư Van Dine, công tố viên Markham, trung sĩ Heath của Cục Hình sự, cùng với sự hợp tác của Arnesson, đã tiếp nhận điều tra các vụ án bí ẩn nêu trên. Manh mối ít ỏi, không có động cơ gây án, ai cũng không có chứng cứ ngoại phạm… cuộc điều tra cứ xoay quanh những bài đồng dao trẻ con, các công thức toán học phức tạp và những ván cờ vua kéo dài hàng tiếng đồng hồ. Rất may, khi những vụ án mạng đáng sợ cứ tiếp tục xảy ra thì bên cạnh tiểu thư Belle luôn có Arnesson thông minh, vững vàng che chở cho cô. Nếu cứ không tìm được hung thủ thì mọi chuyện rồi sẽ đi về đâu? Biển được tặng cuốn “Vụ án mạng giám mục” khi đi offline Hội Thích Truyện Trinh Thám đầu tháng 5/2018 nhưng hạ tuần tháng 5 mới bắt đầu đọc nó. Quyển sách giản dị nhỏ nhắn do thành viên của hội tự dịch và tự in, bìa sách gợi liên tưởng đến Google Map. Khi được chọn sách, (nói thật thì cuốn Biển tăm tia đã được người khác chọn trước), còn “Vụ án mạng giám mục” vẫn xếp thành 1 chồng nhỏ, thấy thương quá nên Biển lấy 1 cuốn!, và quyển sách cũng thương lại Biển, vì nó rất xuất sắc. Sách nhỏ nhưng nặng, đọc lâu hết. Chữ in to rõ, chất giấy tốt. Nội dung Biển đã kể sơ ở trên, lôi cuốn từ trang đầu đến trang cuối. Biển xin phép khen ngợi 2 người dịch quyển này, dịch rất kỹ, rất mượt, không có lỗi dùng từ hoặc lỗi chính tả. Trong khi đọc, có những câu Biển cảm giác rõ rằng dịch giả đã phải cân nhắc kỹ lưỡng bao nhiêu để sắp xếp trật tự câu chữ cho hợp lý nhất và hay nhất. Không phải vì sách được tặng hoặc vì Biển phải đợi lâu để “chộp” được nó mà Biển khen nó hay, bản chất của nó hay sẵn. Quyển sách nhìn đơn giản nhưng thật sự hấp dẫn, đọc cứ như Sherlock Holmes. Tuy cũng thuộc dòng trinh thám kinh điển nhưng Biển thấy nó mang nhiều hơi hướm hiện đại (vì bối cảnh truyện là thế kỷ XX) và hay hơn quyển “Hồ sơ số 113”. Đọc được a/b truyện thì Biển đã đoán (đúng) được hung thủ (a/b là 1 phân số, không dùng số mà dùng chữ ab để không spoil truyện). Độc giả có thể đọc 1 mạch đến hết, cũng có thể đọc từng chương rồi dừng lại để nghiền ngẫm thêm. “Vụ án mạng giám mục” không có chi tiết kinh dị, có thể đọc thoải mái không cần băn khoăn. Theo Biển thì đây là 1 quyển đáng có trên kệ sách của mọi mọt. Biển xin gửi lời cảm ơn Hội 4T đã tặng Biển quyển này, và cảm ơn người đầu tiên đã nảy ra ý tưởng dịch quyển này sang tiếng Việt để đem đến cho độc giả VN 1 quyển sách hay. Nói nhỏ nhỏ: nếu được, mong Hội 4T hãy đầu tư nhân lực + hiện kim để dịch thêm các truyện trinh thám khác của tác giả này nhé ^^ (Sea, 28-5-2018) Camellia Phoenix *** S. S. Van Dine là bút danh của Willard Hungtington Wright (15/10/1888 - 11/04/1939), một nhà phê bình nghệ thuật và cũng là một nhà văn người Mỹ. Ông tạo ra thám tử hư cấu rất nổi tiếng là Philo Vance, xuất hiện trong cuốn sách đầu tiên vào năm 1926, sau đó là trong các bộ phim và trên đài phát thanh. Willard Hungtington Wright là con trai của Archibald Davenport Wright và Annie Van Vranken Wright. Ông sinh ngày 15 tháng Mười năm 1888, tại Charlottesville, Virginia. Em trai ông, Stanton Macdonald-Wright (1890 - 1973), một nghệ sĩ trừu tượng nổi tiếng của Mỹ, có vẽ một bức tranh chân dung ông bằng sơn dầu vào khoảng năm 1913 -1914. Năm 1907, Wright kết hôn với Katharine Belle Boynton tại Seattle, Washington. Ông kết hôn lần thứ hai vào năm 1930 với Eleanor Rulapaugh, được biết đến dưới cái tên Claire De Lisle, một họa sĩ tranh chân dung. Wright, một nhà văn chủ yếu tự học, đã theo học trường St. Vincent College, Pomona College và đại học Havard nhưng không hoàn tất. Ông cũng học nghệ thuật ở Munich và Paris, chính việc học ở đây đã dẫn dắt ông tới công việc liên quan đến văn học và phê bình nghệ thuật cho tờ Los Angeles Times. Wright là một người ủng hộ chủ nghĩa tự nhiên của Theodore Dreiser. Ông đã viết tiểu thuyết “The Man of Promise” và một số truyện ngắn theo thể loại này. Khi là biên tập viên cho tạp chí văn học The Smart Set, từ năm 1912 - 1914, ông đã cho xuất bản một số tiểu thuyết hiện thực của các tác giả khác. Ông bị sa thải khỏi vị trí đó khi chủ sở hữu bảo thủ của tạp chí cảm thấy rằng Wright đã cố tình khiêu khích độc giả trung lưu của họ với sự hứng thú của ông về những tác phẩm hư cấu trái với thông lệ và bị cho là khiêu dâm. Trong thời gian hai năm đó, Wright đã xuất bản truyện ngắn của Gabriele D’Annunzio, Floyd Dell, Ford Madox Ford, D.H. Lawrence và George Moore; một vở kịch của Joseph Conrad; và những bài thơ của Ezra Pound và William Butler Yeats. Ông xuất bản cuốn “What Nietzsche Taught” vào năm 1915. Trong cuốn sách này, ông cung cấp thông tin và những lời nhận xét trong các cuốn sách của Nietzsche, cũng như trích dẫn từ mỗi cuốn sách. Năm 1917, ông đã xuất bản Misinforming a Nation, một lời phê bình gay gắt về sự thiếu chính xác và định kiến tiếng Anh của bách khoa toàn thư Britannica tái bản lần thứ 11. Wright tiếp tục sự nghiệp trong vai trò một nhà phê bình và nhà báo cho đến năm 1923, khi sức khỏe ông trở nên yếu đi do làm việc quá sức, nhưng thật ra là do nghiện thuốc (theo “Tiểu sử bút danh S. S. Van Dine” của John Loughery). Bác sĩ đã khuyên ông nên nghỉ ngơi (được cho là do bệnh tim, nhưng thật ra là do nghiện cocaine, một loại ma túy chiết xuất từ lá coca) trong hơn hai năm. Thất vọng và chán nản, ông bắt đầu sưu tập và đọc hàng trăm tác phẩm về tội phạm và điều tra. Wright cũng quyết định thử sức mình với tiểu thuyết trinh thám và tham khảo ý kiến của Maxwell Perkins, biên tập viên Scribner nổi tiếng mà ông quen tại Đại học Harvard. Năm 1926, cuốn sách đầu tiên về Philo Vance, The Benson Murder Case, được xuất bản dưới bút danh “S. S. Van Dine”. Wright lấy bút danh từ chữ viết tắt của từ “steamship” và cái tên Van Dine, mà theo ông nói là một cái tên cổ trong gia đình. Tuy nhiên, theo như lời Loughery, “không ai có cái tên Van Dine trong cây gia phả”. Ông tiếp tục viết thêm 11 tiểu thuyết trinh thám, và những quyển sách đầu tiên về vị thám tử nghiệp dư trong tầng lớp thượng lưu, Philo Vance (người có tình yêu về mỹ học giống Wright), trở nên nổi tiếng tới nỗi lần đâu tiên trong đời Wright trở nên giàu có, nhưng niềm vui không trọn vẹn. Số phận của ông đã được báo trước một cách kỳ lạ ở Stanford West, người anh hùng trong cuốn tiểu thuyết của ông, nổi tiếng do từ bỏ công việc không được ưa chuộng trong khi tìm kiếm “một nền móng vững chắc của văn minh và tầng lớp quý tộc” và trở thành một tiểu thuyết gia thành công. Tiêu đề của một bài báo ông viết ở đỉnh cao của sự nổi tiếng của mình, “Tôi từng là một nhà trí thức và bây giờ hãy nhìn tôi đi”, phản ánh cả niềm tin và sự hối tiếc của ông về việc ông không được coi trọng như là một nhà văn hàng đầu. Những cuốn sách sau này của ông đã ít nổi tiếng hơn vì sở thích của công chúng trong việc đọc các tiểu thuyết hư cấu bí ẩn đã thay đổi. Wright, người có tính cách giống với Vance, là một người điệu bộ và ham mê nghệ thuật, hiểu biết về nghệ thuật, âm nhạc và phê bình. Ông sống trong một căn hộ đắt đỏ, với niềm yêu thích trang phục và thức ăn đắt tiền, và sưu tập các tác phẩm nghệ thuật. Wright mất vào ngày 11 tháng Tư năm 1939, ở thành phố New York, một năm sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết “The Grade Allen Murder Case” và để lại một tiểu thuyết ngắn được dự định dựng thành phim cho Sonja Henje, và được xuất bản sau khi ông mất dưới tên “The Winter Murder Case”. Series về thám tử Philo Vance gồm 12 tác phẩm: The Benson Murder Case (1926) The Canary Murder Case (1927) The Greene Murder Case (1928) The Bishop Murder Case (1928) The Scarab Murder Case (1929) The Kennel Murder Case (1933) The Dragon Murder Case (1934) The Casino Murder Case (1934) The Garden Murder Case (1935) The Kidnap Murder Case (1936) The Grade Allen Murder Case (1938) The Winter Murder Case (1939) Cùng với sự thành công trong vai trò một nhà văn viết tiểu thuyết hư cấu, những dòng giới thiệu và ghi chú của Wright trong tuyển tập “The world’s great detective stories” (Những truyện trinh thám hay trên thế giới - 1928) rất quan trọng trong lịch sử nghiên cứu phê bình về tiểu thuyết trinh thám. Ông cũng đã viết một bài báo có tựa đề “Twenty rules for writing detective stories” (Hai mươi quy tắc viết truyện trinh thám) vào năm 1928 được đăng trên tạp chí The American. Nó thường xuyên được tái bản và thường được đối chiếu với “Ten commandments of detective fiction” (Mười điều răn về truyện trinh thám - 1929) của Ronald Arbuthnott Knox (1888 - 1957), một linh mục, nhà thần học và tác giả truyện trinh thám người Anh. Wright cũng viết một series truyện ngắn cho hãng phim Warner Brothers vào đầu thập niên 1930. Những câu chuyện này đã được sử dụng trong một series gồm 12 phim ngắn, với độ dài khoảng 20 phút mỗi tập, được phát hành vào năm 1931 -1932: The Clyde Mystery (tháng 09/1931) The Wall Street Mystery (11/1931) The Week End Mystery (12/1931) The Symphony Murder Mystery (01/1932), The Studio Murder Mystery (02/1932) The Skull Murder Mystery (03/1932) The Cole Case (The Cole Murder Case) (04/1932) Murder in the Pullman (05/1932) The Side Show Mystery (06/1932) The Campus Mystery (07/1932) The Crane Poison Case (07/1932) The Trans-Atlantic Murder Mystery (08/1932) Trong số đó, The Skull Murder Mystery cho thấy việc xây dựng tình tiết kịch bản mạnh mẽ của Wright. Nó cũng nổi tiếng về cách đối xử không phân biệt chủng tộc đối với những nhân vật người Trung Quốc, một điều khá bất thường vào thời điểm đó. Theo như được biết, không có kịch bản nào của ông được xuất bản thành sách và dường như không có bản thảo nào tồn tại đến ngày nay. Những phim ngắn cực kỳ phổ biến vào thời điểm đó và Hollywood đã làm hàng trăm phim như thế trong thời kỳ đó. Tuy nhiên, trừ một số phim hài câm, hầu hết những bộ phim này đều bị lãng quên và không được liệt kê trong các cuốn sách tham khảo về phim ảnh. Mời các bạn đón đọc Vụ Án Mạng Giám Mục của tác giả S. S. Van Dine & Nhã Nhã (dịch) & Tào Huỳnh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người hành khách bí ẩn - Georges Simenon
Tên ebook: Người hành khách bí ẩn Tác giả: Georges Simenon Thể loại: Tiểu thuyết, Trinh thám, Văn học phương Tây   Người dịch:  Đặng Phú - Lê Việt Dũng   Nhà xuất bản: Công An Nhân Dân   Kích thước: 13 x 19 cm   Số trang: 385   Năm xuất bản: 2004   Tạo prc: Hoa quân tử   Ebook:  Đào Tiểu Vũ's eBook -  http://www.dtv-ebook.com Đ ây là một căn bệnh tấn công những tàu thuyền trong tất cả các vùng biển trên thế giới mà nguyên nhân thuộc một lĩnh vực chưa ai biết, được gọi là ngẫu nhiên. Nếu những triệu chứng bước đầu của căn bệnh ấy rõ ràng thì chúng sẽ không thể thoát khỏi cặp mắt của những thuỷ thủ. Tuy nhiên, nó thường bắt đầu bằng những điều hết sức vô cớ, chẳng hạn như: một dây néo đứt văng ra như dây vĩ cầm làm bứt đi cánh tay một thuỷ thủ. Hoặc giả một chàng thủy thủ trẻ xoè ngón tay cái trong lúc gọt vỏ khoai tây và ngày hôm sau “tai hoạ bất ngờ” làm anh ta thét lên. Nếu không do vận hành sai thì làm sao một chiếc canot lại dại dột lao vào sống mũi tàu? Nhưng đó vẫn chưa phải là “cái nhìn xúi quẩy”. Cái nhìn xúi quẩy đòi hỏi hàng loạt những tai nạn. Khi cái loạt xúi quẩy ấy đeo đuổi, người ta dễ dàng nhận thấy những tổn hại mới vào ban đêm hoặc ngày hôm sau. Từ khi nó xuất hiện, mọi việc sẽ ngày càng xấu đi và những người đàn ông, chỉ còn biết nghiến răng mà đếm những trận đòn. Đó là lúc mà cỗ máy đã vận hành ba mươi năm không một lần hỏng hóc, bỗng dở chứng kẹt máy như chiếc cối xay cà phê cũ kỹ. Bất kể những dự báo được xác định là tốt nhất trên những bảng khí tượng và theo kinh nghiệm, nếu đúng, thì trong hai mươi ngày tới vào mùa này, gió không bao giờ xảy ra. Và con sóng đầu tiên ập đến sẽ không cuốn một người vào biển cả! Sẽ có bệnh lỵ nếu không phải dịch hạch! Còn may mắn nếu người ta sẽ không giạt vào mắc cạn ở một bãi cát hoặc khi đi vào cảng, người ta không va phải đê chắn sóng. ○○○ Con tàu Polarlys, neo đậu ở cảng số mười bảy trong một vũng tàu xa xôi nhất và bẩn thỉu nhất ở Hambourg phải nhổ neo dời bến vào ba giờ chiều theo thông báo ở tấm biển móc vào thùng thư tại cầu tàu. Chưa đến hai giờ, thuyền trưởng Petersen đã mơ hồ cảm thấy “cái nhìn xúi quẩy” rình rập. Tuy nhiên đây là một người đàn ông cương nghị, béo lùn, mập mạp. Từ chín giờ sáng, ông bước từng bước dài trên boong giám sát việc bốc hàng lên tàu. Sương mù đặc biệt vàng và xám, chứa đầy bồ hóng, phả ra độ ẩm lạnh giá, đè nặng lên bến cảng và thành phố, người ta chỉ nhìn thấy những chiếc đèn của xe điện, những cửa sổ sáng đèn như giữa đêm. Lúc này là cuối tháng hai. Do lạnh và vì vật lộn trong những đám mây ấy, đã để lại trên mặt và những bàn tay một loại váng băng. Mọi hồi còi đồng loạt rít lên thành một tiếp âm chói tai lấn át tiếng kèn kẹt của những cần trục. Boong tàu Polarlys hầu như vắng vẻ: bốn người đàn ông ở trên khoang trước đang tháo dỡ những chiếc hòm và thùng. Con tàu không có gì nổi tiếng cả. Đây là con tàu chạy hơi nước trọng tải một nghìn tấn, có vẻ tàu đánh bắt cá thu, boong tàu luôn đầy ắp hàng hoá, tàu làm dịch vụ từ Hambourg đến Kirkenes bằng cách đi dọc bờ biển Na Uy để phục vụ giao thông cho những cảng nhỏ. Đây là con tàu hỗn hợp có chỗ cho năm mươi hành khách ghế hạng nhất và cũng ngần ấy hành khách hạng ba. Từ Na Uy, người ta đưa đến nơi nhận những máy móc, hoa quả và thịt muối. Người ta đưa về từ cực Bắc những thùng cá thu cũng như da gấu và dầu hải cẩu. Cho đến Lofoten, khí hậu bình thường. Rồi đột nhiên, người ta rơi vào những miền băng giá và trong đêm dài tới ba tháng. Những sĩ quan là người Na Uy. Những chàng trai tốt biết trước sẽ lấy bao nhiêu thùng ở Công ty Olsen tại Tromsoe và chuyên chở cho ai ở Hambourg những máy công cụ. Ngay buổi sáng ấy, Petersen dứt bỏ chiếc lon cuối cùng của mình chỉ được giữ bằng một sợi chỉ. Công ty bỗng cử ông đi với hàng tràng những lời dặn dò như với sĩ quan thứ ba, một chàng trai Hà Lan mười chín tuổi gầy mảnh như mới mười sáu tuổi! Phải chăng sự xuất hiện của Vriens lúc mười giờ làm cho Petersen đánh hơi thấy cái nhìn xúi quẩy? Anh ta tốt nghiệp trường hàng hải Delfzijl ngay tuần ấy. Hôm qua, anh ta trình diện vẻ xanh xao, xúc động, trong bộ đồng phục đứng đắn, ngơ ngác, đứng nghiêm. — Tuân lệnh, thưa thuyền trưởng! — Này, anh Vriens - Petersen nói với anh ta - tôi không có lệnh cho anh trong lúc này. Anh có thể nghỉ ngơi cho tới ngày mai. Với tư cách là sĩ quan thứ ba, anh lo việc đưa hành khách lên tàu. Vriens đi, buổi tối không trở lại. Vào mười giờ sáng, thuyền trưởng trông thấy anh ta xuống xe taxi, lảo đảo, với nước da xanh xao, mi mắt sưng phồng, cái nhìn sợ sệt. Khi anh ta qua cầu tàu, đúng là anh ta loạng choạng. Petersen xoay lưng lại với anh ta, nghe thấy anh ta chạm gót chào trước khi đi về phía buồng mình. — Anh ta ốm yếu như một con chó! - Một lúc sau người phục vụ nói. - Anh ta yêu cầu tôi cà phê rất đặc. Anh ta nằm duỗi dài, thẳng đơ trên giường hầu như không sao nói được. Người ta để que diêm cháy trước hơi thở của anh ta... Tất nhiên đó không phải là thảm hại! Nhưng khi ta có thói quen sống chung với những sĩ quan của mình, ta không thích nảy sinh một gã trai thuộc loại này, nhất là có một lá thư của quan chức hành chính đến trước, gửi gắm tạo điều kiện dễ dàng cho những bước đầu của anh ta. Ở tuổi mười chín, Petersen chưa tốt nghiệp nhưng ông đã ba lần đi vòng quanh thế giới! ○○○ Ông có thể dự báo trước việc đó. Một loạt “tai họa” sẽ bắt đầu. Trong lúc đi vòng trên con tàu của mình, hai tay đút túi, chiếc tẩu thuốc ở miệng, ông nhìn thấy một gã cao lớn tóc hung đứng tựa lưng vào thành tàu, cuốn một điếu thuốc lá. Người đàn ông đành mập mờ cúi đầu chào ông, tìm diêm trong túi. Rõ ràng là một con chuột ở cảng! Một trong số tên lang thang này ở miền Bắc không giống một tên lang thang nào trên trái đất. Một gã trai dưới bốn mươi tuổi cao lớn, khoẻ mạnh, vẻ đứng đắn mặc dầu bộ râu tám ngày không cạo và đôi má hơi lõm. Gã ở đây như ở nhà gã. Gã rít thuốc từng hơi ngắn, ưỡn ngực dưới chiếc áo hiệu Landwehr cũ mà gã đã thay cúc. — Anh làm gì ở đây? Gã hất cằm chỉ cơ trưởng rõ ràng đang qua cầu. Và người sau giải thích cho thuyền trưởng. — Thủy thủ tiếp than vừa bị sốt rét. Tôi phải để lại hắn trên bờ. Thế là tôi nghĩ đến gã này trên bến cảng, và tôi tuyển dụng gã làm thủy thủ tiếp than vào lò. Gã khỏe mạnh... — Anh ta có giấy tờ không? — Đúng thể thức! Gã ra tù ở Cologne... - Và cơ trưởng cười trong lúc rời đi. “Vậy là hai!" - Petersen làu bàu. Có một kẻ tiếp than vào lò, dù là kẻ mới ra tù đối với ông thế nào cũng mặc vì ông đang cần. Nhưng ông cảm thấy chán ghét gã từ đầu đến chân. Trong lúc đi bách bộ, ông tiếp tục lén quan sát gã. Phần lớn những kẻ lang thang người Đức đều có cái vẻ tự tin này, việc không biết xấu hổ và ngay cả sự hèn mọn này. Thêm nữa, gã này còn có vẻ gì mỉa mai trong cái nhìn. Gã cảm thấy mình bị dò xét. Gã tiếp tục hút thuốc, thỉnh thoảng đá lưỡi thấm ướt giấy thuốc, rồi nhìn khói thuốc phả ra từ miệng gã hoà trộn với sương mù. — Anh tên là gì? — Peter Krull. — Anh đã làm gì để phải vào tù? — Lần cuối cùng tôi không làm gì hết! Đó là sự sai lầm của tư pháp... - Gã nói từ tốn, giọng kéo dài và chính thuyền trưởng bỏ cuộc nói chuyện. Vả lại một dây cáp đứt đúng lúc đó làm cho một chiếc thùng cực lớn bọc kín chiếc máy kéo nông nghiệp lao vụt xuống từ độ cao sáu mét vào đáy khoang. Hành khách đầu tiên lên tàu, Petersen chỉ trông thấy chiếc hòm xanh và chiếc áo khoác màu xám. — Vriens đâu? - Thuyền trưởng hỏi người phục vụ - Tôi mong rằng tôi sẽ không phải lo tới cả việc lên tàu! — Anh ta ở phòng khách trước những cuốn sổ. Đúng thế. Chắc chắn anh ta đau quặn bụng, đầu óc đau đớn nhưng anh ta đang ở vị trí của mình. Anh ta tiếp khách, ghi lại những điều chỉ dẫn trong hộ chiếu của người ấy và chỉ cho người đó một phòng. Hai giờ cuối cùng luôn lộn xộn. Những chiếc xe tải đưa hàng hoá đến chậm. Những chiếc cần trục không thể vận hành nhanh hơn. “Mặc kệ! Ta sẽ bỏ lại ai không lên tàu đúng giờ!" Một sự đe dọa theo truyền thống không làm ai sợ cả. Một nữ hành khách lên tàu, theo sau là một người khuân vác. Cảnh sát thảo luận với Vriens, anh này quên điền một phần vào những bản khai in sẵn. Khi tiếng chuông cảnh báo đầu tiên vang lên, con đường trước mặt con tàu Polarlys thông thoáng. Nhưng khi người ta thả dây chão năm phút sau thì chiếc tàu lớn chở dầu của Anh đang chắn ngang và nó phải thực hiện những thao tác phức tạp. Một chiếc xà lan chạy máy dần dần vững bước tiến lên sát mặt nước chỉ với một thủy thủ tựa vào cần lái và hút tẩu thuốc. Tàu va vào sườn nó. Nửa boong của nó ngập trong nước và thật kỳ diệu là nó có thể tiếp tục chạy giữa những chiếc vỏ đen của các tàu chở hàng dựng lên quanh nó như những bức tường. Trên con sông Elbe là một đám rước. Ba hàng tàu thuỷ đi nối đuôi nhau thành chuỗi trong sương mù ngăn việc phân biệt cái bẫy của tàu trước và những hồi còi dữ dội thi nhau vang lên. Những con tàu chạy nhanh hơn mài miệt vượt lên những chiếc khác. Những thuyền buồm chen lấn nhau và đột nhiên người ta trông thấy cánh buồm mũi của chúng mọc lên cách sống mũi thuyền ít nhất là một sải cáp, khoảng hai trăm mét. — Từ từ... Dừng lại... Lùi lại... Dừng... Từ từ...Một nửa... Dừng... Máy điện báo kêu lách cách và con tàu tiến sang phải sang trái từng đợt trong sương giá. ○○○ Vào bảy giờ, con tàu vẫn ở trên sông và người ta chưa thấy ngọn đèn hiệu ở Cuxhaven báo cho biết đã đến biển. Thuyền trưởng bước xuống từ cầu tàu, để lại thuyền phó cùng với người hoa tiêu ở đó và chuẩn bị cho một việc khổ sai khác: chuẩn bị bữa ăn cho hành khách. Người phục vụ đem theo chiếc cồng đi trong những hành lang, với vẻ năn nỉ, theo kinh nghiệm biết rằng ngày đầu, những hành khách không bao giờ vội vã cả. — Năm suất hả? - Petersen nhận xét. — Một bà và ba ông... Bà đây... Cô ta tiến lên vẻ dễ dãi. Chiếc bót thuốc lá bằng ngọc ở trên môi. Cô ta trang điểm như để ăn tối trên con tàu sang trọng vượt Đại Tây Dương và hầu như khoả thân dưới chiếc áo dài lụa đen. Một con người nhỏ bé lạ lùng, mảnh mai, dễ bị kích động với những cử chỉ lả lơi, bằng những sự khéo léo của thời thượng, tự cho mình là con người nổi bật. Cô ta có mái tóc hoe vàng và cũng óng mượt như tóc một đứa trẻ. Mái tóc được tách ra bằng một đường ngôi giữa, rủ xuống đôi má chỉ với một làn sóng làm nổi bật khuôn mặt bầu dục. Hai đồng tử mắt sẫm màu và để tạo ra sự tương phản mạnh mẽ hơn, lông mi được tô thuốc đen. Miệng mỏng; đôi bầu vú nhô rất cao, rất nhỏ. — Thuyền trưởng? - Cô ta lẩm bẩm với giọng dò hỏi. - Thuyền trưởng Petersen... Ông hầu như không rửa mặt. Mái tóc dày rậm cần phải chải. — Mời bà vui lòng ngồi xuống! Cô ta ngồi với vẻ thong dong, chọn chỗ dễ chịu bên phải thuyền trưởng. Một hành khách khác bước vào, bắt tay Petersen, máy móc thốt lên: — Thời tiết thật tồi tệ!. Đây là Bell Evjen, giám đốc mỏ Kirkenes, hằng năm có chuyến đi Luân Đôn và Berlin và con tàu Polarlys đưa ông đi sớm hơn một tháng. Ông ta thích thú quan sát người phụ nữ trẻ. Một lát sau, một hành khách khác nghiêng mình trước mỗi người, không nói một lời; đây là một gã trai cao lớn đầu cạo trọc, không có lông mi cũng không có lông mày, đeo kính có mắt kính dây đến nỗi đôi mắt anh ta to quá mức. — Hãy dọn ăn đi, anh phục vụ! Sau đó anh gõ cửa hành khách thứ năm... Bởi vì còn một suất ăn chưa có người. Bữa ăn bắt đầu theo mốt Bắc Âu: canh súp nóng mở đầu, tiếp theo là những món nguội, thịt lợn ướp, thức ăn muối, cá hộp, mứt quả và pho mát. — Người ở phòng số mười tám không trả lời. — Hãy nói với sĩ quan thứ ba lo việc đó. Hai lần Petersen trèo lên boong, lo lắng thấy máy đột ngột chạy chậm, vẫn trong tình cảnh sương mù, những tàu chở hàng chạy theo hàng một, những hồi còi inh ỏi, kèn và còi hú. Tại bàn ăn, mọi người yên lặng. Giữa hai món ăn, người phụ nữ trẻ châm một điếu thuốc lá với chiếc bật lửa là một tác phẩm kim hoàn. Petersen cho rằng cô ta là người Đức, cũng như người hành khách đầu cạo trọc. — Chúng tôi sẽ phục vụ các vị cà phê tại phòng hút thuốc! - Cuối cùng ông nói trong lúc đứng lên, theo một công thức mà ông thường nhắc lại từ mười hai năm nay trong mỗi chuyến đi. Ông đang nhồi tẩu thuốc trong hành lang trước buồng mình thì người nữ hành khách qua gần ông và đi vào trong cầu thang thẳng đứng dẫn tới phòng hút thuốc. Trong suốt thời gian cô ta trèo lên, ông nhìn đôi chân cô ta dưới làn lụa đen tạo cảm giác rất thú vị với đôi đầu gối nhỏ nhắn và cả chút ánh da thịt. — Này, ông Vriens hử? Chàng trai liền máy móc đứng theo tư thế của mình. Đôi môi anh ta run lên. Anh đờ người như thể đột nhiên anh rơi vào giữa một thảm kịch. — Không thấy người hành khách ấy. Tuy nhiên hành lý của ông ta còn ở trong buồng ông ta. — Ông ta là ai? — Ernst Ericksen ở Copenhagen. Tôi còn trông thấy ông ta lúc một giờ trước lúc tàu khởi hành! — Người đàn ông mặc áo khoác màu xám với chiếc hòm màu xanh phải không? — Đúng thế! Tôi đã tìm khắp nơi. — Có lẽ ông ta quay lên bờ để mua báo nên lỡ tàu... Vriens và chàng trai đeo kính đã vào buồng họ. Còn lại một mình nữ hành khách ở phòng hút thuốc. Chiếc áo lụa đen xuất hiện trên đầu cầu thang. — Thuyền trưởng... Cô ta tỏ vẻ xúc động, nhưng gắng mỉm cười, hai bàn tay nén giữ nhịp đập của lồng ngực. — Có chuyện gì xảy ra thế? — Tôi không biết... có lẽ tôi sợ. Tôi vừa vào phòng hút thuốc. Tôi thấy bình cà phê ở trên bàn cũng như những chiếc tách và tôi bắt đầu rót cho mình. Đúng lúc ấy, hình như tôi nghe thấy tiếng động đằng sau tôi. Tôi quay lại, trông thấy một người đàn ông mà tôi chưa nhận ra là ai... Tôi tin chắc người đó khiếp sợ bởi vì người đó đứng lên và chạy trốn. — Qua đâu? — Qua cửa này, cửa trông ra boong đi dạo, phải không? — Ông ta mặc áo khoác màu xám phải không? — Xám, vâng. Tôi kêu lên... Tại sao ông ta chạy trốn như vậy? Trong khi cô ta nói, Petersen có cảm giác cô ta nói với Vriens hơn là nói với ông. — Hãy đi xem! - Ông ta ra lệnh cho viên sĩ quan. Người này ngập ngừng rõ rệt, nhất là vào lúc bước qua trước bà khách mà anh ta phải lướt qua để đi ra. — Xin bà hãy bình tâm, thưa bà. Tất cả chuyện này chắc chắn sẽ được lý giải. Cô ta hé cười, bĩu môi làm điệu và nói: — Tôi sẽ ở lại một mình ở phòng hút thuốc ư? — Các bạn bà sẽ sớm lên đây. — Ông không uống cà phê ư, thưa thuyền trưởng? Ông cảm thấy mùi nước hoa của cô ta rất nồng và ông còn cam đoan thấy cả mùi hương của da thịt cô ta toả ra. Một lúc sau trong khi cô ta rót cà phê, ông xoi mói những đường nét của cô ta và khi cô ta quay lại, cô ta thấy mặt ông đỏ lựng, giả vờ bận tâm lôi kéo chiếc cravate của mình. Evjen bước vào. ○○○ Khi Petersen rời phòng hút thuốc rộng lớn chứa được khoảng năm mươi người, thoải mái nhưng tạo cảm giác hơi lạnh vì những đồ gỗ bằng gỗ sồi có màu rất sáng, thì Evjen ngồi ở một góc đang ghi chép những tài liệu buôn bán lấy từ cặp ra. Trong góc đối diện, gã trai đeo kính đọc cuốn Berliner Tagdblau. Ở giữa hai người ấy, người nữ hành khách đã trải lên mặt bàn những quân bài nhỏ và bắt đầu chơi trò phá trận. — Ông vui lòng cho tôi xin tí lửa, được chứ, thưa thuyền trưởng? Ông phải bước lại. Cô ta đưa về phía ông chiếc bót thuốc lá dài, trong lúc cúi xuống không biết làm thế nào mà mắt Petersen nhìn sâu vào chiếc áo ngắn tới chỗ bắt đầu bầu vú. — Cảm ơn... chúng ta tới biển chưa? — Chúng ta đang đến gần Cuxhaven, vâng! Tôi phải lên cầu tàu đây. Nhìn gần, ông nhận thấy như Vriens, cô ta có đôi mi sụp xuống, những nét mệt mỏi của người qua một hay nhiều đêm mất ngủ. Cũng như Vriens, đôi môi cô ta đôi khi bất chợt run lên. Trên cầu tàu, ông gặp viên sĩ quan thứ ba đang tìm ông, nét mặt tiều tuỵ hầu như anh ta đã khóc. — Anh đã tìm thấy ông ta chưa? — Không. Chắc chắn ông ta đang náu mình. Tuy nhiên tôi đã lấy ba người cùng tôi. Nhưng không phải thế... Petersen nhìn anh ta với vẻ hơi tò mò: — Thì sao? — Tôi muốn nói với ông, thưa thuyền trưởng... rằng... rằng tôi hết sức tiếc về... Giọng nói anh ta vỡ ra. Nước mắt dâng lên trong đôi mắt anh ta. — Tôi cam đoan với ông rằng đây là sự ngẫu nhiên.. Tôi chưa bao giờ uống... Đêm nay... tôi không thể giải thích cho ông... Nhưng điều đó làm tôi không thể chịu nổi khi nghĩ rằng ông... — Hết chưa? Mặt anh ta tái nhợt đến nỗi người nói chuyện với anh ta tỏ chút thương hại. — Anh đi ngủ đi! Ngày mai sẽ sao! - Ông nói thêm kém nhẹ nhàng. — Ông nghĩ tôi còn say ư? Tôi xin thề với ông... — Đi đi! Và Petersen, khoác chiếc áo da dê cái, lại gần viên hoa tiêu, trong khi chiếc tàu chở hàng bật đèn xanh lướt theo chiều ngược lại cách có vài mét. — Chưa đến ư? Người đàn ông chỉ bàn tay trái vào màn đêm. — Cuxhaven! - Ông ta làu bàu. Đây là người hoa tiêu ở Elbe, mà dưới đèn tín hiệu của bến này, ông ta phải xuống một chiếc tàu máy nhỏ đang đợi ông ta. Thuyền trưởng mời ông ta rượu trắng truyền thống trong buồng gác trong lúc trao đổi vài câu chuyện bình thường. Ông rót đầy cốc thứ hai thì máy chạy chậm lại, rồi hoàn toàn ngừng hẳn. Người ta sớm nhận ra ánh đèn đom đóm trong sương mù sát mặt nước. Nó hầu như ở xa nhưng chỉ một giây sau, nó chuyển thành chiếc đèn acetylene phân biệt được mọi chi tiết. Lập tức người ta nghe thấy tiếng va chạm vào vỏ tàu, dưới chiếc thang ở cửa tàu. Một cái bắt tay. “Chúc ngủ ngon!" Người phục vụ đã thu dọn gọn gàng phòng ăn. Tại phòng hút thuốc, ba người ngồi cách nhau không quá tám mét, vẫn chưa quen biết nhau mặc dầu Evjen luôn nhìn người đàn bà trẻ. Người hoa tiêu vừa đặt chân xuống tàu đã gọi: — Này! Thuyền trưởng. Có chuyện gì đó cho ông... Ngả người lên tay vịn, Petersen nhìn rõ trong chiếc canot bóng dáng một người đàn ông bất ngờ: một người đàn ông mặc áo choàng, tay cầm một chiếc vali rất to. — Ông muốn nói gì? — Tôi sẽ giải thích cho ông. Người ta phải giúp người đàn ông trèo lên thang. Sau khi lên boong, người này lo lắng nhìn quanh mình. — Cố vấn cảnh sát Von Sternberg! - Ông ta nói - Tôi không thể đi tàu thuỷ tới Hambourg nên tôi phải đi ôtô. Đây là một người đàn ông trạc năm mươi tuổi có bộ râu nhọn và đôi lông mày rậm càng có vẻ lạ lùng với chiếc áo choàng màu mù mờ làm biến dạng bóng dáng ông ta. — Tôi sẽ ăn trong buồng tôi! - Ông ta nói thêm vì con tàu Polarlys lại bắt đầu chạy - Nếu những hành khách hỏi ông... — Tôi có ba hành khách tất cả! — Nếu những hành khách hỏi ông, ông hãy trả lời rằng tôi bị ốm phải nằm tại giường. Ông hãy nói với họ một cái tên khác... Wolt chẳng hạn, Herbert Wolf, thương gia về áo da lông. Tôi sẽ trả tiền chuyến đi. — Ông có công vụ ư? - Petersen hỏi với tâm trạng bực bội tăng lên. - Có người nào trên tàu cần...? — Tôi nói mình là cố vấn cảnh sát khi không phải là thanh tra. — Tuy nhiên... Thuyền trưởng hoàn toàn không phải không biết chức cố vấn cảnh sát ở Đức là một danh vị nổi tiếng mà chức năng không phải là truy đuổi những kẻ bất lương. Nhưng có vấn đề với cảnh sát đủ làm cho ông tỏ vẻ cà khịa. Ông là thuyền trưởng nên ông khẳng định mình là chủ con tàu của mình. — Dẫu sao, ông sẽ làm theo ý ông! - Ông làu bàu - Nếu đó là Ernst Ericksen làm ông quan tâm thì tôi phải nói ngay với ông rằng không bắt được hắn đâu. Mất tích rồi! Hắn ẩn náu có trời mới biết ở đâu, mặc dầu hắn đã mua vé cho chuyến đi và hành lý của hắn còn ở trong buồng hắn. Ông gọi: — Phục vụ viên đâu! Anh hãy đưa ông đây tới một buồng còn trống. Anh sẽ phục vụ ông ấy tại chỗ. Ông Wolf. Rồi quay về phía người đàn ông mặc áo choàng: — Đúng thế, phải không? Ông trực ban vào sáu giờ sáng và lẽ ra ông phải ngủ từ lâu. Ông trở về buồng mình, nằm vào giường, nhưng ông còn chú ý đến những người đi đi lại lại ở hành lang một cách vô ý thức. Vì vậy ông nghe thấy tiếng Evjen và người hành khách trọc đầu vào phòng họ. Qua nửa đêm mà cửa buồng người đàn bà trẻ chưa mở ra. Ông bấm chuông gọi người phục vụ. — Mọi người đã ngủ rồi ư? — Không phải tất cả. Còn người đàn bà... — Cô ta vẫn chơi trò phá trận à? — Xin lỗi! Cô ta dạo chơi trên boong với... — Với ai? — Với ông Vriens. — Anh ta dám cả gan bám riết cô ta ở phòng hút thuốc ư? — Không! Anh ta ở trong buồng mình. Chính cô ta yêu cầu tôi gọi anh ta... Thuyền trưởng nặng nề trở mình trên giường và càu nhàu điều gì đó khó hiểu đối với người phục vụ làm anh này đợi một lúc mới rút lui.
Cây Thập Tự Ven Đường - Jeffery Deaver
Những cây thập tự ven đường xuất hiện dọc theo các xa lộ ở Bán đảo Montery, không phải để tưởng niệm những người đã thiệt mạng trong các vụ tai nạn giao thông, mà là để thông báo thời gian sắp diễn ra các vụ ám sát. Nạn nhân chính là những người đã đăng bài viết thiếu cẩn trọng hay để lộ quá nhiều thông tin cá nhân trên các trang mạng xã hội.   Đặc vụ Kathryn Dance cùng các đồng sự tại CBI được giao phó tiếp nhận vụ án. Là một chuyên gia về ngôn ngữ cơ thể, cô đã nhanh chóng lần ra các manh mối và phát hiện ra trung tâm của mọi nghi vấn là cậu thiếu niên Travis Brigham. Động cơ giết người của Travis là để trả thù những ai đã từng nhục mạ mình trên mạng. Nhưng sự thật đằng sau lại không hề đơn giản như vậy, khi chính Travis cũng chỉ là nạn nhân trong kế hoạch giết người của hung thủ thật sự...   Tác giả:   Jeffery Deaver sinh ngày 06/05/1950 tại ngoại ô thành phố Chicago, bang Illinois. Ông là một cựu nhà báo, luật sư và ca sĩ hát nhạc dân gian. Trong sự nghiệp văn chương của mình, ông đã sáng tác hơn 20 cuốn tiểu thuyết, các tác phẩm của ông được bán tại 150 quốc gia và được dịch ra 25 thứ tiếng khác nhau.   Ông đã giành được:   -          Giải thưởng Steel Dagger thường niên của Hiệp hội các tác giả hình sự Anh cho tiểu thuyết phiêu lưu/ ly kỳ hay nhất trong năm.   -          Giải thưởng Độc giả Ellery Queen.   -          Giải thưởng British Thumping Good Read.   -          Giải thưởng Anthony, giải thưởng văn học cao quý dành cho các tác giả viết truyện trinh thám.   -          Đề cử giải thưởng Edgar của tổ chức Các tác giả viết truyện trinh thám Mỹ.   Các Sách của Jeffery Deaver đã xuất bản tại Việt nam:   - Cây Thập Tự Ven Đường (2014)   - Lá Bài Thứ XII (2013)    - Vũ Điệu Của Thần Chết (2012)   - Kẻ tầm xương (2012)   - Búp Bê Đang Ngủ (2012)    - Dữ Liệu Tử Thần (2012)   - Trăng Lạnh (2012)   - Cái Ghế Trống (2012)    - Nữ Phụ Tá và Bùa Mê Đàn Ông - tải eBook   Mời các bạn đón đọc Cây Thập Tự Ven Đường của tác giả Jeffery Deaver.  
Búp bê đang ngủ - Jeffery Deaver
Tên Ebook: Búp bê đang ngủ (full prc, epub) Tác giả: Jeffery Deaver    Thể Loại: Kinh Dị, Trinh Thám, Tiểu Thuyết   Dịch giả: Phạm Hồng Anh   Nhà xuất bản: Lao Động   Cty phát hành: Bách Việt   Năm xuất bản: 2012   Kích thước: 16x24cm   Số trang: 616   Thực hiện ebook: Hoa Quân Tử   Ebook: www.dtv-ebook.com     Là chuyên gia về ý nghĩa cử chỉ của Cục điều tra bang California, Kathryn Dance được mệnh danh là máy phát hiện nói dối. Nhưng khi phải đối diện với Daniel Pell, kẻ được nhắc đến với cái tên Đứa con của Manson, trong phòng thẩm vấn, cô thấy mình chưa bao giờ gặp một tên giết người kỳ lạ như hắn. Vào năm 1999, Daniel Pell đã giết hại gia đình của nhà sáng chế máy tính giàu có, Wiliam Croyton, tại Carmen, California. Theresa, cô con gái nhỏ của họ là người duy nhất may mắn sống sót. Trong lúc Pell sát hại cha mẹ và hai anh chị của Theresa, cô bé đã ngủ quên trên giường và được đám đồ chơi che khuất. Khi Kathryn Dance thẩm vấn Pell, hắn ta chỉ trả lời những câu hỏi một cách đơn giản và cố tình tránh né. Tuy nhiên,chỉ một khoảnh khắc sau khi quay về nhà giam, tên sát nhân đã giết chết ba nhân viên cảnh sát và đào tẩu. Chuyến tàu chết chóc và trả thù của hắn bắt đầu khởi hành. Để bắt được Pell, Dance đã phải lần theo từng manh mối nhỏ trong cuộc thẩm vấn giữa họ ngày hôm đó. Dance dần khám phá những bí mật sâu kín nhất của tên giết người và Búp bê đang ngủchính là mắt xích quan trọng nhất dẫn cô tới sự thật đằng sau vụ án mạng nhiều năm trước.
Tuyển Tập Dan Brown
AudioBook Pháo Đài Số  AudioBook Thiên Thần và Ác Quỷ AudioBook Điểm Dối Lừa AudioBook Mật mã Da Vinci AudioBook Biểu Tượng Thất Truyền AudioBook Hỏa Ngục Dan Brown  là một nhà văn Mỹ chuyên viết tiểu thuyết hư cấu, nổi tiếng với tác phẩm gây tranh cãi Mật mã Da Vinci xuất bản năm 2003 và gần đây nhất là tác phẩm Địa ngục ( Inferno), lấy bối cảnh thành phố Florence của Ý. Một tháng sau khi phát hành, quyển tiểu thuyết Địa ngục của nhà văn Dan Brown đã bán được chín triệu bản tại 13 nước trên thế giới.   Dan Brown Có thể chắc chắn một điều rằng dù là một fan trung thành hay một độc giả thờ ơ với các tiểu thuyết trinh thám, cái tên Dan Brown ắt hẳn cũng vẫn ít nhiều để lại ấn tượng trong mỗi người đọc. Sở hữu cuốn sách bán chạy nhất nhì làng văn học hiện đại với hơn 80 triệu bản in - hiện tượng của dòng tiểu thuyết trinh thám - lịch sử Mật mã Da Vinci, cùng những tựa sách gây sốt trên toàn thế giới như Thiên thần và Ác quỷ hay mới đây nhất là Biểu tượng thất truyền, nhà văn người Mỹ đã nhanh chóng trở nên nổi tiếng và được hàng triệu độc giả yêu thích cũng như hâm mộ.   Các tác phẩm của Dan Brown:  - Digital Fortress, 1998  - Angels and demons, 2000  - The deception point, 2001  - The Da Vinci code, 2003   The Lost Symbol, 2009  - Inferno, 2013    - Origin, 2017 Tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt:    - Pháo đài số (Digital Fortress), 1998 - Thiên thần và ác quỷ (Angels and demons), 2000 - Điểm dối lừa (The deception point), 2001 - Mật mã Da Vinci (The Da Vinci code), 2003 - Biểu tượng thất truyền (The Lost Symbol), 2009 - Hỏa Ngục (Inferno), 2013    - Nguồn Cội (Origin), 2018     Ebook Pháo đài số Digital Fortress full prc pdf epub   Ebook Thiên thần và ác quỷ Angels and demons full prc pdf epub   Ebook Điểm dối lừa The deception point full prc pdf epub Ebook Mật mã Da Vinci The Da Vinci code full prc pdf epub Ebook Biểu tượng thất truyền The Lost Symbol full prc pdf epub   Ebook Hỏa Ngục