Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mọi Cái Tên - Jose Saramago

“Là một nhà văn lớn của thời đại, dấn thân vào con đường sáng tạo từ ngày trẻ, nhưng phải tới ngoài lục thập mới được xã hội nhìn nhận ít nhiều đúng tầm cỡ (Giải Nobel Văn học 1998). José Saramago đã có lúc phải cay đắng thở than: ‘Lên sao Hỏa còn dễ hơn gõ được vào trái tim những người đồng thời…’ Cách đây sáu năm, ngày 18-6-2010, ông đã qua đời trên đảo Lanzarote, thọ 87 tuổi.” José Saramago sinh năm 1922, trong một gia đình nông dân nghèo ở cách thủ đô Bồ Đào Nha hơn trăm cây số. Cha ông từng là lính pháo binh trong chiến tranh thế giới thứ nhất và sau khi giải ngũ, đã trở lại với công việc đồng áng. Tuy nhiên, khi nhà văn tương lai lên ba tuổi, người cha đã quyết định tìm kế sinh nhai ở Lisbon. Và thủ đô cũng là nơi mà Saramago sẽ sống từ đó đến gần hết cuộc đời mình. Saramago đã phải trải qua một tuổi thơ vất vả, thậm chí còn không được học hết trung học. Những công việc đầu tiên khi ở tuổi trưởng thành là làm thợ nguội sửa chữa ô tô, kỹ thuật viên vẽ thiết kế, nhân viên y tế, nhân viên bảo hiểm xã hội… Nhưng dù vất vả thế nào thì chàng thanh niên Saramago cũng rất hiếu học, rất chăm chỉ đọc sách và tự nghiên cứu các ngoại ngữ. Năm 22 tuổi, nhà văn tương lai đã lấy vợ là một nữ họa sĩ. Tới những năm 80 của thế kỷ trước, Saramago đã li dị người vợ đầu và cưới một nữ nhà báo làm vợ… Tác phẩm đầu tay của Saramago “Mảnh đất tội lỗi” được xuất bản năm 1947 nhưng từ thời điểm đó, ông đã ngừng xuất hiện cho tới năm 1966 mới cho in tiếp tập sách mới là “Chùm thơ có thể”… Theo các nhà phê bình văn học, tài năng ở Saramago nảy nở… hơi bị muộn. Ông từng làm phóng viên, từng viết nhiều về chính trị, nhưng chỉ từ năm 1976, ở tuổi 54, ông mới được sống hoàn toàn nhờ lao động văn học. Thành công vang dội đầu tiên tới với Saramago là vào năm 1980 với tiểu thuyết “Đứng lên từ cát bụi”, tác phẩm được dư luận chung đánh giá là cuốn tiểu thuyết vĩ đại đầu tiên của ông. Hai năm sau, tên tuổi của ông càng được tôn vinh với tiểu thuyết mới “Hồi ức về tu viện”. Cuốn sách này ngay sau khi ra đời đã được dịch ra vài thứ tiếng nước ngoài và mở cửa cho Saramago đi tới cùng thế giới. Trong những năm 80 của thế kỷ trước, Saramago hoàn toàn tập trung sức lực cho sáng tác văn học và đã liên tiếp cho ra đời các tập tiểu thuyết có ấn tượng như “Năm Ricardo Reis qua đời” (1984), “Chiếc bè đá” (1986), “Lịch sử cuộc phong tỏa Lisbon” (1989)… Năm 1991, Saramago cho xuất bản tiểu thuyết “Phúc âm theo Jesus Christ” mang đậm cách nhìn tả khuynh vào lịch sử nhà thờ. Cuốn sách này đã gây nên nhiều chuyện ầm ĩ nhưng vẫn được xuất bản tới hơn 20 lần tại Bồ Đào Nha và đã được dịch ra 25 thứ tiếng khác trên thế giới. Chính quyền Bồ Đào Nha dưới sức ép của Nhà thờ đã cắt xén bản thảo “Phúc âm theo Jesus Christ” nên Saramago đã rời bỏ đất nước sang cư trú tại quần đảo Canarias của Tây Ban Nha. Trong nhiều cuốn sách của mình, Saramago đã lựa chọn những cốt truyện lạ, thậm chí mang tính dị thường. Thí dụ như trong cuốn “Chiếc bè đá”, câu chuyện diễn ra trên bán đảo Iberia bị tách lìa khỏi lục địa châu Âu và buộc phải trôi lênh đênh trên biển. Trong tiểu thuyết “Mù lòa” (1995), cư dân của một quốc gia đã phải gánh chịu bệnh dịch bí hiểm làm hỏng mắt, dần dà khiến cho xã hội bị tan rã. Trong tiểu thuyết “Những gián đoạn trong cái chết”, cư dân ở một quốc gia khác đã phải gánh chịu một tai họa khác – không ai bị chết cả nên đất nước phải đối mặt với nạn nhân mãn, các cơ sở mai táng và tổ chức lễ tang bị ăn không ngồi rồi và thế là xuất hiện một tổ chức bất hợp pháp tìm cách sát hại những người già cả… Mỗi một cốt truyện như thế đã được Saramago sử dụng như phương tiện để bày tỏ một hay một vài ý tưởng, nay đã tạo dựng thành di sản tinh thần đích thực của nhà văn. Để tiếp cận với những ý tưởng ấy, độc giả bắt buộc phải vượt qua được những cửa ải của thứ ngôn ngữ nặng nề của nhà văn vì Saramago hay sử dụng các cú pháp đã được phức tạp hóa và bất chấp các quy tắc ngữ pháp hay chính tả và vì thế, đã khiến cho không ít nhà phê bình văn học nhìn ra trong phong cách sáng tác này của ông những dư âm của vô thức… Một trong những thủ pháp điển hình khác của Saramago là nhà văn còn hay tạo nên một hiện thực khác. Thủ pháp này đã được thể hiện rõ nhất trong tiểu thuyết “Năm Ricardo Reis qua đời” (1984) mà trong đó nhà văn đã làm sống lại “cái tôi thứ hai” của thi sĩ Bồ Đào nha Fernando Pessoa hay trong “Lịch sử cuộc phong tỏa Lisbon” (1989) với nhân vật chính là người hiệu đính cuốn sách sử về thành phố và đã thêm một từ “không” vào đó khiến cho ý nghĩa cuốn sách trở nên hoàn toàn sai khác… Những quan điểm chính trị và tôn giáo của José Saramago đã mang lại cho ông danh tiếng không kém gì những tác phẩm của ông. Ông gia nhập đảng Cộng sản Bồ Đào Nha năm 47 tuổi và đã giữ nguyên danh hiệu đảng viên cộng sản cho tới khi trút hơi thở cuối cùng. Năm 1975, sau cuộc “cách mạng hoa cẩm chướng”, chính thẻ đảng Cộng sản đã trở thành nguyên do khiến ông bị loại khỏi vị trí Phó Tổng biên tập báo “Diario de Noticias”. Về sau ông đã đánh giá sự việc này là chuyện may mắn nhất của đời ông: “Khi đó, tôi đã dừng bước và suy ngẫm. Khi đó tôi lại tái sinh như một nhà văn”… Saramago là người nhất quán phê phán mô hình hiện đại của xã hội tư bản chủ nghĩa ở phương Tây. Ông nói: “Con người là một sinh vật duy lý nhưng lại hành xử một cách phi lý. Nếu sự thật ngược lại thế thì trên thế giới đã không xảy ra nạn đói…” Những tuyên ngôn dễ quá mù ra mưa của ông đã khiến Saramago trở thành mục tiêu phê phán cả từ phía những chế độ chính trị mà ông dị ứng lẫn từ phía các đồng nghiệp trí thức. Một trong những vụ việc gây tai tiếng nhất trong các hoạt động xã hội của Saramago là chuyến thăm của ông tới khu tự trị Palestine năm 2002. Ở Ramalla, ông đã so sánh thành phố đang bị phong tỏa này với các trại tập trung của bè lũ phát xít Đức trong chiến tranh thế giới thứ hai… “Sống trong âm vọng của nạn diệt chủng Do Thái Holocaust, người Israel cứ tưởng rằng họ làm gì cũng được vì họ đã phải trải qua một thảm kịch như thế. Quan điểm này theo tôi là rất đạo đức giả. Những khốn khổ của cha ông họ đã không làm họ sáng mắt thêm điều gì cả” – Saramago đã tuyên bố như thế sau một năm tới thăm Ramalla. Sau sự kiện này, ông đã bị buộc tội là một kẻ theo chủ nghĩa bài Do Thái và thật đáng tiếc là một bộ phận của xã hội phương Tây đã nghĩ ông quả thực là như vậy. Khi tin tức về việc ông qua đời lan đi trên thế giới, trên một số phương tiện thông tin đại chúng đã xuất hiện những dòng tít: “Người được nhận giải thưởng Nobel và người bài Do Thái đã mất”, “Đã qua đời một nhà văn Bồ Đào Nha, người từng so sánh Israel với nước Đức Quốc xã”… Có thể đối với một số người, Saramago là một nhà văn “khẩu xà”, nhưng đó là một trí thức “tâm Phật”. Tuy nhiên, theo đánh giá của một ông chủ nhà xuất bản có tiếng ở Bồ Đào Nha, Jorge De Avezado, đối với Saramago, “đen luôn là đen, không thể nào nói khác đi được”. Saramago đã sáng lập Mặt trận Bảo vệ Văn hóa Quốc gia. Là một nhà văn vĩ đại, Saramago không hẳn đã được những người đồng bào đương thời của mình ưa chuộng nhất. Không ít người Bồ Đào Nha lại cho rằng khó chiều ông quá. Nhưng sách của ông ở Bồ Đào Nha thì ai cũng đọc và khi ông được trao giải Nobel văn chương năm 1998, thì rất nhiều người Bồ Đào Nha cảm thấy đó là một tin mừng. Khi hay tin nhà văn qua đời, Thủ tướng Bồ Đào Nha lúc đó là Jose Cocrates đã nói rằng, Bồ Đào Nha “đã bị mất một trong những nhà văn hóa chính yếu của mình mà sự ra đi của ông đã là một tổn thất lớn lao đối với đất nước”. Bản thân nhà văn lại coi thái độ không đồng nhất đối với mình từ phía độc giả là chuyện thường tình: “Tôi không phải là người xấu. Nếu tôi có thể làm hại gì đó thì chỉ bằng lời mà thôi”. Sinh thời, Saramago dù muộn màng nhưng cũng đã được vinh danh không ít. Và ông cũng coi chuyện này rất bình thường. Trong một bài trả lời phỏng vấn trước khi mất không lâu, ông đã nói: “Tôi không phải thiên tài. Tôi đơn giản chỉ làm tròn phận sự của mình thôi”. Trong một bài trả lời phỏng vấn khác trước khi qua đời ba năm, Saramago nói: “Tôi không có cớ gì để than thở cả. Trong cuộc đời có quá nhiều việc mà ta cứ tưởng là oách, nhưng thực ra chúng chẳng có ý nghĩa gì cả. Tôi đã nhận giải thưởng Nobel. Nhưng điều này thì cũng ích gì?” *** José Saramago gọi cuốn “Mọi Cái Tên” của ông là câu chuyện giản dị nhất trong mọi chuyện. Câu chuyện của một người đi tìm một người khác, vì cuộc sống chẳng có gì quan trọng hơn. “Mọi Cái Tên” có sự hiện diện của mọi người đã và sắp sinh ra trên đời này. Nhân vật duy nhất có tên cụ thể trong tác phẩm là Senhor José, một cái tên không đầy đủ. Senhor José là viên thư ký hạng bét trong Phòng Đăng ký Trung Ương, nơi giữ hồ sơ khai sinh, hôn thú và khai tử của mọi người. Người chết và người sống đều nằm trên những ngăn kệ trong Phòng Đăng ký, nơi có vị trưởng phòng được nhắc đến như chúa trời toàn trí toàn năng. Thú vui duy nhất trong cuộc sống công chức nhàm chán của Senhor José là làm bộ sưu tập chi tiết về cuộc đời của những người nổi tiếng. Một hôm tình cờ bắt gặp tờ khai sinh của một thiếu phụ vô danh, Senhor José quyết định đi tìm nàng. Cuộc sống sẽ trở nên vô nghĩa đối với Senhor José nếu anh không đi tìm người phụ nữ đó. Mọi cái tên dẫn người đọc vào cõi không gian vô tận, về nỗi cô đơn mênh mang cùng cực của cuộc sống, vì những sự kiện ngẫu nhiên sẽ thay đổi toàn bộ cuộc đời chúng ta. Câu văn của Saramago đủng đỉnh, thường có nét lừng khừng, rất đáng sốt ruột, nhưng dí dỏm. Trong cùng một câu viết, người đọc có thể thấy Saramago vừa đóng vai nhân vật trong truyện để mô tả sự kiện đang xảy ra, vừa là kẻ bàng quan chen lời bình phẩm của hắn vào giữa dòng, nhân vật và tác giả luôn luôn chuyển đổi vị trí. Ẩn giữa hai dòng chữ, Saramago để lộ nụ cười tinh quái của ông, và dường như trong khi đọc sách, những sự việc được mô tả mơ hồ giữa hai dòng chữ thường là những điều gây ấn tượng nhất. Saramago dễ chuyển từ một suy nghĩ nghiêm trang sang lời nói kề cà như đùa bỡn, từ những câu nói khoa trương sang một ý niệm súc tích, khiến người đọc phải dừng lại, rồi vội vàng đọc tiếp, hoặc quay ngược lại đoạn trước, để nắm bắt cái tinh tế và đôi khi ranh mãnh của tác giả. Đùa cợt hoặc mỉa mai, ông có thể đặt một quan sát thô kệch ngay trước một ý tưởng lãng mạn. *** Những tác phẩm khác Mảnh đất tội lỗi (Terra do Pecado, 1947), tiểu thuyết. Chùm thơ có thể (Os poemas possiveis, 1966), thơ. Đứng lên từ cát bụi (Risen from the ground, 1979), tiểu thuyết. Năm Ricardo Reis qua đời (O ano da morte de Ricardo Reis,1984), tiểu thuyết. Chiếc bè đá (A jangada de pedra, 1986), tiểu thuyết Cuộc đời thứ hai của Francis Assisi (A segunda vida de Francisco de Assis,1987), kịch. Phúc âm theo Jesus Christ (O evangelho segundo Jesus Cristo,1991), tiểu thuyết. Mù loà (Ensaio sobre a cegueira, 1995), tiểu thuyết. Mời các bạn đón đọc Mọi Cái Tên của tác giả Jose Saramago.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Xứ Sở của Người Mù - Herbert George Wells
Herbert George Wells (21/09/1866 - 13/08/1946), thường được biết đến với cái tên H. G. Wells, là một nhà văn người Anh nổi tiếng với những tiểu thuyết khoa học viễn tưởng như Kẻ Vượt Thời Gian, Người Vô Hình, Đảo Bác Sỹ Moreau, Xứ Sở Của Người Mù, Chiến Tranh Giữa Các Thế Giới, Tiên phong lên mặt trăng.... Ông là một nhà văn của nhiều thể loại truyện, tiểu thuyết, bao gồm cả viễn tưởng, phi viễn tưởng hay các bài bình luận về lịch sử và xã hội. Wells cũng là một người theo chủ nghĩa xã hội, các tác phẩm của ông sau này thường nặng tính chính trị và giáo điều. Chỉ có những tác phẩm tiểu thuyết khoa học viễn tưởng của ông là vẫn còn rất được ưu chuộng hiện nay. Wells và Jules Verne thường được coi "cha đẻ của khoa học viễn tưởng". Công việc: Tiểu thuyết gia, Giáo viên, nhà sử học, nhà báo. Wells có nhiều tác phẩm thuộc các thể loại khác nhau, trong số đó 5 tác phẩm nổi tiếng nhất của ông đều là truyện Sci Fi, mỗi cuốn đều tạo ra một dòng văn riêng biệt cho thể loại độc đáo này Wells sống rất đào hoa. Ông trải qua hai đời vợ (1 trong số đó là chị họ mình) và trong quãng đời kết hôn ông vẫn thường xuyên qua lại với nhiều phụ nữ khác. Một số người còn trở thành cảm hứng cho ông viết sách Wells có bút lực hiếm ai bì kịp, bốn năm liền cho xuất bản bốn cuốn bestsellers, và có thể viết 3 cuốn tiểu thuyết hay mỗi năm. Trong một cuốn sách phi hư cấu của mình H. G. Wells dự đoán rất chính xác sự phát triển của các khu thành thị, kinh tế toàn cầu hoá và các cuộc xung đột vũ trang nổ ra trên toàn cầu. Năm 1938, cuốn Chiến tranh giữa các thế giới của H. G. Wells được phát sóng trên radio, gây nổ ra cả một cuộc hoảng loạn vì mọi người tưởng người Sao Hoả đang xâm lăng thật. Lời cuối cùng Wells nói trước khi mất là: "Đi chỗ khác. Ta có sao đâu." *** Ba người đàn ông dừng chân, ngoảnh đầu nhớn-nhác như tìm kiếm xung quanh. Họ quay ngang quay ngửa, còn Nunez thì vung tay rối-rít ra hiệu song có lẽ họ không trông thấy. Sau một lúc, họ tiến về phía dẫy núi xa xa, mé tay phải, và cất tiếng gọi to như để đáp lại. Nunez lại gào lên, vung vẩy tay ra hiệu và khi nhận ra vô ích, đột nhiên chữ " mù " lóe ra trong óc hắn : " Không khéo các cha này mù cả lũ rồi ! " Cuối cùng, sau khi gào chán chê và cáu-kỉnh, Nunez vượt chiếc cầu nhỏ vắt ngang dòng nước, xuyên qua một cái cửa đục trong tường và tiến đến gần họ. Hắn chắc chắn những nguời này đã lòa và biết rõ đây là xứ sở của người mù mà người ta vẫn kể trong những chuyện cổ-tích, thần-thoại. Hắn tưởng như mình đang trải qua một cuộc phiêu-lưu thích-thú mà mọi người hằng mơ tưởng, ước ao. Ba người đàn ông sóng vai nhau đứng, không nhìn hắn nhưng tai lại vểnh về phía hắn, lắng nghe tiếng bước chân khác lạ của hắn. Họ đứng sát cánh nhau ra chiều hơi khiếp-sợ. Hắn thấy rõ mi mắt họ khép kín và sâu trũng làm như nhãn-cầu bên dưới đã teo lại. Mặt họ lộ vẻ hoang-mang. " Có người ? đích thị là có người ? người hay là quỷ thần đi từ phía những tảng đá xuống ". Một người thốt bằng thứ tiếng lơ-lớ Tây-ban-nha. Nunez mạnh dạn tiến lên như một thanh-niên mới bước chân vào đời. Hắn chợt nhớ đến tất cả những chuyện kể về cái thung-lũng đã tuyệt-tích và xứ sở của người mù. Câu ngạn-ngữ cổ cứ láy đi láy lại mãi trong đầu hắn như một điệp-khúc : " Trong Xứ Mù Thằng Chột làm Vua " " Trong Xứ Mù Thằng Chột làm Vua " Hắn cất tiếng chào rất lễ-phép, vừa chào vừa đưa mục-quang quan-sát. " Người này từ đâu đến hở Pedro ? " một người lên tiếng hỏi. " Từ phía những tảng đá trên kia đi xuống." " Tôi từ bên kia dẫy núi đến đây " Nunez sửa lại. " Từ một nước ở rất xa, nơi mà ai ai cũng nhìn được. Ở gần Bogota, chỗ có hàng trăm ngàn dân cư, dẫu chỉ là một thành-phố khuất nẻo. " " Nhìn ? Nhìn ? " Pedro lẩm-bẩm. " Người này từ những tảng đá đi xuống " người mù thứ nhì nhắc lại. Quần áo họ mặc rất kỳ-cục, chắp nối lung-tung các mảnh vụn bằng những đường kim mũi chỉ khác nhau. Hắn giật nẩy mình khi họ đồng loạt tiến lên, cùng vươn tay. Hắn vội lùi lại, tránh những ngón tay xòe ra. " Lại đây " người mù thứ ba lên tiếng, bước theo và tóm ngay được hắn. Họ nắm giữ, sờ nắn Nunez từ đầu đến chân và không nói thêm một tiếng nào cho tới khi sờ nắn xong. " Ấy, cẩn-thận đấy ! " Nunez sợ-hãi kêu lên khi một ngón tay đè lên mắt hắn và biết là họ thấy mắt hắn rất kỳ-quặc, mi mắt rung động được. Họ lại sờ thử một lần nữa. ... Mời các bạn đón đọc Xứ Sở của Người Mù của tác giả Herbert George Wells.
Tìm Lại Tình Yêu - Debbie Macomber
Giống như về thăm nhà, Debbie Macomber dùng tài năng hiếm có của mình để mang đến cho độc giả một bức tranh toàn cảnh về đời sống của một thành phố. Macomber viết bằng nhận thức đau đến xé lòng khi phải đứng giữa những quyết định và lựa chọn được hình thành trong tình bạn và mối quan hệ gia đình. Qua những tiếng cười và giọt nước mắt, bà đào sâu các mối quan hệ bằng hiện thực và sự thấu hiểu đáng kinh ngạc trong câu chuyện giàu tình cảm và có nhịp độ nhanh này. Những giọt nước mắt vui mừng sẽ lăn dài trên má khi bạn đọc đến đoạn kết. *** Debbie Macomber, tác giả của những bộ tiểu thuyết lãng mạn dài tập Trở lại phố Blossom, Khu vườn nhà Susannah, Một câu chuyện hay; Cửa hàng trên phố Blossom, Giữa những người bạn và Chuyện tình vịnh Cedar. Là một trong những cây bút hàng đầu hiện nay về dòng văn học giành cho phụ nữ. Debbie nổi tiếng nhất với khả năng tạo ra các nhân vật có sức chiến đấu và thổi hơi thở cuộc sống vào những câu chuyện của họ. Rút ra từ những trải nghiệm của bản thân và những người trong gia đình cũng như bạn bè, bà đã chứng minh khả năng nhìn thấu tâm hồn những người phụ nữ và khả năng diễn đạt trạng thái cảm xúc, các giá trị cũng như những lo lắng của họ. Trong bất kỳ cuốn sách nào của bà cũng thể hiện tính hài hước nổi bật. Thường xuyên xuất hiện trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất với hơn 100 triệu bản in, tác giả giành được nhiều giải thưởng này đã ghi một mốc son chói lọi trong sự nghiệp của bà vào tháng 9 năm 2007 khi tập sách mới đây nhất về Chuyện tình vịnh Cedar, 74 SEASIDE AVENUE (Vì anh yêu em), cùng lúc chiếm vị trí số 1 trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất của NEWYORK TIMES, USA TODAY, Publishers Weekly, Bookscan. Với những cuốn sách được dịch ra 23 thứ tiếng khác nhau, bà được độc giả trên toàn thế giới yêu mến. - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do Amazon.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do BordersBooks.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất do BarnesandNoble.com bình chọn - Top những cuốn sách bán chạy nhất của New York Times, USA Today, Publishers Weekly, Wall Street Journal, Waldenbooks, Los Angeles Times, Chiacago Tribune, Seattle Times… Truyện mở ra tại Vịnh Cedar, một thị trấn mơ mộng nằm trên bờ vịnh cùng tên, nơi mỗi sớm nắng nhuộm màu hồng mặt nước và mỗi đêm hải đăng hắt ánh vàng trên những lớp sóng lô xô, Đâu phải vì yêu là vở nhạc kịch tình say đắm về 2 đôi uyên ương mà số phận dun dủi kéo họ lại chung một lối. Olivia Lockhart đã tưới lọ nước hoa hạnh phúc cho Ian và Cecillia Randall, rồi chính bản thân nàng cũng nhận được cho mình vài giọt trong veo, nồng nàn quyến rũ. Ian và Cecil tìm lại nhau nhờ sự thu hút xác thân mãnh liệt, còn Jack đến với Olivia vì nàng nổi bật trên muôn người. Vượt qua mọi đam mê bản năng giữa đàn ông và đàn bà, chàng giục ngã trước vẻ đẹp tâm hồn và cá tình nàng. Họ sẽ đi về đâu với những đam mê ấy? Bằng ngòi bút lãng mạn và lôi cuốn, Debbie Macomber từng bước xây dựng cả một thiên đường tình ái đầy thiết tha mời gọi giữa chốn nhân gian này... ***   Bob Beldon liếc nhìn thực đơn trong nhà hàng nhỏ của bãi chơi ki. Thật ra chẳng cần thực đơn thì anh vẫn biết mình muốn gì. Hai quả trứng, thịt lợn muối xông khói, khoai tây chiên và hai miếng bánh nướng kẹp mứt dâu tây. Với hai đô la năm mươi xu, đây thật sự là một bữa ăn ngon miệng. Cô phục vụ bàn bước đến, và rót cà phê cho Bob. “Ông đợi ai nữa phải không ạ?”. Bob gật đầu. Ngay lúc đó, Roy McAfee bước vào nhà hàng đông đúc. “Rất đúng giờ”, Bob nhận xét trong lúc Roy đi qua quầy đối diện mình. “Anh gọi món chưa?”. “Chưa”. Cầm chiếc bình trên tay, cô phục vụ bàn trở lại, rót cà phê vào tách của Roy và đứng chờ họ gọi món. Bob gọi trước. Roy gọi bánh kếp. Người nữ phục vụ thong thả bước đi và xướng thực đơn cho đầu bếp. “Có chuyện gì thế”. Roy hỏi. Tối qua Bob đã gọi anh để hẹn cuộc gặp này. “Hôm kia Peggy kể cho tôi nghe một chuyện khá thú vị. Tôi đã nói chuyện với Troy Davis, nhưng tôi muốn nghe ý kiến của anh nữa.” “Được. Là chuyện gì?”. “Có vẻ như Peggy và Hannah đã có một cuộc tâm sự nho nhỏ.” “Anh có biết thêm được điều gì không?”. “Có”. Bob thêm đường và kem rồi khuấy đều tách cà phê lên. “Hannah buột mồm nói thỉnh thoảng bố cô bé có dùng tên giả. Peggy đã hỏi về chuyện đó và tôi nhận thấy là qua từng ấy năm, Max đã có một cơ số những cái tên và chứng minh thư khác nhau”. Roy nhướng mày lên. “Con bé chưa bao giờ nhắc đến điều đó?.” “Rõ ràng là không”. Bob kể lại nguyên nhân dẫn đến sự thú nhận này. “Con bé để ngỏ bình sữa cả đêm, tôi thấy khó chịu vì sữa bị hỏng. Sau khi tôi đi đánh gôn, Hannah rời khởi giường và bắt đầu nói chuyện với Peggy. Theo cách con bé mô tả, cuộc sống của mẹ con con bé cùng người bố giống như là địa ngục vậy.” “Trước đây, con bé chưa từng nói xấu bố?”. Bob cần suy nghĩ về điều này. Anh nhún vai. “Đúng. Tôi không nhớ mình đã được nghe những chuyện như vậy. Hình như con bé sống trong một thế giới kỳ quặc. Ban đầu, cô bé vẽ lên bức tranh ba người trong một gia đình trải qua những tháng năm hạnh phúc bên nhau. Hoá ra cuộc sống ấy không hề hạnh phúc như cô bé đã kể cho chúng ta”. “Có lý”, Roy nói, hai tay chụm lại giữ tách cà phê. “Cô bé mất cả bố lẫn mẹ chỉ trong một thời gian ngắn. Trong những tình huống bi đát và đau thương như thế, con người thường nhớ lại những phút giây đẹp đẽ”. Bob cho là bạn mình đã nói đúng. “Chẳng lẽ Troy không hỏi liệu con bé có biết gì về việc bố mình dùng những cái tên giả không à?”. “Tôi chắc chắn là có. Thế con bé có giải thích vì sao nó lại không nói không?”. “Peggy đã hỏi. Hannah khẳng định cô bé lo sợ rằng nếu ai đó phát hiện ra thì sẽ gặp rắc rối. Theo những gì cô bé nói, có vẻ như rắc rối đi theo Max tới bất cứ nơi nào ông ta đặt chân đến”. Roy nhíu mày, nhấp một ngụm cà phê. “Cô bé có vô tình nhắc đến một cái tên nào đó mà ông ta đã dùng? Hay ông ta lấy chứng minh thư giả ở dâu không?”. “Không, nhưng nếu Peggy hỏi, có thể Hannah sẽ nói”. Bob không nghĩ Hannah đủ tin tưởng mình để tâm sự những loại thông tin ấy, nhưng cô bé lại rất thân thiết với vợ anh. “Bảo Peggy hỏi cô bé, và tôi sẽ tìm hiểu lại mọi chuyện. Có thể chúng ta sẽ tìm ra manh mối nào đó”. Bob gật đầu. Anh cũng đã hi vọng Roy sẽ tình nguyện điều tra. “Hannah có biết gì về tấm chứng minh thư giả mà bố cô bé mang theo khi chết không?”. “Cô bé nói không biết”. Roy dò xét. “Anh có tin không?”. Bob cân nhắc câu hỏi một cách thận trọng và thực tế là anh không dám chắc chắn. Anh không thích Hannah, nhưng anh không thể giải thích được vì sao, thậm chí anh còn chẳng có một lí do rõ ràng nào để ghét cô bé. Peggy kết bạn với cô rất nhanh chóng, và Chúa mới biết cô gái trẻ có cần vợ anh quan tâm hay không? Nỗi lo lắng của Hannah và thái độ bồn chồn của cô bé khiến Bob không thoải mái. Dù Bob có nói nhẹ nhàng, thì cũng đủ để cô bé khiếp sợ, như thể anh sắp vồ lấy cô ta vậy. Tất nhiên, điều Hannah kể với Peggy đã phần nào giải thích được sự sợ sệt của cô bé khi thấy anh tỏ ra khó chịu với mình. “Mấy ngày nay có ai theo dõi anh không?”. Roy hỏi khi người phục vụ bàn mang bữa sáng đến cho họ. “Theo tôi là không. Không có gì xảy ra kể từ sau đêm đó. Tôi bắt đầu tự hỏi có phải do mình tưởng tượng không. Nhưng tôi biết là mình không tưởng tượng. Có thể chuyện này chẳng liên quan đến Max. Có thể chỉ là một gã điên khùng nào đó”. Roy đổ nước đường lên chiếc bánh kếp. “Anh thất vọng hả?.” “Đúng. Cách sống của tôi và Peggy thật nực cười. Tôi muốn thoát khỏi chuyện này bằng bất cứ giá nào. Nó đã khiến chúng tôi tốn hàng nghìn đôla rồi”. Bob nhấp một ngụm cà phê và nói tiếp. “Nếu thực sự có kẻ nào đó theo dõi tôi, thì chẳng lẽ bây giờ hắn vẫn chưa ra tay sao?”. Roy gật đầu. “Tôi đồng ý với anh. Nếu có kẻ định ra tay, thì mọi chuyện có thể đã xảy ra rồi”. Bob tán đồng trong khi miệng đầy bánh mì nướng và mứt. “Nghĩ đi nghĩ lại thì..”. Roy nói. “Thôi nào, Roy”, Bob phản đối, không cho Roy kịp nói hết. “Anh có muốn nghe lời khuyên của tôi không? “Tôi sẽ cho anh lời khuyên, và nếu thấy nhẹ nhõm, anh nên cảm ơn tôi”. “Thôi được, thôi được”. Bob dùng mẩu bánh mì chia đôi miếng lòng đỏ trứng ra. “Chia sẻ sự khôn ngoan của anh nào”. Roy cười tủm tỉm. “Chỉ chấp nhận cho ở nhờ đối với những người đã từng ở nhà nghỉ. Hoặc những người anh quen biết”. Bob tiếp lời Roy. “Nói cách khác, từ chối tất cả những người lạ mặt đến nhà vào lúc nửa đêm, đặc biệt là những đêm giông bão”. Roy cười thầm. “Anh nói đúng đấy”. Bob ăn xong bữa sáng và với tay lấy tách cà phê đã được rót đầy. “Tôi muốn cho anh biết một giả thuyết tôi vừa nghĩ ra”. Roy thả lỏng người, dựa vào quầy. “Nói cho tôi nghe nào”. “Anh biết mọi chuyện, ý tôi là những chuyện đã xảy ra ở Việt Nam, đúng không?”. Roy gật đầu, vẻ mặt nghiêm trọng. “Anh nhớ là tôi đã trải qua một thời gian không mấy dễ dàng sau chiến tranh chứ? Tôi đã làm tất cả để có thể chôn vùi kí ức. Tôi đi tìm sự lãng quên. Và hậu quả của nó thật không dễ chịu với mọi người, đặc biệt là với Peggy và bọn trẻ”. Bob dừng lại. “Bề ngoài, Dan Sherman có vẻ thích nghi với cuộc sống thường ngày. Tôi nghĩ thế. Mấy chục năm rồi tôi không gặp anh ấy. Thậm chí khi tôi trở lại vịnh Cedar, chúng tôi còn cố tình tránh mặt nhau. Vì thế tôi không biết anh ấy cũng phải đấu tranh với những con quỷ của quá khứ”. Roy lắng nghe trong lúc Bob sắp xếp câu nói. “Theo những gì Hannah kể với Peggy, cuộc sống của Max không dễ chịu hơn cuộc sống của tôi là bao”. “Anh ta cũng uống rượu?”. “Một chút, nhưng tôi nghĩ đó không phải là vấn đề duy nhất. Anh ta ấy ngày càng bị ám ảnh, mặc dù đó không hẳn là điều mà Hannah đã nói.” “Anh có nhớ mọi thứ được xếp gọn gàng trong vali của anh ta như thế nào không?”. Bob gật đầu. Bọn họ đã rất ấn tượng với chiếc va-li ngăn nắp ấy. “Vậy anh đang nghĩ gì?”. Roy nhấn mạnh. “Khi từ Việt Nam trở về, tôi nhận ra rằng một ngày nào đó, bằng cách nào đó, tôi sẽ phải trả giá cho những gì đã xảy ra ở ngôi làng kia. Nếu tôi học được điều gì từ cuộc sống trong hơn năm mươi năm qua, thì đó là sự công bằng”. Bob hạ thấp giọng. Tôi... đã tước đi những sinh mạng vô tội, và giờ thì có kẻ nào đó muốn lấy đi mạng sống của tôi”. Nói ra được những lời ấy, Bob cảm thấy nhẹ nhàng hơn. Anh đã nghĩ đến điều này kể từ sau cái chết của Max, nhưng anh không có dũng cảm để nói thành lời. “Tiếp đi”, Roy giục. “Tôi nghĩ Dan cũng nhận ra điều này. Và anh ấy đã tự chọn cho mình một cách riêng để kết thúc cuộc sống”. “Tôi...”. “Hãy nghe tôi đã”, Bob quả quyết. “Tôi không biết liệu người thân của một trong số... những nạn nhân của chúng tôi có săn tìm chúng tôi không. Anh ta có thể đã chạm trán với Dan, buộc Dan phải đối diện với quá khứ. Ngoài ra, còn điều gì khác đưa Max tới vịnh Cedar này? Tôi nghĩ bất cứ kẻ nào chịu trách nhiệm về những chuyện này đều làm vì hành động trả thù”. Roy cân nhắc giả thuyết của Bob. “Tôi không biết. Có thể lắm, nhưng tôi vẫn nghi ngờ”. “Anh nên nhớ là đã có rất nhiều người Việt Nam di cư sang Mỹ kể từ sau chiến tranh”. “Theo tôi, khó có khả năng một trong số họ mang mối thù đó với bốn người lính Mỹ chúng ta trong từng ấy năm. Bởi nếu vậy, sao lại phải đợi đến tận bây giờ?”. Bob nhún vai. “Tôi không biết”. Có thể Roy đúng; suy nghĩ của Bob thật kì quặc, có thể nó chỉ là một sự tưởng tượng trong tâm trạng tuyệt vọng của anh. Nhưng ngoài ra, Bob cũng chẳng có lời giải thích nào hợp lí nữa. ... Mời các bạn đón đọc Tìm Lại Tình Yêu của tác giả Debbie Macomber.
Thập Nhị Binh Thư - Đỗ Mộng Khương & Nguyễn Ngọc Tỉnh
Lịch sử nhân loại luôn gắn liền với lịch sử của những cuộc chiến tranh. Dẫu một nước lớn như Trung Hoa hay một nước nhỏ như Việt Nam cũng không thể tránh khỏi quy luật một xâu chuỗi của những cuộc chiến tranh nối liền nhau tưởng như không dứt. Từ xuất phát đó, việc nâng nghệ thuật chiến tranh, nghệ thuật chiến thắng lên thành Lí thuyết, thành học thuật là một nhu cầu cấp thiết của những người làm tướng . Trong cuộc chiến , ai nắm vững nghệ thuật chiến tranh sẽ có nhiều cơ hội chiến thắng hơn nếu là kẻ mạnh và có nhiều cơ hội để tránh thất bại hơn nếu là kẻ yếu. Mà đã yếu nhưng lại tránh khỏi thất bại thì cũng đáng gọi là thắng rồi…     Binh thư đã ra đời như thế. Ta có thể tìm thấy trong binh thư cổ những bí aaen của phép dụng binh thuở ấy. Từ cách triệt lương phá đường đến đoạt thành chiếm đất. Từ cách trị quân tới cách cứ tướng . Từ những mưu chước đánh vào long tướng địch cho tới mẹo làm tan nhuệ khí địch quân. Kể cả những “ bí pháp” ngắm xem tượng trời , xem những “ điềm” lành và dữ vẫn là nỗi băn khoăn của bao nhiêu người làm tướng . Nhưng binh thư không chỉ đơn giản ở mức ấy. Còn rất nhiều điều ẩn chứa bên trong những trang sách đã được đúc rút qua bao nhiêu đời… *** Trong số 12 bộ binh thư được chúng tôi tập hợp và giới thiệu có 9 bộ của Trung Hoa , 3 bộ của Việt Nam . Lí do có sự lựa chọn đó rất đơn giản : Binh pháp Trung Hoa cổ vốn nổi tiếng là những bộ binh pháp được đúc kết rất chặt chẽ và nâng thành Lí thuyết chiến tranh . Các bậc anh hung dân tộc của Việt Nam đều nắm rất vững binh pháp Trung Hoa mới có thể đánh thắng được những đạo quân phương Bắc hùng mạnh với những viên tướng lâu thông binh pháp. Nhưng không chỉ tiếp thu , người Đại Việt suốt bao nhiêu năm đã sáng tạo nên một Lí luận riêng , một nghệ thuật chiến tranh riêng , chỉ có những dân tộc nhỏ nhưng quật cường mới có. Chỉ trên đất Việt này ta mới hiểu thế nào là : “Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn , Lấy chí nhân để thay cường bạo” (Nguyễn Trãi). Chúng tôi sưu tập và giới thiệu cả những tinh hoa binh pháp Trung Hoa và Việt Nam để độc giả của một dân tộc nhỏ bé đã chiến đâu và chiến thắng trước những Lí thuyết chiến tranh tưởng như không thể nào sai nổi.  *** Về binh pháp Trung Hoa :   Lục thao và Tam lược là 2 pho binh thư vào hang cổ nhất với danh nghĩa là của Thái Công Khương Tử Nha – vị Thừa tướng làm nên sự nghiệp 800 năm của nhà Chu. Tuy nhiên  , nhiều nhà nghiên cứu vẫn nghi ngờ vào giá trị thực của 2 bộ sách này, trong đó có những dấu hỏi về vị tác giả nửa thực nửa hư mà người ta biết chủ yếu qua huyền thoại và pho tiểu thuyết Phong Thần viết dưới triều Minh . Sự nghi ngời cũng vậy với bộ Tố thư  thường được đi kèm như phụ lục của Lục thao và Tam lược  với tác giả lại là một vị tiên. Ông tiên Hoàng Thạch Công này, theo tương truyền , là người đã tu chỉnh binh pháp của Khương Thái Công và trao cho Trương Lương .Với bộ Tố thư  đó ( cũng theo tương truyền ) Lưu Hầu Trương Tử Phòng đã làm nên sự nghiệp 400 năm của nhà Hán . Vì vậy, xét về giá trị , 4 bộ binh thư quan trọng nhất phải là binh pháp Tôn Tử, Ngô Tử ( vẫn được gọi là binh pháp Tôn Ngô ),Tư Mã , và phần nào là Đường Thái Tông – Lí Vệ Công vấn đối. Những vị tác giả của các bộ sách này tỏ rõ sự hiện hữu của mình trong lịch sử và hơn nữa, những điều họ viết đi sâu vào thực tế chứ không viển vông và mở hồ. Tôn Tử là tướng nước Ngô, Ngô Tử là tướng nước Ngụy và nước Sở, Tư Mã Điền Nhương Tư là tướng nước Tề. Cả ba người đều góp công dựng nên những nghiệp bá cho vua nước mình giữa thời đại đông Chu đày loạn lạc.Đường Thái Tông – Lí Vệ Công vấn đối được coi là của Vệ Công Lí Tĩnh – một mưu thần mà kế sách cũng vào loại lừng danh . Ngược lại , một nhân vật lịch sử hết sức quan trọng là Võ Hầu Gia Cát Lượng đã bị thần thánh hóa qua tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa nên dường như những gì vẫn được coi là trước tác của ông lại mang đầy vẻ thần bí của một đạo sĩ. Giá như trong này chúng ta gặp sơ đồ của “ trâu gỗ, ngựa máy” thì cũng không có gì đáng ngạc nhiên lắm . Cho nên ngoài 4 pho binh thư chính đã nói ở trên , các pho còn lại đều có vẻ do hậu sinh trước tác. Dù vậy , cả 9 pho binh pháp đó đều vẫn có những giá trị thực sự không thể chối bỏ. Do đó  , chúng tôi vẫn tập hợp lại toàn bộ các pho binh thư và vẫn để nguyên tên tác giả như bao đời nay đã thế.  *** Về binh pháp Việt Nam :   Pho Binh thư yếu lược hiện nay đến tay người tập hợp chỉ có 2 bản chính : một bản đầy những “ bí pháp” mơ hồ như một cuốn sách dạy chiêm bốc, một bản đầy những ví dụ sau đó cả vài trăm năm ! Đã thế , trải qua mấy phen binh lửa, mấy phen giặc Minh đốt sách , thật khó để biết rằng liệu Binh thư yếu lược thực có còn không chứ đừng nói đến sự phân biệt xem đâu là bản “ chính” .Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là một vị anh hùng dân tộc , nhưng hậu thế cũng đã thần thánh hóa ông thành một “ Đức Thánh Trần “ mang nhiều màu sắc tín ngưỡng tôn giáo. Nếu nhìn theo khía cạnh ấy, về một mặt nào đó , dường như có nhiều “ bí pháp “ lại còn có vẻ “ đáng tin” hơn. Bởi dù sao phía sau một chương ngắn về các “ bí pháp” đó , các chương sau có vẻ đúng là bộ binh thư với đủ phép mộ binh , chọn tướng…Trong khi đó, bản Binh thư yếu lược sau này lại dẫn ra những ví dụ mà chỉ người tiếp theo vài thế kỉ mới biết đến.Thậm chí, ngay trong bản Binh thư yếu lược này, ta còn bắt gặp khá nhiều đoạn trích dẫn từ Hổ trướng khu cơ.Chắc chắn bản này không là bản chính mà đã qua một bàn tay tu chỉnh của hậu thế nếu không nói là một trước tác của hậu thế hẳn hoi ( mà phải là dưới thời Nguyễn vì như thế thì mới có được cả những ví dụ phép dụng binh của nhà Tây Sơn ). Dẫu vậy, chúng tôi vẫn tập hợp cả 2 bản Binh thư yếu lược và tạm để tên Hưng Đạo Vương gắn với bản thứ nhất mà để trống tên tác giả ở bản thứ hai.Dù gì thì gì  , đã quả quyết bản thứ hi do hậu thế tu chỉnh thì không đặt tên Hưng Đạo Vương ở ngôi tác giả thì phải nhẽ hơn…         Hổ trướng khu cơ gắn liền với tên một vị tướng tài ba trong cuộc Trịnh Nguyễn phân tranh : Lộc Khê Hầu Đào Duy Từ . Có lẽ tác phẩm Hổ trướng khu cơ mà chúng tôi tập hợp tại đây đúng là của Đào Duy Từ vì mấy lẽ : Thứ nhất , thời ông sống khá gần với chúng ta. Thứ hai, ông là một công thần của Nguyễn triều, triều đại cuối cùng của phong kiến Việt Nam nên tác phẩm của ông sẽ không còn bị “vướng” phải một cuộc hủy sách nào nữa. Thứ ba, văn bản Hổ trướng khu cơ thiên về thực hành quân sự như một sự đúc rút từ thực tế chứ không phải là lí thuyết đơn thuần. Như thế , nếu không phải đích là một vị võ tướng than trải trăm trận tự tổng kết kinh nghiệm thì e khó mà ngụy tạo cho nổi. Cho nên, vãn bản Hổ trướng khu cơ là có nhiều chứng cứ đáng tin cậy để ghi nhận đúng là trước tác của Lộc Khê Hầu Đào Duy Từ.   Mời các bạn đón đọc Thập Nhị Binh Thư của tác giả Đỗ Mộng Khương & Nguyễn Ngọc Tỉnh.
Quan Thanh Tra - Nikolai Vasilyevich Gogol
Một anh công chức nhỏ lang thang đến một thị trấn miền Nam rồi bị tưởng nhầm là quan thanh tra từ thủ đô Peterburg đi thị sát. Vốn là những kẻ tham nhũng, bọn quan chức ở đây lo sợ, tìm cách mua chuộc, hối lộ cho quan lớn. Nhân dịp đó chúng tố cáo lẫn nhau, nói xấu nhau để tâng công. Tệ hơn nữa viên thị trưởng còn định lợi dụng cả vợ và con gái hòng leo cao hơn lên bậc thang danh vọng, chiếm một địa vị to hơn, vững hơn để áp bức, bóc lột dân chúng được nhiều hơn. Nikolai Gogol bắt đầu viết Quan thanh tra vào mùa thu năm 1835 và mất khoảng 6 tháng để hoàn thành. Với giọng văn mỉa mai, châm biếm, cũng giống như trong phần lớn các tác phẩm của ông, đã tạo ra khá nhiều cuộc tranh luận, và sau đó Gogol đã phải trốn sang Roma một thời gian. *** Gogol (1809-1852) sinh ngày 31.3.1809 là một nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng Nga và Ukraina. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông Những linh hồn chết, được xem là cuốn tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của văn học Nga và Ukraina. Gogol sinh ra ở vùng Sorochintsi của Guberniya Poltava (bây giờ là Ukraina) trong một gia đình thuộc mức tầm thường người Ukraina (hay đúng hơn là người Ruthenia). Tên ban đầu của ông theo tiếng Ukraina là Mykola. Bố của Gogol là Vasily Afansevich Gogol, một kịch tác gia tài tử, chết khi ông mới 15 tuổi. Mẹ ông là Mariya Yanopvskaya, luôn có tâm trí buồn sầu u uất và mộ đạo. Sự mộ đạo này cũng đã có ảnh hưởng tới thế giới quan và trạng thái tâm thần u sầu sau này của ông. Khi sinh Gogol, con trai đầu lòng trong số ba người con, bà chỉ mới 15 tuổi. Vào năm lên 12 tuổi, Gogol được gửi vào học trong Lycée Nezhinski. Hai năm cuối ở Lycée Nezhinski là lúc Gogol bắt đầu đi vào nghiệp viết. Các truyện ngắn hay thơ được ông gửi đăng trong tạp chí của trường, đã tỏ rõ trước cho thấy những dấu hiệu của một tài năng. Cũng giống như những chàng trai trẻ Ukraina khác, vào năm 19 tuổi, ông đã chuyển tới thủ đô Sankt-Peterburg để tìm vận may (1828). Vào năm 1831, ông gặp Aleksandr Sergeyevich Pushkin, người đã ủng hộ ông trở thành nhà văn và là bạn của ông sau này. Ông đã dạy lịch sử tại Trường Đại học Quốc gia Sankt-Peterburg từ năm 1834 đến năm 1835. Tác phẩm đầu tay, Hans Kuchelgarten (1829), do ông tự bỏ tiền túi ra in, là một thất bại hoàn toàn, và ông đã ném vào ngọn lửa tất cả những ấn bản ông thấy. Ông tiếp tục viết một số lượng lớn các tập truyện ngắn ở Sankt-Peterburg, bao gồm Nevsky Prospekt, Nhật ký của một người điên, Chiếc áo choàng và Cái mũi (truyện này đã được dựng thành vở opera Cái mũi do Dmitry Shostakovich dàn dựng). Mặc dù tập 1 của truyện Những buổi tối trong một trang trại gần Dikanka là thành công thực sự đầu tiên của ông, tên tuổi ông lại chìm đi sau khi xuất bản truyện Arabesques. Vở kịch vui nhộn Viên Tổng thanh tra, làm năm 1836, lại một lần nữa giúp ông thu hút được sự chú ý của công chúng tới tư cách là một nhà văn. Với giọng văn mỉa mai, châm biếm, cũng giống như trong phần lớn các tác phẩm của ông, đã tạo ra khá nhiều cuộc tranh luận, và sau đó Gogol đã phải chạy sang Roma. Tại đây, ông đã sáng tác Những linh hồn chết (1842), tác phẩm được coi là một trong những cuốn tiểu thuyết tuyệt vời nhất của văn chương thế giới. Trong các tác phẩm của mình, ông không chừa ai cả, từ hoàng đế đến quan lại, từ trí thức đến bình dân, từ giới địa chủ đến giới nông nô, tất cả đều là mục tiêu châm chích cho ngòi bút ông. Người ta đã gọi những tác phẩm đó là "những bức hí họa về nước Nga và người Nga". Tuy nhiên cũng nhờ tính sinh động và sức thuyết phục nẩy sinh từ ngòi bút, ông đã làm mờ nhạt đi bộ mặt thật kinh khủng của nó, để lôi cuốn không ngừng đôi mắt độc giả theo một mặt trái ẩn tàng những hình nét đáng cảm động hơn. Vào những ngày cuối đời, ông bị một căn bệnh kỳ lạ ở mũi và phải dùng đỉa để chữa bệnh cho mình. Ông đã phải chịu đựng sự đau đớn vì kiểu chữa bệnh đó cho đến lúc chết. Ba nhân vật vĩ đại nhất của văn học Nga thế kỷ 19 từng định đoạt sự phát triển tinh thần của nhân dân trong thế kỷ 19 và 20 là Gogol, Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, Lev Nikolayevich Tolstoy - không chỉ là những nhà văn cực lớn của nước Nga, của nhân loại, mà còn là những nhà tư tưởng lớn nhất của nước Nga thế kỷ 19. Tác phẩm tiêu biểu 1829 : Vinh quang xứ Italy (thơ) 1829 : Thơ kể chuyện (được xuất bản với bút danh V.Alov) 1830 : Người đàn bà (truyện ngắn) 1831 - 1832 : Những buổi tối ở thôn ấp gần Dikanka (tập truyện ngắn) 1835 : Mirgorod (tập truyện ngắn) Những điền chủ cổ xưa Taras Bulba (dựa trên vở opera cùng tên của Mykola Lysenko) Viy Chuyện Ivan Ivanovich cãi nhau với Ivan Nikiforovich như thế nào 1835: Ả Rập (tập truyện ngắn) Bức chân dung (truyện ngắn) Một chương trong cuốn tiểu thuyết lịch sử xưa cũ (truyện ngắn) Đại lộ Nevsky (truyện ngắn) Người tù binh Kavkaz (truyện ngắn) Nhật ký một người điên (truyện ngắn) 1836 : Cái mũi (truyện ngắn) 1836 : Cái bánh xe (truyện ngắn) 1836 : Quan thanh tra (hài kịch) 1842 : Rời nhà hát (tiểu luận) 1842 : Roma (đoạn truyện) 1842 : Chiếc áo khoác (truyện ngắn) 1842 : Đám cưới (kịch, Modest Mussorgsky đã dựng thành vở opera cùng tên và được Mikhail Ippolitov-Ivanov hoàn thiện) 1842 : Những linh hồn chết (tiểu thuyết) 1843 : Những con bạc (kịch) 1847 : Những đoạn chọn lọc từ các lá thư gửi bạn (tập thư và tiểu luận) *** Tủ sách Kiệt tác Sân khấu thế giới ra mắt bạn đọc là công sức của nhiều thế hệ Sân khấu nối tiếp sưu tầm, nghiên cứu, dịch thuật và giới thiệu với bạn đọc Việt Nam suốt hơn nửa thế kỷ qua, có ảnh hưởng lớn không chỉ về Sân khấu mà có tầm ảnh hưởng đến phát triển văn học nghệ thuật Việt Nam nói chung. Tất nhiên tiếp nhận và giao lưu văn hoá nghệ thuật không diễn ra một chiều mà tác động qua lại.  Bắt đầu từ các tác phẩm cổ đại Hy Lạp, Trung Quốc, ấn Độ với các tên tuổi hàng đầu về bi kịch và hài kịch như : Exkhin, Ơripít, Xôphốc, Vương Thừa Phủ, Kaliđáx... bộ sách trải rộng qua nhiều thời kỳ rực rỡ của Sân khấu thế giới như thời đại Phục Hưng, Lãng mạn và Hiện đại... giới thiệu những kiệt tác chói sáng có sức sống xuyên qua nhiều thế kỷ của những nhà viết kịch kiệt xuất như Sếchxpia, Sinlơ, Môlie, Coócnây, J.Gớt, Gôgôn, ípxen, Muyxê, Ghenman, B.Brếch, Sêkhốp, Bếckét, Raxin, Jăng Anui, Camuy, Tào Ngu... Nhiều tác phẩm ra đời từ hàng ngàn năm trước nhưng tư tưởng và nghệ thuật vẫn đồng hành với bạn đọc và khán giả hôm nay.  Tác phẩm của ba tác giả Sân khấu Việt Nam: Đào Tấn, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi có mặt trong Tủ sách Kiệt tác Sân khấu thế giới đã đáp ứng đòi hỏi của đông đảo bạn đọc.  Nhà xuất bản Sân khấu cảm ơn Hội đồng tuyển chọn gồm các nhà Sân khấu học tiêu biểu và Công ty Minh Thành - Bộ Chỉ huy Quân sự TP Hồ Chí Minh đã giúp đỡ tận tình, trách nhiệm cao để Tủ sách kiệt tác kịp thời ra mắt bạn đọc trọn vẹn 100 cuốn trong năm 2006, chào mừng những sự kiện trọng đại của đất nước.   Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.  NHÀ XUẤT BẢN SÂN KHẤU Mời các bạn đón đọc Quan Thanh Tra của tác giả Nikolai Vasilyevich Gogol.