Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thời Xa Vắng

Công cuộc đổi mới đất nước vừa được mở ra thì ngay lập tức văn học đã ghi được dấu ấn bất ngờ bằng tác phẩm Thời xa vắng của Lê Lựu. Ông viết từ mình, rút ruột mình ra mà kể chuyện mình, chuyện một người nhưng là chuyện của nhiều người, chuyện của một thế hệ, chuyện của một thời. Cái thời đó tác giả gọi là “Thời xa vắng” nhưng thật ra vẫn chưa qua. Đó là cái thời nhân vật Giang Minh Sài sống không phải là mình, nửa đời trước sống cho cái mình không có, nửa đời sau sống chạy theo cái không phải của mình. Nhân vật văn chương này đã được nhớ tên, được coi như một định ngữ chỉ một kiểu người, một kiểu sống, điều này rất ít có trong văn chương nhiều năm trước đó vốn chỉ có hình tượng nhân vật tập thể mà không thể gọi tên một nhân vật cụ thể nào. Thời xa vắng đã được đón đọc nồng nhiệt, ai đọc cũng thấy mình trong đó, và được giới phê bình coi là tác phẩm mở đầu cho một xu hướng của văn học đổi mới - xu hướng nhận thức lại thực tại. - Nhà LLPB Phạm Xuân Nguyên - Thời xa vắng là một tiểu thuyết tiêu biểu trong đời viết văn của nhà văn Lê Lựu. Tác phẩm ông chứa một dung lượng lớn chặng đường lịch sử 30 năm oai hùng của dân tộc, từ buổi lập nước đến lúc giải phóng toàn bộ đất nước. Lịch sử được khái quát bằng tiểu thuyết thông qua số phận của anh nông dân Giang Minh Sài: học giỏi, là niềm hy vọng, tự hào của cả gia đình và dòng họ. Nhưng cũng chính niềm tự hào đó cũng đã đặt lên vai cậu bé Sài một thứ áp lực vô hình, lúc nào cũng phải học phải làm theo những điều mà mọi người xung quanh cho là "tốt nhất". Lấy vợ cũng phải do cha mẹ chọn, ngủ với vợ cũng vì để tránh cái án kỷ luật làm ô nhục danh tiếng gia đì Là một người lính với vẻ ngoài thô mộc, khô khan nhưng thực chất bên trong con người Sài lại là một người đang vùng vẫy với niềm khao khát được yêu, được sống với cảm xúc thực sự của mình. Hơn nữa tác phẩm còn có nhiều tầng nhiều lớp với nhưng trăn trở rất đáng suy ngẫm của tác giả. *** Lê Lựu là một trong số những nhà văn ra đời và trưởng thành từ giai đoạn đất nước còn đang kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước. Ông sinh năm 1942 tại Hưng Yên và đến năm 1974 thì ông là hội viên trong Hội Nhà văn Việt Nam. Nhà văn khởi đầu sự nghiệp viết văn của mình từ những năm 60 của thế kỷ XX, và từ đó ông là một trong những nhà văn đã để lại ấn tượng trong giới văn học với những tác phẩm nổi bật như truyện ngắn Tết làng Ma (1964), tiểu thuyết Mở rừng (1977), tiểu thuyết Thời xa vắng (1986), tiểu thuyết Chuyện làng Cuội (1993), tiểu thuyết Sóng ở đáy sông (1994),… Và đặc biệt với tiểu thuyết Thời xa vắng đã tạo nên tên tuổi của Lê Lựu và làm khuấy động làn sóng văn học nước nhà, có thể nói Thời xa vắng là tác phẩm đạt đến đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn và nó đã trở thành một hiện tượng trong văn học thu hút nhiều nhà nghiên cứu phê bình bàn luận về nó. Vị thế của Lê Lựu được khẳng định qua tác phẩm này với một hướng khai thác đề tài mới mẻ, đánh đúng vào tình hình của con người – đất nước – dân tộc, và đặc biệt là dấu mốc lịch sử của đất nước lúc bấy giờ, lúc xã hội đang tiến hành công cuộc “đổi mới đất nước”. Tác phẩm Thời xa vắng được tác giả hoàn thành vào năm 1984 và xuất bản vào năm 1986, đúng vào thời điểm đất nước mới bắt đầu đi vào thời kì đổi mới đất nước sau khoảng thời gian của xã hội “bao cấp”. Và chính vì vậy, bối cảnh mà tác phẩm muốn đề cập đến là những năm tháng trước đó, những năm tháng đất nước trong giai đoạn “bao cấp”. Tác phẩm ra đời đã tạo nên tiếng vang lớn trong văn học nước nhà, có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình đất nước vận động phát triển của văn học từ sau năm 1975. Chính vì vậy năm 1990, tác phẩm này đã đạt giải A của Hội Nhà văn Việt Nam. Tác phẩm Thời xa vắng của Lê Lựu là một tiểu thuyết với nội dung chính xoay quanh câu chuyện về cuộc đời của nhân vật tên là Giang Minh Sài. Và tác phẩm này có thể khái quát chia thành hai phần chính dựa trên cuộc đời của nhân vật Sài. Phần thứ nhất, cuộc đời Sài trong bối cảnh đất nước còn chiến tranh. Lúc Sài 10 tuổi thì đã bị gia đình bắt ép lấy một cô vợ lớn hơn mình 3 tuổi là Tuyết. Tuy rằng ngoài mặt thì Sài chấp nhận mình có một cô vợ như thế, nhưng trong lòng Sài không hề công nhận cô ta là vợ của mình. Trong một lần cùng vợ giã ngô do sơ ý nên Tuyết giã vào tay Sài và cộng thêm nỗi uất ức bấy lâu trong lòng, Sài đã đánh vợ và đuổi cô đi. Gia đình Sài là một gia đình mang nặng những tư tưởng phong kiến và những hủ tục lạc hậu, mặc dù Sài không yêu vợ nhưng trước mặt mọi người thì Sài vẫn là một người chồng đúng mực. Sài là một người học giỏi, trong mắt mọi người rằng học giỏi thì phải cộng thêm đạo đức tốt, sống đúng chuẩn mực thì mới được gọi là một đội trưởng tốt và gương mẫu. Nhưng bên trong Sài phản kháng quyết liệt chống đối và tránh xa cô vợ của mình mặc cho người nhà tạo mọi điều kiện cho họ ở bên nhau. Thời gian như thế cứ trôi qua, cuộc sống của Sài với cô vợ vẫn cứ tiếp tục như không có gì và Sài vẫn không chấp nhận cô vợ của mình. Bước ngoặt cuộc đời Sài thay đổi khi anh gặp được tình yêu cuộc đời mình là Hương. Họ yêu nhau say đắm mãnh liệt, nhưng vì sĩ diện của gia đình nên Sài đã im lặng chạy trốn vào chiến trường chiến đấu nhằm trốn tránh cuộc sống ngột ngạt của gia đình và tình yêu đầu đời của mình. Khi Sài vào quân ngũ, anh lại là một người dẫn đầu về thành tích học tập giỏi và gương mẫu, tuy nhiên trong môi trường quân đội anh vẫn không có được sự tự do, cuộc sống của anh đều bị giám sát, sống phải theo ý định của mọi người nếu không thì sẽ bị xem là có “tư tưởng phản động”. Vì thế từ lúc vào quân ngũ, Sài đã sống theo ý định của mọi người chứ không theo ý định của mình. Phần thứ hai, cuộc đời của Sài từ lúc đất nước hòa bình. Khi Sài trở về với cuộc sống của một người bình thường, đồng thời với anh bây giờ một cuộc sống mới đã bắt đầu khi anh được phép ly hôn Tuyết. Từ đây anh được quyền lựa chọn tình yêu cho chính bản thân mình. Không ngờ rằng, khi anh quyết định cưới Châu làm vợ một cách vội vàng để che đậy đứa con trong bụng mà anh tưởng là của anh, cuộc đời lại đẩy Sài bước vào một bi kịch mới. Châu là một cô gái Hà Nội đã yêu một người trước đó, có con với hắn nhưng hắn không chịu cưới cô nên cô đành phải lừa Sài cưới cô như một tấm bình phong bảo vệ sĩ diện. Sài từ khi lấy vợ thì lao vào những thứ vặt vãnh mỗi ngày anh phải làm, mọi thứ nó lặp đi lặp đi hết ngày này qua tháng nọ. Quần quật suốt ngày với những thứ như: cơm, áo, gạo, tiền đè nặng trên vai để rồi anh dần lãng quên đi những người thân đã từng giúp đỡ và cưu mang anh vượt qua khó khăn. Cuộc sống với Châu ngày càng có nhiều đổ vỡ rạn nứt giữa hai người để rồi cả hai phải quyết định ra tòa ly hôn. Những tưởng rằng anh sẽ được nuôi đứa con đầu còn Châu nuôi đứa con thứ 2 nhưng nào ngờ một sự thật phũ phàng mà bấy lâu nay anh bị lừa dối, anh đã nuôi đứa con không phải là con ruột của mình mà là con của Châu với người yêu của cô ấy trước khi đến với anh. Mọi thứ của anh dường như đã mất tất cả chẳng còn điều gì thuộc về anh, rồi anh quay trở về ngôi làng Hạ Vị nơi được sinh ra và nuôi dưỡng, anh dốc sức để xây dựng quê hương mình phát triển hơn. Cuộc sống như thế trôi qua với niềm hạnh phúc của Sài khi nhìn thấy quê hương đất nước mình đang đổi mới từng ngày. Vậy tác giả lại đặt nhan đề cho tác phẩm là “Thời xa vắng” nhằm ngụ ý điều gì? Có lẽ ở đây tác giả muốn nói đến thời mà Sài đã trải qua. Cuộc đời Sài từ nhỏ cho đến khi trưởng thành, anh luôn sống theo ý nguyện của người khác, như đang bị siết chặt trong một sợi dây trói buộc anh không thể nào thoát ra được, anh chấp nhận số phận mình được vạch sẵn như vậy, sống theo những ý định mà bố mẹ muốn, làm việc gì cũng phải nghĩ đến sĩ diện của dòng họ gia đình sẽ ra sao. Anh gồng mình gánh chịu hết tất cả những thứ đó ràng buộc o ép anh, ngay cả khi có tình yêu đầu đời của mình anh cũng vì đã có vợ nên không dám sống hết mình với tình yêu ấy, cuộc tình không đi đến viên mãn làm cho cả hai phải đau khổ. Cuộc đời của Sài sau khi cưới Châu cũng như thế, sống với một người vốn không thuộc về anh lại làm cho cả hai đau khổ, cái thời đó đã qua khi Sài trở về làng quê xây dựng xóm làng, tất cả giờ chỉ còn lại là dĩ vãng, là quá khứ một thời mà có lẽ chính Sài cũng không muốn nhắc đến nữa, tất cả chỉ là quá khứ xa vắng. Với tác phẩm Thời xa vắng, trung tâm của toàn bộ câu chuyện tập trung ở hình tượng nhân vật Giang Minh Sài, trải dài theo suốt cuộc đời Sài từ khi 10 tuổi cho đến hơn 40 tuổi là cả tuổi trẻ của một con người sống gói gọn trong 13 chương (tính cả chương kết). Khi Sài được 10 tuổi, bỗng dưng bị bắt phải cưới một cô vợ lớn hơn mình 3 tuổi, lúc nào cô ta cũng có thể mách bố mẹ những chuyện của mình “tự nhiên có một con bé cứ theo nó kè kè để mách bố, mách mẹ nó, nào những lúc đi đùa nó bôi nhọ hết mặt mũi giả làm Tây đen ở đâu, lặn hụp xuống cái ao ngầu bùn của nhà chú Hào lúc nào”. Sài chỉ 10 tuổi thì làm sao có thể chống cự lại ý định của người lớn thế nên Sài đành phải chấp nhận sự thật đắng cay đó – có vợ lúc 10 tuổi. Nếu như lúc nhỏ Sài là một đứa trẻ bị gò ép như vậy thì khi anh trưởng thành, những cảm xúc, những suy nghĩ, tình cảm,…của cá nhân mình cũng không dám tự quyết định được. Không dám cưới Hương – tình yêu đầu tiên của anh, vì nghĩ đến bản thân mình đã có một người vợ rồi, gia đình sẽ mất sĩ diện với họ hàng làng xóm nên không dám quyết định một cách tự chủ tình cảm để rồi cuối cùng trong lúc uất hận thì Hương đã quyết định lấy một người yêu cô tha thiết mà cô không yêu anh ta. Thế rồi cả cuộc dời anh vỡ lỡ cũng chính bởi vì phần nào nguyên nhân Sài “yêu cái người khác yêu” và “yêu cái mà mình không có”. Lê Lựu xây dựng nên hình tượng nhân vật Sài với những nỗi đắng cay vậy một phần cũng muốn nhắn nhủ những thông điệp đến độc giả. Nguyên nhân vì đâu cuộc đời Sài rơi vào vòng luẩn quẩn đầy bi kịch như vậy, có thể giải thích bằng hai nguyên nhân chính làm nên bi kịch này. Thứ nhất là nguyên nhân khách quan, chính bối cảnh xã hội mà Sài đang sống cũng là nguyên trực tiếp làm nên bi kịch cuộc đời Sài như thế. Gia đình Sài cả bố mẹ và anh chị em đều mang nặng tư tưởng phong kiến lạc hậu, những hủ tục cổ hủ lỗi thời như nạn tảo hôn, tục cưới xin,…áp đặt lên Sài phải thực hiện theo:“Một nề nếp, một thói quen, một thông tục cha truyền con nối từ mấy đời nay: con cái không được quyền muốn sao được vậy vì như thế là trái với phép tắc gia phong”. Danh dự của gia đình, danh dự của ông đồ Khang,… Chính những thứ này đã đè nặng lên đôi vai của Sài, anh không thể sống nếu như mình làm khác đi những gì họ muốn và như vậy sẽ bị coi là “phản động” và không tốt. Như bao người khác ở làng Hạ Vị, Sài đành gò ép chính mình sống theo ý muốn của họ và “không dám là mình” và cũng không đủ can đảm “đạp lên dư luận mà sống”. Sống ở nhà lúc nhỏ Sài luôn bị bố, mẹ, anh, chị, dòng họ bắt phải sống như thế này, không được làm cái kia, ngay cả dân làng cũng thế, nếu mà Sài làm khác những gì họ muốn thấy thì lập tức Sài bị lên án gay gắt dữ dội. Cũng chính vì thế, Sài không muốn mất danh hiệu của một liên đội trưởng tốt gương mẫu trong mắt mọi người nên anh đã cố “yêu vợ” như chuẩn mực của một người đội trưởng phải có, ép buộc mình làm những điều mà bản thân không muốn để được mắt mọi người. Thứ hai là nguyên nhân chủ quan nằm ở chính con người của Sài, nếu như mọi người áp đặt Sài phải sống và làm theo ý của họ muốn mà Sài không phản kháng thì xem như Sài chấp nhận như vậy và sẽ không có bi kịch nào xảy ra, còn Sài ở đây nội tâm luôn có một ý chỉ phản kháng mạnh mẽ, bằng chứng là những lần phải đi cùng với Tuyết thì “Sài thường chạy đi trước hoặc tụt lại thật xa”, “bao giờ Sài cũng tìm cách rời khỏi “nhà ấy” nhanh chóng”. Hay những lần Sài bị bắt ép phải vào ngủ chung với vợ, anh thà nằm ngủ dưới đất chứ không bao giờ chịu nằm ngủ chung giường với người mà mình không hề yêu. Như vậy, trong thâm tâm của Sài thì anh luôn phản đối, chống lại những hủ tục phong kiến, chống lại sự áp đặt con người theo ý muốn của bố mẹ và xã hội, chống lại những gì mà mình không muốn,…Thế mà, Sài có ý chí phản kháng, chống lại những gì đã gò ép anh vậy rồi cuối cùng anh lại lặng lẽ chấp nhận tất cả chúng như một điều tất nhiên. Rõ ràng chính Sài nhu nhược, hèn nhát, không đủ can đảm để đứng lên phản kháng lại những thứ đang gò ép mình mà lại lặng lẽ bẻ bản thân sống sao cho đúng những gì mà người khác muốn. Ngay cả khi Sài sống trong môi trường quân ngũ cũng vậy, khi những nỗi niềm riêng anh ghi vào quyển nhật ký rồi bị đồng đội phát hiện và cho là nó chứa tư tưởng bất chính, và thế là từ đó Sài không dám viết nhật ký nữa mà anh vẫn tiếp tục cuộc đời gương mẫu như: học giỏi, chăm chỉ làm việc, học đại học,…luôn là người xuất sắc nhất trường. Thêm nữa, để được kết nạp Đảng thì Sài phải ép mình sống chung với Tuyết theo sự chỉ bảo của các vị thủ trưởng chỉ định, có như vậy thì Sài mới đủ tiêu chuẩn để được kết nạp vào Đảng, nếu không thì Sài không được kết nạp vì lý do “không yêu vợ”. Và cuối cùng là Sài vẫn phải làm theo ý của thủ trưởng muốn, và có một đứa con với Tuyết như việc ban ân huệ cho cô ấy để rồi cả cuộc đời của Tuyết phải chịu những khổ đau dằn vặt vì yêu người mà không yêu mình. Tác giả khắc họa nhân vật Sài không phải là một nhân vật hoàn toàn nhu nhược và thiếu dũng cảm, có thể thấy quá trình tự nhận thức của nhân vật bắt đầu được hình thành từ những cảm xúc, suy nghĩ, độc thoại mà tác giả chú ý khắc họa nhiều hơn. Trải dài suốt 13 chương của tiểu thuyết, chúng ta có thể bắt gặp những suy tư, trăn trở của Sài về cuộc đời, về tình yêu, về xã hội,… Qua đó, người đọc có thể hiểu được những suy nghĩ của Sài và nhận ra Sài đang khát khao những gì, đang muốn thoát khỏi sự tù túng như thế nào và nhận thức được mình cần phải àm gì để thay đổi hoàn cảnh hiện tại này. Đồng thời, mượn hình tượng nhân vật Sài tác giả muốn phản ánh chân thực những chuyển biến và thay đổi trong cách nhìn nhận, đánh giá lại thực tại vấn đề. Xã hội mà Sài sống có những tiêu cực của nó, nhưng không phải nó tiêu cực thì lên án gay gắt nó, mà thông qua đó tác giả muốn chúng ta nhìn nhận lại một thời đã qua, nó có những thiếu sót gì, có những gì chưa làm được thì cố gắng khắc phục và sửa chữa. Chẳng hạn như xã hội trước thời kỳ đổi mới có những hạn chế và tiêu cực của nó, chính vì vậy ở thời kỳ đổi mới đã sửa đổi những sai lầm và thiếu sót của xã hội giai đoạn trước. Nhìn nhận lại thời gian đã qua để định hướng cho hiện tại. Bên cạnh việc khắc họa nhân vật Sài là chủ yếu, tác giả còn tập trung khắc họa những nhân vật khác để làm nổi bật lên tính cách của họ. Chúng ta có thể thấy nhân vật Tuyết – người vợ đầu tiên của Sài lúc 10 tuổi, Tuyết cũng có những nổi khổ của riêng mình chứ không phải cá nhân Sài mới khổ. Cô yêu chồng mình nhưng hóa ra thứ mà cô nhận lại được chỉ là sự hờ hững, lạnh lùng, oán ghét, thậm chí là xua đuổi xem cô như là một chướng ngại vật cản đường. Rốt cuộc thì cô có lỗi gì để Sài ghét cô đến như vậy? Câu hỏi luôn trực diện trong suy nghĩ của Tuyết như một bi kịch day dứt cuộc đời cô. Qua đó có thể thấy thân phận người phụ nữ lúc bấy giờ qua đại diện là Tuyết, khát khao hạnh phúc gia đình nhưng lại sống trong đau đớn cả cuộc đời như vậy. Còn nhân vật Hương cũng như vậy, cô yêu Sài hết mực và cũng muốn xây dựng hạnh phúc gia đình với anh, nhưng Sài không thể lấy cô làm vợ và cũng không có một quyết định dứt khoát trong tình cảm của mình, anh chỉ im lặng để Hương chờ, chờ mãi để rồi cuối cùng cô phải lấy một người mà mình không yêu, như vậy Hương cũng không hạnh phúc và Sài cũng không hạnh phúc. Với các nhân vật như Hiểu, Hiền, anh Tính, chú Hà,… chúng ta có thể hiểu được rõ hơn về tính cách của nhân vật Sài được thể hiện qua điểm nhìn trần thuật của tác giả. Ngoài việc khắc họa nhân vật, Lê Lựu còn đề cập đến vấn đề về xã hội, vấn đề về tâm lý của con người trước thời đại. Cụ thể là tâm lý của dân chúng trong bối cảnh xã hội “bao cấp” và trong giai đoạn đổi mới. Xen kẽ những đoạn văn trong tác phẩm, tác giả có tái hiện nên bức tranh của dân làng Hạ Vị với tâm lý “đi làm thuê” mà không thích làm ruộng đồng. Đoạn trích dưới đây có thể thấy rõ nhà văn đã miêu tả khá chi tiết về việc dân làng chuyên “đi làm thuê”. “Không hiểu từ thuở nào làng chỉ quen đi làm thuê. Miếng cơm thiên hạ bao giờ cũng ngon nên người sức dài vai rộng thì đi tứ chiếng bằng đủ thứ nghề: hàn nồi và cắt tóc, đốt gạch và nung vôi, thợ nề, thợ đất, thợ lặn… Dăm bữa, nửa tháng vợ hoặc con đảo qua để làm cỏ, xáo xới rồi cũng lại vội vã ra đi. Đến mùa thu hoạch lại về. Hết mùa lại đi. Cứ thế. Khi về lại nhớ cơm thiên hạ. Khi đi lại cồn cào thương từ gốc cau, bụi chuối. Họ không yêu tha thiết với đồng ruộng nhưng không đủ sức dứt bỏ những gì quen thuộc từ thuở cha sinh mẹ đẻ ở cái nơi mà ai cũng quen gọi là quê Hương…Những người còn lại hoặc tuổi già yếu, con bận con mọn, hoặc không biết nghề, không quen đi xa, cái lực lượng sản xuất chủ yếu ấy cũng chỉ chòn chọt năm một vụ ngô, tháng mười cày bừa dối dả, tháng tư bẻ bắp chặt cây vội vàng để rồi lại nô nức kéo nhau sang bên kia sông, vào nội đồng làm thuê, sáng cắp nón đi, tối cắp nón về nói cười rả rích. Dường như số trời đã định cho làng này chỉ có việc đi làm thuê. Chen lấn, tranh cướp nhau từng người chủ, và ai được chủ tin thì coi đó là một diễm phúc có thể vênh váo, hãnh diện với kẻ khác, sẵn sàng hạch sách bắt bẻ người cùng xóm, cùng làng, cùng cánh thợ làm thuê một cách nghiệt ngã độc ác hơn cả người chủ thật. Bởi thế, cũng là tỉa ngô, rắc đỗ, ruộng nhà thì làm quáng quàng chỗ dầy, chỗ mỏng, hàng thưa hàng mau nhưng ruộng của chủ cứ đều tăm tắp. Ruộng nhà không bao giờ bón phân, cả làng không ai bón phân, cần quái gì chuồng lợn, chuồng xí. Đàn ông, đàn bà, cả người già trẻ con đều chạy toá ra đồng và lợn cũng thả rông hoặc có chuồng thì cũng chả cần phân ấy để làm gì. Chính những con người ấy lại đánh phân, rửa ráy quét dọn cả chuồng xí, chuồng lợn cho chủ rồi gánh ra đồng cứ của những người chủ tốt tươi sai quả, mấy hạt lại theo đà đâu đó, ca thán, và xỉ vả làng mình ngu si không biết đường làm ăn.” Qua đó, tác giả đang châm biếm giễu nhại một xã hội không có tinh thần vươn lên, cầu tiến trong cuộc sống mà chỉ sống lay lắt qua ngày này tháng nọ bằng việc làm thuê làm mướn trong khi có thể kiếm sống trên chính mảnh đất quê hương của mình. Nhà văn đã vạch trần tâm lý của nhân dân trong bối cảnh đất nước đang vượt qua giai đoạn khó khăn như thế. Đồng thời, nhà văn cũng phản ánh vấn đề của người nông dân lúc này rằng họ cảm thấy chưa có sự yên ổn và đi lên trong xã hội hiện tại, xã hội chưa đáp ứng được nhu cầu của họ và những phương pháp cải tiến xã hội lúc bấy giờ đã thất bại. Người nông dân khi chuyển đổi thời đại xã hội bước vào một đất nước mới, họ chỉ kịp trang bị cho mình hành trang tinh thần, còn hành trang về phương tiện, vật chất cũng như cách thức thì họ không có. Như vậy thì chưa đủ cho việc thích nghi với bối cảnh mới của thời đại của đất nước. Sài cũng vậy, khi Sài bước vào một đất nước chuyển mình từ bối cảnh chiến tranh sang hòa bình xây dựng và phát triển đất nước, anh chưa trang bị kịp cho mình những thứ cần thiết để thích nghi trong một môi trường mới, để rồi kết cuộc là cái giá mà anh phải trả là khá đắt cho sự thiếu sót đó được diễn tả qua cuộc hôn nhân giữa anh với Châu. Nhà văn phản ánh những hoàn cảnh, những thói quen, những tập quán nó đã là “thuộc di sản của xã hội cũ” đó là việc đi làm thuê mãi rồi trở thành thói quen. Tác giả xây dựng cốt truyện Thời xa vắng rất mạch lạc, cách xây dựng các tình tiết cốt truyện phát triển đơn giản, với tác phẩm Thời xa vắng Lê Lựu đã xây dựng và phát triển truyện truyền thống như tác phẩm đã có trước đó. Ở tác phẩm này nhà văn đặc biệt quan tâm đến xây dựng hình tượng nhân vật Sài để làm nổi bật lên tính cách và con người trong xã hội. Bên cạnh đó, nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm là một bút pháp tạo nên dấu ấn với độc giả, thông qua việc trần thuật lại những sự việc diễn ra trên khía cạnh góc nhìn khách quan của nhà văn từ điểm nhìn đa diện nhiều chiều khác nhau. Nhà văn đã xây dựng nên tính cách và diện mạo của Sài từ góc nhìn của những nhân vật khác như: Hương, Châu, anh Tính,… Dần dần qua cảm nhận của những nhân vật này thì hình ảnh của Sài sẽ được hoàn thiện dần một cách khách quan hơn. Qua tác phẩm Thời xa vắng của Lê Lựu, câu chuyện về cuộc đời bi đát của Sài được dựng nên trong bức tranh của xã hội đương thời với những đắng cay và đau đớn mà một đời người phải trải qua, nhà văn vừa thành công trong việc tái hiện những bi kịch đau khổ của con người đồng thời cũng tạo nên tiếng cười châm biếm mỉa mai với những vấn đề xã hội của thời đại. Vừa sâu lắng nhưng cũng vừa xót xa cho một thế hệ, một đời người. Lấy cảm hứng vừa bi vừa hài để lồng ghép vào nhau làm cho tác phẩm có sức cuốn hút hấp dẫn người đọc chiêm nghiệm những triết lý ẩn sau bức tranh của tác phẩm muốn đề cập đến. Với mỗi nhân vật nhà văn khắc họa là một nét điển hình đại diện cho một bộ phận hay một phương diện nào đó trong xã hội. Đó có thể là Hương hoặc Tuyết đại diện cho tầng lớp của những người phụ nữ trong xã hội, hay đó có thể là anh thủ trưởng và các chiến sĩ với môi trường quân ngũ đại diện cho tầng lớp những cán bộ chiến sĩ anh dũng bảo vệ xây dựng và phát triển đất nước với lòng nhiệt thành, hoặc đó là ông đồ Khang và mẹ của Sài là tầng lớp những người nông dân còn sót lại với tư tưởng của xã hội phong kiến cũ. Tất cả những tầng lớp đại diện này đang trong tiến trình bước vào xã hội mới và họ cần phải thay đổi để thích nghi với bối cảnh của xã hội mới. Thời xa vắng tạo được làn sóng mạnh mẽ trong văn học Việt Nam thời kỳ bắt đầu đổi mới xã hội. Nó không chỉ đề cập đến những vấn đề của con người mà còn mở rộng ra cả xã hội, cả thời đại. Ngoài những khía cạnh mà bài viết này đề cập đến thì còn những vấn đề khác ẩn sâu trong tác phẩm, đó là sự phát hiện bổ sung của độc giả với góc nhìn cảm nhận khác nhau của từng người. Mỗi khía cạnh sẽ cung cấp cho chúng ta một cách nhìn nhận đánh giá các vấn đề của xã hội một cách khách quan hơn. Chính vì ý nghĩa sâu sắc ẩn chứa trong nó và kết hợp với văn phong giản dị của tác giả, ngôn từ dễ hiểu thêm sinh động và chân thực, lôi cuốn là một thế mạnh giúp cho Thời xa vắng khẳng định được giá trị của nó trên văn đàn nói chung và trong lòng độc giả nói riêng. Và cho đến ngày nay, tác phẩm Thời xa vắng gắn với cái tên Lê Lựu vẫn còn nguyên những giá trị nghệ thuật và ý nghĩa của nó. Bài Review Sách được đóng góp bởi Cộng Tác Viên Lê Thị Hồng Thắm Mời các bạn đón đọc Thời Xa Vắng của tác giả Lê Lựu.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vật Lý Thiên Văn Cho Người Vội Vã
“Neil deGrasse Tyson đã tạo ra một Big Bang với Vật lý thiên văn cho người vội vã.” -Vanity Fair Bởi ngay trong tuần phát hành đầu tiên, cuốn sách khoa học đã chiếm luôn vị trí số 1 trong bảng xếp hạng sách bán chạy của The New York Times, rồi hiên ngang trụ lại trong bảng xếp hạng này suốt 20 tuần liên tục. Một tác phẩm thông minh dí dỏm và dễ đọc, có thể cuốn hút cả những người bận rộn nhất, giúp họ chỉ tranh thủ những phút rảnh rỗi mà có được lượng kiến thức khổng lồ, thú vị về thế giới vật lý thiên văn: từ Big Bang cho đến vật chất tối, năng lượng tối; từ hệ mặt trời tới những khám phá không gian liên hành tinh; từ lý thuyết nền tảng của Einstein tới những kịch bản về tương lai vũ trụ… *** Gần đây, chưa tuần nào trôi qua mà báo chí không đăng tin về một phát kiến đáng lên trang nhất liên quan đến vũ trụ. Có thể những người gác cổng truyền thông ngày một hứng thú với vũ trụ, song mức độ phủ sóng gia tăng này dường như bắt nguồn từ sự mến chuộng của công chúng dành cho khoa học ngày càng tinh tế. Đầy rẫy những bằng chứng cho thấy điều này, từ cách chương trình truyền hình ăn khách lấy cảm hứng, thông tin từ khoa học, cho đến thành công của các phim khoa học viễn tưởng với sự tham gia của dàn diễn viên sáng giá, được nhà sản xuất và đạo diễn trứ danh đưa lên màn ảnh. Và gần đây, phim tiểu sử chiếu rạp kể về các nhà khoa học tầm cỡ dường như tự nó đã trở thành một thể loại riêng. Khắp thế giới còn có sự quan tâm phổ biến dành cho các liên hoan khoa học, ngày hội khoa học viễn tưởng, và các phim tài liệu khoa học trên truyền hình. Bộ phim đạt doanh thu cao nhất mọi thời đại được một đạo diễn nổi tiếng đặt bối cảnh câu chuyện ở một hành tinh nọ quay quanh một ngôi sao xa xăm. Trong phim một nữ diễn viên nổi tiếng đóng vai nhà sinh học thiên văn. Dù mọi nhánh khoa học đều đã vươn cao trong thời đại này, lĩnh vực vật lý thiên văn lại bền bỉ vươn đến hang cao nhất. Tôi nghĩ tôi hiểu tại sao. Vào lúc này hay lúc khác, mỗi người trong chúng ta hẳn đã nhìn lên bầu trời đêm và tự hỏi : Tất cả mọi thứ có nghĩa gì? Làm sao mọi thứ vận hành? Và, đâu là vị trí của chúng ta trong vũ trụ này? Nếu bạn quá bận rộn không thể tiếp thu các kiến thức vũ trụ qua các lớp học, sách giáo khoa, hay phim tài liệu, nhưng bạn vẫn muốn tìm một con đường dẫn nhập ngắn nhưng đầy đủ ý nghĩa vào lĩnh vực này, tôi xin gửi đến bạn cuốn Vật lý thiên văn cho người vội vã. Trong cuốn sách mỏng này, bạn sẽ thông suốt ở mức độ cơ bản mọi tư tưởng và phát kiến lớn đã thúc đẩy hiểu biết hiện đại của chúng ta về vũ trụ. Nếu tôi thành công, bạn sẽ thân quen với kiến thức trong lĩnh vực của tôi, và có thể sẽ còn khao khát muốn biết nhiều hơn nữa. Vũ trụ không có nghĩa vụ phải có nghĩa lý với bạn. Neil deGrasse Tyson *** CÂU CHUYỆN VĨ ĐẠI NHẤT TỪNG ĐƯỢC KỂ Thế giới đã tồn tại biết bao năm dài, kể từ sau một lần được sắp đặt để đi theo những chuyển động thích hợp. Mọi thứ khác đều nối gót theo sau. Lucretius, khoảng năm 50 TCN Lúc khởi đầu, gần mười bốn tỉ năm về trước, tất cả không gian, tất cả vật chất, toàn bộ năng lượng của vũ trụ mà ta biết đều được chất chứa trong một thể tích nhỏ hơn một phần nghìn tỉ kích cỡ của dấu chấm cuối câu văn này. Các điều kiện bấy giờ quá nóng, đến nỗi các lực cơ bản của tự nhiên vốn cùng miêu tả vũ trụ đã bị thống nhất thành một. Vũ trụ ra đời thế nào ta còn chưa biết, song cái vũ trụ nhỏ hơn cả đầu kim này chỉ có thể giãn nở mà thôi. Cực kỳ nhanh. Mà ngày nay ta gọi là vụ nổ lớn. Thuyết tương đối tổng quát do Einstein đề ra năm 1916 cho ta cách hiểu hiện nay về lực hấp dẫn, theo đó sự hiện diện của vật chất và năng lượng làm cong kết cấu không gian và thời gian xung quanh nó. Cuộc hôn phối thành công giữa cơ học lượng tử và điện từ học thế kỷ 20, phần nào, đã thúc đẩy cả nhà vật lý học đua nhau hòa trộn cơ học lượng tử (thuyết về cái cực nhỏ) với thuyết tương đối tổng quát (thuyết về cái cực lớn) thành một thuyết chặt chẽ và mạch lạc là thuyết hấp dẫn lượng tử. Mặc dù vẫn chưa chạm đích, chúng ta biết chính xác nơi nào có rào cản. Một trong số đó là “kỷ nguyên Planck” của vũ trụ sơ khai. Đấy là khoảng thời gian t = 0 cho đến t = 10-43 giây (một phần mười triệu ngàn-tỉ ngàn-tỉ ngàn-tỉ của một giây) sau lúc khởi đầu, và trước khi vũ trụ nở rộng đến 10-35 mét (một phần một trăm triệu tỉ ngàn-tỉ ngàn-tỉ của một mét). Các con số nhỏ không tưởng nỗi này được đặt theo tên nhà vật lý học người Đức, Max Planck, ông cũng là người đã giới thiệu ý tưởng về năng lượng bị lượng tử hóa vào năm 1900 và thường được ghi nhận là cha đẻ của cơ học lượng tử. Sự va chạm giữa trường hấp dẫn và cơ học lượng tử không gây nên vấn đề thực tiễn nào đối với vũ trụ đương đại. Các nhà vật lý thiên văn áp dụng nguyên lý, công cụ của thuyết tương đối tổng quát và của cơ học lượng tử để giải quyết các loại vấn đề rất khác nhau. Nhưng vào thời điểm bắt đầu ấy, trong kỷ nguyên Planck, cái lớn vẫn còn rất nhỏ, nên ta ngờ rằng ắt hẳn đã có một kiểu đám cưới chạy bầu giữa đôi bên. Hỡi ôi, những lời nguyện thề được trao nhau trong hôn lễ vẫn tiếp tục lảng tránh chúng ta, thế cho nên chẳng định luật vật lý nào (mà ta biết) mô tả được hành vi của vũ trụ tại thời kỳ ấy với dù chỉ một chút tự tin. Dẫu vậy, chúng ta cho rằng đến cuối kỷ nguyên Planck, lực hấp dẫn đã vượt thoát khỏi các lực khác, các lực tự nhiên vẫn còn được thống nhất, rồi đạt được một căn cước độc lập đang được miêu tả khá ổn bởi các lý thuyết hiện hành của chúng ta. Khi vũ trụ trải qua 10-35 giây, nó tiếp tục giãn nở, làm loãng toàn bộ mật độ năng lượng, rồi phần còn lại của các lực thống nhất đó bị phân tách thành lực “điện yếu” [electroweak] và lực hạt nhân mạnh [strong nuclear]. Sau đó nữa, lực điện yếu tách thành lực điện từ và lực “hạt nhân yếu” [weak nuclear], từ đó phô bày bốn lực riêng biệt mà ngày nay chúng ta biết đến yêu mến: lực yếu kiểm soát sự phân rã phóng xạ, lực mạnh liên kết các hạt nhân nguyên tử, và lực hấp dẫn liên kết các khối vật chất. Một phần nghìn tỉ giây đã trôi qua kể từ lúc khởi đầu. Suốt thời gian này, có sự tương tác không ngừng của vật chất dưới dạng hạ nguyên tử và của năng lượng dưới dạng photon (hạt phi khối lượng tải năng lượng ánh sáng, vừa là sóng vừa là hạt). Vũ trụ đủ nóng cho các photon tự chuyển đổi năng lượng thành các cặp hạt vật chất-phản vật chất mà ngày tức khắc sẽ hủy lẫn nhau, trả năng lượng về lại photon. Những biến hóa khôn lường này được thâu tóm trong phương trình nổi tiếng nhất của Einstein: E = mc2, công thức hai chiều để tính năng lượng có giá trị bằng bao nhiêu vật chất và vật chất giá trị bằng bao nhiêu năng lượng. Phần c2 là bình phương tốc độ ánh sáng – một con số khổng lồ mà khi nhân thêm khối lượng sẽ nhắc nhở ta nhớ rằng hoạt động này thực chất có thể sinh ra biết bao nhiêu năng lượng. Ngay trước, trong và sau khi lực mạnh và lực điện yếu giã biệt nhau, vũ trụ là nồi lẩu sục sôi các hạt quark, lepton và các anh chị em phản vật chất của chúng, cùng với boson là hạt cho phép diễn ra tương tác. Không họ hạt nào ở đây được cho rằng có thể phân thành thứ gì nhỏ hơn hay cơ bản hơn, dù rằng mỗi họ xuất hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau. Hạt photon thông thường là thành viên thuộc họ hạt boson. Các hạt lepton quen thuộc nhất đối với dân không phải chuyên ngành vật lý chính là hạt electron và có lẽ cả neutrino; còn hạt quark quen thuộc nhất là… chà, không có hạt quark quen thuộc nào cả. Mỗi hạt trong sáu tiểu loại của quark được gán cho những cái tên trừu tượng chẳng phục vụ mục đích bác ngữ học, triết học hay sư phạm gì, ngoài trừ việc để tiện phân biệt chúng với nhau, đó là: lên và xuống, duyên và lạ, đỉnh và đáy. Mời các bạn đón đọc Vật Lý Thiên Văn Cho Người Vội Vã của tác giả Neil DeGrasse Tyson & Hồ Hồng Đăng (dịch).
Những Ngày Mai Đến Không Có Cậu Kề Bên
Một ngày nọ, khi đang trên đường từ trường về nhà, tôi – Morisaki Naeno đã gặp Ryu – một cậu nhóc kỳ lạ đang bị lạc đường. Ryu nói rằng mình đang làm một công việc có tên “Xác nhận cái chết của con người”… Thật khó để tin được rằng đây lại là chuyện có thật. Thế nhưng, trong “Danh sách tử thần” mà Ryu đã vô ý đánh rơi lại có tên của một người cực kỳ quan trọng đối với tôi… Trích dẫn trong sách: - Cái cảm giác một người vừa mới hôm qua thôi vẫn còn ở bên mình mà nay đã mất, quả thật tôi không thể tưởng tượng ra được nó sẽ thế nào. - “Cậu thấy đấy, chúng ta không thể biết được liệurằng ngày mai có phải là ngày cuối cùng mình đượcsống trên cõi đời này hay không, đúng chưa nào? Vậynên trước mắt sao không sống hết mình cho hiện tạinhỉ?” - “Nếu con cảm thấy buồn thì cứ việc khóc cho thỏa,nhưng con không được bỏ cuộc đâu đấy. Nếu vẫn cònviệc gì đó con có thể làm thì đừng lẩn trốn mà hãyđứng dậy và đối mặt với nó, biết không?” - “Cuộc sống quả thật là kỳ lạ nhỉ. Lúc mình chưa kịp nhận ra thì mọi chuyện đã bắt đầu rồi, và vào một ngày bất chợt không hẹn trước, mọi chuyện kết thúc một cách đột ngột. Mình không thể quyết định khi nào nó bắt đầu cũng như khi nào nó sẽ kết thúc, vậy nên khi còn được sống, hãy dùng hết sức mình để sống.” *** REVIEW ĐỘC GIẢ - "NHỮNG NGÀY MAI ĐẾN KHÔNG CÓ CẬU KỀ BÊN" - "Bạn có đang hối hận vì điều gì không? Đọc quyển "Những ngày mai đến, không có cậu kề bên" này xong mới thấy đúng là chúng ta bình thường sống với nhau dù có vui vẻ hay giận hờn thì dường như chưa bao giờ tưởng tượng đến viễn cảnh một ngày nào đó trong tương lai, những người thân yêu nhất sẽ rời xa mãi mãi. Có rất nhiều người, lúc ở bên cạnh nhau, cho dù là gia đình hay bạn bè, người yêu, đều thường để cảm xúc tiêu cực chi phối rồi gắt gỏng, than trách... Để rồi đến khi họ mất đi rồi, thì lại ngồi tiếc nuối rồi day dứt mãi, rằng tại sao ngày xưa mình lại cáu gắt như thế, tại sao mình lại đáng ghét như vậy, tại sao mình không thể hiện hết tình cảm ra, tại sao lại cứ để cảm xúc tiêu cực chi phối,...? Nhưng sự thật là khi đã đánh mất rồi, tiếc nuối cũng có làm được gì nữa đâu? Tờ giấy đã vò lại rồi, có gỡ ra vuốt mãi cũng chẳng phẳng như ban đầu; bình sứ đã rơi xuống, có dùng cách gì gắn lại cũng chằng chịt vết chắp nối. Vậy thì, thiết nghĩ, tại sao chúng ta không toàn tâm toàn ý yêu thương và trân trọng nhau khi còn có thể nhỉ!? Nói thế tự dưng mình nhớ lại câu trích dẫn của sách này đã từng đọc được trong group: “Cuộc sống quả thật là kỳ lạ nhỉ. Lúc mình chưa kịp nhận ra thì mọi chuyện đã bắt đầu rồi, và vào một ngày bất chợt không hẹn trước, mọi chuyện kết thúc một cách đột ngột. Mình không thể quyết định khi nào nó bắt đầu cũng như khi nào nó sẽ kết thúc, vậy nên khi còn được sống, hãy dùng hết sức mình để sống.” Hy vọng mỗi chúng ta đều sống cuộc sống mà sau này sẽ chẳng có gì hối tiếc!" *** Tác giả: INUJUN Tiểu thuyết gia. Tháng 3 năm 2014 đã đạt giải tại Cuộc thi Tiểu thuyết viết trên điện thoại di động lần thứ tám với tác phẩm “Itsuka, nemuri ni tsuku” và tác phẩm này cũng đã được in thành sách. Bên cạnh đó, tác phẩm “Hokujou byoushougun” cũng đã nhận được giải thưởng lớn trong cuộc thi “Giải thưởng Oto-Bon song novels - Cảm nhận âm nhạc từ tiểu thuyết - DREAMS COME TRUE” và được xuất bản dưới dạng sách điện tử. Ngoài ra, còn là tác giả của nhiều tác phẩm khác như: Bộ tiểu thuyết bao gồm “Konya, kimi no koega kikoeru”, “Sangatsu noyuki wa, kimi no uso”, “Yume no owari de, kimi ni aitai”, “Nara machi hajimari asagohan” và tiểu thuyết “Shinsotsu desuga, kaigo no soudan uketamawarimasu”… *** Minh họa: UMIKO Họa sĩ minh họa. Bắt đầu khởi nghiệp sau khi nhận giải (giải khuyến khích do Ban giám khảo bình chọn) trong cuộc thi Minh họa Dengeki lần thứ hai mươi. Được biết đến với khả năng mô tả sống động hình ảnh nhân vật, đồng thời được đánh giá cao với việc tạo ra những bố cục đẹp mắt và thu hút. Là người đã chấp bút minh họa cho nhiều thể loại văn học đa dạng, từ tủ sách dành cho thiếu nhi đến tiểu thuyết Light Novel như: Bộ truyện “Tatta hitotsu no kimi to yakusoku”, tác phẩm “Mirai no mirai”… *** Mở đầu “Chào nhé bà cô!” Một đứa nhóc tên Ryu đã xưng hô với tôi như vậy. Nếu tôi đã đến tuổi nên được gọi là “bà cô” thì hẳn tôi sẽ toàn tâm toàn ý chấp nhận và không buồn mảy may tỏ ý phản đối, nhưng đằng này… Morisaki Naeno tôi đây chỉ vừa mới lên cấp hai, đang là một nữ sinh lớp tám. Dù vì lý do gì hay bị gọi như thế bao nhiêu lần đi chăng nữa, tôi vẫn không thể nào cam tâm và chấp nhận nổi. Vậy nhưng khi tôi bắt đầu nổi máu xung thiên lên, định bụng sẽ quay lại lườm cho kẻ dám phát ngôn như vậy một phát thì Ryu đã chạy mất dạng từ lúc nào không hay; cậu ta biến mất như thể sương mù tan biến vào trong không khí. Chỉ còn lại mình tôi cứ đứng ngẩn ra như trời trồng, nhìn mãi vào khoảng không trống vắng vô định Ryu bỏ lại. Sự việc này đã diễn ra từ khoảng một tiếng trước, thế nhưng cho đến giờ tôi vẫn không sao lý giải nổi rốt cuộc chuyện là như thế nào. Mọi sự bắt đầu bằng việc tôi phải quay lại trường để lấy một số đồ dùng mà với bản tính lơ đãng của mình, tôi đã hậu đậu để quên. Và vì đã quá trễ so với giờ về mọi khi nên tôi quyết định sẽ tranh thủ chọn lối đi tắt, tức là băng ngang qua công viên để về nhà. Nếu ngày ấy không tình cờ chạm trán Ryu, có lẽ lúc này cuộc đời tôi đã rẽ sang một hướng rất khác rồi. Mời các bạn đón đọc Những Ngày Mai Đến Không Có Cậu Kề Bên của tác giả Inujun & Phương Dung (dịch).
Sa Môn Không Hải Thết Yến Bầy Quỷ Đại Đường Tập 4
Từ lá thư mà A Bội Trọng Ma Lữ để lại, nhóm Không Hải biết được một sự thật. Đó là, khi hoàng đế Huyền Tông buộc phải xử tử Dương quý phi, ngài đã làm theo mưu kế của đạo sĩ Hoàng Hạc, thực hiện phép thi giải đưa Quý phi vào trạng thái chết giả để đợi hồi sinh, nhưng thật không may, họ đã thất bại. Cùng lúc ấy, Bạch Long, đệ tử cũ của Hoàng Hạc xuất hiện. Bạch Long nguyền rủa hoàng đế Thuận Tông, tìm cách hủy diệt cả triều đại nhà Đường. Chỉ còn chút sức tàn, Huệ Quả của Thanh Long Tự phải đứng ra đấu với Bạch Long, cứu hoàng đế, giải nguy cho vương triều. Về tác giả: Sinh năm 1951 tại Odawara, Kanagawa, là nhà văn phiêu lưu và khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Sau khi ra mắt văn đàn năm 1977, ông đã xuất bản nhiều tác phẩm nổi tiếng. Năm 1989 ông nhận được giải thưởng tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản cho tiểu thuyết Sư tử ăn trăng khuyết, tới năm 1998 thì được trao giải Shibata Renzaburou lần thứ 11 cho tác phẩm Đỉnh núi thánh. Ông là thành viên của câu lạc bộ các nhà văn viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Sinh năm 1951 tại Odawara, Kanagawa, là nhà văn phiêu lưu và khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Sau khi ra mắt văn đàn năm 1977, ông đã xuất bản nhiều tác phẩm nổi tiếng. Năm 1989 ông nhận được giải thưởng tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản cho tiểu thuyết Sư tử ăn trăng khuyết, tới năm 1998 thì được trao giải Shibata Renzaburou lần thứ 11 cho tác phẩm Đỉnh núi thánh. Ông là thành viên của câu lạc bộ các nhà văn viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Bộ tiểu thuyết Sa môn Không Hải thết yến bầy quỷ Đại Đường từng được đạo diễn Trần Khải Ca của Trung Quốc chuyển thể thành phim điện ảnh Yêu miêu truyện năm 2017. Ngoài ra nhiều tác phẩm khác của ông cũng được chuyển thể thành phim. Năm 2001: Âm Dương Sư (Toho sản xuất) Đạo diễn: Takita Yojiro / Diễn viên: Nomura Mansai, Sanada Hiroyuki, Ito Hideaki, Koizumi Kyoko, Năm 2003: Âm Dương Sư 2 (Toho sản xuất) Đạo diễn: Takita Yojiro / Diễn viên: Nomura Mansai, Ito Hideaki, Nakai Kiichi, Fukada Kyoko, Năm 2007: Thanh gươm của hoàng đế (Toei sản xuất) Đạo diễn: Tsutsumi Yukihiko / Diễn viên: Abe Hiroshi, Hasegawa Kyoko, Miyato Kankuro, Năm 2016: Everest: Đỉnh núi của thần (Toho sản xuất) Đạo diễn: Hirayama Hideyuki / Diễn viên: Okada Junichi , Abe Hiroshi , Ono Machiko, Các tác phẩm tiêu biểu: Sa môn Không Hải thết yến bầy quỷ Đại Đường (4 tập) Âm Dương Sư Thợ săn quỷ Sư tử ăn trăng khuyết ***   CÁC NHÂN VẬT CHÍNH   Từ đời Đức Tông hoàng đế đến đời Thuận Tông hoàng đế: Không Hải (âm Nhật là Kukai): Vị tăng trẻ sang Đường tìm học Mật Quất Dật Thế (âm Nhật là Tachibana-no-Hayanari): Nho sinh Nhật Bản tới Trường An theo đoàn thuyền Khiển Đường sứ. Bạn thân Không Hải. Đan Ông: Vị đạo sĩ luôn giúp rập và thoắt ẩn thoắt hiện xung quanh Không Hải. Lưu Vân Tiêu: Chức dịch Trường An, bị yêu miêu ám trong nhà và cướp mất người vợ yêu. Từ Văn Cường: Chủ nhân của cánh đồng trồng bông, nơi xảy ra vụ án có tiếng thì thầm bí ẩn. Trương Ngạn Cao: Chức dịch Trường An, người quen của Từ Văn Cường. Đại Hầu: Gã hộ pháp sinh ra ở Thiên Trúc. Ngọc Liên: Kỹ nữ của Hồ Ngọc Lâu. Lệ Hương: Kỹ nữ của Nhã Phong Lâu. Mohammed: Thương nhân người Ba Tư, có ba cô con gái là Trisnai, Tursungri, Griteken. Huệ Quả: Vị hòa thượng của Thanh Long Tự. Phụng Minh: Tăng môn của Thanh Long Tự. Người Tây Tạng. An Tát Bảo: Người coi giữ đền thờ Hiên giáo. Bạch Lạc Thiên: Một thi nhân lớn về sau. Đang ấp ủ bản trường ca về mối tình của Đường Huyền Tông và Dương quý phi. Vương Thúc Văn: Tể tướng dưới thời Thuận Tông hoàng đế. Liễu Tông Nguyên: Kẻ thân cận của Vương Thúc Văn. Văn nhân tiêu biểu thời kỳ trung Đường. Hàn Dũ: Đồng liêu của Liễu Tông Nguyên. Cũng là một văn nhân tiêu biểu thời kỳ trung Đường. Tử Anh: Bộ hạ của Liễu Tông Nguyên. Xích: Bộ hạ của Liễu Tông Nguyên. Chu Minh Đức: Phương sĩ. Thủ hạ của Druj. Druj*: Karapan (một kiểu pháp sư ở Ba Tư). Đời Huyền Tông hoàng đế A Bội Trọng Ma Lữ (âm Nhật là Abe-no-Nakamaro): Sang Đường vào đời Huyền Tông, sống ở Đường đến hết đời. Tên Trung Quốc là Triều Hành. Lý Bạch: Thi nhân tiêu biểu đời Đường. Được Huyền Tông sủng ái, nhưng về sau thì thất sủng. Huyền Tông: Hoàng đế nhà Đường. Mê đắm thiếp yêu là Dương quý phi. Dương quý phi: Thiếp yêu của Huyền Tông. Nhận được tất cả sự sủng ái của Huyền Tông, song đã phải chịu cái chết thê thảm bởi Loạn An Sử. An Lộc Sơn: Tướng nhà Đường. Được Quý phi yêu mến và nhận làm con nuôi, nhưng về sau làm phản và đuổi bọn Huyền Tông chạy khỏi Trường An. Cao Lực Sĩ: Hoạn quan hầu cận của Huyền Tồng. Hoàng Hạc: Đạo sĩ người Hồ. Kẻ đã hiến một kế về việc xử tử Dương quý phi. Đan Long: Đệ tử của Hoàng Hạc. Bạch Long: Đệ tử của Hoàng Hạc. Bất Không: Mật giáo tăng.   *** Câu chuyện của Bất Không Tam Tạng. Tôi sinh ra ở miền đất phía Bắc Thiên Trúc, có cha là Người Bà La Môn, mẹ là Người Khang Cư*. Tôi theo mẹ sang Đại Đường từ khi còn nhỏ. Chúng tôi vượt qua một vài quốc gia sa mạc, nhiều con sông và đến được đất nước này năm tôi lên mười tuổi. Tôi và mẹ ở lại Đôn Hoàng chừng ba tháng, lần đầu tiên tôi gặp Hoàng Hạc chính là ở Đôn Hoàng. Như ngài cũng biết, Đôn Hoàng là nơi giáp ranh giữa Đại Đường và nước Hồ, bóng dáng Người Hồ ở đây còn nhiều hơn cả Trường An. Ra chợ sẽ thấy bán rất nhiều món hàng của Hồ như thảm, bình lọ, quần áo. Bản thân là Người Thiên Trúc nên tôi cảm thấy tò mò với Người Đường và cảnh vật của nước Đường hơn là những món đồ mà Người Hồ buôn sang, nhưng tôi sẽ không nói kỹ về chuyện này. Ở chợ, ngoài hàng hóa còn có rất nhiều người diễn trò đường phố để kiếm tiền. Người nuốt lửa. Người nuốt kiếm. Người diễn trò ảo thuật. Người nhảy múa. Người bắt khỉ diễn trò để xin tiền. Người gảy nguyệt cầm năm dây và hát. Người Hồ có, người Đường có, chợ ở Đôn Hoàng là nơi kiếm tiền của những kẻ diễn trò đường phố ấy. Trong những kẻ diễn trò đường phố ấy có hai người: một chàng trai suýt soát ba mươi tuổi và một cô gái vừa qua tuổi hai mươi. Tôi ra chợ một mình và bắt gặp hai người ấy. Ban đầu tôi thấy có một đám đông hơn những chỗ khác, tò mò, tôi lách qua chân mọi người để lên phía trước thì thấy họ. Hai người đứng xây lưng về phía một cây hòe và quay mặt về phía đám đông. Có thể nhận ngay ra họ là người Hồ, nhờ màu mắt, màu da và sống mũi cao. Đó đều là những đặc trưng của người Hồ. Y phục trên mình, đôi giày cao cổ họ mang cũng là của người Hồ. Tôi nhớ rõ đến vậy là vì họ đang diễn một trò đáng sợ. Đầu tiên, chàng trai chào khán giả, cùng lúc đó cô gái đứng tựa lưng vào cây hòe. Thế rồi chàng trai lấy trong bọc áo ra mấy con dao găm. Tất cả là ba con. Chàng trai vừa mỉm cười vừa ném con dao găm đi bằng một động tác dứt khoát. Có nhiều tiếng thét lên từ đám đông đứng xem. Con dao găm rời khỏi tay chàng trai, cắm phập vào gốc cây ngay sát má trái của cô gái. Con dao găm tiếp theo cắm phập vào gốc cây ngay sát má phải của cô gái. Nếu chỉ trượt tay một li thôi thì con dao có thể sẽ cắm thẳng vào mặt cô gái. Khi diễn những trò như vậy, đa phần người diễn đều biểu lộ một nụ cười trên gương mặt, nhưng những nụ cười ấy thường chỉ là vẻ bề ngoài nên hầu hết đều gượng gạo. Tuy nhiên, nụ cười của chàng trai và cô gái này, thật không thể miêu tả nổi, như thể tỏ ra cực kỳ thích thú với việc họ đang làm. Trong tư thế bị kẹp bởi hai con dao găm bên hai má, cô gái cử động tay phải, lấy từ bọc áo ra một trái lê. Chắc hẳn lúc ấy ai cũng nghĩ rằng cô sẽ đặt nó lên đỉnh đầu. Phi con dao găm cho xuyên qua trái lê trên đỉnh đầu cô gái là một màn cao trào. Nhưng cô gái không đặt nó lên đỉnh đầu, mà xem kìa, cô ngậm nó ở trong miệng. Sau đó chàng trai cầm lấy lưỡi dao, chuẩn bị tư thế. Nghĩa là, anh ta sẽ phi con dao găm về phía quả lê trong miệng cô gái. Thật không thể tin được. Cứ cho là chệch sang hai bên thì không sao, nhưng nếu chệch lên trên hoặc xuống dưới, con dao sẽ găm vào mặt hoặc họng cô. Tay nghề của chàng trai thì như đã thể hiện, dẫu có lệch cũng chỉ lệch đi chút ít, chứ chắc chắn không thể chệch hẳn lên phần nửa trên mặt cô gái được. Vì vậy, trường hợp đáng sợ nhất là, mặc dù con dao trúng vào trái lê, nhưng nó lại xuyên qua trái lê vào thẳng cổ họng cô gái. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ những tiếng rú to từ trong đám đông đứng xem lúc chàng trai ném con dao đi. Chàng trai ra tay nhanh tới nỗi có thể nghe thấy tiếng xé gió, nhưng con dao lại không bay nhanh như động tác của cánh tay. Nó không bay thẳng, mà vẽ thành một đường cầu vồng trong không trung, lao chéo từ trên xuống và cắm phập vào quả lê trong miệng cô gái. Đám người đứng xem nhốn nháo hết cả lên. Kẻ thì hú hét, kẻ thì vỗ tay, kẻ thì tung tiền. Chứng kiến cảnh tượng ấy, tôi cũng thấy bội phần kinh ngạc. Hơn nữa, khi cô gái cầm lấy trái lê và đưa cho mọi người xem thì mũi dao chỉ thò mớm ra khỏi trái lê chút đỉnh, không đủ để gây thương tích cho vòm miệng cô. Cô gái rút con dao ra và ném trả chàng trai. Chàng trai bắt lấy con dao trong không trung, rồi lại đứng vào tư thế. Đám đông đứng xem đổ dồn ánh mắt về phía họ: tiếp theo là trò gì đây? Hành động của cô gái sau đó còn đáng kinh ngạc hơn nữa. Cô áp trái lê lên trán mình. Thật không thể tin nổi. Ở vị trí này, dù mũi dao trúng vào trái lê với một lực vừa phải như ban nãy thì cô gái cũng sẽ không tránh khỏi bị thương. Mũi dao dẫu chỉ xuyên qua chút đỉnh, song lần này không phải là trong khoang miệng rỗng, nên phần xuyên qua ấy có thể găm vào trán khiến cô bị thương, thậm chí còn giết chết cô. Sự nhốn nháo của đám đông lắng xuống một cách nhanh chóng. Như chỉ chờ có vậy, chàng trai liền ném con dao đi. Nhưng anh ta không làm động tác ra tay nhanh như ban nãy nữa, mà chỉ chu môi bật khẽ một tiếng gió lúc ném dao. Mời các bạn đón đọc Sa Môn Không Hải Thết Yến Bầy Quỷ Đại Đường Tập 4 của tác giả Baku Yumemakura & Uyên Thiểm (dịch).
Sa Môn Không Hải Thết Yến Bầy Quỷ Đại Đường Tập 3
Từ lá thư mà A Bội Trọng Ma Lữ để lại, nhóm Không Hải biết được một sự thật. Đó là, khi hoàng đế Huyền Tông buộc phải xử tử Dương quý phi, ngài đã làm theo mưu kế của đạo sĩ Hoàng Hạc, thực hiện phép thi giải đưa Quý phi vào trạng thái chết giả để đợi hồi sinh, nhưng thật không may, họ đã thất bại. Cùng lúc ấy, Bạch Long, đệ tử cũ của Hoàng Hạc xuất hiện. Bạch Long nguyền rủa hoàng đế Thuận Tông, tìm cách hủy diệt cả triều đại nhà Đường. Chỉ còn chút sức tàn, Huệ Quả của Thanh Long Tự phải đứng ra đấu với Bạch Long, cứu hoàng đế, giải nguy cho vương triều. Về tác giả: Sinh năm 1951 tại Odawara, Kanagawa, là nhà văn phiêu lưu và khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Sau khi ra mắt văn đàn năm 1977, ông đã xuất bản nhiều tác phẩm nổi tiếng. Năm 1989 ông nhận được giải thưởng tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản cho tiểu thuyết Sư tử ăn trăng khuyết, tới năm 1998 thì được trao giải Shibata Renzaburou lần thứ 11 cho tác phẩm Đỉnh núi thánh. Ông là thành viên của câu lạc bộ các nhà văn viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Sinh năm 1951 tại Odawara, Kanagawa, là nhà văn phiêu lưu và khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Sau khi ra mắt văn đàn năm 1977, ông đã xuất bản nhiều tác phẩm nổi tiếng. Năm 1989 ông nhận được giải thưởng tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản cho tiểu thuyết Sư tử ăn trăng khuyết, tới năm 1998 thì được trao giải Shibata Renzaburou lần thứ 11 cho tác phẩm Đỉnh núi thánh. Ông là thành viên của câu lạc bộ các nhà văn viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Bộ tiểu thuyết Sa môn Không Hải thết yến bầy quỷ Đại Đường từng được đạo diễn Trần Khải Ca của Trung Quốc chuyển thể thành phim điện ảnh Yêu miêu truyện năm 2017. Ngoài ra nhiều tác phẩm khác của ông cũng được chuyển thể thành phim. Năm 2001: Âm Dương Sư (Toho sản xuất) Đạo diễn: Takita Yojiro / Diễn viên: Nomura Mansai, Sanada Hiroyuki, Ito Hideaki, Koizumi Kyoko, Năm 2003: Âm Dương Sư 2 (Toho sản xuất) Đạo diễn: Takita Yojiro / Diễn viên: Nomura Mansai, Ito Hideaki, Nakai Kiichi, Fukada Kyoko, Năm 2007: Thanh gươm của hoàng đế (Toei sản xuất) Đạo diễn: Tsutsumi Yukihiko / Diễn viên: Abe Hiroshi, Hasegawa Kyoko, Miyato Kankuro, Năm 2016: Everest: Đỉnh núi của thần (Toho sản xuất) Đạo diễn: Hirayama Hideyuki / Diễn viên: Okada Junichi , Abe Hiroshi , Ono Machiko, Các tác phẩm tiêu biểu: Sa môn Không Hải thết yến bầy quỷ Đại Đường (4 tập) Âm Dương Sư Thợ săn quỷ Sư tử ăn trăng khuyết *** Họ đang ở trong phòng Không Hải… mà không, đúng ra là ở giữa một bông mẫu đơn đỏ. Nhưng chính xác hơn cả thì họ đang ở trong huyễn thuật của Đan Ông. Không Hải ngồi trên một cánh hoa mẫu đơn khổng lồ, kích thước của nó dễ bằng cả cái nhà. Quất Dật Thế ngồi kế bên, ngay cạnh nhụy hoa màu vàng to bằng cả cái cây, phía đối diện là Đan Ông. Không Hải vừa mới đọc xong câu chuyện dài được kể trong bức thư của A Bội Trọng Ma Lữ gửi cho Lý Bạch. Cậu vừa lướt mắt theo những dòng chữ bằng tiếng Oa vừa đọc to lên bằng tiếng Đường. Đó là cách Không Hải đọc cho Đan Ông nghe. Một câu chuyện kỳ lạ về Huyền Tông hoàng đế và Dương quý phi. Dật Thế không tìm được lời nào để nói. Đan Ông cũng vậy, chỉ ngồi yên lặng và ngước lên nhìn trời. “Đan Ông, ngài đang khóc có phải không?” Giọng Không Hải cất lên. Đúng lúc đó… Đột nhiên sắc đỏ xung quanh lạt dần, tỉnh ra thì đã là phòng của Không Hải. Ngọn đèn rung rinh, chỉ có duy nhất một bông mẫu đơn màu đỏ nằm chỏng chơ giữa ba người như tàn dư của một giấc mơ. Đan Ông đang ngửa cổ lên trời bỗng cúi mặt xuống, lấy ngón tay phải chùi mắt. “Chao ôi, ta vừa được nghe lại một câu chuyện thân thuộc làm sao…” Rồi Đan Ông ngẩng mặt lên. “Ngài Đan Ông. Chàng trai Đan Long được nhắc đến trong bức thư của Triều Hành có phải chính là ngài không?” Không Hải hỏi. “Đúng vậy…” “Vậy tức là tất cả những điều viết ra trong đây đều là sự thật?” “Ừm.” Đan Ông gật đầu, rồi lẩm bẩm bằng một giọng trầm thấp. “Ta không biết ngài Triều Hành đã để lại một bức thư như thế này…” Quyển trục chứa nội dung bức thư vẫn đang nằm trong tay Không Hải. “Ngài Đan Ông đã biết tất cả những gì được viết trong bức thư này phải không?” “Ta biết. Cả những chuyện được viết ra lẫn những chuyện không được viết ra.” “Bao gồm tung tích của ba người đã cùng nhau biến mất là Đan Long, Bạch Long và Dương Ngọc Hoàn, rồi cả người tiếp theo biến mất là Hoàng Hạc, cũng như những gì xảy ra sau đó nữa, có phải không ạ?” “Phải.” “Tại sao tất cả lại biến mất?” Không Hải hỏi, nhưng Đan Ông chỉ im lặng. “Ngài Đan Ông…” Không Hải định nhắc lại câu hỏi, thì Đan Ông nhìn sang Không Hải, nói: “Không Hải à, đây là chuyện bí mật của bọn ta.” “Ngài vừa nói là bọn ta?” “Ta đã nói như thế.” “Trong đó gồm những ai?” “Đan Ông ta và Bạch Long, rồi đạo sĩ Hoàng Hạc và Dương Ngọc Hoàn. Hoặc có thể thêm vào số đó tên của Huyền Tông hoàng đế và Cao Lực Sĩ cũng chẳng sao. Thậm chí là cả Thanh Long Tự…” “Trời ạ.” “Nhờ bức thư này mà cuối cùng ta cũng đã ngộ ra một điều. Đây là câu chuyện về giấc mơ đã xảy ra năm mươi năm trước. Nhưng nó vẫn đang tiếp tục. Ta ngộ ra, đã đến lúc tự tay bọn ta phải tận diệt cái hạt giống mà bọn ta gieo xuống ngày nào. Than ôi, thật là…” Đan Ông thốt ra những lời ấy như thở dài, môi khẽ mỉm nụ cười. “Không Hải này, dù mấy năm hay mấy chục năm trôi qua, thì con người rốt cuộc vẫn chẳng thể chạy trốn khỏi những điều do mình gây ra phải không…” “…” “Có thể nói ta đã lẩn trốn trong mấy chục năm qua, nhưng cuối cùng, ta không thể lẩn trốn thêm được nữa.” Đan Ông nói như thể vừa nuốt vào một cục đắng. “Đã đến lúc chấm dứt giấc mơ này rồi, Bạch Long ơi…” Đan Ông tự nói với chính mình, chứ không phải với Không Hải, cũng không phải với Dật Thế. “Giấc mơ nào?” “Giấc mơ diệu vợi ấy…” Đan Ông ngẩng lên trời, lẩm bẩm như vậy, rồi đưa mắt nhìn lại Không Hải. “Ngài vừa nhắc đến cái tên Bạch Long…” “Không Hải à, chuyện này là chuyện riêng của ta, không thể nói ra ngoài được.” “Cái bóng người đêm ấy ở cánh đồng bông của Từ Văn Cường có phải là người quen của ngài Đan Ông?” “Ừm.” “Đó phải chăng cũng là chuyện riêng?” “Phải. Không Hải, ta sẽ kể cho ngươi chuyện đó để đáp lại việc ngươi đọc cho ta nghe bức văn.” “Chuyện đó?” “Chuyện về những bức tượng dõng chui ra từ ruộng bông.” “Ngài Đan Ông có nói rằng chính ngài đã chôn chúng phải không?” “Đúng, ta đã nói như vậy.” “Có phải là một số lượng dõng rất kín?” “Không.” Đan Ông lặng lẽ lắc đầu. “Chỉ là mấy con đã chui ra mà thôi. Những bức tượng dõng chui ra vốn không được chôn ở đó từ đầu, mà do bọn ta làm phỏng theo những bức đã chôn ở đó từ trước.” “Ngài nói sao…” “Hãy nghe đi đã, Không Hải…” Nói đoạn, Đan Ông bắt đầu kể lại toàn bộ câu chuyện về những bức tượng dõng ấy. Mời các bạn đón đọc Sa Môn Không Hải Thết Yến Bầy Quỷ Đại Đường Tập 3 của tác giả Baku Yumemakura & Uyên Thiểm (dịch).