Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mười Ngày - Giovanni Boccaccio

Mười ngày (tiếng Ý: Decameron, [deˈkaːmeron; dekameˈrɔn; dekameˈron] hoặc Decamerone [dekameˈroːne]) là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn Ý Giovanni Boccaccio. Mười ngày của ông là một trong những cuốn sách nổi tiếng nhất của văn học Italia và thế giới, với nội dung phong phú, giá trị nghệ thuật cao, được dịch hầu khắp các châu lục. Gồm 100 câu chuyện kể với nhiều màu sắc trào phúng, quái dị, trữ tình, bi xen lẫn hài, hiện thực xen lẫn mộng ảo (mà tình yêu là sợi chỉ xuyên suốt phần lớn các truyện), cùng hàng nghìn nhân vật thuộc đủ các tầng lớp xã hội lúc bấy giờ, đồng thời, phản ánh những nét tiêu biểu của tính người nói chung trở thành di sản quý giá trong kho tàng văn hoá nhân loại. *** Giovanni Boccaccio (Giôvanni Bôcaxiô) là nhà văn xuất sắc Italia thời Phục Hưng, sinh ra trong một gia đình thương nhân ở Thị trấn Xectandô, thuộc Tỉnh Tôxcan. Mẹ là người Pháp. Thuở nhỏ học ở Phlôrăngxơ. Vốn say mê khoa học và văn học, ông không tha thiết với nghiệp kinh doanh mà người cha định hướng. Năm 1330, người cha gọi Boccaccio về và gửi đến Napôli học ngành luật nhưng ông chẳng mấy quan tâm với nghề thày cãi. Sau khi cha mất, ông bỏ học và kết bạn với những người hoạt động văn học nghệ thuật. Nhờ bạn bè giới thiệu, ông được nhận vào làm trong triều đình Rôba Ăngjiu, một nhà Vua yêu thích văn học và có nhiều cảm tình với giới tri thức. Ở đây, ông làm quen với Công chúa Maria Acvinơ, và tình yêu đã thúc đẩy ông sáng tác tập Philoxtơrát với những bài xonnê diễm lệ. Khoảng năm 1340-1341, ông trở lại Phlôrăngxơ và dấn thân tham gia hoạt động xã hội, sau hoàn thành nhiều công vụ ngoại giao và được tin dùng. Từ năm 1351, Boccaccio kết thân với nhà thơ Petrarca (1304-1374), người tiếp nối chí hướng nhà khai sáng Dante, người thực hiện việc đặt nền móng cho cả dòng thơ trữ tình Châu Âu, và quan hệ thân thiện với nhiều nhà tri thức lớn khác. Vào năm 1373, theo yêu cầu của Vương chủ thành Phôrăngxơ, ông giảng thơ Date trước đông đảo công chúng. Ngoài sáng tác văn học, Boccacclo còn quan tâm viết nhiều công trình khảo cứu bằng tiếng La tinh. Các tác phẩm chính của Boccaccio có Philôxtơrát (Tập thơ, 1338), các trường ca Têdêit, Ảo ảnh tình yêu, truyện thơ Philêdôlanô, các tập truyện Philôcôlô Phiamétta, Đêcamêrông; truyện Con quạ,… Trên thực tế, mặc dù sáng tác cả thơ, trường ca, truyện song Truyện mới chính là thể loại đem lại cho Bóccaccio niềm vinh quang chói sáng. Truyện Phiametta (1348) kể về mối tình tuyệt vọng của nàng Phiametta với chàng Păngphilô, gồm một lời mở đầu và chín chương. Truyện được viết theo lối tự thuật. Tác phẩm khơi gợi bi kịch tình yêu của người phụ nữ với nghệ thuật khảo sát, có ý nghĩa đặt nền móng cho dòng tiểu thuyết tâm lý xã hội ở Châu Âu. Đến tập truyện Đêcamêrông - Truyện mười ngày (1350-1353) xuất bản lần đầu tiên năm 1471 gồm tới 100 truyện. Dựa trên cơ sở kho tàng truyện dân gian Italia, Boccaccio đã sáng tạo hệ thống các truyện có màu sắc dân dã, gần với đời sống hàng ngày, thể hiện như là bước chuyển của tư duy văn học Trung cổ tới Phục Hưng, mở đầu cho một thời đại văn học mới. *** Trong tập truyện Mười Ngày (Le Décaméron), của Giovanni Boccaccio (1313 - 1375),[1], ngay ở truyện đầu, Tinh thần gia tô giáo, Ngày thứ nhất, ta gặp tên đại bịp Xrappemenô. Trước khi chết y thêu dệt cuộc đời y bằng những sự kiện hoàn toàn bịa đặt để đánh lừa linh mục và các con chiên. Cuối cùng được phong làm thánh. Ta nhớ đến Trạng Quỳnh coi thường thần thánh, đã cột bò trước bàn thờ để lừa Chúa Liễu ngay trong khi cúng. Anh chàng họa sĩ Calăngđranh bị bạn đùa, khiến anh ta tin rằng mình có thai, cũng phảng phất giống anh ngờ nghệch nọ của một truyện tiếu lâm nào đó (Người bệnh tưởng - Ngày thứ chín). Tác phẩm nổi tiếng thế giới Mười ngày của nhà văn và nhân văn Ý thế kỷ XIV, Boccaccio quả thật rất gắn với những truyện dân gian Việt Nam, đặc biệt là những truyện thuộc chủ đề phản phong, đả kích thói giả đạo đức của những người làm nghề tôn giáo, lên án cái luân lý khắc nghiệt mà họ đề ra, đòi hỏi trần gian với những thú vui tự nhiên của nó. Dĩ nhiên khi nói đến chống phong kiến, chúng ta quan niệm thực trạng phong kiến ở châu Âu khác với phong kiến kiến Việt Nam, và châu Á nói chung, hai loại phong kiến có những nội dung kinh tế - chính trị - xã hội đôi khi ngược hẳn nhau. Truyện dân gian Việt Nam thể hiện phản ứng của giai cấp nông dân chống lại chế độ vua quan, địa chủ và kỳ mục, một chế độ mà khủng hoảng kéo dài từ thế kỷ XVII qua thế kỷ XVIII, XIX. Khổng giáo ngự trị xã hội bị phá từng mảng lớn. Những làng xã vẫn là những đơn vị cơ sở tự cung tự cấp, bất di bất dịch, đa số nghề thủ công nằm trong lũy tre xanh không tiến lên công nghiệp được, thành thị thị trấn thuộc quyền nhà vua, tầng lớp thường dân rất yếu ớt, quan hệ sản xuất nông nghiệp không thay đổi nên không có men tư tưởng mới. Trái lại, những truyện mang tính chất dân gian trong Mười Ngày dậy chất men tư tưởng mới của giai cấp thị dân tư sản đang bước vào vũ đài chính trị. Boccaccio đại diện cho tầng lớp thương nhân ở các thành thị Ý. (Nước tư bản đầu tiên - Ăngghen). Châu Âu tiến lên chủ nghĩa tư bản bằng sự phát triển công thương nghiệp, giai cấp tư sản chống phong kiến thắng lợi, tách được thành thị ra khỏi quyền lực của nhà nước, của vua chúa. Boccaccio và thời đại, hoàng hôn Thời Trung cổ, bình minh Thời Phục hưng. Trước sức lấn công của những bộ tộc rợ Gốt (Goths), đế chế La Mã tan rã vào khoảng nửa sau thế XIX, nước Ý vẫn còn bị chia có thành hàng chục quốc gia nhỏ. Đến thế kỷ VIII, IX, sau khi bình định một bộ phận lớn đất đai thuộc lãnh thổ ngày nay của các nước Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Trung Âu... Saclơmanhơ lập ra chế độ La Mã - Đức Thần thánh. Sau đó là một thời kỳ hỗn loạn liên miên. Mãi đến thế kỷ X, đế chế Thần thánh mới được khẳng định lại. Bắt đầu từ thế kỷ XI, nhờ có cuộc Thập tự chinh, các thành thị ở miền Bắc và miền Trung nước Ý buôn bán phát đạt nhất là các hải cảng Naplơ, Flôrăngx, Giênơ, Vơnidơ... từ đó công nghiệp (dệt, binh khí, kim hoàn...) phát triển đồng thời với kinh doanh tiền tệ cho vay lãi. Những thế kỷ XII và XIII được đóng dấu bởi hai sự kiện lịch sử quan trọng: sự tranh giành quyền lực giữa Giáo Hoàng La Mã và hoàng đế đóng đô trên lãnh thổ Đức, và sự phát triển của các quốc gia thành thị. Nội bộ các quốc gia Ý bị xâu xé bởi cuộc tranh chấp giữa hai phe, một phe ủng hộ Hoàng đế Ý là một bộ phận của đế chế, một phe ủng hộ Giáo Hoàng. Thực chất cuộc tranh chấp là sự vùng lên của các thành thị - công xã Ý đã vững mạnh, muốn thoát khỏi sự cai trị của Hoàng đế bằng cách chấp nhận sự bảo hộ lỏng lẻo hơn của Giáo Hoàng. Bước sang thế kỷ XIV, thế kỷ của Boccaccio, có thể nói là các (quốc gia thành thị ) Ý thống trị nền kinh tế châu Âu qua thương nghiệp và ngân hàng. Dù phục tùng về danh nghĩa Hoàng đế hay Giáo Hoàng, những thành thị ấy đã là những công xã được giải phóng khỏi ách phong kiến, tự trị về mặt chính trị. Ở đó giai cấp tư sản đương lên xây dựng một nền văn nghệ huy hoàng, báo hiệu thời kỳ văn nghệ phục hưng ở châu Âu. Ngay khi văn học Ý ra đời, đã xuất hiện ba thiên tài: Đantê ( 1265- 1321), người sáng tạo ra hùng ca. thơ tự sự và giáo huấn Ý. Pêt'raca (1304-1374), người canh tân thơ trữ tình Ý và Giôvanni Boccaccio ( 1313- 1375), người đặt nền tảng cho văn xuôi nghệ thuật Ý. Ba người là gạch nối giữa thời Trung cổ và thời Phục Hưng văn nghệ châu Âu. Con hoang của một thương nhân Ý và một phụ nữ Pháp, sinh ở tỉnh Xectanđô, gần Flôrăngx. Boccaccio qua thời thơ ấu ở đây. Năm mười lăm tuổi, ông được cha cho đi Naplơ để học nghề buôn và học luật. Những năm tuổi thanh niên này ở Naplơ có một đời sống văn hóa sôi nổi đã quyết định bước đi của ông, ông học tiếng La Tinh, nghiên cứu văn học cổ La Mã, say mê nhà thơ Vecgiliut. ông tham gia sinh hoạt cung đình vua Rôbe, giao thiệp với những nhà văn, nghệ sĩ, bác học, quý tộc và kinh doanh có tên tuổi. Rất có thể là ông yêu con hoang của vua Rôbe, nàng Nan Đakinô. Hoặc giả một phụ nữ nào khác đến nay vẫn chưa biết tên đã trở thành nàng thơ của Boccaccio dưới cái tên mỹ miều là Fiametta (ngọn lửa xinh). Ông ca ngợi mối tình ấy theo mẫu ước lệ cung đình trong tập Thơ (Rime) gồm 257 bài không có gì đặc sắc lắm; trong Người say mê tình ái (II Filocolo), truyện văn xuôi phân tích tâm lý theo khuôn sáo tiểu thuyết trung cổ Pháp; Flor và Blăngsơflor (Flor et Blancheflor); và trong Khúc bi thương về nàng Fiametta (Elegia di Madonna Fiametta). Thi phẩm Hình ảnh tình yêu (Amorosa visione) sử dụng thể văn phóng dụ để kể những chuyện phiêu lưu tình ái, cũng bắt chước cuốn Tiểu thuyết Hoa Hồng nổi tiếng thời Trung Cổ. Khúc bi thương về nàng Fiametta mãi đến năm l341 - 1345 mới hoàn thành: là một cuốn tiểu thuyết nửa tự truyện đã có những phân tích tâm lý sâu sắc và những rung cảm chân thực về một mối tình tuyệt vọng. Bị người tình ruồng bỏ, Boccaccio đau khổ, hoang mang, may nhờ bạn bè trông nom, an ủi, ông mới lấy lại được tinh thần. Năm 1340, Boccaccio 27 tuổi, thấy ông bỏ học theo con đường văn chương bất trắc, cha ông không gửi tiền trợ cấp cho ông nữa. Ông đành bỏ Naplơ về Flôrăngx với cha. Cuộc đời của Boccaccio gắn với thành phố này, nơi ông ở lâu nhất. Một nhà kinh tế học và xã hội học Đức, Vecnơ Dombac (Wemer Sombart, 1863 - 1941), nhận xét: nếu tôi không nhầm, chính ở Flôrăngx khoảng cuối thế kỷ XIV, mà lần đầu tiên người ta thấy người tư sản hoàn chỉnh. Flôrăngx đã chứng kiến thắng lợi của những người mới phất to, của đầu óc kinh doanh tự do, của một lối suy nghĩ mới, lối ăn tiêu có tính toán, không hào phóng như giai cấp quý tộc[2]. Ở Flôrăngx, Boccaccio đi lại chốn cung đình, hoạt động chính trị, ngoại giao, mấy lần được cử đi công cán. Sau khi cha chết (l349), ông được thừa hưởng một gia tài khiêm tốn nhưng cũng đủ để củng cố tình hình kinh tế bản thân, khiến ông rảnh rang để sáng tác và nghiên cứu văn học cổ La Mã - Hy Lạp. Boccaccio đã trưởng thành trong cuộc sống và trong lĩnh vực văn học. Mặc dù rất thích làm thơ, ông đã quyết định rút lui trước khi Pêtraca, bạn thân ông từ năm l350, người thường xuyên trao đổi thư từ với ông và giúp ông nghiên cứu chủ nghĩa nhân văn cổ đại. Ông đi vào lĩnh vực truyện văn xuôi còn chưa ai khai thác một cách nghệ thuật. Sau trận dịch hạch khủng khiếp năm l343, ông sưu tầm tài liệu chuẩn bị viết tập truyện Mười Ngày, xuất bản năm 1353. Ông còn viết Nữ Thần ở Fixôlơ ( Ninfale Fiesolano, 1345 - l346), thơ tình thôn dã thần thoại kết hợp hiện thực và trữ tình, khẩu vị dân gian và chất liệu cổ điển La Mã, Con quạ[3] (Corbaxiô, 1355 ), truyện một người về già yêu một thiếu phụ, bị nàng hắt hủi nhạo báng, do đó đâm ra hoài nghi phụ nữ nói chung và nhận thấy những khuyết điểm và tật xấu của họ. Trên đây là những tác phẩm viết bằng tiếng Ý đã mang lại vinh quang cho Boccaccio, ông còn sáng tác bằng tiếng La tinh, nhưng sáng tác này không có mấy tiếng vang. Đáng kể có Nỗi gian truân của những nhân vật nói riêng (De Casbus virorumillustrium, 1355), tập tiểu sử Về những phụ nữ nổi tiếng (Declaris mulieribus, l374), tiểu sử của 104 phụ nữ đạo đức hoặc xấu xa. Năm 1362, Boccaccio, khi đó 49 tuổi, qua một cơn khủng hoảng tâm hồn vì những lý do tôn giáo, ông định thiêu hủy tất cả các sách viết bằng tiếng Ý của ông, cho là quá phóng túng và tội lỗi. Nhưng Pêtraca đã kịp thời ngăn chặn ý định đó của bạn. Boccaccio đi Naplơ và Vơnidơ để kiếm một địa vị. Thất vọng, ông về sống chục năm cuối đời ở Xectanđô. Ông sống những năm tháng cô đơn và lặng lẽ, chuyên nghiên cứu văn học cổ La Mã - Hy Lạp cho đến khi chết, năm 62 tuổi. Niềm vui lớn của ông là năm l373, được chính quyền Flôrăngx mời đến đọc và bình luận trước công chúng tác phẩm Thần Khúc (Divina Commedia) của Đantê. Tác Phẩm Mười Ngày Tác phẩm lớn nhất của Boccaccio viết năm ông 37 tuổi. sau khi ông đã có hai chục năm trong nghề văn, lấy tên là Décaméron, tiếng Hy Lạp nghĩa là Mười Ngày vì tập sách gồm một trăm truyện kể trong Mười Ngày, mỗi ngày mười truyện[4]. Theo tác giả giới thiệu năm 1348, trong khi bệnh dịch hạch hoành hành ở Flôrăngx, mười thanh niên thượng lưu (bảy nữ và ba nam) rời bỏ thành thị để lánh nạn ở một biệt thự nông thôn. Để tiêu khiển, họ quyết định mỗi ngày mỗi người kể một truyện. Như vậy là sách chia làm mười chương, mỗi chương gồm truyện của mỗi ngày. Thực ra nhóm thanh niên ở lại nông thôn mười bốn ngày, vì trong hai tuần lễ mỗi tuần có hai ngày (thứ sáu và thứ bảy) ngừng kể chuyện vì lý do tôn giáo. Mỗi ngày lần lượt một người được bầu làm Hoàng Hậu hay vua để điều khiển tổ chức, để ra một chủ đề chung cho các truyện kể ngày hôm đó. Mặc dù phụ thuộc vào chủ đề, mỗi truyện đều độc lập về nội dung, tính chất, bố cục. Sinh hoạt hàng ngày của nhóm ít thay đổi, dạo chơi, đàm luận kể chuyện, kết thúc là một bài ca (canzone) để múa hát nhân đó Boccaccio có dịp giới thiệu một số thơ trữ tình hay của mình. Bước vào ngày thứ nhất, Boccaccio phác họa một bức tranh rùng rợn về bệnh dịch hạch và thần chết ở Flôrăngx, làm nổi bật hình ảnh tương phản cái vui thanh thản của những người đi lánh nạn ở nông thôn, làm sáng tỏ ý nghĩa cuộc sống trần gian qua những câu chuyện kể. Ngoài phần mở đầu, tác giả chỉ phát biểu ý kiến trực tiếp với độc giả hai lần, một lần ở đầu ngày thứ tư và một lần ở phần kết luận, để bác bỏ những ý kiến chỉ trích mình kể chuyện phóng đãng. Ông biện bạch một cách hóm hỉnh là ông viết để phụng sự phụ nữ vì phụ nữ và tình yêu là ý nghĩa cuộc sống trần gian. Ông dẫn chứng câu chuyện (chim cái): một chàng trai cùng tu với bố ở trên núi, xa lánh đời từ năm hai tuổi. Năm anh mười tám tuổi, người bố cho là anh đã đắc đạo, dắt anh xuống thành thị, khiến cái gì anh cũng làm lạ và hỏi tên. Anh đặc biệt choáng váng khi lần đầu tiên trông thấy mấy cô gái. Người bố sợ anh sa ngã, nói: Đừng ngó họ. Không có gì là tốt đâu. Anh gặng hỏi tên gọi họ, người bố nói thác: Người ta gọi họ là những chim cái. Anh nằng nặc đòi mang một con chim cái ấy lên núi. Trong tập sách, mười nhân vật kể chuyện không được miêu tả cụ thể. Họ chỉ là những hình tượng ước lệ: tượng trưng cho những trạng thái tâm hồn, phù hợp với chủ đề các truyện. Ví dụ: Filôxt'rat là hình ảnh mối tình vô vọng, Nêifin là hiện thân của dục tình cuồng nhiệt, v..v.. Thời Trung cổ (từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ XV), chế độ phong kiến phát triển mạnh nhất từ thế kỷ thứ IX. Trong ba thiên tài xuất hiện đầu như đồng thời, Đantê, sinh trước Boccaccio 48 năm thấm nhuần tinh thần Trung cổ hơn và phản ánh đầy đủ nhất, nghệ thuật nhất thế giới Trung cổ, niềm tin tuyệt đối và thần bí vào đạo Gia tô, sự cứu vớt linh hồn ở thế giới bên kia, tình yêu có tính chất lý tưởng, ngoài xác thịt, nâng tâm hồn lên toàn điện toàn mỹ. Ở châu Âu, những cuộc Thập tự chinh đầu tiên vào thế kỷ XI đã góp phần củng cố giai cấp quý tộc và làm nẩy nở một lý tưởng mới, lý tưởng hiệp sĩ, đề cao lòng dũng cảm đem gương phụng sự Chúa trời và lãnh chúa của mình, văn học được đánh dấu bởi những bản hùng ca đề cao hiệp sỹ đánh đông dẹp bắc. Qua những thế kỷ sau, lần lần võ nghệ nhường bước cho tình yêu, ở những cung đình lộng lẫy giai cấp quý tộc giàu có một phần nhờ chinh chiến, sống một đời sống xa hoa, lịch thiệp hơn và đòi hỏi những thú vui phong nhã. Lý tưởng cung đình xuất hiện, hiệp sỹ quý tộc không những phải dũng cảm, mà còn phải lịch thiệp, hào hiệp, nhất là biết yêu. Phụng sự vô điều kiện suốt đời một vị phu nhân được suy tôn là hoàng hậu của đời mình. Lý tưởng này đã đề ra những thế lực văn học cung đình như thơ trữ tình và tiểu thuyết tình. Như trên ta đã thấy, Boccaccio cũng không thoát khỏi tình huống của loại văn học này. Mặc dù là thị dân, ngưỡng mộ lý tưởng của quý tộc, ông muốn đưa vào thế giới thị dân tư sản của mình. Những truyện của ngày thứ mười trong Mười Ngày minh họa lý tưởng hiệp sỹ và cung đình. Đáng chú ý là lý tưởng tôn giáo độc tôn thời Trung cổ lại trở lại với Boccaccio khi về già. Đã có những lúc ông ăn năn vì đã tỏ ra quá ư phóng túng trong những sáng tác bằng tiếng Ý, đặc biệt trong tập Mười Ngày. Hình như cuối đời ông đâm ra ghét phụ nữ mà ông đã từng sùng bái. Tuy còn gắn bó với Thời trung cổ về nhiều mặt, tư trang của Bocaxiô đã báo hiệu Thời kỳ Phục hưng: hay có thế nói là đã đóng góp xây dựng sơ kỳ văn nghệ Phục hưng Ý. Trào lưu này xuất phát ở Ý và đến thế kỷ thứ XVI lan ra Tây Âu. Nó chống lại thời Trung cổ, chủ trương phục hưng tinh thần và hình thức văn nghệ thời cổ đại Hy Lạp - La Mã. Giai cấp tư sản đương lên có tư tưởng nhân văn, đề cao cuộc sống trần gian và con người, tin vào khả năng giáo dục cải tạo con người, đưa ra mẫu người hoàn hảo vừa hành động vừa hiểu biết rộng, đề cao tự do tư tưởng, chống phong kiến và thần học. Dĩ nhiên là trong hoàn cảnh Thế kỷ XIV tư tưởng nhân văn của Boccaccio chưa được hoàn chỉnh như thế, nhưng hướng tiến bộ đã rõ nét. Là con một thương nhân và bản thân khi vào đời cũng học kinh doanh, Boccaccio được chứng kiến sự phồn thịnh của các thành thị trở thành quốc gia, quyền lực của các thương nhân và chủ ngân hàng phá vỡ cấu trúc phong kiến. Nói chung Boccaccio hướng về thế giới tư bản mang nảy nở hơn là bâng khuâng về thế giới Trung cổ đương suy tàn, không hoài bão như Đantê làm sống lại một trật tự thế giới lý tưởng bằng sức mạnh của đức tin và lí trí. Mười Ngày là cuốn sách đầu tiên ở châu Âu mà trong đó người kinh doanh xuất hiện với một hào quang mới. Thiên hùng ca về thương nhân này rất được thương nhân thế kỷ XIV tán thưởng. Giai cấp quý tộc đề cao dòng máu, cho huyết thống là phẩm giá cao nhất của con người. Giai cấp tư sản đả phá quan niệm ấy. Trong chuyện Thắng Lợi của Cái Chết ( Ngày thứ tư), cả đến một nữ công tước, Ghixmôngđơ. cũng đương đầu với vua cha, biện hộ cho cuộc tình duyên vụng trộm của mình với Ghixcar, một thanh niên hào hoa phong nhã nhưng xuất thân gia đình thấp kém. Yêu chàng, nàng đã chọn lựa chàng (sau khi suy nghĩ chín chắn) và nàng khẳng định lý, về tài đức, có những người dân thường mà nhân phẩm cao hơn những bậc công hầu. Mười Ngày chứng minh điều ấy và đề cao đạo lý mới của thị dân tư sản đặc biệt là thương nhân. Boccaccio ca ngợi đầu óc thực tế, trí thông minh, tài khéo léo, ý muốn thành công, tính thích phiêu lưu. Không quay lưng vào cuộc sống trần gian với những thú vui của nó, phải chấp nhận cuộc đời cái may và cái rủi, sẵn sàng tìm cách thắng cái rủi ro của số phận. Hạnh phúc là tương đối. Phải biết hạn chế ước vọng, không đòi hỏi tuyệt đối. Tình yêu là sợi chỉ xuyên suốt phần lớn các truyện trong Mười Ngày. Đó là cả một vũ trụ muôn màu sắc, từ tình yêu trong trắng đến tình yêu nặng về xác thịt, từ tình yêu hồn nhiên đến tình yêu phức tạp, từ gian díu đến đá vàng, từ tình yêu tế nhị đến tình yêu tàn bạo. Yêu thương, ghét giận, ghen tuông, nhớ nhung, hơn dỗi, oán thù... tất cả các âm hưởng của tình yêu đều được diễn tả. Phụ nữ là đối tượng của Mười Ngày, như Boccaccio tuyên bố trong phần mở đầu, vì họ cần được an ủi, được tiêu khiển. Họ không được hưởng như nam giới thú vui thành công trong sự nghiệp, không được tự do, không được đi du lịch, không được săn bắn, không được phiêu lưu, không được buôn bán. Họ sống bên lề một xã hội do nam giới quản lý. Họ chỉ còn biết trông vào tình yêu, và Boccaccio đòi cho họ được quyền được tìm hạnh phúc vượt ra khỏi những cấm đoán của xã hội cũ, như cô con gái một thầy lang chiếm được trái tim một hiệp sĩ trong truyện Lấy Lại Được Chồng (Ngày thứ ba). Giai cấp thị dân tư sản không muốn sống một cuộc đời khổ hạnh theo quan niệm đạo gia tô thời Trung cổ. Truyện dân gian của thị dân Trung cổ đã chế giễu tính giả đạo đức của các người tu hành. Mười Ngày cũng có nhiều truyện đả kích rất mạnh nhà thờ. Nhà thương nhân Do Thái Abraham đến tòa thánh La Mã để được nhìn tận mắt đời sống của Giáo Hoàng, các hồng y giáo chủ, và các tu sĩ khác. Từ người lớn nhất đến người nhỏ nhất, tất cả, toàn thể bọn họ đều phạm vào tội nhục dục hết sức vô sỉ... ông nhận thấy tất cả bọn họ đều có tính phàm ăn, nát rượu, say sưa chè chén... họ biển lận, hám tiền... (Trường học La Mã, Ngày thứ nhất ). Phong phú về nội dung. Mười Ngày có giá trị cao về nghệ thuật. Được viết bằng tiếng Ý, nó góp phần xây dựng văn học Thời Phục hưng Ý. Một yêu cầu của trào lưu phục hưng văn nghệ ở châu Âu là tạo lên một nền văn học dân tộc viết bằng ngôn ngữ dân tộc, với những tác phẩm mà tiêu chuẩn nghệ thuật và nhân văn theo mẫu và vươn tới tầm những tác phẩm cổ điển Hy Lạp - La Mã. Tiếng Ý là kết quả quá trình phát triển tự nhiên của tiếng La Tinh cổ điển. Đến thế kỷ X, nó mới được công nhận là một ngôn ngữ thật sự, tuy vẫn bị coi là một thổ ngữ. Trong mấy trăm năm, các nhà văn Ý ngưỡng mộ văn học cổ La Mã vẫn viết bằng tiếng La Tinh là chủ yếu. Mãi tới Đantê Pêt'raca và Boccaccio, tiếng Ý mới được rèn đúc thành một ngôn ngữ văn học và mở đầu văn học Ý nói chung. Tiếng Ý được Boccaccio sử dụng nhuần nhuyễn trong Mười Ngày kể những truyền nhiều màu sắc, khi thì châm biếm, giễu cợt, khi thì hiện thực trắng trợn, thô lỗ, khi thì tình cảm thanh cao. Bi xen lẫn hài, hiện thực xen lẫn với mộng ảo, quái dị, nhưng mộng ảo, quái dị chỉ đóng vai trò phụ, cái chính vẫn là hiện thực. Thực là một bức tranh sống động về xã hội Ý thế kỷ XIV tới hàng nghìn nhân vật thuộc đủ các tầng lớp xã hội (thương nhân, quý tộc thầy tu, thầy lang, thợ thủ công, nông dân trí thức... ), nam có, nữ có, trẻ có, già có. Cốt truyện mượn của kho tàng truyện cổ dân gian phương Đông, Thời Trung cổ, Thời Thượng cổ, truyện đương thời. Do tài kể chuyện của mình Boccaccio biến chất liệu không có gì đặc biệt ấy thành tác phẩm hiện thực, so với những truyện đương thời, ông không mắc ý đồ giáo huấn, thói quen sử dụng phỏng dụ, câu chuyện được xây dựng vững chắc, dẫn dắt và cởi mở tài tình duyên dáng, khiến người đọc luôn hồi hộp. Mười Ngày được coi là "Tấn Tuồng Đời" đầu tiên trong văn học châu Âu và được nhiều nhà văn thế kỷ sau bắt chước. Boccaccio có công xây dựng văn xuôi và văn học Ý, mở đầu truyền thống truyện ngắn hiện thực ở châu Âu. Tác phẩm lớn của ông phản ánh những tư tưởng tiến bộ Thời Phục hưng và được dịch sang hàng chục thứ tiếng trên thế giới. Nó thuộc vào kho tàng văn hóa chung của nhân loại. HỮU NGỌC Hà nội 2-9-1982 Mời các bạn đón đọc Mười Ngày của tác giả Giovanni Boccaccio.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chú Chó Nhìn Thấy Gì? - Lật Tẩy Những Góc Khuất Trong Cuộc Sống Xã Hội
Tóm tắt & Review (Đánh giá) sách Chú Chó Nhìn Thấy Gì? - Lật Tẩy Những Góc Khuất Trong Cuộc Sống Xã Hội của tác giả  Malcolm Gladwell.: Có cùng cấu trúc và giọng văn cân nhắc chỉn chu, song bạn sẽ thấy 19 bài viết trong cuốn sách Chú Chó Nhìn Thấy Gì đề cập đến những khía cạnh hoàn toàn khác nhau của cuộc sống từ việc: "Mù tạt giờ đây xuất hiện với cả tá chủng loại. Vì đây ketchup vẫn nguyên xi y dạng?" "Những điều về sức khỏe phụ nữ mà cha đẻ của thuốc ngừa thai không hề biết" "Cuộc sống của một người có đáng bị hủy hoại chỉ vì lời buộc tội đạo văn?"... Mỗi bài viết điều có khả năng thu hút bạn, khiến bạn phải ngẫm nghĩ, hay đem lại cho bạn ý niệm lờ mờ nào đó về trí não của kẻ khác". Malcolm Gladwell cho rằng, chúng ta nghĩ thế nào không phải là vấn đề chủ yếu. Cái hấp dẫn đó là cách chúng ta nhìn các sự kiện, sự việc thế nào, qua con mắt của người khác, từ trong đầu của một ai đó khác. Chú chó nhìn thấy gì là tổng hợp những bài viết mà Malcolm Gladwell tâm đắc nhất trong tờ The New Yorker, nơi ông đã là một cây viết từ năm 1996. Cuốn sách chia làm ba phần: Phần thứ nhất: viết về những kẻ bị ám ảnh và những người mà Gladwell vẫn ưa gọi là các thiên tài ẩn thân, như Ron Popeil – người đã rao bán chiếc máy Chop -O- Matic; Shirley Polykoff – người hỏi một câu trứ danh “Là nàng hay không phải là nàng? Chỉ có thợ làm tóc của nàng mới đoan chắc”. Phần thứ hai được dành toàn bộ cho những học thuyết, những cách thức tổ chức kinh nghiệm. Chúng ta nên suy nghĩ ra sao về những người vô gia cư hay những scandal tài chính hay những thảm họa như vụ nổ tàu Challenger? Phần thứ ba suy ngẫm về cách phán đoán của chúng ta về người khác. Làm cách nào chúng ta biết được liệu ai đó xấu xa, lanh lẹ hay rất giỏi làm việc gì đó? Xuất bản lần đầu tiên vào ngày 20/10/2009, rất nhanh chóng, Chú chó nhìn thấy gì ngay lập tức trở thành cuốn sách hay nhất, ăn khách nhất ở Mỹ về cả ba chủ đề: báo chí, tiểu luận và tâm lý học lâm sàng. Cuốn sách đưa Malcolm Gladwell trở thành một trong những người khám phá nổi bật nhất về những điều kỳ lạ ẩn giấu trong cuộc sống xã hội. *** TÁC GIẢ: MALCOLM GLADWELL Malcolm Gladwell sinh năm 1963 ở Anh, tốt nghiệp khoa sử Đại học Toronto – Canada. Từ 1987-1996 làm phóng viên thể thao và kinh tế, trưởng chi nhánh New York cho tờ Washington Post. Từ năm 1996 là phóng viên chính thức của Tạp chí The New Yorker. Từ những kỹ năng có được của một nhà báo xuất sắc, Malcolm Gladwell đã trở thành một trong những tác giả hàng đầu về đề tài khoa học xã hội với rất nhiều cuốn best-seller trên toàn thế giới. Sách và bài viết của Gladwell thường tiếp cận và giải quyết vào những mối liên hệ đầy bất ngờ, ẩn sau những sự việc trong xã hội và các nghiên cứu khoa học xã hội. Ông cũng thường xuyên đào sâu, mở rộng ý nghĩa, ứng dụng của các nghiên cứu lí thuyết, học thuật, đặc biệt là trong lĩnh vực xã hội học, tâm lý học, và tâm lý học xã hội. Gladwell được trao cho Huân chương Canada - Huân chương cao quý thứ hai của Canada vào ngày 30 tháng 6 năm 2011. *** Tóm tắt Chú chó nhìn thấy gì là một tập hợp 19 bài viết của tác giả Malcolm Gladwell, được xuất bản lần đầu tiên vào năm 2009. Các bài viết trong cuốn sách đề cập đến nhiều chủ đề khác nhau trong cuộc sống xã hội, từ kinh doanh, khoa học, đến tâm lý học. Review Malcolm Gladwell là một nhà báo và tác giả nổi tiếng với phong cách viết hấp dẫn và khả năng khám phá những điều thú vị ẩn giấu trong cuộc sống. Trong Chú chó nhìn thấy gì, Gladwell đã thể hiện xuất sắc những điểm mạnh này của mình. Các bài viết trong cuốn sách được viết một cách lôi cuốn và hấp dẫn, với những dẫn chứng và phân tích sắc sảo. Gladwell đã sử dụng những câu chuyện và nghiên cứu thực tế để giúp người đọc hiểu rõ hơn về những chủ đề mà ông đề cập. Một số bài viết nổi bật trong cuốn sách bao gồm: "Mù tạt giờ đây xuất hiện với cả tá chủng loại. Vì đây ketchup vẫn nguyên xi y dạng?" - Bài viết này tìm hiểu về sự phát triển của ngành công nghiệp mù tạt và lý do tại sao ketchup vẫn giữ nguyên hình thức ban đầu. "Những điều về sức khỏe phụ nữ mà cha đẻ của thuốc ngừa thai không hề biết" - Bài viết này kể về câu chuyện của nhà khoa học Gregory Pincus, người đã phát minh ra thuốc ngừa thai. Gladwell cho thấy rằng Pincus đã bỏ qua một số yếu tố quan trọng về sức khỏe phụ nữ khi phát triển thuốc ngừa thai. "Cuộc sống của một người có đáng bị hủy hoại chỉ vì lời buộc tội đạo văn?" - Bài viết này tìm hiểu về vụ kiện đạo văn của nhà khoa học Lawrence Summers. Gladwell cho thấy rằng Summers đã bị đối xử bất công trong vụ kiện này. Đánh giá Chú chó nhìn thấy gì là một cuốn sách hấp dẫn và bổ ích. Cuốn sách cung cấp cho người đọc những góc nhìn mới mẻ về thế giới xung quanh. Điểm cộng: Phong cách viết hấp dẫn và lôi cuốn Các bài viết được viết một cách chi tiết và đầy đủ thông tin Cung cấp cho người đọc những góc nhìn mới mẻ về thế giới xung quanh Điểm trừ: Một số bài viết có thể hơi dài dòng Kết luận Chú chó nhìn thấy gì là một cuốn sách đáng đọc dành cho những ai quan tâm đến thế giới xung quanh. *** Khi còn là một đứa trẻ, tôi vẫn thường lẻn vào phòng làm việc của cha và “nghía” qua những giấy tờ bày trên bàn ông. Cha là một nhà toán học. Cha viết trên giấy kẻ ô những hàng dài gọn ghẽ đầy con số và ký hiệu bằng bút chì. Tôi ngồi vắt vẻo bên rìa ghế của cha và nhìn vào mỗi trang giấy với vẻ ngỡ ngàng và kinh ngạc. Thật thần bí làm sao, trước hết là bởi  − cha được trả tiền cho những thứ mà vào lúc bấy giờ có vẻ như chỉ là một đống lộn xộn không hơn. Nhưng quan trọng hơn, tôi không tài nào thoát ra khỏi thực tế là con người mình luôn yêu thương thắm thiết nhường kia lại đang tỉ mẩn làm việc gì đó hàng ngày, ngay bên trong đầu óc của ông, mà tôi vẫn chưa thể hiểu được. Đây thực ra là một phiên bản của những điều mà về sau tôi mới biết được, một điều mà các nhà tâm lý học vẫn gọi là vấn đề trí não của kẻ khác. Những đứa trẻ mới tròn một tuổi ngỡ rằng nếu chúng mê bánh snack Cá vàng, thế thì ắt hẳn cả cha yêu lẫn mẹ yêu cũng đều ưa bánh Cá vàng hết cả. Bọn nhóc chưa thể thấu triệt được rằng những gì có trong đầu óc chúng không giống như những gì tồn tại trong trí não của tất cả những người khác. Chẳng chóng thì chầy, bọn trẻ cũng sẽ bắt đầu hiểu ra rằng cha mẹ không nhất thiết phải yêu thích bánh Cá vàng như chúng, và khoảnh khắc ấy chính là một trong những dấu mốc nhận thức vĩ đại nhất trong quá trình phát triển của nhân loại. Vậy vì đâu một đứa trẻ hai tuổi lại gây nhiều nỗi kinh hoàng đến thế? Là bởi chúng đang kiểm nghiệm một cách có hệ thống một nhận thức thú vị và mới lạ, rằng thứ gì đó mang lại niềm vui thích cho chúng có thể lại chẳng khiến người khác vui thích. Ngay cả khi đã phổng phao khôn lớn, chúng ta cũng không bao giờ đánh mất suy nghĩ hay ho đó. Khi gặp một người làm nghề bác sĩ ở một cuộc hội họp đông đảo, điều đầu tiên chúng ta muốn biết là gì? Không phải là “Anh làm công việc gì ấy nhỉ?” Vì, chúng ta đều biết sơ sơ là bác sĩ thì làm gì rồi. Thay vào đó, chúng ta muốn biết được nếu từ sáng đến tối cứ ở riết bên cạnh những người ốm bệnh thì sẽ ra sao. Chúng ta muốn biết xem trở thành bác sĩ thì sẽ như thế nào, bởi chúng ta chắc như đinh đóng cột là điều đó chẳng hề giống với việc ngồi suốt ngày trước máy vi tính, giảng dạy ở trường học hoặc buôn bán ô tô. Những câu hỏi kiểu đó chẳng hề ngốc nghếch hay hiển nhiên chút nào. Sự hiếu kỳ về đời sống nội tại bên trong những công việc ngày-qua-ngày của người khác là một trong những điều căn bản nhất của những nguồn thúc đẩy con người, và cũng chính là nguyên cớ dẫn tới những ghi chép mà bạn đang cầm trên tay đây. Tất cả các phần trong cuốn Chú chó nhìn thấy gì đều được lấy từ tờ The New Yorker, tờ báo tôi đã cộng tác và viết bài từ năm 1996. Trong rất nhiều bài viết mà tôi đã chấp bút trong suốt thời gian đó, những phần này khiến tôi tâm đắc nhất. Tôi nhóm chúng lại thành ba phần. Phần thứ nhất nói về những kẻ bị ám ảnh và những người tôi vẫn ưa gọi là các thiên tài ”nhỏ lẻ” − không phải Einstein, Winston Churchill, Nelson Mandela hay những kiến trúc sư siêu quần bạt chúng của thế giới, mà là những nhân vật như Ron Popeil, người đã rao bán chiếc Chop-O-Matic, và Shirley Polykoff, người đã đặt một câu hỏi trứ danh: “Liệu nàng có nhuộm hay là không? Chỉ thợ làm tóc của nàng biết được.”. Toàn bộ phần thứ hai được dành cho những học thuyết, những cách thức tổ chức kinh nghiệm. Chúng ta nên suy nghĩ thế nào về những người vô gia cư, những xì-căng-đan tài chính hoặc những thảm họa như vụ nổ tàu Challenger? Phần thứ ba lại dành để suy ngẫm về những tiên đoán của chúng ta về người khác. Làm cách nào chúng ta biết được liệu ai đó xấu xa, lanh lẹ hay rất giỏi làm việc gì đó? Như bạn sẽ thấy, tôi nghi ngờ về việc chúng ta có thể đưa ra mỗi đánh giá kiểu này chính xác tới độ nào. Và vượt trên tất thảy những điều nhỏ lẻ này, việc chúng ta nghĩ thế nào không phải là vấn đề chủ yếu. Thay vào đó, tôi thấy hứng thú hơn với việc miêu tả những suy ngẫm của một ai đó về người vô gia cư hay tương cà  hay các xì-căng-đan tài chính. Tôi không biết phải rút ra kết luận gì về vụ nổ tàu Challenger. Với tôi, đó chỉ là một đám lộn xộn tạp nham − những cột số má cùng ký hiệu không thể lý giải nổi được in gọn ghẽ trên giấy kẻ ô. Nhưng nếu chúng ta nhìn vào những vấn đề ấy qua con mắt của ai đó, từ trong đầu của một người khác thì sao nhỉ? Ví như, bạn sẽ tình cờ đọc đến một bài viết mà trong đó tôi cố gắng nhận ra sự khác biệt giữa “đờ người” và “hoảng loạn”. Bài báo đó được khơi gợi từ vụ nổ máy bay chết người của John F. Kennedy hồi tháng bảy năm 1999. Anh là một phi công thiếu kinh nghiệm trong điều kiện thời tiết xấu, người đã “mất định hướng không gian” (như các phi công vẫn thường hay nói) và bổ nhào xuống theo đường xoáy trôn ốc. Để hiểu được những gì anh đã trải qua, tôi nhờ một viên phi công đưa tôi lên cao bằng chiếc phi cơ tương tự như chiếc Kennedy đã bay, trong cùng điều kiện thời tiết như vậy và bảo anh ta bổ nhào theo hình xoáy trôn ốc. Đó không phải một mánh lới khuếch khoác. Mà là đòi hỏi bức thiết. Tôi muốn hiểu được tai nạn máy bay kiểu đó sẽ như thế nào, bởi nếu bạn muốn lý giải được vụ nổ đó, thì chỉ đơn giản biết Kennedy đã làm gì là chưa đủ. Bài viết “Vấn đề hình ảnh” đề cập đến việc làm thế nào để hiểu được những hình ảnh từ vệ tinh, ví như những bức ảnh mà nội các của Bush nghĩ là họ có được về vũ khí hủy diệt hàng loạt của Saddam Hussein. Tôi bắt tay vào chủ đề đó vì đã dành cả buổi chiều cùng một bác sĩ X-quang quan sát những phim nhũ ảnh, và ngay giữa lúc đó − hoàn toàn bất ngờ − ông bỗng nói rằng ông tưởng tượng những vấn đề mà những người như ông gặp phải khi đọc phim X-quang chụp vú hẳn rất giống với những vấn đề mà nhân viên Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) vấp phải khi xem các bức ảnh chụp từ vệ tinh. Tôi muốn biết điều gì đã diễn ra trong đầu ông bác sĩ, còn ông thì lại hiếu kỳ rằng điều gì diễn ra trong trí não của các đặc vụ CIA. Tôi vẫn nhớ, vào khoảnh khắc ấy, tôi đã cảm thấy choáng váng vô cùng. Sau đó, có hẳn một bài viết mà tựa đề được lấy làm tên cho cuốn sách này. Đó là bài viết về tiểu sử sơ lược của Cesar Millan − một nhân vật được mệnh danh là người thuần hóa khuyển. Millan có thể xoa dịu những con vật cuồng nộ và hung hăng nhất chỉ bằng những cái ve vuốt của bàn tay. Điều gì diễn ra trong đầu Cesar khi anh làm việc đó? Đó chính là thứ khơi gợi cảm hứng cho tôi viết bài báo này. Nhưng sau khi tôi đã thực hiện được một nửa bài viết, tôi nhận ra có một câu hỏi thậm chí còn hay hơn: Khi Millan trình diễn ngón phép thuật của mình, điều gì xảy ra trong trí não của chính con chó? Đó là điều chúng ta thực sự muốn biết − con chó đã thấy gì? Mời các bạn mượn đọc sách Chú Chó Nhìn Thấy Gì? - Lật Tẩy Những Góc Khuất Trong Cuộc Sống Xã Hội của tác giả  Malcolm Gladwell.
Lời Hứa Lúc Bình Minh
Tóm tắt & Review (Đánh giá) sách Lời Hứa Lúc Bình Minh của tác giả Romain Gary & Nguyễn Duy Bình (dịch): Lời hứa lúc bình minh là câu chuyện dài kể về tuổi thơ và phần lớn cuộc đời của Romain Gary, về sự kết hợp uyển chuyển giữa sự kiện với chất văn, để cuối cùng đúc kết một sự thật “tình mẫu tử ngọt ngào chính là thiên đường vỗ về nỗi bất hạnh của thân phận con người, là bến đỗ cho bất kỳ ai mệt mỏi muốn dừng chân“...  Lời hứa lúc bình minh như một khúc ca tôn vinh tình mẫu tử thiêng liêng mà Romain Gary dành cho mẹ của mình, một cựu diễn viên Do Thái, người luôn mang trong lòng tình yêu và niềm ngưỡng mộ không lý giải nổi đối với nước Pháp. Dù đã rời xa vòng tay mẹ, dù mẹ nay đã không còn nhưng sự bao la dạt dào của tình cảm người mẹ dành cho con trai và những gì bà sẵn sàng làm cho con vẫn còn đọng mãi. Khi tình yêu quá trọn vẹn và niềm tin không gì lay chuyển gắn chặt với buổi bình minh của cuộc đời, về sau người ta không thể không hoài công tìm kiếm nó trong những mối tình khác, những niềm tin khác... Người mẹ đã gieo vào lòng đứa con cảm nhận đầu tiên về cái tuyệt đối, để về sau cậu mãi mãi đi tìm những điều tuyệt đối để đền đáp lại… *** Romain Gary đã sống một cuộc đời đầy sôi động và vinh quang, đoạt hai giải Goncourt, có hai cuộc hôn nhân với hai người đàn bà nổi tiếng, nhưng người ảnh hưởng sâu đậm nhất đối với ông là người mẹ với tình yêu vô điều kiện và niềm tin kỳ lạ của bà. Lời hứa lúc bình minh cho thấy điều đó. Lời hứa lúc bình minh được coi là một tác phẩm giả tự truyện, trong đó hư cấu và hiện thực không thể tách rời. Những dữ kiện chính về cuộc đời và đặc biệt là thời thơ ấu của Romain Gary đều có thật, đồng thời cả hai mẹ con được biến thành hai nhân vật tiểu thuyết. Trong đó, cậu con trai là nhân vật chính trong cuộc phiêu lưu đầy đam mê của người mẹ với những hồi ức vừa hài hước, vừa tràn đầy chua xót và kiêu hãnh. Điều mà người con trai nhớ rất rõ về thời thơ ấu là mặc dù luôn luôn nghèo, cậu chưa bao giờ phải thiếu thốn điều gì. Người mẹ, một diễn viên kịch hết thời, thường áp dụng những phương cách kiếm sống hiếm ai nghĩ tới. Mở nhà may mũ, bà bắt đầu bằng cách quảng cáo "để mua vui, cựu giám đốc một nhà may mặc lớn ở Paris nhận may mũ tại gia cho một số khách hàng có hạn chế và có chọn lọc". Đó là một lời quảng cáo lừa bịp, nhưng bà đã thực hiện nó một cách hăng say đến mức có thể tưởng tượng đó là sự thật. Cuộc sống khó khăn đến đâu bà cũng thích nghi được, bởi trí tưởng tượng không bao giờ vơi cạn. Người con trai là niềm tin huy hoàng nhất của mẹ. Thất bại trong việc tìm kiếm ở cậu con các loại tài năng nghệ thuật, cuối cùng họ quyết định: cậu sẽ trở thành nhà văn lớn. Đối với người mẹ, con trai bà chỉ có thể thành công, nếu thế giới không nhận thấy điều đó thì có nghĩa là cả thế giới đã sai. Lời hứa lúc bình minh có thể là bài ca tôn vinh tình mẫu tử, nhưng ẩn sâu trong đó vẫn có thể thấy sự hoài nghi và nuối tiếc. Tình cờ Romain Gary có tài năng văn học lớn, nhưng liệu ông có thành công như thế nếu không có niềm tin của người mẹ? Khi tình yêu quá trọn vẹn và niềm tin không gì lay chuyển gắn chặt với buổi bình minh của cuộc đời, về sau người ta không thể không hoài công tìm kiếm nó trong những mối tình khác, những niềm tin khác... Người mẹ đã gieo vào lòng đứa con cảm nhận đầu tiên về cái tuyệt đối, để về sau cậu mãi mãi đi tìm những điều tuyệt đối để đền đáp lại. Romain Gary đã hồi tưởng về niềm say mê trò tung hứng của mình: "Đó là phương tiện diễn đạt nghệ thuật có ý thức đầu tiên của tôi, linh cảm đầu tiên của tôi về một sự hoàn hảo có thể có và tôi hăng hái lao vào". Một bậc thầy ảo thuật vĩ đại có thể tung hứng được tám quả bóng nhưng không bao giờ đạt đến chín quả. Cậu bé Romain mãi mãi chỉ tung hứng được năm quả bóng. Cậu tập luyện điên cuồng đến hết mức để cuối cùng nhận ra rằng: không có quả bóng thứ sáu. "Bi kịch thật sự của Faust không phải là ông ta đã bán linh hồn cho quỷ dữ. Mà bi kịch thật sự là không có quỷ dữ để có thể mua linh hồn của bạn. Không có người mua. Chẳng ai đến giúp bạn bắt được quả bóng cuối cùng dù bạn ra giá thế nào". Mỗi người có giới hạn của mình... Không hề nhẹ nhàng khi phải sống với quá nhiều ước mơ của người khác. Rốt cuộc, Romain Gary đã kết liễu cuộc đời bằng một viên đạn súng lục. Ông có thật sự hạnh phúc với những vinh quang của mình không? Hay là, trong một giấc mơ nào đó, ông đã thầm ước mình không phải là người nhận được lời hứa huy hoàng vào lúc bình minh... Chỉ đơn giản là một cuộc sống khác, một khả năng khác mà trong đó cái tuyệt đối không được biểu hiện bằng tình yêu của người mẹ. Minh Phước (Nguồn: Báo Tuổi trẻ) *** Tóm tắt Lời hứa lúc bình minh là câu chuyện về tuổi thơ và phần lớn cuộc đời của Romain Gary, một nhà văn người Pháp gốc Do Thái. Câu chuyện kể về tình yêu vô điều kiện và niềm tin kỳ lạ của người mẹ đối với con trai. Review Lời hứa lúc bình minh là một tác phẩm giả tự truyện, trong đó hư cấu và hiện thực không thể tách rời. Những dữ kiện chính về cuộc đời và đặc biệt là thời thơ ấu của Romain Gary đều có thật, đồng thời cả hai mẹ con được biến thành hai nhân vật tiểu thuyết. Câu chuyện bắt đầu với lời hứa của người mẹ với con trai: "Con sẽ trở thành nhà văn lớn nhất thế giới". Người mẹ là một người phụ nữ đầy tham vọng và quyết tâm, bà luôn tin tưởng vào con trai và sẵn sàng làm mọi thứ để giúp cậu thành công. Dưới sự nuôi dạy của người mẹ, Romain Gary đã có một tuổi thơ đầy tự tin và lạc quan. Mặc dù cuộc sống của gia đình rất nghèo khó, nhưng cậu bé chưa bao giờ phải thiếu thốn tình yêu thương và sự chăm sóc. Khi lớn lên, Romain Gary đã trở thành một nhà văn thành công. Ông đã giành được giải thưởng Goncourt danh giá hai lần, một lần với cuốn tiểu thuyết đầu tay "Tiếng khóc của sói" và một lần với cuốn tiểu thuyết "The Ski Bum". Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, Romain Gary cũng phải đối mặt với những áp lực và căng thẳng lớn. Ông luôn cảm thấy mình phải sống theo sự kỳ vọng của người mẹ, và điều này đã khiến ông cảm thấy mệt mỏi và bất an. Cuối cùng, Romain Gary đã tự sát ở tuổi 66. Cái chết của ông là một bi kịch, nhưng nó cũng là một lời nhắc nhở về sức mạnh của tình mẫu tử. Đánh giá Lời hứa lúc bình minh là một tác phẩm xuất sắc, với lối viết chân thực và cảm động. Tác phẩm đã khắc họa thành công tình mẫu tử thiêng liêng và những tác động của nó đến cuộc đời của một con người. Điểm cộng: Lối viết chân thực và cảm động Khắc họa thành công tình mẫu tử thiêng liêng Đề cập đến những vấn đề sâu sắc về bản chất của con người Điểm trừ: Có một số đoạn hơi lê thê và thiếu hấp dẫn Kết luận: Lời hứa lúc bình minh là một tác phẩm đáng đọc cho những ai yêu thích văn học và muốn tìm hiểu về tình mẫu tử. Mời các bạn mượn đọc sách Lời Hứa Lúc Bình Minh của tác giả Romain Gary & Nguyễn Duy Bình (dịch).
Mộng Đổi Đời
Tóm tắt, Review và Đánh giá sách Mộng Đổi Đời của tác giả Đông Tây & Nguyên Trần (dịch): Khát vọng đổi đời như một hạt giống được gieo mầm, truyền từ đời này sang đời khác. Đôi khi hạt giống nơi đất cằn cũng tự phát triển mập mạp, nhưng phần lớn nhanh chóng bị èo uột giữa chừng bởi những điều kiện khách quan. Vấn đề là cần tìm cho nó một mảnh đất tốt để gửi gắm. Uông Trường Xích thi đại học dư hơn 20 điểm chuẩn nhưng không được tuyển đỗ khiến Uông Hòe cha anh rất bất bình. Với mong muốn giúp con thoát khỏi kiếp nông dân nghèo giống mình, Uông Hòe quyết tâm đòi công lý cho con với kết quả… bị tàn phế phải ngồi xe lăn suốt đời. Uông Trường Xích bất đắc dĩ phải ôm giấc mộng đổi đời mà bố truyền lại, lên thành phố lăn lộn kiếm sống. Cuộc sống thành thị tàn nhẫn đã rút hết hơi sức của anh, khiến anh mất vợ, mất con, mất bạn bè, mất cả niềm tin vào công lý và con người. Để hoàn thành tâm nguyện của người cha, và để Uông Đại Chí-đứa cháu độc nhất của dòng họ Uông không đi lại con đường mòn như cha ông nó đã từng đi, Uông Trường Xích bất đắc dĩ phải đưa ra một quyết định đắt giá… *** Tác giả: Đông Tây, tên thật là Điền Đại Lâm, sinh năm 1966 tại Quảng Tây. Là nhà văn-nhà biên kịch đương đại nổi tiếng Trung Quốc. Hiện là Phó chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học tỉnh Quảng Tây khóa 8. Hội viên Hội nhà văn Trung Quốc. Giảng dạy tại Trường Đại học dân tộc Quảng Tây. Các giải thưởng: Giải văn học Lỗ Tấn lần thứ 1 (tiểu thuyết Cuộc sống không có ngôn ngữ). Bộ phim Người tình trên trời được cải biên từ tiểu thuyết của ông đã đoạt giải Cống hiến nghệ thuật xuất sắc nhất tại LHPQT Tokyo lần thứ 15 (10/2002). Các tác phẩm chính: Mộng đổi đời, Hối hận, Vành tai sáng loáng, Cuộc sống không có ngôn ngữ, Bố chúng tôi, Bạn không biết cô ấy đẹp, Cứu mạng, Tại sao tôi không có Tiểu Mật, Trận đấu đau đớn, Tuyển tập Đông Tây… Là nhà văn đại biểu cho “thế hệ tân sinh”. Nhiều tiểu thuyết của ông đã được dựng thành phim truyền hình và được dịch ra nhiều ngôn ngữ như: Thái, Việt Nam, Hy Lạp, Hàn, Nhật, Đức, Pháp… Mộng đổi đời đã lần lượt đoạt giải Tiểu thuyết gia 2005 của Giải truyền thông Hoa ngữ lần thứ 4 bình chọn, giải Sách hay thể loại văn hóa văn nghệ năm 2005 do thời báo Tin tức Bắc Kinh (Beijing News) bình chọn. Mộng đổi đời đã được chuyển thể thành phim truyền hình 44 tập mang tên Yêu con trọn đời, phát sóng trên giờ vàng Đài truyền hình Hồ Bắc (Trung Quốc). “Đọc xong Mộng đổi đời, tôi muốn tìm một từ nào đó để nói rõ cảm nhận đối với ngôn ngữ trong sách nhưng phát hiện thấy không hề dễ. Nói nó là ngôn ngữ cuộc sống nhưng cũng không thiếu cách diễn đạt ngôn ngữ sách vở. Nói nó là ngôn ngữ sách vở thì lại thiếu hụt những quy định về ngôn ngữ sách vở. Tôi nhớ đến tiếng lách tách khi dẫm lên vỏ hạt dưa trong rạp chiếu phim ở Đông Hưng 20 năm về trước. Lách tách, chính là nó. Đông Tây đã dùng cách này để miêu tả thật sinh động việc áp bức và phản kháng, cũng như những mặt xấu và cái đẹp.” -Nhà văn Dư Hoa (tác giả các tác phẩm Phải sống, Huynh đệ…) *** Tóm tắt: Uông Trường Xích là một thanh niên nông dân nghèo, thi đại học dư hơn 20 điểm chuẩn nhưng không được tuyển đỗ. Cha anh, Uông Hòe, quyết tâm đòi công lý cho con nhưng đã bị tàn phế. Uông Trường Xích bất đắc dĩ phải lên thành phố tìm kiếm cơ hội đổi đời. Cuộc sống thành thị tàn nhẫn đã vùi dập Uông Trường Xích. Anh mất vợ, mất con, mất bạn bè, mất cả niềm tin vào công lý và con người. Để hoàn thành tâm nguyện của cha, và để Uông Đại Chí, đứa cháu độc nhất của dòng họ Uông, không đi lại con đường mòn như cha ông nó đã từng đi, Uông Trường Xích bất đắc dĩ phải đưa ra một quyết định đắt giá. Review: Mộng đổi đời là một cuốn tiểu thuyết hiện thực xã hội của tác giả Đông Tây. Cuốn sách đã giành được nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có giải Tiểu thuyết gia 2005 của Giải truyền thông Hoa ngữ lần thứ 4 bình chọn, giải Sách hay thể loại văn hóa văn nghệ năm 2005 do thời báo Tin tức Bắc Kinh (Beijing News) bình chọn. Cuốn sách kể về câu chuyện của Uông Trường Xích, một thanh niên nông dân nghèo với khát vọng đổi đời. Chàng trai ấy đã phải trải qua nhiều khó khăn, thử thách để đạt được ước mơ của mình. Cốt truyện của Mộng đổi đời được xây dựng chặt chẽ, logic. Các nhân vật trong truyện được khắc họa sinh động, chân thực. Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất tinh tế và sâu sắc. Mộng đổi đời là một cuốn sách đáng đọc. Cuốn sách mang đến cho người đọc những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống, về con người, về khát vọng đổi đời. Đánh giá: Ưu điểm: Cốt truyện chặt chẽ, logic Nhân vật được khắc họa sinh động, chân thực Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất tinh tế và sâu sắc Nhược điểm: Một số tình tiết có phần hơi phi lý Kết luận: Mộng đổi đời là một cuốn tiểu thuyết hiện thực xã hội đáng đọc. Cuốn sách mang đến cho người đọc những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống, về con người, về khát vọng đổi đời.   Mời các bạn mượn đọc sách Mộng Đổi Đời của tác giả Đông Tây & Nguyên Trần (dịch).
Khác Biệt Hay Là Chết
Tóm tắt, Review và Đánh giá sách Khác Biệt Hay Là Chết của tác giả Steve Rivkin & Jack Trout & Phạm Thảo Nguyên (dịch): Trong Đế chế của sự chọn lựa và chọn lọc ngày nay, nếu bạn không phải là một Coca-Cola hay một Nike nào đó thì quả là khó để có thể giành lấy một chỗ đứng vững vàng trong tâm trí của người tiêu dùng. Và nếu bạn đã là một thương hiệu hàng đầu thì cũng không phải là dễ dàng để có thể bảo vệ được vị thế đó mãi mãi bền vững cho dù là bạn đã có được cái lợi thế hơn người đó. Nếu bảo bạn phải tìm ra một hạt nếp trong một rá gạo tẻ thì quả là không dễ, nhưng nếu bạn chỉ phải tìm ra một hạt lúa trong đó thì rõ ràng nhiệm vụ này dễ hơn nhiều. Nhưng dù sao việc tìm này cũng không phải là hoàn toàn đơn giản, bạn cũng cần đến kỹ năng để làm cho hạt lúa kia nổi lên bề mặt của những hạt gạo để bạn có thể nhận diện được nó. Để có thể giành được một chỗ đứng trong tâm trí của người tiêu dùng, thương hiệu của bạn cần phải là một hạt thóc chứ không phải là một hạt nếp trong rá gạo tẻ này. Đó là sự khác biệt mà bạn cần phải có. Để làm cho hạt thóc (hay viên ngọc ?) của bạn nổi lên trên bề mặt và được nhận biết lâu bền trong tâm trí của người tiêu dùng thì đó lại là nhiệm vụ của chúng tôi, những công ty quảng cáo và marketing. Tìm ra và làm nổi bật sự khác biệt đặc thù của bạn. Tôi tâm đắc mà giới thiệu với các bạn cuốn sách này, Differentiate or Die hay Khác Biệt hay là Chết. Nguyễn Nam Trung Chủ tịch Cty Quảng cáo StormEye *** Hầu như trong suốt một đời làm việc của chúng tôi, tôi và các đồng sự của tôi đều luôn rao truyền về tầm quan trọng của việc "là khác biệt". Trong cuốn Vị thế hoá (Positioning), là khác biệt có nghĩa là tự cá biệt hoá trong tâm trí của các đối tượng tiềm năng. Trong cuốn Chiến cuộc Marketing (Marketing Warfare), là khác biệt có nghĩa là dùng một tư tưởng cá biệt hoá để bảo vệ, để tiến công, để đánh bọc hậu hay để trở thành một du kích, một "Che". Trong cuốn 22 Quy luật Marketing bất biến (22 Immutable Laws of Marketing), là khác biệt có nghĩa là dùng một tư tưởng cá biệt hoá để xây dựng một thương hiệu. Trong cuốn Đơn giản là Hoàn hảo (The Power of Simplicity), là khác biệt có nghĩa là thiết lập một chiến lược cá biệt hoá. Là khác biệt hầu như luôn là trọng tâm của mọi việc mà chúng tôi đã làm trong suốt ba mươi năm vừa qua. Bạn có thể cho rằng lúc này, thông điệp về việc "là khác biệt" của chúng tôi đã được loan truyền rộng rãi. Hầu như mọi người, ai ai cũng đang bận rộn xây dựng sự khác biệt trong các kế hoạch của họ. Không một ai không góp mặt với đời với một ý tưởng khác biệt trong đầu của anh ta, ông ta hay cô ta, bà ta. Có đúng như vậy không ? Không hẳn như vậy. Định ý của chúng tôi khi viết cuốn sách này là xét đến hai loại tổ chức. Một loại chưa hề bao giờ để tâm đến chuyện là khác biệt. Họ vào cuộc, mở ra những trận chiến với những yếu tố cạnh tranh như "chất lượng cao," "giá trị tốt" hay một điều cũ kỹ vẫn luôn có vẻ hấp dẫn - "sản phẩm tốt hơn." Họ tin tưởng vào những lợi thế cạnh tranh mà họ tự đặt ra cho mình là hơn hẳn mọi đối thủ nhưng rồi chính những gì họ tin tưởng này lại chính là những gì nhanh chóng loại họ ra khỏi cuộc chơi. Họ tụ tập chung quanh họ với những "bậc thầy chuyên nghiệp," những người luôn miệng nói về chất lượng, về trao quyền, về việc định hướng vào khách hàng và vô vàn những hình thức lãnh đạo từ nghệ thuật đến phi nghệ thuật khác. Bất hạnh thay, mọi đối thủ của họ cũng được bao quanh bằng những "bậc thầy" tương tự. Không có gì là khác biệt. Một loại các tổ chức khác, là những tổ chức hiểu được nhu cầu của việc là khác biệt. Nhưng rồi sau một vài nỗ lực phải nói là không đáng kể, họ đành phải chấp nhận là họ không thể và không biết làm sao để có thể tự khác biệt hoá. Họ đành phải chấp nhận là sản phẩm cũng như cách thức bán hàng của họ quả là không khác biệt bao nhiêu với các đối thủ của họ. Họ đành phải nhắm đến những phương pháp kích hoạt mãi lực vẫn được tin tưởng và áp dụng rộng rãi. Đáng buồn thay, họ vẫn không thể tạo thành sự khác biệt họ muốn có với cùng những phương cách và nhân tố tương tự như mọi đối thủ chung quanh họ. Những tổ chức này cũng không gặt hái được bao nhiêu hỗ trợ từ những tên tuổi khoa bảng lớn. Ví dụ như Michael Porter của trường đại học Havard, người đã nói về nhu cầu của một Đề nghị Bán Độc quyền (USP, unique selling proposition) nhưng lại không thể nói chính xác là các công ty cần phải làm những gì để đạt được cái Đề nghị Bán Độc quyền này. Ông Porter thực sự chỉ nói đến những gì bên lề như tính liên tiến chiến lược, vị thế chiến lược, thương mại chiến lược và còn nhiều nữa cho tất cả những ai có thể trả chi phí cho những điều mà ông nói. Vẫn không có gì là khác biệt. Sự hỗ trợ từ các công ty quảng cáo cũng không đem lại cho họ điều gì tốt hơn. Họ nói và nghe về những gì như tính dễ thương, tính đột phá v.v… Đối với họ những thứ này có vẻ nghệ thuật hơn là kỹ thuật. Vẫn không có gì là khác biệt ở đây. Cuốn sách này được viết ra là để thay đổi tất cả những quan điểm được nói đến ở trên. Nó vạch ra nhiều cách để bạn có thể tự mình là khác biệt và tránh khỏi sự cám dỗ của những gì có vẻ là khác biệt nhưng thực sự lại tương đồng. Với cuốn sách này trong tay, các bạn sẽ ở trong một vị thế tốt hơn để phát triển vững vàng hơn trong môt thế giới đầy cạnh tranh, không hề khoan nhượng. Đây là một cuốn sách có thể tạo ra sự khác biệt cho công cuộc kinh doanh của bạn. *** Tóm tắt: Cuốn sách "Khác Biệt Hay Là Chết" của Jack Trout và Steve Rivkin cho rằng trong một thị trường cạnh tranh gay gắt, chỉ những thương hiệu khác biệt mới có thể tồn tại và thành công. Sự khác biệt có thể đến từ sản phẩm, dịch vụ, giá cả, hình ảnh thương hiệu, hoặc bất kỳ yếu tố nào khác khiến thương hiệu trở nên nổi bật và thu hút sự chú ý của khách hàng. Review: Cuốn sách được chia thành 10 chương, mỗi chương đề cập đến một khía cạnh khác nhau của sự khác biệt. Trong chương đầu tiên, các tác giả giải thích rằng sự khác biệt là chìa khóa để thành công trong thị trường cạnh tranh ngày nay. Họ lập luận rằng các thương hiệu không thể dựa vào giá cả hoặc phân phối để cạnh tranh, mà cần phải tìm ra một điểm khác biệt độc đáo để thu hút khách hàng. Các chương tiếp theo cung cấp các nguyên tắc và chiến lược cụ thể để tạo ra sự khác biệt. Các tác giả đề xuất rằng các thương hiệu nên tập trung vào những gì họ có thể làm tốt nhất, và tránh cạnh tranh trực tiếp với các đối thủ. Họ cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng một thương hiệu mạnh mẽ và có tính liên kết với khách hàng. Đánh giá: "Khác Biệt Hay Là Chết" là một cuốn sách kinh doanh quan trọng dành cho các doanh nghiệp ở mọi quy mô. Cuốn sách cung cấp một cái nhìn sâu sắc về tầm quan trọng của sự khác biệt trong thị trường cạnh tranh. Dưới đây là một số điểm nổi bật của cuốn sách: Cuốn sách cung cấp một cái nhìn toàn diện về sự khác biệt, từ lý thuyết đến thực hành. Các tác giả đưa ra các nguyên tắc và chiến lược cụ thể để tạo ra sự khác biệt. Cuốn sách được viết một cách súc tích và dễ hiểu. Kết luận: "Khác Biệt Hay Là Chết" là một cuốn sách kinh doanh quan trọng mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng nên đọc. Cuốn sách cung cấp các kiến thức và thông tin cần thiết để giúp các doanh nghiệp tạo ra sự khác biệt và thành công trong thị trường cạnh tranh. Đánh giá của tôi: Tôi đồng ý với quan điểm của tác giả rằng sự khác biệt là chìa khóa để thành công trong thị trường cạnh tranh ngày nay. Trong một thế giới mà mọi thứ đều giống nhau, khách hàng sẽ chỉ nhớ đến những thứ khác biệt. Cuốn sách cung cấp một cái nhìn sâu sắc về tầm quan trọng của sự khác biệt và cách tạo ra sự khác biệt. Tôi đặc biệt thích chương 2, trong đó các tác giả thảo luận về các loại khác biệt khác nhau. Chương này đã giúp tôi hiểu rõ hơn về những điều cần cân nhắc khi tạo ra sự khác biệt cho thương hiệu của mình. Tôi khuyên bạn nên đọc cuốn sách này nếu bạn muốn hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của sự khác biệt và cách tạo ra sự khác biệt cho thương hiệu của mình. Mời các bạn mượn đọc sách Khác Biệt Hay Là Chết của tác giả Steve Rivkin & Jack Trout & Phạm Thảo Nguyên (dịch).